Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

chế độ tài sản của hai vợ chồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.64 KB, 22 trang )

CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
THEO LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH 2014
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cuộc sống của chúng ta bằng cách này hay cách khác đều được gắn kết bởi
nhiều sợi dây pháp lý khác nhau, ràng buộc họ trong việc thực hiện các quyền và
nghĩa vụ nhất định. Một trong số những sợi dây không thể không kể đến là quan hệ
vợ chồng. Khi trở thành vợ chồng, các quan hệ về nhân thân, tài sản,.. cũng sẽ thay
đổi. Các tài sản mà bản thân người vợ, người chồng tạo lập được khi kết hôn sẽ
được xử lý như thế nào, sau khi kết hôn nguồn thu nhập của vợ chồng, hoa lợi, lợi
túc từ tài sản riêng sẽ ra sao đều là những vấn đề cần bàn luận. Trên cơ sở đó, chế
độ tài sản của vợ chồng hình thành, bao gồm các chế định liên quan đến xác lập tài
sản chung, tài sản riêng để đảm bảo xây dựng gia đình cũng được thiết lập chặt chẽ.
Đồng thời Luật hôn nhân và gia đình 2014 ra đời với những điểm mới tiến bộ đã
giúp cho chế độ tài sản của vợ chồng được thực hiện công khai, minh bạch hơn.
Với những ý nghĩa trên, trong phần trình bày dưới đây, em xin được làm rõ
cơ sở lý luận và các quy định của pháp luật hiện hành về chế độ tài sản của vợ
chồng theo Luật hôn nhân và gia đình 2014, từ đó đi vào vận dụng giải quyết một
tình huống liên quan cơ bản có trên thực tế hiện nay, đồng thời nhìn nhận được một
số điểm mới nổi bật, đưa ra bất cập và kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật
về chế độ tài sản của vợ chồng.

B. NỘI DUNG
1


I. LÝ LUẬN CHUNG CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của chế độ tài sản của vợ chồng
1.1. Khái niệm
Khi nói đến thuật ngữ “chế độ”, chúng ta hiểu đó là hệ thống các quy định cần
phải được tuân thủ trong một quan hệ xã hội nhằm đạt được mục đích nhất định.
“Chế độ tài sản của vợ chồng” theo đó, là tổng hợp các quy phạm pháp luật


điều chỉnh về tài sản của vợ chồng, bao gồm các quy định về căn cứ xác lập tài sản,
quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng, nguyên tắc
phân chia tài sản giữa vợ và chồng.
Trong đó, căn cứ xác lập tài sản là các nguồn hình thành nên tài sản chung,
riêng của vợ chồng, đó có thể là từ nguồn thu nhập của người vợ/chồng, vợ chồng
được tặng cho một khoản tiền, người vợ được thừa kế riêng…; Tài sản chung là
phần tài sản chung hợp nhất thuộc quyền sở hữu chung của vợ chồng, tài sản riêng
là tài sản thuộc quyền sở hữu độc lập của mỗi người, tồn tại ngay trong thời kì hôn
nhân; trên cơ sở đó, các lợi ích và quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với khối
tài sản này cũng được hình thành tạo nên chế định về các quyền, nghĩa vụ đối với
tài sản chung, tài sản riêng. Đồng thời chế độ tài sản còn bao gồm nguyên tắc thực
hiện của vợ, chồng khi phân chia tài sản chung, dựa vào đó để chia tài sản cho hợp
tình, hợp lý.
Khi đã thiết lập chế độ tài sản của vợ chồng, người vợ, người chồng phải thực
hiện các vấn đề liên quan đến tài sản theo đúng những quy định có trong chế độ đã
thiết lập. Pháp luật hôn nhân gia đình Việt Nam quy định vợ chồng có hai cách thức
để xác lập tương ứng với hai chế độ tài sản là chế độ tài sản theo thỏa thuận và chế
độ tài sản theo luật định.

2


1.2. Đặc điểm
-

Về chủ thể: chủ thể của chế độ tài sản của vợ chồng là người nam và người nữ

có quan hệ vợ chồng hợp pháp, đáp ứng đủ năng lực chủ thể, điều kiện kết hôn theo
quy định của pháp luật hôn nhân gia đình.
-


Về mục đích: việc xác lập chế độ tài sản của vợ chồng nhằm đảm bảo lợi ích của

gia đình, tạo điều kiện cho vợ chồng chủ động thực hiện các quyền và nghĩa vụ liên
quan đến tài sản.
-

Chế độ tài sản của vợ chồng chỉ tồn tại trong thời kỳ hôn nhân, tức được xác

lập và chấm dứt tương quan với thời điểm phát sinh và chấm dứt quan hệ hôn nhân.
-

Quyền và nghĩa vụ đối với tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng mang tính

đặc thù. Cụ thể, trừ một số giao dịch luật định, các giao dịch hàng ngày phục vụ nhu
cầu thiết yếu của gia đình do một người xác lập cũng được hiểu là đã có sự thỏa
thuận đương nhiên của vợ chồng hay thông thường người có quyền sở hữu có quyền
định đoạt tài sản tuy nhiên trong chế độ tài sản của vợ chồng, quyền định đoạt đối
với tài sản riêng của vợ/chồng trong một số trường hợp sẽ bị hạn chế, chẳng hạn:
nếu tài sản riêng đang là nguồn sống duy nhất của gia đình, khi định đoạt liên quan
đến tài sản này phải có thoả thuận của cả hai vợ chồng.
1.3. Ý nghĩa
Chế độ tài sản của vợ chồng được thiết lập khi vợ, chồng kết hôn hợp pháp
với nhau, cùng chung sống và xây dựng gia đình. Trên cơ sở tự nguyện, hai vợ
chồng vì tình cảm nên muốn đến với nhau, bên cạnh phần tài sản riêng để phục vụ
nhu cầu cá nhân thì còn cần có một khối tài sản chung để đáp ứng những nhu cầu cơ
bản cùa gia đình như mua sắm đồ gia dụng, nuôi dưỡng con,… Vậy khối tài sản
chung đó lấy từ đâu, cần phân định rạch ròi nhất là khi có phần tài sản được sáp
nhập từ tài sản riêng của vợ, chồng. Tương tự như vậy, phần tài sản mà mỗi người
vẫn muốn duy trì quyền sở hữu độc lập cho bản thân mình cũng phải xác định rõ.

Trước là có cơ sở vật chất để đảm bảo nhu cầu đời sống chung của vợ chồng, của
3


các thành viên gia đình, gia đình tồn tại, phát triển. Sau là cũng từ đó mà phần
quyền đối với chủ sở hữu tài sản bao gồm chiếm hữu, sử dụng, định đoạt cũng được
hình thành nhằm định hướng hành vi ứng xử vợ chồng đối với tài sản, cả hai đều có
quyền và nghĩa vụ đối với tài sản chung, sử dụng trong phần quyền và chịu trách
nhiệm về hành vi của mình đối với tài sản đó; đồng thời tránh tranh chấp khi xảy ra
mâu thuẫn giữa hai vợ chồng, giữa vợ chồng với người thứ ba hay một trong hai
muốn chối bỏ trách nhiệm mà không xác định được đâu là tài sản chung/ riêng ; làm
cơ sở cho việc chia tài sản khi muốn chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân hoặc khi
hai vợ chồng ly hôn được rõ ràng.
Việc đặt ra chế độ tài sản của vợ chồng, một lần nữa được xem là điều cần thiết
vì vốn dĩ bản chất vấn đề tài sản, quyền sở hữu tài sản giữa các chủ thể độc lập đã là
một vấn đề rất nhạy cảm, khi được đặt trong mối quan hệ vợ chồng, càng cần phải
có sự rõ ràng, minh bạch hơn. Đồng thời với tư cách là một chế định trong pháp luật
về hôn nhân gia đình, nhìn vào chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong
pháp luật của Nhà nước, người ta có thể nhận biết được trình độ phát triển của các
điều kiện kinh tế - xã hội và bản chất của chế độ xã hội của Nhà nước đó.
2. Nguyên tắc áp dụng chung về chế độ tài sản của vợ chồng (Điều 29, 30, 31
Luật HNGĐ 2014)
Nguyên tắc áp dụng chung về chế độ tài sản của vợ chồng là những tư tưởng,
quan điểm, cách thức mang tính định hướng, làm kim chỉ nam cho các hoạt động,
giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng trên cơ sở bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của vợ, chồng, các thành viên trong gia đình và của người thứ ba ngay tình.
Theo đó, Luật HNGĐ 2014 đã quy định các nguyên tắc chung áp dụng cho cả hai
chế độ tài sản theo thuận về chế độ tài sản theo quy định của pháp luật. Cụ thể:
Thứ nhất, trong quan hệ với vợ chồng. Vợ chồng bình đẳng với nhau về
quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;

không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập; Vợ chồng có
nghĩa vụ bảo đảm điều kiện để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình; Việc thực
4


hiện quyền, nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng mà xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp
pháp của vợ, chồng, của gia đình và của người khác thì phải bồi thường  Quy định
này một mặt khẳng định quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong xây dựng, phát triển
và quản lý tài sản chung, nhằm đảm bảo cơ sở vật chất cho sự tồn tại và phát triển
của các thành viên trong gia đình, mặt khác còn đề cập trách nhiệm bồi thường của
vợ, chồng khi có hành vi xâm phạm đến lợi ích của mỗi bên vợ, chồng, của các
thành viên gia đình và của người khác, tránh chối bỏ, đùn đậy trách nhiệm cũng như
khẳng định việc định đoạt tài sản chung mặc dù có thể do một bên tự thực hiện
nhưng phải dựa trên lợi ích của người vợ/chồng cũng như các thành viên khác trong
gia đình.
Thứ hai, đối với việc đảm bảo lợi ích của các thành viên trong gia đình, đảm
bảo cho gia đình tồn tại bền vững và thực hiện tốt các chức năng xã hội. Vợ chồng
vừa quyền nhưng có nghĩa vụ thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu
của gia đình. Trong trường hợp vợ chồng không có tài sản chung hoặc tài sản chung
không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vợ, chồng có nghĩa vụ đóng
góp tài sản riêng theo khả năng kinh tế của mỗi bên. Trường hợp nhà ở thuộc sở hữu
riêng của vợ hoặc chồng thì chủ sở hữu vẫn có quyền xác lập, thực hiện, chấm dứt
giao dịch liên quan đến tài sản đó nhưng phải đảm bảo chỗ ở cho vợ/chồng.
Thứ ba, đối với việc bảo vệ quyền, lợi ích của người thứ ba ngay tình. Vợ
hoặc chồng là người đứng tên tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán được coi
là người đại diện có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó 
Qua đó, khi một bên giao dịch, một bên còn lại là vợ/chồng khi biết việc này thì
không đồng ý thì giao dịch dân sự giữa người vợ/chồng với người thứ ba cũng
không bị vô hiệu. Hoặc trường hợp vợ, chồng đang chiếm hữu động sản mà theo
quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu cũng có quyền xác lập,

thực hiện giao dịch với người thứ ba ngay tình trừ trường hợp người thứ ba đã biết
hoặc phải biết thông tin về chế độ tài sản hoặc thỏa thuận có liên quan đến việc
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của vợ, chồng mà vẫn xác lập giao dịch trái
với các thông tin, thỏa thuận đó.
5


II. HAI LOẠI CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
Nhà làm luật ở mỗi quốc gia đều lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng phù hợp với
điều kiện kinh tế xã hội, tập quán, truyền thống và nguyện vọng của các cặp vợ chồng.
Dựa trên lợi ích của các cặp vợ chồng và thực tiễn áp dụng, trải qua các thời kỳ thay đổi
và phát triển, pháp luật hôn nhân gia đình Việt Nam đã quy định có hai chế độ tài sản của
vợ chồng đó là chế độ tài sản theo quy định của pháp luật (chế độ tài sản pháp định) và
chế độ tài sản theo sự thỏa thuận của vợ chồng (chế độ tài sản ước định).

Theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014: “Vợ
chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản
theo thỏa thuận.”
1. Chế độ tài sản theo thỏa thuận (Điều 47,48,49,50 Luật HNGĐ 2014)
Hôn nhân là sự liên kết đặc biệt giữa một người nam và người nữ dựa trên cơ
sở tình yêu thương, quý trọng, bình đẳng và tự nguyện giữa vợ và chồng. Khi sống
chung, các quan hệ về nhân thân, tài sản cũng đương nhiên thay đổi. Sự thay đổi đó
được thực hiện như thế nào, trước tiên sẽ phải căn cứ vào ý chí của người đó. Thỏa
thuận được thiết lập khi người vợ/ chồng còn lại cũng chấp thuận và họ sẽ chung
sống dựa trên những chế độ đã được hình thành theo đúng ý chí của họ. Pháp luật
chỉ can thiệp khi những thỏa thuận đó vi phạm một số quy tắc nhất định mà nhà
nước điều chỉnh hoặc khi giữa hai vợ chồng không có thỏa thuận về chế độ tài sản.
*

Hình thức: Có nhiều hình thức để thể hiện sự thỏa thuận, riêng với thỏa thuận


về chế độ tài sản của vợ chồng, Điều 47 Luật HNGĐ 2014 quy định toàn bộ nội
dung thỏa thuận đều phải được thể hiện trong văn bản có công chứng hoặc chứng
thực. Việc công chứng có thể được tiến hành tại văn phòng công chứng, phòng công
chứng hoặc chứng thực tại UBND cấp có thẩm quyền.
*

Nội dung: Văn bản thỏa thuận của các bên chỉ bao gồm các nội dung liên quan

đến tài sản mà không liên quan đến quan hệ nhân thân của vợ chồng. Điều 48 quy
định một số nội dung cơ bản cần phải có như cần ghi rõ tài sản nào là tài sản chung,
6


tài sản riêng; quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và
giao dịch có liên quan, tài sản để đảm bảo nhu cầu thiết yếu của gia đình; điều kiện,
thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản. Ngoài các nội
dung cơ bản trên, vợ chồng có thể thỏa thuận những vấn đề về tài sản khác.
Nội dung của văn bản thỏa thuận sẽ do 2 vợ chồng tự chủ động lựa chọn và
quyết định, tuy nhiên tại nghị định 126/2014/NĐ-CP, Điều 15 cũng đưa ra một số
phương án để vợ chồng có thể cân nhắc áp dụng khi thỏa thuận về xác định tài sản
như tài sản giữa vợ và chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng;
tất cả tài sản do vợ, chồng có được trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân
đều thuộc tài sản chung hoặc tất cả tài sản do vợ, chồng có được trước khi kết hôn
và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc sở hữu riêng của người có được tài sản đó;…
*

Thời điểm phát sinh hiệu lực: Khi đã lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận

thì người vợ, chồng phải phải lập văn bản thỏa thuận trước khi kết hôn và chỉ có

hiệu lực kể từ thời điểm các bên đăng ký kết hôn.
Sau khi kết hôn nếu như hai vợ chồng mới có mong muốn thỏa thuận về tài
sản thì lúc này cũng không thể chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận nữa mà sẽ tiến
hành theo thủ tục về thỏa thuận chia, nhập tài sản theo quy định của pháp luật.
*

Giải thích văn bản thỏa thuận chế độ tài sản: do văn bản thỏa thuận về tài

sản được lập trước khi kết hôn nên sau khi kết hôn có thể phát sinh những vấn đề
liên quan đến tài sản mà chưa được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ
ràng. Lúc này để áp dụng văn bản thỏa thuận một cách linh hoạt, chúng ta có thể
dựa vàò các nguyên tắc chung của chế độ tài sản và áp dụng các quy định tương
ứng của chế độ tài sản theo luật định đối với những tài sản đó.
Ví dụ: anh A, chị B trước khi kết hôn có làm một văn bản thỏa thuận về chế độ tài
sản, trong thu nhập do lao động của cả hai sẽ là tài sản chung. Sau khi kết hôn khoảng 2
tháng, chị B nghỉ việc, ở nhà làm nội trợ cho gia đình. Một thời gian sau, nhận thấy chị B
không kiếm thêm thu nhập, anh A không cho chị B dùng tiền của anh A kiếm được, toàn
bộ là do anh quyết định chi tiêu. Trong văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của hai vợ
chồng trước đó cũng không đề cập đến trường hộ chị B làm nội trợ, tuy nhiên chị B có thể
7


bảo vệ quyền lợi của mình thông qua nguyên tắc tại khoản 1 Điều 29 Luật HNGĐ 2014 “
Vợ chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc.. định đoạt…. tài sản chung
mà không phân biệt lao động có thu nhập và lao động trong gia đình”

*

Sửa đổi, bổ sung nội dung của văn bản thỏa thuận chế độ tài sản: dù đã


được lập trước khi kết hôn có công chứng, chứng thực nhưng sau khi kết hôn nếu
như nhận thấy nội dung thỏa thuận không còn phù hợp nữa, muốn chia tài sản
chung hoặc nhập tài sản riêng hoặc muốn thay đổi quyền, nghĩa vụ của các bên,.. thì
vợ chồng có thể sửa đổi, bổ sung nội dung của văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản.
Việc sửa đổi, bổ sung cũng phải được lập bằng văn bản có công chứng, chứng thực.
Vợ chồng có thể thỏa thuận sửa đổi, bổ sung một phần hoặc toàn bộ nội dung văn
bản thỏa thuận hoặc một cách thỏa thuận khác là đi theo chế độ tài sản theo quy
định pháp luật.
*

Trường hợp thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu: Thỏa

thuận về chế độ tài sản bị vô hiệu tức là thỏa thuận không có hiệu lực kể từ thời
điểm xác lập. Bên cạnh tôn trọng quyền tự định đoạt đối với tài sản của các bên
pháp luật còn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người vợ, chồng, thành viên
trong gia đình và người thứ ba ngay tình. Do vậy trong trường hợp vợ chồng lựa
chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận nhưng sự thỏa thuận lại xâm phạm đến các lợi
ích được pháp luật bảo vệ thì theo yêu cầu của những người có quyền và lợi ích liên
quan, Tòa án là cơ quan có thẩm quyền sẽ tuyên bố chế độ tài sản theo thỏa thuận bị
vô hiệu trong trường hợp:
-

Không tuân thủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Bộ luật

dân sự và các luật khác có liên quan như văn bản được lập thành do người chồng
cưỡng ép, nói dối người vợ; người vợ chưa đủ 18 tuổi,..;
- Vi phạm một trong các nguyên tắc áp dụng về chế độ tài sản của vợ chồng;
-

Nội dung của thỏa thuận vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng,


quyền được thừa kế và qu;yền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và thành
viên khác của gia đình. Ví dụ: Ông A đang có nghĩa vụ cấp dưỡng cho anh B. Sau
8


đó ông A kết hôn với bà C và thỏa thuận chuyển giao toàn bộ tài sản của mình cho
bà C, do đó, không còn tài sản để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho anh B. Trong
trường hợp này thỏa thuận về tài sản giữa ông A và bà C bị vô hiệu.
Đồng thời, sau khi thỏa thuận bị vô hiệu, khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch
01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP cũng hướng dẫn thêm cách ứng xử cho
hai vợ chồng, theo đó:
“ a) Trường hợp thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị Tòa án tuyên bố
vô hiệu toàn bộ thì chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định được áp dụng.
b) Trường hợp thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị tuyên bố vô hiệu
một phần thì các nội dung không bị vô hiệu vẫn được áp dụng; đối với phần nội
dung bị vô hiệu thì các quy định tương ứng về chế độ tài sản của vợ chồng theo luật
định được áp dụng”
2. Chế độ tài sản theo quy định của pháp luật (Điều 33-> 46 Luật HNGĐ 2014)
Trường hợp vợ chồng không lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận hoặc có
lựa chọn nhưng thỏa thuận của họ bị vô hiệu thì chế độ tài sản của họ được thực
hiện theo quy định của pháp luật. Với chế độ tài sản này, pháp luật đã dự liệu từ
trước về căn cứ, nguồn gốc, thành phần các loại tài sản chung và tài sản riêng của
vợ, chồng; quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với từng loại tài sản đó; các trường
hợp và nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng cũng như phương thức thanh
toán liên quan tới các khoản nợ chung hay nợ riêng của vợ, chồng.
* Tài sản chung hợp nhất:
 Xác định tài sản chung hợp nhất. Gồm: tài sản do vợ, chồng tạo ra; thu nhập
do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản
riêng và thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên trong thời kỳ hôn nhân trừ trường hợp

vợ chồng có thỏa thuận chia một số tài sản nhất định trong thời kỳ hôn nhân; tài sản
mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ
chồng thỏa thuận là tài sản chung. Trong đó, Điều 9 Nghị định 126/NĐ-CP chỉ rõ
9


thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể là khoản tiền
thưởng, tiền trúng thưởng xổ số..; Tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu
đối với vật vô chủ, vật bị chôn giấu,… trừ một số trường hợp theo quy định của
luật.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của
vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng
hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
Tài sản chung của vợ chồng là bất động sản hoặc là tài sản mà pháp luật quy
định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong Giấy chứng nhận quyền sử dung, quyên
sở hữu phải ghi tên của cả vợ và chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận
khác.
 Quyền và nghĩa vụ đối với tài sản chung: Vợ chồng bình đăng với nhau trong
việc xây dựng, phát triển khối tài sản chung và bình đẳng trong việc chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt tài sản chung.
+ Quyền chiếm hữu: vợ chồng cùng nhau hoặc ủy quyền cho nhau quản lý, nắm
giữ khối tài sản chung hoặc cũng có thể ủy quyền cho người khác khi không thể
chiếm hữu tài sản.
+

Quyền sử dụng: trên nguyên tắc bình đẳng, việc sử dụng tài sản chung để đầu

tư, kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận trừ trường hợp vợ hoặc
chồng ủy quyền cho người còn lại trong việc sử dụng tài sản chung. Hoa lợi, lợi túc
thu được từ việc khai thác công dụng của tài sản là tài sản chung của vợ chồng.

+

Quyền định đoạt: Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên

quan đến tài sản chung của vợ chồng là bất động sản, động sản phải đăng ký quyền
sở hữu hoặc tài sản đang là nguồn tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình thì
phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng được công chứng, chứng thực trừ
trường hợp vợ/chồng ủy quyền cho người còn lại. Đối với giao dịch nhằm phục vụ
nhu cầu sinh hoạt thiết yếu hàng ngày của gia đình thì vợ chồng phải chịu trách
nhiệm liên đới.
10


Ngoài ra khoản 2 Điều 13 Nghị định 126/NĐ-CP cũng quy định: “Trường hợp
vợ hoặc chồng định đoạt tài sản chung vi phạm quy định tại Khoản 2 Điều 35 của
Luật Hôn nhân và gia đình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch
vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch vô hiệu.”
 Như vậy, dựa trên tính chất cộng đồng của quan hệ hôn nhân, Luật HNGĐ 2014
quy định tài sản chung của vợ chồng nhằm đảm bảo nhu cầu của gia đình, thực hiện
nghĩa vụ của vợ chồng, là căn cứ pháp lý để xác định tài sản chung khi có tranh
chấp.
 Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng: vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện các
giao dịch, công việc nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình; liên đới thực
hiện nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, bồi
thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách
nhiệm; nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung, sử
dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu
nhập chủ yếu của gia đình.



Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân: là một chế định quan trọng, được

quy định trong 5 điều tại Luật HNGĐ 2014: Điều 38, 39, 40, 41, 42 về phương thức
chia tài sản, thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung, hậu quả và một số
trường hợp việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu. Một cách khái
quát nhất, vợ chồng có thể thỏa thuận chia một phần hay toàn bộ tài sản, nếu không
thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Trường hợp vợ chồng thỏa thuận
chia tài sản chung thì phải lập thành văn bản được công chứng theo yêu cầu của một
bên hoặc pháp luật quy định. Văn bản thỏa thuận có hiệu lực từ thời điểm do vợ
chồng thỏa thuận hoặc thời điểm lập văn bản nếu không có thỏa thuận hoặc từ thời
điểm văn bản tuân thủ hình thức theo quy định của pháp luật, trường hợp tòa án
chia tài sản chung thì kể từ ngày có bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực pháp
luật. Về hậu quả của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân: nếu vợ chồng
không có thỏa thuận thì phần tài sản được chia; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản
riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng. Trường
11


hợp sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, nếu cảm thấy không muốn
chia tài sản chung nữa thì vợ chồng vẫn có quyền thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của
việc chia tài sản chung trước đó.
Ngoài ra, Điều 42 cũng quy định trường hợp thỏa thuận chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu như: thỏa thuận làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến
lợi ích của gia đình hoặc nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp
dưỡng; bồi thường thiệt hại;…trên tinh thần đảm bảo nguyên tắc chung của chế độ
tài sản theo thỏa thuận.
* Tài sản riêng của vợ chồng:
 Xác định tài sản riêng. Gồm: tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; Tài
sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng; tài sản được thừa kế riêng, được
tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng trong

thời kỳ hôn nhân; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và một số tài sản
khác như quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu trí tuệ; tài sản được xác lập quyền
sở hữu riêng theo bản án, quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác;
Khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng được nhận theo quy định của pháp luật.(Điều
11 nghị định 126/NĐ-CP).
 Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản riêng:
+ Quyền chiếm hữu: mỗi người tự quản lý tài sản riêng của mình, trừ trường hợp
người vợ/chồng không tự quản lý cũng không ủy quyền cho người khác quản lý
được.
+

Quyền sử dụng: Vợ chồng có quyền sử dụng tài sản riêng của mình. Trong

trường hợp tài sản chung của vợ chồng không đủ để đảm bảo đời sống chung của
gia đình thì người có tài sản riêng phải có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng của mình
và không được quyền đòi lại.
+ Quyền định đoạt: Mỗi người có quyền định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng của
mình, tuy nhiên, trong hôn nhân, quyền định đoạt tài sản riêng của vợ/chồng đôi khi
bị hạn chế trong trường hợp hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng là nguồn sống
12


duy nhất của gia đình thì khi muốn định đoạt tài sản đó cần phải có sự thỏa thuận
của cả vợ và chồng.
 Nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng: Nghĩa vụ riêng được thanh toán
bằng tài sản riêng. Một số nghĩa vụ mà vợ/chồng phải tự mình chịu trách nhiệm như
nghĩa vụ có trước khi kết hôn, phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện
không vì nhu cầu gia đình,..
 Nhập tài sản riêng vào tài sản chung: Việc nhập, cách thức nhập tài sản riêng
do vợ chồng thỏa thuận.Việc nhập tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất hoặc những

tài sản có giá trị lớn thuộc sở hữu riêng của một bên vào tài sản chung phải được lập
thành văn bản được công chứng/ chứng thực, có chữ kí của cả hai bên. Nếu người
có tài sản riêng nhập tài sản của mình vào tài sản chung nhằm trốn tránh thực hiện
nghĩa vụ về tài sản vì thỏa thuận đó bị vô hiệu.
3. Vai trò của việc phân định hai chế độ tài sản của vợ chồng
Như đã đề cập, hiện nay, pháp luật hôn nhân gia đình Việt Nam thừa nhận hai
chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ tài sản theo thỏa thuận và chế độ tài sản theo
quy định của pháp luật. Trong khi đó, trước đây, hệ thống pháp luật về HN&GĐ của
nước ta từ năm 1945 đến Luật HN&GĐ năm 2000 chưa hề quy định về loại chế độ
tài sản theo thỏa thuận này cho đến Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 trong
chương Chế độ tài sản của vợ chồng Điều 28 bắt đầu quy định: “Vợ chồng có quyền
lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thoả thuận”
Như vậy, có thể nói chế độ tài sản theo thỏa thuận là một điểm mới của Luật
hôn nhân gia đình 2014 và không chỉ ở Việt Nam, một số nước tiến bộ trên thế giới
như Nhật Bản, Thái Lan, Cộng hòa Pháp cũng quy định về chế độ này, theo đó Điều
1387 Bộ luật dân sự Cộng Hòa Pháp quy định: “Vợ chồng có quyền tự do lựa chọn chế
độ tài sản. Luật pháp chỉ điều chỉnh quan hệ vợ chồng về tài sản khi không có thỏa thuận
riêng, mà vợ chồng có thể làm khi thấy điều đó là cần thiết, miễn sao không trái với thuần
phong mỹ tục và những quy định sau đây”.

13


Điều này tỏ ra là phù hợp thậm chí là cần thiết bởi lẽ tài sản chung của vợ
chồng chủ yếu được hình thành từ các loại tài sản thuộc sở hữu chính họ, do đó họ
có quyền định đoạt có sáp nhập tài sản của mình vào khối tài sản chung của gia đình
hay không, và ngược lại vẫn bảo lưu quyền sở hữu với một số loại tài sản nhất định.
Tài sản cũng như quyền sở hữu về tài sản là một vấn đề nhạy cảm, mà ở đó chỉ khi
cả hai bên có sự đồng thuận về quyền sở hữu thì những vấn đề liên quan xung
quanh mới có thể ổn định. Đồng thời chế định về chế độ tài sản theo thỏa thuận

cũng thể hiện ý chí của nhà nước và bản chất của chế độ xã hội là tôn trọng quyền
tự do ý chí của nhân dân. Cùng với đó, chế độ thỏa thuận về tài sản theo quy định
của pháp luật vẫn được tồn tại song song như một cách để thể hiện vai trò của nhà
nước trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nếu như vợ chồng không thỏa thuận
với nhau, phân vân không biết lựa chọn như thế nào hoặc thỏa thuận vô hiệu thì đã
có chế độ tài sản luật định như một khuôn mẫu với những quy định chặt chẽ, rõ
ràng, công bằng, hợp lý, văn minh bảo vệ lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, gia đình
và người thứ ba ngay tình. Mặt khác đây cũng được là một chế độ mà các cặp vợ
chồng có thể lựa chọn đi theo hay không mà pháp luật không bắt buộc phải áp dụng.
Tóm lại, Chế độ về tài sản của vợ chồng ra đời, ngày càng hoàn thiện hơn đã
giúp giải quyết vấn đề tài sản của vợ chồng khi về một nhà được hợp lý hơn, là một
cách hay để hai người có thể sống trách nhiệm hơn với cuộc sống hôn nhân của
mình. Việc chia thành hai loại chế độ tài sản của vợ chồng một lần nữa được khẳng
định là cần thiết để vừa tôn trọng sự tự do thỏa thuận của vợ chồng, vừa bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của các bên.
4. Quan điểm cá nhân về ưu, nhược điểm của mỗi chế độ tài sản của vợ chồng
Mỗi chế độ tài sản đều có ưu và nhược điểm khác nhau do vậy mỗi cặp vợ
chồng khi chuẩn bị kết hôn đều cần nắm vững và cân nhắc,lựa chọn chế độ phù
hợp:


Nếu lựa chọn chế độ tài sản theo luật định thì việc thiết lập chế độ này không

cần làm bất kì thủ tục nào, pháp luật đã dự liệu từ trước về căn cứ, nguồn gốc, thành
phần các loại tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng; quyền và nghĩa vụ của
14


vợ, chồng đối với từng loại tài sản đó; các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản
chung của vợ chồng; phương thức thanh toán liên quan tới các khoản nợ chung hay

nợ riêng của vợ, chồng trên cơ sở lợi ích các bên. Tuy nhiên, nhược điểm của chế
độ này là tài sản giữa vợ chồng không có sự phân định rõ ràng, pháp luật không can
thiệp hết vào những tình huống thực tế về hiện trạng tài sản của vợ, chồng nên khi
áp dụng dẫn đến không phù hợp, vợ chồng phải tiến hành thêm thủ tục chia, nhập
tài sản theo thỏa thuận.


Nếu lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì tài sản của vợ chồng sẽ

rạch ròi hơn, vợ chồng tự chủ trong vấn đề tài sản. Đảm bảo quyền tự định đoạt của
cá nhân đối với tài sản mình, miễn sao không xâm phạm lợi ích của người khác,
không trái với đạo đức xã hội. Hơn nữa, bản thân chính cặp vợ chồng là người có
thể lựa chọn một hình thức thực hiệnn hợp lý, có lợi nhất cho bản thân và gia đình.
Đồng thời, điều này còn cho phép vợ chồng có thể tự bảo toàn khối tài sản riêng của
mình, giảm hoặc tránh được những xung đột, tranh chấp về tài sản sau khi ly hôn,
góp phần giảm chi phí khi ly hôn và giúp Tòa án xác định được tài sản riêng, tài sản
chung nhanh chóng và dễ dàng hơn; Xét về góc độ kinh tế, chế độ tài sản theo thỏa
thuận cho phép vợ chồng tự quyết định quyền sở hữu trong gia đình, tạo ra khả
năng đôi bên có thể tự giác thực hiện các nghĩa vụ và quyền đã theo thỏa thuận,
giúp họ giảm thiểu các rủi ro trong kinh doanh, tránh được tình trạng gia đinh bấp
bênh khi cả hai vợ chồng cùng tham gia các hoạt động kinh doanh có rủi ro cao.
Tuy nhiên, chế độ tài sản theo thỏa thuận này lại đề cao lợi ích cá nhân, điều này
mâu thuẫn với bản chất của của gia đình là “ bổn phận trách nhiệm” trong môi
trường đề cao ý thức trách nhiệm, không cho phép lợi ích cá nhân. Tự do thỏa thuận
thường đề cao “cái tôi”, lợi ích riêng của cá nhân, hoặc đôi khi dễ dẫn đến lừa dối,
cưỡng ép sẽ không đảm bảo cho gia đình có cuộc sống ổn định và bền vững.
III. VẬN DỤNG GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG


Tình huống


Nguyên đơn: Ông Võ Thành L, sinh năm 1980
Bị đơn: Bà Lê Kim H, sinh năm 1982
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thị C, sinh năm 1966.
15


Nguyên đơn ông Võ Thành L trình bày: Ông và bà Lê Kim H đã được Tòa án
nhân dân huyện P ra Quyết định công nhận thuận tình ly hôn số 26/2014/QĐSTHNGĐ ngày 14/3/2014. Khi chờ Tòa án ra quyết định trên thì ông và bà H đã lập
văn bản tự thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng tại Văn phòng công
chứng P. Tại đơn khởi kiện, ông yêu cầu chia số nợ 1.080.000.000 đồng nợ bà C để
cả ông và bà H cùng trả.
Bị đơn bà Lê Kim H trình bày: Về quan hệ hôn nhân bà đồng ý lời trình bày
của ông L và về việc công chứng phân chia tài sản. Phần nợ bà Nguyễn Thị C, bà
không biết và không có nợ bà C như ông L trình bày. Nay ông L yêu cầu bà trả nợ
cho bà C thì bà không đồng ý vì bà không có nghĩa vụ phải trả nợ cho bà C.
Bà Nguyễn Thị C trình bày: Bà có cho ông Võ Thành L vay nhiều lần với số
tiền là 1.080.000.000 đồng, có làm biên nhận ngày 27/7/2005. Số tiền này chỉ một
mình ông L vay, bà H không biết, mục đích vay ông L nói là làm ăn, đến nay ông L
vẫn chưa trả cho bà.
Ngoài ra tài liệu hồ sơ vụ án còn thể hiện: tại văn bản thỏa thuận có thể hiện số
nợ là 1.080.000.000 đồng rõ số nợ này là nợ của ai; giấy biên nhận nợ ngày
27/7/2005.



Giải quyết: Tranh chấp giữa ông L và bà H có liên quan đến thực hiện nghĩa vụ

chung về tài sản theo quy định tại Điều 37 Luật hôn nhân gia đình 2014. Theo đó đã
xác định số nợ 1.080.000.000 đồng là nợ bà C tuy nhiên văn bản thỏa thuận không

ghi rõ ông L hay bà H hay cả hai cùng nợ khoản tiền này. Tuy nhiên căn cứ vào lời
khai của bà C và giấy biên nhận nợ 27/7/2005 giữa ông L và bà C, xác định: giao
dịch dân sự giữa ông L và bà C là giao dịch do ông L tự mình xác lập với lí do để
làm ăn, không xuất phát từ nhu cầu gia đình bởi bản thân bà H cũng không biết ông
L dùng số tiền này làm gì, đồng thời số nợ này bà C yêu cầu bà và ông L tự giải
quyết, không có yêu cầu gì trong vụ kiện này. Do đó, căn cứ vào khoản 3 Điều 45

16


Luật Hôn nhân gia đình 2014 thì việc trả nợ với bà C là nghĩa vụ riêng về tài sản
của ông L nên bà H không có nghĩa vụ liên đới trả nợ trong việc này.
IV. ĐIỂM MỚI, BẤT CẬP VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG & KIẾN
NGHỊ HOÀN THIỆN
1. Một số điểm mới nổi bật về chế độ tài sản của vợ chồng trong Luật HNGĐ
2014 so với Luật HNGĐ 2000
Thứ nhất, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 bổ sung quy định mới về các
nguyên tắc chung trong áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng, trong đó việc áp dụng
chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận là một điểm mới được quy định cụ thể
từ Điều 47 đến Điều 50 và Điều 59 bao gồm các vấn đề về văn bản thỏa thuận, hiệu
lực, nội dung văn bản, sửa đổi, bổ sung và các trường hợp thỏa thuận vô hiệu.


Sự thay đổi này đã thể hiện rõ tinh thần của các nhà làm luật khi thừa nhận

chế độ tài sản theo thỏa thuật trên cơ sở tôn trọng ý chí của các cặp vợ chồng, thể
hiện sự ghi nhận thực tiễn thông qua các nguyên tắc mang định tính hướng, mang
tính bao quát như xét đến trường hợp nhà ở là nơi duy nhất của vợ chồng, giao dịch
với những người thứ ba ngày tình… Đây là những quy định hoàn toàn “bứt phá” so
với những luật trước đây, giúp cho bản thân những người liên quan và các nhà làm

luật dễ áp dụng và bảo vệ quyền lợi cho mình.
Theo báo cáo tổng kết thực tiễn thi hành Luật hôn nhân gia đình năm 2000 trong
công tác xét xử các vụ việc hôn nhân và gia đình của ngành tòa án nhân dân số 01/ BC –
TANDTC ngày 15 tháng 01 năm 2013 thì: “ Số lượng và độ phức tạp của các vụ việc liên
quan đến tranh chấp tài sản vợ chồng ngày càng gia tăng”. Do đó với chế định mới về chế
độ thỏa thuận tài sản thì khi ly hôn nếu tranh chấp về tài sản của vợ chồng, thì văn bản
thỏa thuận chế độ tài sản sẽ là căn cứ giúp cơ quan tư pháp giải quyết thuận tiện và nhanh
chóng.

Thứ hai, đối với tài sản chung của vợ chồng. Trên cơ sở kế thừa và cụ thể hóa
các quy định tại Điều 27 Luật HNGĐ năm 2000, Luật HNGĐ 2014 quy định những
vấn đề về tài sản chung của vợ chồng những điểm mới nổi bật như sau:
+ Những hoa lợi, lợi tức phát sinh, thu được từ tài sản riêng của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân được xác định là tài sản chung của vợ chồng.
17


+ Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ chồng đang có
tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung…
 Luật HNGĐ 2014 tiếp tục chứng tỏ sự hoàn thiện của mình trong khi đã xét
đến những trường hợp mà Luật HNGĐ 2000 chưa đề cập đến. Không chỉ là những
chế định với cách nhìn nhận tổng quan nhất, việc quy định hoa lợi, lợi tức phát sinh
từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân hay tài sản đang có tranh chấp mà không
chứng minh được là tài sản riêng là tài sản chung thể hiện sự hợp lý trên cơ sở bảo
vệ quyền lợi của gia đình – mục đích của hôn nhân.
Thứ ba, Luật HNGĐ 2000 không quy định nghĩa vụ chung về tài sản của vợ
chồng, nhưng Luật HNGĐ 2014 đã quy định rất cụ thể về vấn đề này, như: nghĩa vụ
phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường
thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm…
 Rõ ràng không chỉ là quyền, nghĩa vụ với tài sản chung mà còn là nghĩa vụ

chung đối với tài sản, quy định mới tại Điều 37 đã giúp cho người vợ, chồng cùng
có ý thức trong việc thực hiện nghĩa vụ mà mình phải chịu trách nhiệm, tránh đùn
đẩy hay nhập tài sản riêng vào tài sản chung để trốn tránh nghĩa vụ, đồng thời là cơ
sở pháp lý để tòa án giải quyết khi có tranh chấp về thực hiện nghĩa vụ giữa vợ và
chồng.
Thứ tư, đối với tài sản riêng của vợ chồng: Luật HNGĐ năm 2014 kế thừa và
cụ thể hóa Điều 32, 33 Luật HNGĐ 2000, quy định cụ thể về xác lập tài sản riêng
của vợ chồng trong đó đề cập đến: loại tài sản khác mà theo quy định của pháp luật
thuộc sở hữu riêng của vợ chồng. Quy định này giúp diện tài sản riêng được mở
rộng hơn để linh hoạt áp dụng trên thực tế thay vì chỉ quy định theo hướng liệt kê
như luật cũ. Nghị định 126/NĐ-CP, theo đó cũng đã quy định cụ thể hơn một số tài
sản riêng có thể có của vợ chồng.
Ngoài ra, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 còn bổ sung nghĩa vụ riêng của
vợ chồng về tài sản như: nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực
hiện không vì nhu cầu của gia đình; do hành vi vi phạm pháp luật của vợ chồng,..;
thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân; về hậu quả của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân…
18




Trên cơ sở kế thừa các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000,

Luật Hôn nhân và gia đình 2014 đã sửa đổi, bổ sung một số quy định về chế độ tài
sản của vợ chồng, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện
nay và pháp luật của các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới, trong xu thế
hội nhập và phát triển trên cơ sở là những chế định toàn diện hơn, hợp lý hơn.
2. Bất cập trong chế định về chế độ tài sản của vợ chồng và kiến nghị hoàn
thiện

Thứ nhất, Điều 6 Thông tư 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP quy
đinh : “Trường hợp thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị Tòa án tuyên bố vô
hiệu toàn bộ thì chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định được áp dụng”. Đây là
chế định cho hậu quả của thỏa thuận về chế độ tài sản vô hiệu tại điều 50 Luật
HNGĐ 2014 tuy nhiên nhận thấy quy định này vẫn chưa thực sự phù hợp vì khi
thỏa thuận vô hiệu, cặp vợ chồng tương lai vẫn nên có thể được thỏa thuận về chế
độ tài sản một lần nữa nếu như họ vẫn muốn chọn việc xác định tài sản chung, riêng
theo quan điểm của mình đặc biệt là khi vô hiệu do cả hai bên chưa nắm rõ tinh thần
pháp luật, bị nhầm lẫn,…Do đó các nhà làm luật cần xem xét và quy định cụ thể
hơn về vấn đề này và thể hiện nó trong Luật HNGĐ như một chế định cần thiết và
quan trọng.
Thứ hai, Về hình thức tồn tại của chế độ tài sản thỏa thuận. Điều 47 Luật
HN&GĐ Việt Nam 2014 quy định: “ Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ
tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn …Chế độ tài
sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn .”. Tuy nhiên,

theo yêu cầu về thông tin trong Giấy chứng nhận kết hôn của Luật Hộ tịch 2014
không thấy quy định về việc phải ghi nhận có sự tồn tại của chế độ tài sản thỏa
thuận. Như vậy, quy định bắt buộc về thời điểm phải xác lập chế độ tài sản thỏa
thuận là trước khi kết hôn không có điều kiện để đảm bảo thực hiện trong bối cảnh
pháp lý này  Do đó cần có quy định bổ sung thêm vào trong thông tin cần có của
giấy chứng nhận kết hôn thông tin rằng “Vợ, chồng kết hôn trên cơ sở chế độ tài sản
thoả thuận” (nếu có). Điều này là thực sự cần thiết ở góc độ quản lý nhà nước cũng

19


như để bảo vệ người thứ ba trong tiếp cận thông tin có liên quan đến quan hệ tài sản
giữa vợ chồng.
Thứ ba, về việc sửa đổi, bổ sung nội dung thỏa thuận. Điều 49 Luật HNGĐ

2014 ghi nhận vợ chồng có quyền sửa đổi, bổ sung nội dung thỏa thuận đã xác lập
trước đó tuy nhiên khoảng thời gian giữa các lần sửa đổi là bao nhiêu, sửa đổi trong
trường hợp nào lại chưa quy định rõ trong khi điều này tỏ ra là cần thiết  Do đó
cần có quy định cụ thể hơn về thời gian giữa các lần sửa đổi, bổ sung để tránh việc
cẩu thả, sửa đổi tùy tiện cũng như bảo vệ quyền lợi của người thứ ba có liên quan,
tránh trường hợp vợ chồng nhập tài sản riêng vào tài sản chung để trốn tránh nghĩa
vụ với người thứ ba.
Thứ tư, về trách nhiệm liên đới giữa vợ và chồng khi một bên vợ hoặc chồng
tham gia giao dịch dân sự. Là một chế định mới được bổ sung do đó tại điều 37
Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng còn tồn tại một số hạn chế. Theo đó luật
cần có hướng dẫn quy định rõ những nhu cầu nào là nhu cầu thiết yếu của gia đình,
khi nào được xem là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình để làm cơ sở xác định
đúng trách nhiệm của vợ chồng đối với giao dịch dân sự với người thứ ba, tránh
trường hợp trốn tránh hoặc đùn đẩy trách nhiệm giữa vợ và chồng.
C. KẾT LUẬN
Vấn đề tài sản đóng vai trò ít nhất 30% vào sự ổn định và phát triển của “tế
bào” gia đình trong xã hội. Quan hệ gia đình có tốt đẹp hay không, pháp luật chỉ tác
động được vào tài sản, còn tình cảm thì không dựa nhiều vào luật được. Vì vậy, các
điều quy định về chế độ tài sản của vợ chồng, nhất là những quy định mới được bổ
sung trong Luật hôn nhân và gia đình 2014 là vô cùng cần thiết, nổi bật trong đó là
sự cho phép tồn tại chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận, đảm bảo quyền
định đoạt tài sản của mỗi người, theo đúng ý chí của bản thân, một phần vì thế mà
gia đình mới tồn tại và phát triển bền vững. Chế độ tài sản theo thỏa thuận một lần
nữa khẳng định sự phát triển trong quá trình lập pháp của pháp luật hôn nhân gia
đình ở Việt Nam, tiếp thu những tiến bộ trong chế định về chế độ tài sản của các
nước trên thế giới, thể hiện bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa của nhà nước ta.
20


MỤC LỤC

DANH MỤC THAM KHẢO
• Sách giáo trình
-

Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội,


-

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015;
Sách hướng dẫn
Hướng dẫn học tập-tìm hiểu Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Trường


-

Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Lao Động, Hà Nội, 2015;
Văn bản pháp luật
Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

21


-

Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP hướng dẫn thi
hành một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình;

- Nghị định 126/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân gia
đình 2014;



Link tham khảo trên Internet

/> />
22



×