Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Biện chứng giữa cái chung và cái riêng và vận dụng vào xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.3 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
BẢNG KÊ CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. THỰC TRẠNG BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI CHUNG VÀ CÁI
RIÊNG VẬN DỤNG VÀO XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG NƯỚC
TA HIỆN NAY..........................................................................................................2
1.1. Thực trạng nền kinh tế thị trường...................................................................2
1.1.1. Kinh tế nhà nước.....................................................................................2
1.1.2 Về lực lượng sản xuất:.............................................................................2
1.1.3. Sức cạnh tranh của nền kinh tế................................................................3
1.2. Các khái niệm.................................................................................................4
1.2.1. Khái niệm về cái riêng............................................................................4
1.2.2. Khái niệm về cái chung:..........................................................................4
1.2.3. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng..............................5
CHƯƠNG 2. CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG NHÌN DƯỚI VẤN ĐỀ KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.......................................................................9
2.1 Khái niệm kinh tế thị trường...........................................................................9
2.2. Nền kinh tế thị trường nước ta là một bộ phận của nền kinh tế thị trường
thế giới..................................................................................................................9
2.3. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc trưng của kinh tế thị
trường Việt Nam..................................................................................................10
2.3.1. Một số điều kiện mang tính lịch sử của nền kinh tế Việt Nam trước khi
bước sang kinh tế thị trường...........................................................................10
2.3.2. Những đặc điểm riêng phân biệt kinh tế thị trường nước ta với các
nước khác........................................................................................................11
2.4. Thành tựu của kinh tế thị trường ở Việt Nam...............................................14
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP, ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ.........................16
3.1 Giải pháp biện chứng giữa cái chung và cái riêng và vận dụng vào xây dựng
nền kinh tế thị trường ở nước ta..........................................................................16
3.2 Đề xuát và kiến nghị biện chứng giữa cái chung và cái riêng và vận dụng vào
xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta...........................................................16


KẾT LUẬN.............................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO


BẢNG KÊ CHỮ VIẾT TẮT

STT
1
2
3
4

Ký hiệu viết tắt
DNNN
XHCN
DN
NN

Nguyên nghĩa
Doanh nghiệp nhà nước
Xã hội chủ nghĩa
Doanh nghiệp
Nhà nước


MỞ ĐẦU

Trong lịch sử kinh tế thế giới, kinh tế thị trường như một tất yếu gắn liền
với sự tồn tại của mọi quốc gia, là con đường dẫn tới giàu có, văn minh. Nhân loại
đã được chứng kiến sự lớn mạnh chưa từng có của nền kinh tế thị trường. Nó đã tạo

ra lượng vô cùng lớn hàng hoá, dịch vụ và góp phần phát triển xã hội. Điều đó cho
thấy tính tất yếu khi chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Thực tế cho ta
nhiều bài học kinh nghiệm quí báu,song với điều kiện kinh tế, xã hội, tự nhiên
riêng, sự vận dụng sáng tạo những cái chung của kinh tế thị trường vào nước ta là
rất cần thiết. Trong quá trình vận dụng đó, triết học Mác-Lênin, đặc biệt là phạm
trù triết học cái chung,cái riêng đóng vai trò là kim chỉ nam cho mọi hoạt động lý
luận về kinh tế thị trường.
Để góp thêm một tiếng nói đồng tình với đường lối phát triển kinh tế thị
trường của nước ta hiện nay em chọn đề tài: “Biện chứng giữa cái chung và cái
riêng và vận dụng vào xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta” làm nội
dung nghiên cứu của mình.
Hoàn thành tiểu luận này, em muốn một lần nữa cũng cố thêm niềm tin,ý chí
của mọi người vào con đường xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay,
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

1


CHƯƠNG 1
THỰC TRẠNG BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG VẬN DỤNG
VÀO XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG NƯỚC TA HIỆN NAY

1.1. Thực trạng nền kinh tế thị trường
1.1.1. Kinh tế nhà nước
Chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước.
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế chịu ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc
những hậu quả của chế độ kinh tế cũ. Nên mặc dù chúng ta đã thực hiện nhiều biện
pháp cải cách bộ phận kinh tế này, nó vẫn còn tồn tại nhiều thực trạng như:
– Hiệu quả sản xuất kinh doanh và sự cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà
nước còn thấp. Tính năng động của một bộ phận không nhỏ doanh nghiệp nhà nước

còn hạn chế.
– Tuy có lợi thế hơn về khả năng vốn nhưng do qua quá nhiều khâu trung
gian, không phát huy được tính tự chủ trong kinh doanh …Nên đầu tư đổi mới
công nghệ chậm, trình độ công nghệ lạc hậu.
– Trình độ quản lý của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) phần lớn còn yếu
kém, chưa đáp ứng được nhu cầu của kinh tế thị trường. Cán bộ quản lý hầu hết
trưởng thành trong cơ chế cũ, chưa được đào tạo, đào tạo lại, không đáp ứng được
nhu cầu mới đặt ra của nền kinh tế thị trường.
– Chính sách tài chính, tín dụng, chính sách thuế, tiìen lương và phân phối
lợi nhuận còn nhiều bất cập.
– Qui mô doanh nghiệp nhà nước còn nhỏ, dàn trãi,chồng chéo về ngành
nghề và tổ chức quản lý.
1.1.2 Về lực lượng sản xuất:
– Cơ sở vật chất, kỹ thuật còn lạc hậu. Đòi hỏi quá trình công nghiệp hoá
hiện đại hoá.
– Nguồn nhân lực: Sự thiếu hụt một số lượng lớn công nhân kỹ thuật, thợ bậc
cao đã ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế. Chất lượng nguồn nhân lực là vấn đề
rất bức súc. Khoa học, công nghệ phát triển nhanh chóng, kéo theo mọi mặt biến
đổi không ngừng của xã hội, đòi hỏi con người phải luôn luôn thích nghi với cuộc

2


sống. Do đó, những phẩm chất của người lao động phải có sự biến đổi tương ứng.
Thực tế đó đòi hỏi hệ thống giáo dục, đào tạo hợp lý.
Quan hệ tài chính, tiền tệ, tín dụng, thương mại chưa phát triển, chưa đáp đáp
ứng được nhu cầu đặt ra của nền kinh tế. Qúa trình hình thành, quay vòng và phân
phối vốn còn khá chậm, lại bị giào cản bởi hệ thống chính sách, quy tắc rườm rà
nhưng quản lý kém hiệu quả. Các quan hệ này chưa đồng bộ, còn nhiều cứng nhắc,
chưa là động lực thực sự thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

Thị trường: Thị trường sơ khai,rối loạn và nhiều yếu tố tự phát (mới chỉ có
thị trường đầu ra: thị trưòng hàng hoá, còn thị trường đầu vào: thị trường tiền tệ, thị
trường vốn, thị trường sức lao động chưa có hoặc mới ở dạng manh nha). Thị
trường tiền tệ và thị trường vốn vẫn còn tách biệt: một bên là tín dụng lãi suất, tỷ
giá do Nhà Nước định hoặc khống chế; một bên là tín dụng lãi suất tự do, tự phát
ngoài vòng kiểm soát của Nhà Nước. Thị trường sức lao động có phần chưa thoát
khỏi chế độ biên chế, hoặc tự phát. Thị trường thiếu và còn những rối loạn cùng với
tình trạng luật lệ Nhà Nước vừa thiếu, vừa bất hợp lý: còn những gò bó và cả những
sơ hở, thủ tục hành chính phiền hà, nạn tham nhũng tràn lan là môi trường bất lợi
cho thị trường phát triển.
Mặc dù đã có định hướng lớn để xây dựng một thị trường đồng bộ, nhưng
trên thực tế chuyển biến rất chậm. Nguyên nhân chủ yếu là sự thiếu nhất quán về
chính sách,thể chế nhất là trong lĩnh vực tài chính tiền tệ,đầu tư,thương mại tỷ giá,
lãi suất. Đó là những tồn tại của vấn đề thị trường ở Việt Nam hiên nay.
1.1.3. Sức cạnh tranh của nền kinh tế
Sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Ví dụ như ngành dệt may Việt Nam
vốn được coi là thế mạnh của chúng ta. Trong ba tháng đầu năm 2003 xuất khẩu vào
thị trường Mỹ vượt 500 triệu đô – la Mỹ, thì vào Nhật và EU giảm 25%. Xuất khẩu
vào các nước ASEAN trước đây chiếm 25% kim ngạch xuất khẩu hàng năm của cả
nước thì nay chỉ còn 17%. Tỷ trọng này có nghĩa là Việt Nam đã mở rộng sang các
thị trường khác, nhưng cũng chứng tỏ sức cạnh tranh của hàng hoá Viêt Nam còn
thua kém so với các nước ASAN khác.
Về mặt xã hội: sự phân hoá giàu nghèo, vấn đề đạo đức, lối sống, văn hoá
3


ônhiễm môi trường, tàn phá tài nguyên … Làm cho các mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội gặp nhiều khó khăn khi thực hiện.
1.2. Các khái niệm
1.2.1. Khái niệm về cái riêng

Cái riêng là một phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật,một hiện tượng,
một quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan.
Ví dụ như ngôi nhà, cái bàn, hiện tượng ô nhiễm môi trường, quá trình
nghiên cứu thị trường của một công ty…
Sự tồn tại cá thể của cái riêng cho thấy nó chứa đựng trong bản thân những
thuộc tính không lặp lại trong các cấu trúc sự vật khác. Tính chất này được diễn
đạt bằng khái niệm cái đơn nhất. Cái đơn nhất là một phạm trù triết học dùng để
chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính chỉ tồn tại ở một kết cấu vật chất nhất
định và không lặp lại ở kết cấu vật chất khác. Tính cách của một con người, vân tay,
nền văn hoá của một dân tộc… là những cái đơn nhất. Như vậy cái đơn nhất không
phải là một sự vât, một hiện tượng đơn lẻ mà nó tồn tại trong cái riêng. Nó chỉ là
đặc trưng của cái riêng
1.2.2. Khái niệm về cái chung:
Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc
tính, những mối liên hệ được lặp lại ở nhiều sự vật hiện tượng quá trình riêng lẻ
khác nhau.
Ví dụ cái chung của người Việt Nam là có một lòng nồng nàn yêu nước, cái
chung của chủ nghĩa tư bản là bóc lột giá trị thặng dư của công nhân làm thuê, hay
ngẫu nhiên mười bạn đạt học bổng của trường đều quê ở Thanh Hoá…Ta cần phân
biệt cái chung bản chất và cái chung không bản chất.
Cái chung bản chất là cái chung qui định sự tồn tại và phát triển của sự vật.
Còn cái chung không bản chất là cái chung thường do sự ngẫu hợp mà có. Chẳng
hạn cái chung bản chất với phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật Mác-xit là vật
chất luôn vận động…Như vậy tính lặp lại là đặc trưng của cái chung. Tính chất này cho
thấy những mặt, những mối liên hệ cơ bản chi phối nhiều quá trình vật chất khác nhau.
Nó cho ta một cách nhìn sự vật trong mối liên hệ qua lại, gắn kết với nhau.
4


1.2.3. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng.

Phạm trù cái chung, cái riêng được bàn đến nhiều trong triết học phương tây
thời trung cổ.Phái duy thực đồng nhất thượng đế với cái chung và nhấn mạnh rằng:
Chỉ có cái chung mới tồn tại độc lập khách quan, là cội nguồn sản sinh ra cái riêng.
Phát triển ý tưởng của Platôn về ý niệm, và của Arirstote về ”hình dạng thuần tuý”,
các đại biểu nổi tiếng của trường phái này như G.Ơrigenơ và Thomas d Aquincho
rằng chỉ có khái niệm phổ biến là tồn tại thực sự, có trước các sự vật riêng biệt. Chủ
nghĩa duy danh lại cho rằng chỉ có những sự vật hiện tượng tồn tậi riêng biệt với
những chất lượng riêng của chúng mới là có thực, còn các khái niệm chung (cái phổ
biến) là sản phẩm của tư duy con người.
Khắc phục nhựơc điểm của chủ nghĩa duy thực và duy danh, tách biệt cái
riêng khỏi cái chung một cách trừu tượng và tuyệt đối, chủ nghĩa duy vật biện chứng
cho rằng có một mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng. Chúng là hai
mặt đối lập tồn tại trong cùng một sự vật hiện tượng và sự tồn tại đó là khách quan.
Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn đến cái chung.Không có cái riêng
nào tồn tại độc lập, tách biệt. Bất cứ cái riêng nào cũng liên hệ với cái riêng khác,
cũng nằm trong mối liên hệ với cái chung tổng thể. Thực ra hai mối liên hệ này là
một vì suy cho cùng cái chung nằm trong những cái riêng, được suy ra từ những
cái riêng cùng loại.
Ví dụ khi xem xét nguyên nhân biểu tình của công nhân ở một công ty có
thể do các nguyên nhân trực tiếp như: đến kỳ trả lương nhưng không trả thời gian
lao động quá dài mà tiền lương không thoả đáng…Đó là những cái riêng trong từng
điều kiện. Song đằng sau tất cả những cái riêng đó là một cái chung bản chất đều do
tư bản bóc lột giá trị thặng dư của công nhân.
Hay đơn giản ta quan sát các hiện tượng: qủa táo rơi, viên phấn rơi từ trên
cao xuống… Các hiện tượng này là những hiện tượng riêng lẻ, là cái riêng. Nhưng
chúng đều có một mối liên hệ chung là chiụ tác động của lực hút của trái đất.
Mối liên hệ này phải chăng do cái riêng vốn dĩ bao hàm cả cá chung nó chứa
trong nó cái chung nên có mối liên hệ này.
Ngược lại, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu
5



hiện sự tồn tại. Không có cái chung tồn tại độc lập ở đâu đó. Cái chung chỉ tồn tại
trong cái riêng. Bởi lẽ cái chung vốn dĩ chỉ là những mặt, những thuộc tính, những
đặc điểm được lặp đi,lặp lại ở nhiều kết cấu sự vật khác nhau. Nó không phải là sự
vật,hiện tượng hay quá trình. Ta chỉ biết được lực hút của trái đất qua những hiện
tượng trong không gian thất định.
Phép biện chứng của cái chung và cái riêng nói trên có thể thấy rõ trong vấn
đề lợi ích kinh tế.
Lợi ích kinh tế là một trong những động lực quyết định đến sự tồn tại và
phát triển của xã hội loài người. Đó là sự biểu hiện một cách trực tiếp các quan hệ
xã hội.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, lợi ích kinh tế chỉ
được biểu hiện qua lợi ích của từng thanh phần kinh tế, với những hình thức sở hữu
khác nhau,đối lập nhau. Vì vậy phải làm thế nào để vừa bảo đảm lợi ích toàn dân,
vừa không rơi vào triệt tiêu lợi ích chính đáng của từng công dân. Trong ”Chiến
lược phát triển kinh tế đến năm 2000”, Đảng ta đã khẳng định: Chiến lược phát
triển kinh tế, xã hội đặt con người vào vị trí trung tâm, giải phóng sức sản xuất,
khơi dậy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân, mỗi tập thể lao động và của cả cộng đồng
dân tộc, động viên và tạo điều kiện cho mọi người Việt Nam phát huy ý chí tự
lực,tự cường, cần kiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ra sức làm giàu cho mình và
cho đất nước. Lợi ích của cá nhân, tập thể và của toàn xã hội gắn bó hữu cơ với
nhau, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp.
Ngoài ra, bất cứ cái riêng cũng luôn luôn vận động, không có cái riêng nào
là vĩnh viễn. Nó luôn biến đổi, chuyển hoá, phát triển thành những cái riêng khác.
Sự chuyển hoá đó cứ thế diễn ra, kết quả của sự chuyển hoá này là các cái riêng
đều có mối liên hệ với nhau. Cuối cùng giữa chúng có những cái chung nhất định.
Như vậy, sự liên hệ giữa các cái riêng còn do chính qúa trình vận động, phát triển
của nó, do khả năng tự chuyển hoá dể xích lại gần nhau hơn. Những cái riêng cùng
loại tự tìm thấy nhau và giữa chúng hình thành nên một cái chung quy luật nào đó.

Chẳng hạn, ở những năm đầu thập niên chín mươi của thế kỉ XX, nền kinh tế
thị trường nước ta còn rất sơ khai. Các quan hệ hàng hoá tiền tệ còn ở dạng manh
6


nha, các phạm trù của kinh tế thị trường chưa rõ ràng, sự khác biệt giữa nền kinh tế
thị trường nước ta và nền kinh tế thị trường một số nước phát triển khác rất sâu sắc.
Nhưng mấy năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới, chúng ta
đã từng bước xây dựng nền kinh tế thị trường của ta phát triển hoà nhập với nền
kinh tế thị trường thế giới.
Cái riêng là cái toàn thể hơn cái chung. Nó bao gồm cả cái chung và cái
đơn nhất. Kinh tế thị trường Việt Nam phải tuân theo qui luật nói chung của kinh
tế thị trường thế giới, song luôn có nét đặc sắc riêng của kinh tế thị trường Việt
Nam, tồn tại trên đất Việt Nam, do con người Việt Nam dây dựng. Cái chung chiếm
giữ phần bản chất, hình thành nên chiều sâu của sự vật. Cái chung ở tầm bản chất
qui địng sự tồn tại, phát triển của sự vật. Cái riêng là cái toàn bộ vì nó là một thực
thể hoàn chỉnh và sống động. Cái riêng tồn tại trong sự ”va chạm ” với những cái
riêng khác. Sự va chạm này vừa làm cho sự vật xích lại gần nhau bởi cái chung, với
tư cách là một bộ phận tồn tại trong cái chung, vừa làm cho chúng xa nhau bởi cái
đơn nhất, không lặp lại ở cái riêng khác.
Như vậy cái chung và cái đơn nhất cùng tồn tại trong cái riêng làm sâu sắc
và phong phú cho cái riêng. Nếu cái chung làm sâu sắc, thì cái đơn nhất lại làm đa
dạng, phong phú cho cái riêng, làm sinh động hoá thế giới sự vật.
Bất cứ cái riêng nào bao giờ cũng nằm trong một môi trường, một hoàn
cảnh nhất định. Cùng một sự vật hiện tượng, nếu xét ở cấp độ này nó là cái
chung, nhưng xét ở cập độ khác nó lại tồn tại với tư cách là cái riêng trong đó có
những cái đơn nhất.
Ví dụ như: công nghiệp hoá, hiện đại hoá- quá trình tất yếu của mọi quốc
gia khi bước sang kinh tế thị trường. Tuy nhiên, đối với Việt Nam xét trên từng mặt
của công nghiệp hoá, hịên đại hoá lại nảy sinh các vấn đề mang tính đặc trưng của

nước ta: huy động vốn trong điều kiện vốn ít ỏi, thị trường vốn chưa phát triển…
Trong những điều kiện nhất định, cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển
hoá cho nhau. Đây là chuyển hoá của các mặt đối lập trong cùng một sự vật. Sự
chuyển hoá này phản ánh quá trình vận động đa dạng của các kết cấu vật chất trong
thế giới.
7


Qúa trình chuyển hoá từ cái đơn nhất thành cái chung thể hiện quá trình phát
triển biện chứng của sự vật. Ngược lại sự chuyển hoá từ cái chung thành cái đơn
nhất thể hiện sự thoái bộ của một sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển của
nó. Chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước cho ta một dẫn chứng. Sự tồn
tại phổ biến của doanh nghiệp nhà nước từ trước đến nay (vốn được xem là đặc
trưng că bản của kinh tế xã hội chủ nghĩa) đang dần dần được thay thế bởi sự ra đời
của các công ty ( hình thành từ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước). Hình thức mới
này có sức hấp dẫn hơn so với doanh nghiệp. Sự tồn tại đơn thất của nó dần dần
phát triển thành phổ biến và trở thành nét chung của kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Ngược lại, những biểu hiện phổ biến trước đây (như tính chất kế hoạch hoá tập
chung cao đọ, cơ chế hành chính,bao cấp ) sẽ dần dần mất đi, cá biệt hoá trong một
số trường hợp củ thể và không điển hình.
Sự chuyển hoá trên cho ta một cách nhìn các phạm trù cái chung, cái riêng,
cái đơn nhất một cách tương đối, trong một mối quan hệ biện chứng.
Trong một số trường hợp, ta gần như đồng nhất cái riêng với cái chung.Ví dụ
như khi ta nói: du lịch là một loại dịch vụ, quần áo là một loại hàng tiêu
dùng….Tuy nhiên, điều đó chỉ nhằm tách sự vật ra khỏi phạm trù khác của nó, và
nhấn mạnh sự tác động của cái chung đến cá thể.
Từ việc nghiên cứu mối quan hệ biện giữa cái chung và cái riêng, đã cho ta
một số cơ sở lý luận để tìm hiểu quá trình xây dựng kinh tế thị trường nước ta trong
tổng quan kinh tế thị trường thế giới và theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng,
nhân dân ta đã chọn.


8


CHƯƠNG 2
CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG NHÌN DƯỚI VẤN ĐỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1 Khái niệm kinh tế thị trường
Loài người đã chứng kiến sự phát triển của kinh tế hàng hoá, sự hình thành,
phát triển của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Kinh tế thị trường là hình thức
phát triển cao của kinh tế hàng hoá, trong đó từ sản suất đến tiêu dùng đều thông
qua thị trường, Nói cách khác, kinh tế hàng hoá phát triển, trong đó mọi quan hệ
kinh tế đều được tiền tệ hoá thì gọi là kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường, cơ
chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá do sự tác động của các quy luật kinh tế vốn có
của nó, cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là gì, như thế nào
và cho ai. Một cơ chế bao hàm các nhân tố cơ bản là cung, cầu, giá cả.
Cơ chế thị trường không phải là một sự hỗn độn,mà là một trật tự kinh tế,là
bộ máy vi tính phối hợp một cách không có ý thức hoạt động của người tiêu dùng
với các nhà sản xuất thông qua hệ thống giá cả thị trường. Không ai tạo ra nó, nó tự
phát sinh và phát triển cùng với sự ra đồi và phát triển của kinh tế hàng hoá.
2.2. Nền kinh tế thị trường nước ta là một bộ phận của nền kinh tế thị
trường thế giới
Ngay từ buổi sơ khai của nền kinh tế thị trường thế giới, bên cạnh tính tự do
của nó là một cơ chế vận hành theo sự quản lý vĩ mô của nhà nước. Và ngay trong
thời đại ngày nay,sự quản lý vĩ mô của nhà nước cũng là một xu hướng.
Khách quan đối với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị. Không
có một nhà nước nào đứng ngoài nền kinh tế,không có một nền kinh tế thị trường
nào thuần tuý mà ở những mức độ khác nhau đều có sự can thiệp của nhà nước.Nhà

nước điều tiết kinh tế thông qua phương pháp “chương trình hoá” với khả năng
điều hành các ngân hàng lớn, các hệ thống tín dụng và thương mại. Nhà nước có thể
điều tiết ở một mức độ nào đó giá cả thị trường, giảm chi phí sản xuất, đầu tư vào
các lĩnh vực khoa học – kĩ thuật thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Lịch sử phát triển của sản xuất xã hội chứng minh rằng cơ chế thị trường là
9


cơ chế điều tiết nền kinh tế hàng hoá đạt hiệu quả cao. Song cơ chế thị trường
không phải là hiện thân của sự hoàn hảo,mọi sự vật hiện tượng đều có tính hai măt,
tính biện chứng, nó vốn có những khuyết tật,đặc biệt là về mặt xã hội. Cũng như các
nước khác trên thế giới, Việt Nam phải đối mặt với những hiện tượng: ô nhiễm môi
trường, lạm dụng tài nguyên, sự phân hoá giàu nghèo,vấn đề đạo đức,tình người,
văn hoá dân tộc có xu hướng bị mai một do quá trình hội nhập…Một nhà nghiên
cứu phương Tây đã nhận xét về xã hội của các nước phát triển cao như sau:” Trong
các nền văn minh được gọi là phát triển của chúng ta, tồn tại một tình trạng kém
phát triển thảm hại về văn hoá,trí não,đạo đức và tình người”. Người ta nhận thấy
rằng một nền kinh tế hiện đại đứng trước một vấn đề nan giải của kinh tế vĩ mô
không một nước nào trong thời gian dài lại có được lạm phát thất nghiệp thấp và
công ăn việc làm đầy đủ.
Đó là những khuyết tật vốn có của kinh tế thị trường mà bất cứ quốc gia
nào khi xây dựng kinh tế thị trường cũng phải đối mặt. Chỉ khác nhau ở chỗ mỗi
nhà nước có một cách đối sử với chúng riêng.
2.3. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc trưng của kinh
tế thị trường Việt Nam.
Với tư cách là cái riêng, ngoài những nét chung đã trình bày ở trên kinh tế
thị trường nước ta còn có những đặc điểm riêng phân biệt với nền kinh tế thị trường
của các nước khác. Điều này được quy đinh bởi những điều điều kiện mang tính
chất lịch sử, xã hội đặc biệt là chế độ chính trị.
2.3.1. Một số điều kiện mang tính lịch sử của nền kinh tế Việt Nam

trước khi bước sang kinh tế thị trường.
Đặc điểm kinh tế: nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ, mang nặng
tính tự cung,tự cấp, cơ sở hạ tầng thấp kém, lực lượng sản xuất thô sơ,lạc hậu, đối
với người lao động trình độ thấp kém, mang nặng tư tưởng tiểu nông…
- Bị chiến tranh tàn phá nặng nề.
- Chịu sự kìm hãm của mấy chục năm xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung, quan lưu, bao cấp.Cụ thể là:
- Nhà nước quản lý kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, thể hiện
10


ở sự chi tiết hoá các nhiệm vụ do trung ương giao bằng một hệ thống chỉ tiêu pháp
lệnh từ trung tâm.Điều đó đã làm sơ cứng nền kinh tế, nền kinh tế không có động
lực,không có đua tranh, không phát huy được tính chủ động sáng tạo của người lao
động,của chủ thể sản xuất kinh doanh,sản xuất không gắn liền với nhu cầu,ý chí chủ
quan đã lấn át khách quan và triệt tiêu mọi động lực và sức mạnh nội sinh của bản
thân nền kinh tế.
- Các quan hệ căn bản của nền kinh tế: hàng hoá – tiền tệ, tín dụng, thương
mại chỉ còn là hình thức.
- Các quan hệ hành chính – kinh tế can thiệp qúa sâu vào hoạt động sản xuất
kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở,nhưng không chịu trách nhiệm gì về mặt
vật chất đối với các quyết định của mình đẫn đến hiệu quả kinh tế rất thấp.
Bộ máy quản lý cồng kềnh, có nhiều khâu trung gian và kém năng động

từ

đó phát sinh một đội ngủ cán bộ kém năng lực quản lý,không thạo nghiệp vụ kinh
doanh, nhưng phong cách thì quan lưu cửa quyền.
Tất cả đã làm cho nền kinh tế suy thoái, thiếu hụt, hiệu qua thấp, nhiều
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội không thực hiện được.

2.3.2. Những đặc điểm riêng phân biệt kinh tế thị trường nước ta với các
nước khác.
Xuất phát từ điều kiện lịch sử trên, kinh tế thị trường Việt Nam có những đặc
trưng sau:
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta không coi kinh tế thị trường là mục tiêu mà chỉ là phương tiện để
phát triển lực lượng sản xuất,xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội
và thiết lập quan hệ sản xuất mới.Mục đích của chúng ta là xây dựng nước ta thành
một xã hội dân giàu,nước mạnh,công bằng,dân chủ văn minh.
Nếu kinh tế thị trường trong chủ nghĩa tư bản như ở Anh, Pháp,Mĩ… dựa
trên cơ sở cơ cấu đa dạng về hình thức sở hữu, trong đó sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất là nền tảng thì kinh tế thị trường ở nước ta lấy sở hữu tập thể, toàn
dân,nhà nước làm chủ đạo.Do đó nền kinh tế gồm nhiều thành phần,trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
11


Trong kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, cũng có nhiều hình thức phân
phối trong đó phân phối theo tư bản là chủ yếu thì kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam cũng thực hiện nhiều hình thức phân phối: phân phối theo kết quả
lao động và hiệu quả kinh tế,phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực vào
sản xuất, kinh doanh, và phân phối thông qua các quĩ phúc lợi xã hội, trong đó phân
phối theo kết quả lao động giữ vai trò nòng cốt, đi đôi với chính sách điều tiết thu
nhập một cách hợp lý. Trong khi ở các nước tư bản chủ nghĩa 80% tổng thu nhập
của toàn xã hội lại nằm trong tay 20% dân số, còn 20% của cải còn lại giành cho
4/5 dân số nghèo đói. Thì chúng ta thực hiện phân phối theo nguyên tắc công bằng,
phân phối theo lao động,theo vốn, trên cơ sở khuyến khích mội người tự do sản xuất
kinh doanh công khai hợp pháp,đồng thời thực hiện chính sách công bằng xã hội
Tuy nhiên để có động lực cho sự phát triển, chúng ta chấp nhận phân hoá khi phân
phối. Điều quan trọng là phải phân biệt: phân hoá theo bất công thì kiên quyết xoá

bỏ,nhưng phân hoá do lao động sáng tạo cần khuyết khích. Chúng ta không coi bất
bình đẳng xã hội như một trật tự tự nhiên, là điều kiện của sự tăng trưởng kinh tế,
mà thực hiện mỗi bước tăng trưởng kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống nhân
dân, với tiến bộ và công bằng xã hội.
Mỗi chế độ xã hội có một chế độ phân phối tương ứng với nó.Chế độ phân
phối do quan hệ sản xuất thống trị,trước hết là quan hệ sở hữu quyết định.Phân phối
có liên quan đến chế độ xã hội,đến chính trị.Dưới chủ nghĩa tư bản phân phối theo
nguyên tắc giá trị: đối với người lao động theo giá trị sức lao động, còn theo tư bản
theo giá trị tư bản.Như vậy thu nhập của người lao động chỉ giới hạn ở giá trị sức
lao động ma thôi.Chủ nghĩa xã hội có đặc trưng riêng về sở hữu,do đó chế độ phân
phối cũng có đặc trưng riêng.phân phối theo lao động là đặc trưng của chủ nghĩa xã
hội. Thu nhập của người lao động không chỉ giới hạn ở giá trị sức lao động, mà nó
phải vượt qua giới hạn đó.Nó phụ thuộc chủ yếu vào kết quả lao động và hiệu quả
kinh tế.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta gồm nhiều
thành phần kinh tế.Vì vậy, cần thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập.Chỉ có
như vậy mới khai thác được khả năng của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần,huy động
12


được mọi nguồn lực kinh tế vào phát triển kinh tế.
Trong kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, sự tăng trưởng và
phát triển kinh tế gắn liền với sự tiến bộ,công bằng xã hội trong mỗi bước phát
triển.Tăng trưởng và phát triển kinh tế đi đôi với việc đẩy mạnh văn hoá,giáo dục
để nâng cao dân trí,đảm bảo nguồn nhân lực và xây dựng một nền văn hoá đậm đà
bản sắc dân tộc.
Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong bước chuyển sang kinh tế thị trường,
vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa được xem xét một cách cơ bản toàn diện từ
kinh tế đến chính trị xã hội. Xét riêng phạm vi kinh tế, Nhà Nứơc sử dụng hai nhân

tố khách quan trực tiếp góp phần bảo đảm định hướng xã hội chủ nghiã.Trước hết
định hướng về chế độ kinh tế,vai trò quản lý của Nhà Nước xã hội chủ nghĩa và sau
đó là vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà Nước.
Việc định hướng cho chế độ kinh tế được thực hiện thông qua các chiến
lược qui hoạch,kế hoạch phát triển kinh tế thị trường ; Nhà Nước đầu tư các dự án
vào các lĩnh vực then chốt để bảo đảm cho nền kinh tế phát triển đúng định hướng ;
ổn định môi trường kinh tế vĩ mô như chống lạm phát, chống khủng hoảng, ngăn
ngừa những xung đột xấu trong nền kinh tế
Nhà Nước với chức năng quản lý,điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và
điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế như bảo đảm sự ổn định về chính trị,xã
hội,thiết lập khuôn khổ luật pháp thống nhất, có hệ thống chính sách nhất quán để
tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh hoạt động hiệu quả. Xây
dựng kết cấu hạ tằng kinh tế -xã hội bảo đảm yêu cầu của phát triển kinh tế. Nhà
Nứơc quản lý tài sản công và kiểm kê,kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế,xã
hội.Thực hiện đúng chức năng quản lý Nhà Nước về kinh tế và chức năng chủ sở
hữu tài sản công của Nhà Nước. NN chỉ với chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô,
không can thiệp quá sâu vào chức năng quản trị kinh doanh cũng như quyền tự chủ
của doanh nghiệp.
Cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà Nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa thể hiện ở một nội dung quan trọng là chức năng sữa chữa những thất
13


bại của kinh tế thị trường bảo đảm mục tiêu phát triển của chủ nghĩa xã hội. Sự
hoạt động của cơ chế thị trường có thể làm cho nền kinh tế đạt hiệu quả. Nhưng cơ
chế thị trường hoạt động phi nhân tính, nó không tính đến các khía cạnh nhân đạo
và xã hội,không mang lại những kết quả mà xã hội cố vươn tới. Việc phân phối và
sử dụng tối ưu các nguồn lực không tự động mang lại một một sự phân phối thu
nhập tối ưu.
Nhà Nước có các các chính sách ưu đãi như: đầu tư xây dựng giao thông,

thông tin liên lạc, giáo dục đào tạo, y tế … Về vấn đề cán bộ, Nhà Nước có chính
sách khuyến khích cả lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần cho những cán bộ miền
núi, biên giới, hải đảo. Ngoài ra, Nhà Nước ta luôn đặt vấn đề giáo dục, đào tạo, y
tế, văn hoá, đạo đức … lên hàng đầu, đầu tư phát triển chăm sóc đời sồng mọi mặt
cho nhân dân.
Kinh tế thị trường nước ta là nền kinh tế thị trường theo kiểu rút ngắn. Điều
này có nghĩa chúng ta có thể bỏ qua một số tuần tự trong quá trình xây dựng.
Như vậy, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đều sử dụng cỗ xe kinh tế
hàng hoá, kinh tế thị trường để phát triển lực lượng sản xuất, phải chăng chỗ khác
nhau là sự cân bằng giữa kinh tế xã hội, con nghười và quan hệ con người với con
người, quan hệ phân phối,thiết chế chính trị ; cả hai đều sử dụng cạnh tranh làm
động lực phát triển, nhưng dưới chủ nghỉa tư bản không thể tránh khỏi quy luật cá
lớn nuốt cá bé, bất bình đẵng,bất công (nếu như thời kỳ đầu biểu hiện trong công
xưởng thì ngày nay mở ra quan hệ toàn cầu bằng những áp lực và ràng buộc phi lý).
Chúng ta chấp nhận thị trưòng là chấp nhận cạnh tranh, đua tranh nhưng không
dã man, tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng, khuyết khích làm giàu đi đôi
với xoá đói giảm nghèo, sự gia tăng mức sống nhưng giữ gìn đạo đức bản sắc
văn hoá dân tộc.
2.4. Thành tựu của kinh tế thị trường ở Việt Nam
Kinh tế thị trường đã thực sự tạo ra bước ngoặt trong nền kinh tế
Việt Nam.Việt Nam không những khắc phục được tình trạng suy thoái, khủng hoảng
kéo dài mà còn đạt được những tiến bộ nổi bật, đạttốc độ tăng trưởng khá lên tục.
Tổng sản phẩm trong nước năm 1994 tăng 8,5% năm,trong đó sản xuất công
14


nghiệp tăng 13%, sản xuất nông nghiệp tăng 4%, kim ngạch xuất khẩu tăng
20,8%,lạm phát được kiềm chế , bước đầu thu hút được vốn đầu tư nước ngoài.
Thành tựu nổi bật nhất là sản xuất nông nghiệp phát triển. Từ chỗ thiếu
lương thực trầm trọng nay chúng ta đã trở thành quốc gia xuất khẩu gạo đứng thứ

hai trên thế giới. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng hiện đại cùng với
quá trình công nghiệp hoá,hiện đại hoá. Cơ hế thị trường có sự quản lý của Nhà
Nước theo định hướng XHCN đã có những bước phát triển nhất định hiệu lực quản
lý của bộ máy hành chính Nhà Nước ngày càng cao. Nền kinh tế quốc dân đã sản
xuất được một lượng vật chất nhất định, lực lượng sản xuất phát triển đạt được một
số thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu quan trọng trên, kinh
tế thị trường nước ta cũng còn nhiều tồn tại cần được giải quyết ngay.

15


CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP, ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ

3.1 Giải pháp biện chứng giữa cái chung và cái riêng và vận dụng vào
xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta
- Đẩy mạnh quá trình đa dạng hoá sở hữu.Có chính sách và cơ chế đủ sức
xoá bỏ nhanh chóng sự kỳ thị, phân biệt đối xử, thực hiện khuyến khích đầu tư và
tôn vinh vai trò của các doanh nhân trong tất cả các thành phần kinh tế.
- Thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa phân công lao động xã hội trong nước và quốc
tế, tiếp tục xây dựng và phát triển đồng bộ các loại thị trường
-Tạo dựng môi trường chính trị, kinh tế, xã hội tương đối ổn định và

thông

thoáng để các chủ thể kinh tế trong nước và nước ngoài yên tâm phấn khởi đầu tư
các nguồn lực vào sản xuất kinh doanh.
- Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, kết cấu hạ tầng và cơ sở hạ tầng hợp lý,
đóng vai trò là những tiền đề cho kinh tế thị trường phát triển.
-Tạo dựng hành lang và cơ chế bảo đảm giữ vững xã hội chủ nghĩa đối với
kinh tế thị trường.

-Tạo lập bộ máy Nhà Nước vững mạnh. Đẩy nhanh nhịp độ cải cách hành
chính nhà nước và từng bước đưc hiệu quả của cải cách hành chính nhà nước vào
cuộc sống.
3.2 Đề xuát và kiến nghị biện chứng giữa cái chung và cái riêng và vận
dụng vào xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta
- Mở rộng thị trường cả bề rộng lẫn bề sâu
- Phát triển thị trường đồng bộ
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
Thực tế cho thấy, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta còn rất thấp
Nguyên nhân trực tiếp là do các mặt hàng của Việt Nam chưa tìm được những nét
mạnh thực sự. Ví dụ như: lợi thế so sánh về giá cả, chất lượng hay mẫu mã.
Thường các hàng hoá này chỉ đạt được mức độ bình thường. Nên chỗ đứng của
hàng hoá Việt Nam trên thị trường thường không ổn định, không có một thương
hiệu riêng nổi bật.
Để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, phải có sự nổ lực từ cả hai phía,
16


cả chủ doanh nghiệp và Nhà nước. Về phía chủ doanh nghiệp, đó là những nổ lực
trong việc lưu động vốn hợp lý, điều chỉnh mối quan hệ giữa vốn tích luỹ và vốn
tiêu dùng, đổi mới công nghệ – kỹ thuật , tổ chức sản xuất kinh doanh … nhằm
giảm giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới mẫu mã thường xuyên, tích
cực đổi mới nâng cao vị trí của doanh nghiệp trên thị trường. Tuy nhiên, theo ông
Đoàn Duy Thành – chủ tịch Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam tại cuộc
gặp gỡ hàng năm giữa Thủ tướng
Chính Phủ với các nhà doanh nghiệp diễn ra vào đầu tháng 3 năm 2003 vừa
qua: “Ngoài nỗ lực của doanh nghiệp, cần có sự hỗ trợ, giúp đỡ của Nhà nước”. Các
doanh nghiệp cho rằng, chi phí trung gian: chi phí vận tải, điện thông tin vẫn quá
cao là một trong nhiều yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến hoạt động và khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệp. Mặt khác, vấn đề thiếu bình đẵng giữa doanh nghiệp

quốc doanh và ngoài quốc doanh vẫn liên tục ảnh hưởng đến hoạt động của doanh
nghiệp như: vay vốn, đầu tư, mặt bằng, xuất nhập khẩu. Đặc biệt là lực cản từ bộ
máy hành chính. Sự chậm trễ của các cơ quan nhà nước các ngành, các cấp trong
triển khai và thực thi các chính sách là trở ngại lớn nhất trong nỗ lực nâng cao
sức cạnh tranh ở các doanh nghiệp. Vấn đề đặt đối với nhà nước phải tiếp tục
phát triển kết cấu hạ tầng cơ sở, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật nhằm giảm tối
đa các chi phí đầu vào cơ sở cho doanh nghiệp. Đồng thời, cải cách, đổi mới
phương thức hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, tiếp tục sửa đổi, bổ
sung, hoàn thiện luật doanh nghiệp Việt Nam nhằm tiếp sức kịp thời cho các
doanh nghiệp trong quá trình chạy đua nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hoá khi
cơn lốc toàn cầu hoá, hợp tác và liên kết ngày càng mạnh mẽ là những thách thức
và cơ hội cho các doanh nghiệp khẳngđịnh chỗ đứng của mình.
Như ta đã biết, năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam còn yếu có một
nguyên nhân khách quan là chúng ta đã đi sau các nước khác về công nghệ cũng
như kinh nghiệm kinh doanh... Vì thế, khi bước vào cạnh tranh hiện nay phải
chăng chúng ta nên phát huy các lợi thế so sánh riêng của Việt Nam, tìm ra thế
mạnh riêng của chúnh ta thay vì chạy theo cái chúng ta vốn chậm trễ. Đó là các thế
mạnh về nguồn lao động dồi dào, các ngành thủ công truyền thống, nguồn tài
17


nguyên … để phát triển ngành thủ công nghiệp, du lịch, dịch vụ, chế biến thuỷ sản
… Đó là một số hướng đi nhằm nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp nước ta
hịên nay.

18


KẾT LUẬN


Trong quá trình tìm tòi, nghiên cứu để tìm ra hướng đi đúng đắn cho nền
kinh tế. Đảng ta đã luôn phải đứng trước hai con đường cái chung hay cái đơn nhất,
cái nào là quy luật phải tuân theo và cái nào có thể thay đổi,cái nào là của riêng
chúng ta. Đứng trước tình hình đó,triết học Mác-Lênin đã trở thành kim chỉ nam
định hướng cho toàn bộ quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam. Nằm
trong hệ thống kinh tế thị trường thế giới, kinh tế thị trường nước ta chịu tác động
của các qui luật kinh tế vốn có: qui luật cung cầu, qui luật giá trị, qui luật lưu thông
tiền tệ …các phạm trù: cạnh tranh, cung cầu, giá cả …Nhưng kinh tế thị trường
nước ta là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế đi đôi
với công bằng và tiến bộ xã hội. Chúng ta không coi kinh tế thị trường là mục tiêu
mà kinh tế thị trường chỉ là phương tiện để chúng ta xây dựng một xã hội dân giàu
nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, xã hội yêu con người và vì con người.
Sau khi nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa cái chung, cái riêng và
vận vào xây dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam, ngoài việc nâng cao nhận thức của
bản thân về kinh tế thị trường,điều em thu nhận lớn nhất là hiểu được thế nào là một
tỷ lệ thích hợp giữa cái chung với cái đơn nhất để tạo nên một thực thể riêng biệt.
Đặc biệt trong môi trường toàn cầu hoá, cạnh tranh ngày càng gay gắt, các
chủ thể cạnh tranh luôn tìm mọi cách để tạo thế mạnh riêng, thì việc cố gắng tìm
kiếm,tạo dựng và phát triển những nét đặc sắc, đơn nhất là vô cùng quan trọng đối
với không chỉ doanh nghiệp mà còn với cả nền kinh tế quốc dân, là nhân tố quyết
định đến quá trình xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mang
đậm mầu sắc Việt Nam.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình triết học Mác -Lênin – Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia
2. Kinh tế thị trường định hướng XHCN – Nguyễn Sinh Cúc

3. Tạp chí Nghiên cứu và trao đổi

– Số 4 (2-2000).

4. Tạp chí Kinh tế phát triển

– Tháng 1-2002

5. Thời báo Kinh tế Sài Gòn

– Số 14 -2003



×