Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Các Tổ Chức Tài Chính Phi Ngân Hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.27 KB, 24 trang )

GVHD: Trần Ái Kết

Chương 12; Các tổ chức tài chính phi ngân hàng.

Bài dịch môn Tài chính- Tiền tệ nhóm 22.
Chương 12: Các Tổ Chức Tài Chính Phi Ngân Hàng.
Lời dẫn.
Tuy các ngân hàng là một tổ chức tài chính mà chúng ta thường giao dịch nhất.
Bạn có thể mua bảo hiểm của một công ty bảo hiểm, vay một món trả dần của một công
ty tài chính hoặc mua một cổ phiếu. Trong mỗi giao dịch, bạn sẽ được tham gia vào các
lĩnh vực tài chính phi ngân hàng và see4 đối phó với các tổ chức phi ngân hàng. Trong
nền kinh tế của chúng ta, các tổ chức tài chính đóng một vai trì quan trọng trong việc
khơi các nguồn vốn từ những người cho vay, những người tiết kiệm sẽ chuyển đến cho
những người vay, người chi tiêu, giống như một ngân hàng. Hơn nữa, quá trình đổi mới
tài chính và được làm mờ sự phân biệt giữa các tổ chức tài chính khác nhau. Chương này
sẽ nghiên cứu một cách chi tiết, cụ thể về các tổ chức tài chính tham gia vào lĩnh vực
ngân hàng chủ yếu hoạt động như thế nào và họ diều hành ra sao.

Các công ty bảo hiểm
Hằng ngày chúng ta phải đối mặt với khả năng xảy ra nhưng tai họa nào đó,
chúng có thể đưa chúng ta bị tổn thất tài chính lớn. Tiền thu nhập của một vợ chồng có
thể mất đi do cái chết hoặc bệnh tật, một tai nạn xe hơi có thể dẫn đến hóa đơn sữa chửa
tốn kém hoặc chi phí cho người bi thương. Bởi vì tổn thất tài chính do những khủng
hoảng có thể là rất lớn so với nguồn tài chính của chúng ta, để bảo vệ bản thân mình bằng
cách mua bảo hiểm thì cần mua một hợp đồng bảo hiểm. Hợp đông sẽ thanh toán cho
chúng ta một khoản tiền nếu các tai nạn xảy ra. Các công ty bảo hiểm nhân thọ chuyên
môn về các hợp đồng bảo hiểm chu cấp thu nhập nếu cá nhân đó bị chết, bị mất năng lực
vì bệnh tật, hay về hưu. Các công ty bảo hiềm tai nạn và tài sản chuyên môn óa trong hợp
đồng bảo hiểm các tổn thất do hậu quả tai nạn, cháy hoặc trộm cắp.

Bảo hiểm nhân thọ


Các công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ở Mỹ( Presbyterian Minister’s Fund ở
Philadelphia) được thành lập vào năm 1759 và hiện vẫn còn tồn tại. Hiện có khoảng 1400
công ty bảo hiểm nhân thọ, chúng được tở chức dưới hai hình thức: một dạng là các công
ty cổ phần và một dạng là công ty bảo hiểm tương trợ. Các công ty cổ phần thuộc sở hữu
của các cổ đông, còn công ty tương trợ về kỹ thuật thuộc sở hữu của những người có hợp
đồng bảo hiểm. Mặc dù hơn 90% các công ty bảo hiểm nhân thọ được tổ chức theo dạng
như các công ty bảo hiểm tương trợ, nhưng thực sự ½ số tài sản có trong công nghiệp
này do các công ty bảo hiểm tương trợ sở hữu.
Các công ty bảo hiểm nhân thọ chưa từng trải qua thất bại như vỡ nợ lớn, lan rộng
như các ngân hàng thương mại, do đó chính phủ liên bang thấy không cần điều chỉnh
công nghiệp này mà thay vào đó việc điều hành này giao cho các tiểu bang có các công ty
này hoạt động. Nhà nước quy định điều hành này nhằm các phương thức thực hành việc


GVHD: Trần Ái Kết

Chương 12; Các tổ chức tài chính phi ngân hàng.

bán bảo hiểm, dự phòng đủ các tài sản có tính lỏng để bồi thường tổn thất và hạn chế đới
với số lượng tài sản có rủi ro( ví dụ như cổ phiếu) mà các công ty này có thể năm giữ
được. Cơ quan quản lý thông thường là một ủy viên bảo hiểm tiểu bang.
Bởi vì mức độ tử vong nói chung là có thể dự báo với mức độ chắn chắc cao, các
công ty bảo hiểm nhân thọ có thể dự báo chính xác số tiền tahnh toán cho những người
có mua bảo hiểm là bao nhiêu trong tương lai. Do đó, họ nắm giữ các tài sản dài hạn và
đặc biệt khi họ không hài lòng với các trái khoán công ty hay món cho vay thế chấp
thương mai cũng như môt số cổ phiếu công ty.
Có hai hình thức bảo hiểm nhân thọ chủ yếu: bảo hiểm nhân thọ thườn
xuyên( như bảo hiểm nhân thọ toàn vẹn, phổ thông và thay đổi) hoặc bảo hiểm nhân thọ
nhất thời( ví dụ như bảo hiểm theo kỳ hạn). Các họp đồng bảo hiểm nhân thọ dài hạn có
phí bảo hiểm không tahy đổi trong toàn bộ thời gian sống của hợp đồng bảo hiểm. Trong

những năm đầu của hợp đồng, tiền đóng cho bảo hiểm vượt quá số tiền cần để bảo hiểm
đề phòng cái chết bởi vì xác suất cái chết là thấp. Vì vậy,các hợp đồng này xây dựng môt
giá trị tiền mặt trong những năm đầu, nhưng trong những năm sau đó số tiền bị sụp giảm
vì phí bảo hiểm không đổi đó trở nên quá nhỏ hơn số tiền cần thiết để đề phòng cái chết,
xác suất cái chết bây giờ là cao hơn. Người được bảo hiểm có thể vay lại số tiền của hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ đó hoặc có thể khiếu nại hủy bỏ hợp đồng.
Bảo hiểm có kỳ hạn, ngược lại có một phí bảo hiểm được giữ lại cho tương xứng
hăng năm với số tiền cầm thiết cho bảo hiểm để đề phòng cái chết trong suốt thời gian có
kỳ hạn( chẳng hạn như một năm hay năm năm). Kết quả, các hợp đồng bảo hiểm có kỳ
hạn có phí bảo hiểm tăng theo thời gian khi xác suất chết tăng lên( phí bảo hiểm hoặc cấp
với suy giảm số lương trợ cấp tử vong). Các hợp đồng bảo hiểm có kỳ hạn hông có giá trị
bằng tiền mặt và do đó, trái ngược với các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ lâu dài., chí cung
cấp bảo hiểm không có khía cạnh tiết kiệm.
Đầu tư trở lại chủ yếu về bảo hiểm nhân thọ lâu dài trong những năm 1960 và
19700 đã dẫn đến làm chậm sự tăng trưởng của nhu cầu đối bảo hiểm nhân thọ. Kết quả
là một mất mát trong quá trình của nghành công nghiệp bảo hiểm nhân thọ so với các
trung gian tài chính khác, với những chia sẻ của tổng tài sản trung gian tài chính giảm từ
19,6% vào cuối năm 1960 lên 11,5% vào cuối năm 1980( xem bảng 1, mà trong những
chương trình phản ánh tương đối các tài sản tài chính trung gian cho mỗi trung gian tài
chính được thảo luận trong chương này).
Bắt đầu từ giữa những năm 1970, các công ty bảo hiểm nhân thọ đã bắt đầu tái cơ
cầu kinh doanh của mình để trở thành nhà quản lý tài sản cho quỹ hưu trí. Một yếu tố
quan trọng đằng sau tái cơ cấu này là 1974 luật khuyến khích các quỹ hưu trí để biến
quản lý trên quỹ trên cho các công ty bảo hiểm nhân thọ. Bây giờ hơn một nữa só tài sản
quản lý ở độ tuổi của các công ty bảo hiểm nhân thọ dành cho qỹ lương hưu và không
cho bảo hiểm nhân thọ. Các công ty bỏ hiểm cũng đã bắt đầu bán những chiếc xe đầu tư
cho nghỉ hưu như niên kim, sắp xếp theo đó khách hàng trả tiền phí bảo hiểm hằng năm
để đổi lấy một dòng tương lai của khoản thanh toàn hăng năm bắt đầu ở độ tuổi quy định
là 65 và tiếp tục cho đến khi chết. Kết quả của việc kinh doanh mới này đã được thi phần
của các công ty bảo hiểm nhân thọ là một tỷ lệ phần trăm của tổng tài sản trung gian tài

chính đã được tổ chức đều đặn từ năm 1980.

Bảo hiểm tài sản và tai nạn.


GVHD: Trần Ái Kết

Chương 12; Các tổ chức tài chính phi ngân hàng.

Số lượng các công ty bảo hiềm tài sản và tai nạn ở Mỹ lên tới trên 3000, trong đó
có hai công ty lớn nhất là State Farm insurance và Allstate Insurance. Các công ty bảo
hiểm tài sản và tai nạn được tổ chức nhu các công ty cổ phiếu và các công ty tương trợ và
được quy định bởi nhà nước. Mặc dù các công ty bất động sản và bảo hiểm tai nạn có
một sự gia tăng nhẹ trong những chia sẻ của tổng tài sản trung gian tài chính 19601990( xem bảng 1)

Bảng 1: Phần tương đối của tổng tài chính trung gian Assest, 1960-2002 (phần trăm)
Công ty bảo hiểm
Bảo hiểm nhân thọ
Tài sản và tai nạn
Quỹ hưu trí
Riêng
Cộng đồng( chính quyền
tiểu bang và địa phương)
Công ty tài chính
Quỹ hỗ trợ
Cổ phiếu và trái phiếu
Thị trường tiền tệ
Các tổ chức lưu ký chứng
khoán (ngân hàng)
Ngân hàng thương mại

S & L và các ngân hàng tiết
kiệm lẫn nhau
Công đoàn tín dụng
Tổng

1960

1970

1980

1990

2002

19.6
4.4

15.3
3.8

11.5
4.5

12.5
4.9

13.6
3.7


6.4
3.3

8.4
4.6

12.5
4.9

14.9
6.7

14.7
7.9

4.7

4.9

5.1

5.6

3.2

2.9
0.0

3.6
0.0


1.7
1.9

5.9
4.6

10.6
8.8

38.6
19.0

38.5
19.4

36.7
19.6

30.4
12.5

29.8
5.6

1.1
100.0

1.4
100.0


1.6
100.0

2.0
100.0

2.3
100.0

trong những năm gần đây, họ đã làm ăn không trôi chảy và hậu quả là giá bảo hiểm tăng
vọt.Với sự quan tâm cao trong nhưng năm 1970 và 1980 các công ty bảo hiểm đã có thu
nhập đầu tư cao mà cho phép họ giữ mức bảo hiểm thấp. Tuy nhiên, giữa những năm
1980, thu nhập đầu tu đã giảm với sự sụt giảm của lãi suất, trong khi tăng các vụ kiện có
liên quan đến bảo hiểm tài sản và tai nạn và sự phát triển nhanh chóng ồ ạt về giá trị bồi
thường trong các vụ kiện như vậy đã gây thiệt hại, tổn thất nặng nề cho các công ty.
Để có lợi nhuận, các công ty bảo hiểm đã tắng giá của họ một cách mạnh mẽ, đôi
khi tăng gấp đôi hoặc thậm chí gấp ba và còn từ chối cung cấp bồi thường. Họ cũng đã
vận động ráo riết, tích cực cho những giới hạn đối với các món tiền thanh toán bảo hiểm,
nhất là thanh toán cho sơ suất tế. Vì trong việc tìm kiếm lợi nhuận, các công ty bảo hiểm
cũng đang mở chi nhánh vào các lãnh thổ mà họ không được trao đặc quyền bằng cách
bảo hiểm tahnh toán lãi của những trái phiếu địa phương và công ty, cũng như các công
ty chứng khoán hỗ trợ cho việc vay thế chấp. Một lo ngại là các công ty bảo hiểm có thể
mang rủi ro cao để nâng cao lợi của họ lên. Mối quan tâm này thấy rõ là việc điều tiết bảo
hiểm đạ đề cuất quy định mới sẽ áp đặt yêu cầu về vốn, rủi ro về các công ty dựa trên rủi
ro tài sản và hoạt động của họ.


GVHD: Trần Ái Kết


Chương 12; Các tổ chức tài chính phi ngân hàng.

Các chính đầu tư của các công ty bị ảnh hưởng bởi hai sự kiện cơ bản là: thứ nhất
là họ phải chụi thuế thu nhập liên bang, phần lớn nhất trong tài sản của họ là những trái
khoán đại phương được miễn thuế. Thứ hai, do tổn thất tài sản là ít chắn chắc so với mức
tử vong trong một khối lớn dân chúng, các công ty này có khả năng dự đoán hõ sẽ thanh
toán cho bao nhiêu cho những người được bảo hiểm so với các công ty bảo hiểm nhân
thọ. Tự nhiên hoặc tảm họa tự nhiên như động đất ở Los Angeles vào năm 1994 và cơn
bão Floyd năm 1999 đã tàn phá các bộ phận của vùng biển Dông vào ngày 11 tháng 9
năm 2001 tàn phá trung tâm thương mại Thế Giới, tiếp xúc với các công ty bất đông sản
và bảo hiểm tai nạn cho tỷ đô la thua lỗ. Do đó, các công ty bất đông sản và bảo hiểm tai
nạn nắm giữ tài sản lỏn cao hơn các công ty bảo hiểm nhân thọ, trái phiếu và hệ thống
chứng khoán của chính phủ lớn hơn một nửa tài sản và hấu hết phần còn lại được tổ chức
vào trái phiếu doanh nghiệp và cổ phiếu công ty.
Công ty bảo hiểm tài sản và tai nạn sẽ đảm bảo chống lại, đề phòng các tổn thất
do hầu hết mọi bất trắc như cháy, mất trộm, so suất, động đất và tai nạn ô tô. Nếu một tổn
thất nào đó có thể được bảo hiểm là quá lớn đối với bất kỳ một hãng nào, thì thường vài
hãng sẽ cộng tác với nhau một hợp đồng bảo hiểm để chia sẻ rủi ro. Hoạt đông chia sẻ
phần gánh chụi rủi ro nổi tiếng nhất là của hãng Lloyd’s of Lodon, trong đó các công ty
bảo hiểm khác nhau có thể bảo hiếm một phần của hợp đồng bảo hiểm. Lloyd’s of
London đã tuyên bố rằng nó sẽ đảm bảo đề phòng bất kỳ một sự độ biến nào và với giá
nào đó.

Các mối đe dọa cạnh tranh từ ngành ngân hàng
Gần đây các ngân hàng đã rủi ro khả năng của họ để bán sản phẩm bảo hiểm nhân
thọ. Điều nay đã được thay đổi nhanh chóng, tuy nhiên hơn hai phần ba số bang cho phép
các ngân hàng bán bảo hiểm nah6n thọ ở dạng này hay dạng khác. Trong những năm gần
đây, các cơ quan quản lý ngân hàng, đặc biệt là các văn phòng của các kiểm soát tài của
tiền tệ (OCC), cũng khuyến khích các ngân hàng để nhập nghành vào lĩnh vực bảo hiểm
vì nhận được bảo hiểm làm thất bại ngân àng là ít khả năng. VÍ dụ trong năm 1990 OCC

phán quyết rằng bán niên kim là một hình thức đầu tư đó là ngẫu nhiên để kinh doanh
ngân hàng và do đó là một hoạt đông ngân hàng được phép. Kết quả là, các cổ phiếu ngân
hàng trên thị trường niên kim đã vượt qua 29%. Hiện nay, hơn 40% các ngân hàng bán
các sản phẩm bảo hiểm và con số này dự kiến sẽ tăng trong tương lai.
Các công ty bảo hiểm và đại lý của họ đã phản ứng với mối đe dõa này với cả hai
vụ kiện và vận đông hành động để ngăn chặn các ngân hàng đi vào kinh doanh bảo hiểm.
Những nổ lực của họ được thiết lập trở lại cao . Phán quyết thiên về ngân hàng. Đặc biệt
quan trọng là một phán quyết có lợi cho ngân hàng Barnett tháng ba năm 1996, trong đó
tổ chức mà pháp luật nhà nước để ngăn chặn để ngăn chặn các ngân hàng bán bảo hiểm
có thể được thay thế bởi những phán quyết lien bang từ ngân hàng điều chỉnh cho phép
các ngân hàng bán bảo hiểm. Quyết định cho các ngân hàng là một hướng đi mới để tiếp
tục hoạt động bảo hiểm và với việc thông qua Đạo luật Gramm Leach Bliley năm 1999,
các ngân hàng sẽ tiếp tục tham gia vào việc kinh doanh bảo hiểm do đó làm mờ sự khác
biệt giữa các công ty bảo hiểm và ngân hàng.

Quản lý bảo hiểm


GVHD: Trần Ái Kết

Chương 12; Các tổ chức tài chính phi ngân hàng.

Các công ty bảo hiểm, tương tự như các ngân hàng, thực hiện kinh doanh trung
gian tài chính chuyển một dạng từ tài sản này thành một dạng khác cho công chúng. Các
công ty bảo hiểm sử dụng phí bảo hiểm thu được nhờ bán các hợp đồng bảo hiểm để đầu
tư vào các tài sản có sẵn như trái phiếu, cổ phiếu, các món vay thế chấp hoặc các món
vay khác, rồi từ những tài sản này sẽ được dùng để thanh toán cho khiếu nại đòi bồi
thường theo các hợp đồng đã được bán. Nhưng theo thực tế thì các công ty bảo hiểm
chuyển các tài sản sẵn có như trái khoan, cổ phiếu và các món vay thành các hợp đồng
bảo hiểm, việc đó tạo ra nhiều dịch vụ(ví dụ như sắp xếp ổn thỏa các vụ khiếu nại đòi bồi

thường, các chương trình tiết kiệm, các đại lý bảo hiểm tin cậy). Nếu quá trình sản xuất
chuyển đổi tài sản của một công ty bảo hiểm cung cấp có hiệu quả cho khách hàng của
mình những dịch vụ bảo hiểm xứng đáng với giá hạ và nếu nó thu được lợi tức cao trong
các vụ đầu tư của mình thì nó sẽ tạo ra lợi nhuận, cón nếu không thì nó sẽ chịu lỗ.
Trong chương 9, các khái niệm kinh tế của lựa chọn bất lợi và rủi ro đạo đức cho
phép chúng ta hiểu được một vài nguyên tắc quản lý ngân hàng liên quan đến rủi ro tín
dụng, nhiều trong áp dụng cho các hoạt động cho vay của các công ty bảo hiểm. Ở đây
một lần nữa, chúng ta lại dùng các khái niệm chon lựa bất lợi và rủi ro đạo đức đó để giải
thích nhiều phương thức thực hành quản lý đặc trưng cho công nghiệp bảo hiểm nói trên.
Trong trường hợp một hợp đồng bảo hiểm, rủi ro đạo đức xảy ra khi có bảo hiểm
sẽ khuến khích bên được bảo hiểm chấp nhận rỉ ro làm tăng khả năng của một tiền chi trả
bảo hiểm. Ví dụ, một cá nhân có bảo hiểm mất trộm ban đêm, có thể họ không thực hiện
nhiều biện pháp đề phòng để ngăn ngừa mất trộm, bởi vì có công ty bảo hiểm đền bù cho
người đó phần lớn các tổn thất nếu người đó bị mất trộm. Lựa chọn bất lợi xảy ra khi
những người dễ nhận được nhất các tiền bảo hiểm lớn là những người muốn mua bảo
hiểm nhiều nhất. Ví dụ, một người đang bị chứng bệnh khó lòng mà qua khỏi sẽ muốn
mau một hợp đồng bảo hiểm y tế nhân thọ lớn nhất có thể, vì thế các công ty bảo hiểm
đứng trước những tồn thất lớn đang tìm ẩn. Cả hai lựa chọn bất lợi và rủi ro đạo đức đều
có thể đưa đến các tổn thất lớn cho công ty bảo hiểm vì chúng tạo ra những thanh toán
cao cho các khiếu nại đòi bảo hiểm. Do đó làm giảm lựa chọn bất lợi và rủi ro đạo đức để
giảm các khoản thanh toán này là mục tiêu quan trọng đối với các công ty bảo hiểm và
mục tiêu này giải thích một loạt các phương thíc thực hành bảo hiểm sau đây.

Sàng lọc
Giảm lựa chọn bất lợi, các công ty bảo hiểm cố gắng sàng lọc ra những người
mang bảo hiểm rủi ro tốt khỏi những người mang bảo hiểm rủi ro xấu. Do vậy các
phương thúc tập hợp thông tin có hiệu quả là một nguyên tắc quan trọng trong quản lý
bảo hiểm.
Khi bạn nộp đơn xin bảo hiểm ôto việc đầu tiên mà nhân viên bảo hiểm làm là hỏi
bạn sẽ bảo hiểm và ngay cả các vấn đề cá nhân( tuổi, tình trạng hôn nhân). Nếu bạn đang

áp dụng đối với bảo hiểm nhân thọ bạn sẽ vượt qua một rào cản tương tự, nhưng bạn
được hỏi những câu còn mang tính chất cá nah6n hơn về những thứ như sức khỏe của
bạn, thói quen hút thuốc, việc dùng thuốc, rược bia của bạn. Các công ty bảo hiểm nhân
thọ thậm chí còn khám nghiệm bạn bằng cách lấy máu và nước tiểu. Cũng giống như một
ngân hàng tính điểmm tín dụng để đánh giá một con người có thể vay tiền, công ty bảo
hiểm này sử dụng thông tin bạn cung cấp để quy bạn vào cấp rủi ro nào đó- một phép đo
thống kê về khả năng bạn co thể khiếu nại hoặc bồi thường. Dựa trên thông tin này, công


GVHD: Trần Ái Kết

Chương 12; Các tổ chức tài chính phi ngân hàng.

ty bảo hiểm đó có thể quyết định chấp nhận hoặc bác bỏ yêu cầu bảo hiểm của bạn, bởi vì
bạn đưa ra một bảo hiểm rủi ro quá lớn và như vậy là một trong những khách hàng không
đem lại lợi nhuận cho công ty bảo hiểm.

Phí bảo hiểm rủi ro
Đối với công ty bảo hiểm, việc thu phí bảo hiểm trên cơ sở mức độ rủi ro của một
người được bảo hiểm là một nguyên tắc hoạt đông đúng đắn. Lựa chon bất lợi giải thíc tại
sao nguyên tắc này quan trọng đến lợi nhuận đối với khả năng sinh ra lợi nhuận của công
ty bảo hiểm. Để hiểu tại sao một công ty bảo hiểm phải cần thiết có các phí bảo hiểm rủi
ro, chúng ta hãy xem xét một ví dụ về các phí bảo hiểm rủi ro mà ban đầu có vẻ không
công bằng. Harry và Sally, cả hai là 2 sinh viên đại học không có phiếu tai nạn hoặc
phiếu lái xe quá tốc độ, nộp đơn xin bảo hiểm ô tô. Thông thường Harry sẽ chụi phí bảo
hiểm cao hơn so với Sally. Các công ty bảo hiểm làm như vậy vì những người đàn ông
thường có mức tai nạn cao hơn, tính trung bình so với phụ nữ trẻ. Giả sử, một công ty
bảo hiểm không tính các phí bảo hiểm trên cơ sở số lượng trung bình rủi ro của nam giới
và nữ giới. Khi đó Sally sẽ tốn nhiều tiền và Harry tốn ít tiền. Sally có teh63 đến công ty
bảo hiểm khác và có một cái giá thấp hơn, khi đó Harry sẽ được kí hợp đồng bảo hiểm

của mình. Vì phí bảo hiểm của harry không đủ cao cho việc thanh toán cho các tai nạn
mà anh có thể có, tính trung bình công ty này sẽ tốn thất vì Harry. Chỉ với một phí bảo
hiểm dựa trên một phân loại rủi ro, Harry chịu phí tổn nhiều hơn và công ty bảo hiểm này
có thể có lợi nhuận.

Quy định hạn chế
Quy định hạn chế trong hợp đồng là một công cụ quản lý để giảm bớt rủi ro đạo
đức. Các điều khoản như vậy là những người giữ hợp đồng nản lòng không thực hiện
những hoạt đông rủi ro làm cho khiếu nại bồi thường bảo hiểm có thể xảy ra. Một điều
khoản hạn chế người giữ hợp đồng hưởng lợi vì hành vi cư xử khiến cho một vụ bồi
thường có thể xảy ra. Ví dụ, công ty bảo hiểm nhân thọ có những khoản trong các hợp
đồng của họ nhằm loại bỏ tiền trợ cấp chết nếu người được bảo hiểm tự tử trong vòng hai
năm đầu tiên mà hợp đồng này có hiệu lực. Các quy định, điều khoản hạn chế cũng có thể
đòi hỏi một thái độ cư xử nào đó về phía người được bảo hiểm để cho một khiếu nại đòi
bồi thường khó có thể xảy ra. Một ô tô cho thuê xe 3 bánh có thể yêu cầu cung cấp mũ
bảo hiểm an toàn cho người đi thuê để tránh nhiệm gắn với việc cho thuê. Vai trò của
những điều khoản hạn chế này không khác với vai trò của quy định về hạn chế các hợp
đồng vay nợ được mô tả trong chương 8: cả 2 đều dùng để giảm rủi ro đạo đức bằng cách
loại bỏ thái độ cư xử không mong muốn.

Phòng chống gian lận
Việc các công ty bảo hiểm phải đối mặt với rủi ro đạo đức vì một cá nhân bảo
hiểm có ý muốn là nói dối công ty và rối tìm cách khiếu nại đòi bồi thường dù khiếu nại
này không có căn cứ. Ví dụ, một người không tuân thủ theo các điều khoản hạn chế của
hợp đồng bảo hiểm có thể vẫn muốn tìm kiếm một khiếu nại. Thạm chí tệ hơn, một người
có teh63 đưa ra các khiếu nại không thể xảy ra. Vì vậy, một nguyên tắc quản lý quan


GVHD: Trần Ái Kết


Chương 12; Các tổ chức tài chính phi ngân hàng.

trọng cho các nhà cung cấp bảo hiểm được tiến hành điều tra để ngăn ngừa gain lận, chỉ
có bảo hiểm với khiếu nại với điều kiện hợp lý mới được bồi thường.
Hủy bỏ bảo hiểm: sẵn sàng hủy bỏ các hợp đồng là một công cụ quản lý bảo hiểm
khác. Các công ty bảo hiểm có thể kiềm chế và ngăn ngừa rủi ro đạo đức nếu họ đe dọa
đòi hủy bỏ hợp đồng khi người nào đó đang dược công ty bảo hiểm có những hoạt động
mà dễ để khiếu nại bồi thường. Nếu công ty bảo hiểm ô to của bạn thấy rằng lái xe nào bị
quá nhiều phiếu quá tốc độ thì họ sẽ hủy bỏ quyền bảo hộ đối với bạn, điều đó làm bạn
không còn ý muốn chạy quá tốc độ.

Các khoản khấu trừ
Khoản khấu trừ là một khoản tiền cố định được khấu bớt sự tổn thất của người
được bảo hiểm khi được thanh toán. Ví dụ một khoản khấu trừ 250$ đôla của một hợp
đồng bảo hiểm ôtô có nghĩa là khi bạn chịu một tổn thất 1000 đôla do một tai nạn, công
ty bảo hiểm sẽ phải chi cho bạn là 750 đôla. Các khấu trừ là một công cụ quản lí phụ cấp
giúp các nhà cung cấp bảo hiểm giảm rủi ro đạo đức. Với một khoản khấu trừ, bạn gặp
một mất mát cùng với các công ty bảo hiểm khi bạn khiếu nại bồi thường và được thực
hiện. Bởi vì bạn cũng không thể kháng cự, tổn thương khi bạn có một tai nạn, điều này
làm cho bạn có động cơ lái xe cẩn thận hơn. Như vậy, một khoản khấu trừ làm do đó làm
cho một người được bảo hiểm hành động phù hợp hơn với những gì là lợi nhuận cho
công ty mà người đó mua bảo hiểm, rủi ro đạo đức đã được giảm.Và bởi vì rủi ro đạo đức
đã được giảm,các nhà cung cấp bảo hiểm có thể giảm phí bảo hiểm nhiều hơn đủ để bù
cho sự tồn tại của các khoản khấu trừ trong hợp đồng bảo hiểm. Một chức năng khác của
khấu trừ là loại trừ các chi phí hành chính xử lí các vụ kiện như buộc người được bảo
hiểm phải chịu những tổn thất.

Bảo hiểm cộng đồng
Khi một hợp đồng bảo hiểm chia sẻ một tỷ lệ phần trăm của các thiệt hại cùng với
các công ty bảo hiểm, sắp xếp của họ gọi là bảo hiểm cộng đồng.Ví dụ một số kế hoạch

bảo hiểm y tế cung cấp bảo hiểm cho 80% các hóa đơn y tế và người ta sẽ được bảo hiểm
trả 20% sau khi số tiền khấu trừ nào đó đã được đáp ứng. Bảo hiểm tai nạn làm giảm
nguy cơ hại đạo đức hoàn toàn giống như cách thức mà một khoản khấu trừ tác động.
Trong một hợp đồng bảo hiểm, người được bảo hiểm gánh chụi tổn thất cùng với các
công ty bảo hiểm nên có ít động lực để hành động, chẳng hạn như việc đi chữa bệnh
không cần thiết , có liên quan đến khiếu nại yêu cầu bồi thường nhiều hơn. Do đó,bảo
hiểm cộng đồng là công cụ quản lí hữu ích cho các công ty bảo hiểm.

Giới hạn trên lượng bảo hiểm
Một nguyên tắc quan trọng của quản lí bảo hiểm là cần phải có giới hạn đối với
việc cung cấp bảo hiểm, mặc dù khách hàng sẵn sàng trả tiền thanh toán để có thêm tiền
bồi thường cao hơn. Tiền bồi thường bảo hiểm càng lớn thì thì người được bảo hiểm dễ
dàng tham gia vào các hoạt động có rủi ro. Ví dụ ,nếu xe của Zelda được bảo hiểm trả
hơn giá trị thật của nó, cô ấy có thể không cần phải có những biện pháp phòng ngừa thích
hợp để ngăn chặn hành vi trộm cắp của chính bản thân mình, chẳng hạn như làm cho


GVHD: Trần Ái Kết

Chương 12; Các tổ chức tài chính phi ngân hàng.

chắc chắn rằng các phím được tháo bỏ hoặc đặt trong một hệ thống báo động. Nếu nó đã
bị đánh cắp, cô ấy sẽ rất phấn khởi vì việc mình sẽ nhận được tiền bảo hiểm bồi thường
nhiều hơn giá trị của chiếc xe cũ và cô ấy sẽ mua được một chiếc xe mới tốt hơn. Ngược
lại, khi các khoản thanh toán bảo hiểm thấp hơn giá trị chiếc xe của cô ấy, cô ấy sẽ chịu
một mất mát nếu nó bị mất cắp và do đó sẽ có biện pháp phòng ngừa để ngăn chặn điều
này xảy ra.Các nhà bảo hiểm phải luôn luôn đảm bảo rằng bảo hiểm của họ là không quá
cao, rủi ro đạo đức dẫn đến thiệt hại lớn.

Tóm tắt:

Quản lý bảo hiểm có hiệu quả đòi hỏi phải có một số biện pháp thông lệ: tập hợp
thông tin và sàng lọc những người có xu thề mua bảo hiểm và các phiều nay dựa trên rủi
ro, quy định- hạn chế, ngăn ngừa gian lận, hủy bỏ bảo hiểm, điều khoản khấu trừ, bảo
hiểm và giới hạn trên lượng bảo hiểm.Tất cả các thực hành này làm giảm rủi ro đạo đức
và lựa chọn bất lợi bằng cách làm cho nó tiêu đề cho bảo hiểm để được hưởng lợi từ việc
tham gia vào các hoạt động làm tăng số lượng và khả năng yêu cầu. Với lợi ích nhỏ hơn
sẵn có, những rủi ro bảo hiểm nghèo (những người dễ bị tham gia hoạt động từ ngày đầu)
thấy lợi ích từ lợi ích từ bảo hiểm và do đó ít khả năng để tìm nó ra.

Quỹ hưu trí
Thực hiện chức năng tài chính trung gian của chuyển đổi tài sản, các quỹ hưu trí
cung cấp cho công chúng với một loại bảo vệ: thanh toán thu nhập về hưu. Sử dụng lao
động, công đoàn hoặc các cá nhân có thể thiết lập các kế hoạch hưu trí, trong đó có được
quỹ thông qua đóng góp trả của người tham gia chương trình. Như chúng ta thấy ở Bảng
số 1, kế hoạch hưu trí bao gồm cả công cộng và tư nhân đã trở nên quan trọng, với
những chia sẻ của tổng tài trung gian, tài chính tăng từ 10% vào cuối năm 1960 lên
22,6% vào cuối năm 2002. Chính sách thuế liên bang đã là một yếu tố chính đằng sau
đằng sau sự tăng trưởng nhanh chóng của các quỹ hưu trí và sử dụng lao động đóng góp
cho kế hoạch hưu trí là thuế khấu trừ. Hơn nữa chính sách thuế cũng đã khuyến khích sự
đóng góp của nhân viên cho các quỹ hưu trí bằng cách như làm cho họ về thuế khấu trừ
và tạo điều kiện cho các cá nhân tự làm chủ mở ra các kế hoạch hưu trí trú ẩn về thuế của
mình , kế hoạch Keogh và tài khoản hưu trí riêng.
Vì lợi ích mang lại của các quỹ hưu trí mỗi năm rất có thể tiên đoán được, các quỹ
hưu trí đầu tư chứng khoán dài hạn với lượng nắm giữ tài sản của họ vào trái phiếu, cổ
phiếu và các khoản thế chấp dài hạn. Các vấn đề quản lý chủ chốt cho các quỹ hưu trí
xoay quanh quản lý tài sản : quản lý quỹ lương hưu cố gắng nắm giữ tài sản với lợi
nhuận kỳ vọng cao và rủi ro thấp hơn thông qua đa dạng hóa. Họ cũng sử dụng kỹ thuật
mà chúng tôi thảo luận trong chương 9 để quản lý rủi ro về lãi suất tín dụng và rủi ro về
lãi suất. Chiến lược đầu tư của quỹ hưu bổng đã thay đổi triệt để qua thời gian. Sau
Chiến tranh thế giới thứ hai, hầu hết tài sản của quỹ hưu bổng được tổ chức trong công

trái, với ít hơn 1% giữ trong kho. Tuy nhiên, hiệu suất mạnh mẽ của cổ phiếu trong
lương hưu năm 1950 và 1960 dành kế hoạch lợi nhuận cao hơn khiến họ phải thay đổi
danh mục đầu tư của họ vào cổ phiếu hiện nay trên thứ tự của hai phần ba tài sản của họ.
Kết quả là kế hoạch hưu trí hiện nay có một sự hiện diện mạnh mẽ hơn trong thị trường
chứng khoán : trong năm 1950, họ đã tổ chức vào thứ tự 1% của cổ phiếu công ty, hiện


GVHD: Trần Ái Kết

Chương 12; Các tổ chức tài chính phi ngân hàng.

nay họ đã tổ chức vào thứ tự 25%. Quỹ hưu trí ngày nay được xem giống như là một tay
chơi nổi trội trên thị trường chứng khoán.
Mặc dù mục đích của tất cả kế hoạch hưu trí là giống nhau nhưng chúng có thể
khác nhau ở một số thuộc tính. Trước tiên là phương pháp theo đó chi trả được chia làm:
nếu lợi ích được quyết định bởi các khoản đóng góp vào kế hoạch và thu nhập của họ,
tiền trợ cấp là định rõ-đóng góp kế hoạch; nếu tiền trợ cấp thu nhập tương lai (lợi ích)
được xác lập trước, tiền trợ cấp là định rõ –lợi ích kế hoạch. Trong trường hợp của định
rõ – lợi ích kế hoạch, thuộc tính thêm có liên quan đến như thế nào kế hoạch được cấp
vốn. Một kế hoạch hưởng được tài trợ hoàn toàn nếu đóng góp vào kế hoạch và thu nhập
của họ trong những năm qua là đủ để chi trả các lợi ích xác định khi đến hạn. Nếu các
khoản đóng góp không đủ, kế hoạch được tài trợ thiếu.Ví dụ, nếu Jan Brown đóng góp
$100 cho mỗi năm trong kế hoạch lương hưu và mức lãi suất là 10%, sau 10 năm đóng
góp và thu nhập của họ sẽ có giá trị $1,753. Nếu lợi ích được xác định về kế hoạch lương
hưu trả cho cô ấy $1,753 hoặc ích hơn sau 10 năm, kế hoạch được tài trợ hoàn toàn bởi vì
những đóng góp và thu nhập của cô ấy sẽ trả tiền đầy đủ những thanh toán này. Nhưng
nếu lợi ích định rõ là $2,000 kế hoạch được tài trợ thiếu vì đóng góp và thu nhập của cô
ấy không bao gồm lượng này.
Một đặc tính thứ hai của kế hoạch lương hưu là trao quyền của họ, khoảng thời
gian mà một người phải được ghi danh vào các kế hoạch hưu trí (bởi là một thành viên

của một công đoàn hoặc nhân viên của một công ty) trước khi được cho phép để nhận
được lợi ích. Thường các công ty này yêu cầu một nhân viên làm việc 5 năm cho công ty
trước khi được trao và đủ điều kiện để nhận trợ cấp hưu trí, nếu nhân viên rời khỏi công
ty trước 5 năm do tự nghỉ hoặc bị sa thải thì tất cả các quyền lợi sẽ bị mất.

Các chương trình trợ cấp riêng
Kế hoạch hưu trí tư nhân được quản lí bởi một ngân hàng, một công ty bảo hiểm
nhân thọ hoặc một quản lí quỹ trợ cấp. Trong các chương trình trợ cấp do những người
thuê công nhân đỡ đầu, các khoản đóng góp được chai sẻ giữa người thuê và người co
thuê. Kế hoạch lương hưu của nhiều công ty đang thiếu tiền vì họ có kế hoạch đáp ứng
các nghĩa vụ lương hưu của họ ra khỏi thu nhập hiện tại khi những lợi ích đến hạn.Miễn
là các công ty có đủ thu nhập, quỹ tạo ra không có vấn đề nhưng nếu không họ có thể
không có khả năng đáp ứng các nghĩa vụ lương hưu của họ. Vì những vấn đề tiềm tàng
do quỹ của công ty, quản lí yếu kém, hành vi lừa đảo và lạm dụng của các quỹ hưu trí tư
nhân (chuyển tiền trợ cấp là không mong đợi trong lĩnh vực này),quốc hội đã ban hành
đạo luật vể bảo đảm thu nhập cho hưu trí cho những người làm công vào năm 1974
(ERISA). Hành động này thành lập các tiêu chuẩn tối thiểu đối với các báo cáo và công
bố thông tin, thiết lập quy tắc cho về điều kiện để thuộc vào chương trình và mức độ của
quỹ, đặt các hạn chế về thực hành đầu tư và gán trách nhiệm quản lí cho Bộ Lao Động.
ERISA cũng thành lập công ty Đảm BảoTrợ cấp (gọi là Penny Benny ) thực hiện
vai trò cũng giống với của FDIC. Nó đảm bảo quyền lợi trợ cấp đến một giới hạn 2250 đô
la (hiện có trên $40,000 mỗi người một năm ) nếu công ty với một chương trình trợ cấp
thuộc cấp vốn thiếu đi đến chỗ phá sản hoặc không có khả năng đáp ứng các nghĩa vụ trợ
cấp của mình vì lý do khác. Penny Benny kế hoạc hưu trí phần trội để trả tiền bảo hiểm
này và nó cũng mượn kinh phí tăng lên tới 100 triệu đô la Mỹ từ ngân khố của Mỹ. Thật


GVHD: Trần Ái Kết

Chương 12; Các tổ chức tài chính phi ngân hàng.


đáng tiếc vấn đề về kế hoạch hưu bổng đã và đang đi xuống theo chiều hướng tệ hơn
trong mấy năm gần đây.Vào năm 1993, thư ký của lao động chỉ ra rằng quỹ đã đạt đến
mức vượt quá $45 tỷ, với kế hoạch lương hưu của một công ty tư nhân, đó là công ty
General Motor mức tài trợ thiếu với số tiền lên tới 11.8 triệu đô la Mỹ.Kết quả là xu
thuốc kích thích đảm bảo tiền trợ cấp của một trong những mỗi ba công nhân có thể phải
thanh toán hóa đơn thiếu nếu công ty với số tiền trợ cấp phá sản.

Kế hoạch hưu bổng công cộng
Kế hoạch hưu bổng công cộng quan trọng nhất là an sinh xã hội (tuổi già và quỹ
bảo hiểm của người sống sót) trong đó bao gồm hầu như tất cả các cá nhân làm việc trong
khu vực tư nhân.Quỹ thu được từ lao động thông qua sự đóng góp bảo hiểm liên bang
trích trực tiếp (FICA) từ tiền lương của họ và từ sử dụng lao động thông qua thuế tiền
lương. An sinh lợi ích xã hội bao gồm tiền lương hưu, trợ cấp cho người già và trợ giúp
người khuyết tật.
Khi an sinh xã hội được thành lập từ năm 1935, chính phủ liên bang dành để hoạt
động ,nó giống như một quỹ hưu trí tư nhân.Tuy nhiên không giống như một kế hoạch
hưu trí tư nhân, lợi ích thường được trả từ các khoản đóng góp hiện tại không bị ràng
buộc chặt chẽ với những khoản đóng góp trong quá khứ của người tham gia.Điều này có
nghĩa là “trả tiền khi bạn đi ”hệ thống tại một thời điểm dẫn đến một quỹ ước tính hơn
1000 tỷ USD.
Các vấn đề của hệ thống an sinh xã hội có thể trở nên tồi tệ trong tương lai bởi vì
sự tăng trưởng về số người về hưu tương đương với dân số làm việc.Đại hội đã rất đau
đầu với những vấn đề của hệ thống an sinh xã hội trong nhiều năm của một phần lớn
người về hưu khi vấn đề về hưu trí chưa giải quyết xong thì có 77 tỷ em bé được sinh ra
giữa năm 1946 và 1964 gây bùng nổ dân số,tuy nhiên đến năm 2011 nó đã được kiểm
soát nhờ các cuộc đại cách mạng về an sinh xã hội của chính phủ(xem bảng 1).
Chính quyền tiểu bang và địa phương và chính phủ liên bang, như sử dụng lao
động tư nhân cũng đã lập kế hoạch hưu trí cho người lao động. Các kế hoạch này là gần
như giống hệt nhau trong hoạt động cho kế hoạch hưu trí tư nhân và giữ tài sản tương tự.

Quỹ của kế hoạch này cũng rất phổ biến và một số nhà đầu tư vào trái phiếu thành phố lo
ngại rằng nó có thể dẫn đến những khó khăn trong tương lai vào khả năng của chính
quyền tiểu bang và địa phương để đáp ứng các nghĩa vụ nợ của họ.


GVHD: Trần Ái Kết

Chương 12; Các tổ chức tài chính phi ngân hàng.

Bảng 1
Nếu an sinh xã hội được tư hữu hóa ?
Trong những năm gần đây, sự tự tin nào trong hệ thống an sinh xã hội đã đạt đến một
mức thấp mới. Một số cuộc khảo sát cho thấy rằng những trẻ có thêm tự tin vào sự tồn tại
của đĩa bay cao hơn là trong lời hứa của chính phủ trả tiền cho lợi ích an sinh xã hội của
họ. Nếu không có sự xem xét kỹ, hệ thống an sinh xã hội sẽ không thể đáp ứng các nghĩa
vụ trong tương lai. Chính phủ đã thành lập ủy ban cố vấn và đã tổ chức được phiên điều
trần để giải quyết vấn đề này.
Hiện nay tài sản của hệ thống an sinh xã hội mà nằm trong một quỹ ủy thác tất cả được
đầu tư vào đều thuộc Hoa Kỳ.Kho bạc chứng khoán.Vì cổ phiếu và trái phiếu doanh
nghiệp có lợi nhuận cao hơn trái phiếu kho bạc, nhiều đề xuất để cứu hệ thống an sinh xã
hội đề nghị đầu tư một phần của các quỹ tín thác vào chứng khoán của công ty và do đó
một phần tư nhân hóa hệ thống.
Gợi ý cho tư nhân hóa lấy ba hình thức cơ bản:
1.Đầu tư của chính phủ vào quỹ tài sản chứng khoán của công ty.Kế hoạch này có lợi thế
là có thể cải thiện tổng thể các quỹ ủy thác trong khi giảm thiểu chi phí giao dịch vì nó
khai thác các nền kinh tế trong quy mô của quỹ tín thác. Những nhà phê bình cảnh báo
rằng chính phủ sở hữu tài sản tư nhân có thể dẫn đến tăng sự can thiệp của chính phủ vào
khu vực tư nhân.
2.Chuyển dịch tài sản quỹ tín thác vào tài khoản cá nhân có thể được đầu tư vào tài
khoản cá nhân.Tùy chọn này có lợi thế là có thể tăng lợi nhuận trên đầu tư và không liên

quan đến chính phủ về quyền sở hữu tài sản riêng.Tuy nhiên các nhà phê bình cảnh báo
rằng có có thể có nguy cơ tiếp xúc với các cá nhân cao hơn và chi phí giao dịch trên tài
khoản cá nhân đó có thể là rất cao vì rất nhiều tài khoản có kích thước nhỏ.
3.Tài khoản cá nhân ngoài những quỹ đầu tư. Tùy chọn này có ưu điểm và nhược điểm
tương tự như tùy chọn 2 và có thể cung cấp thêm kinh phí cho cá nhân khi nghỉ hưu. Tuy
nhiên một số thuế sẽ tăng để cung cấp vốn cho tài khoản này.
Cho dù một số tư nhân hóa hệ thống an sinh xã hội xảy ra là một câu hỏi mở.Trong ngắn
hạn, cải cách an sinh xã hội có khả năng liên quan đến việc tăng thuế, giảm lợi nhuận
hoặc cả hai.Ví dụ độ tuổi bắt đầu được hưởng trợ cấp được dự kiến sẽ tăng từ 65 đến 67
và có thể được tăng lên đến 70.Nó cũng có khả năng là nắp trên tiền lương chịu thuế an
sinh xã hội sẽ được nâng cao hơn, do đó làm tăng thuế nộp vào hệ thống.

Công ty tài chính
Công ty tài chính có được nguồn vốn bằng cách phát hành thương phiếu hoặc cổ
phiếu và trái phiếu hoặc vay từ các ngân hàng, họ sử dụng số tiền thu được để cho vay
(thường cho một lượng nhỏ ) mà đặc biệt rất phù hợp với người tiêu dùng và nhu cầu
kinh doanh.Quá trình tài chính trung gian của các công ty tài chính có thể được mô tả
bằng cách nói rằng họ vay với số lượng lớn nhưng thường cho vay với số lượng nhỏ, một
quá trình hoàn toàn khác biệt so với các tổ chức ngân hàng khác mà thu nhập tiền gửi với
số lượng nhỏ rồi thường cho vay với số lượng lớn.


GVHD: Trần Ái Kết

Chương 12; Các tổ chức tài chính phi ngân hàng.

Một tính năng chủ chốt của công ty tài chính là mặc dù họ cho vay đối với nhiều
người trong cùng một khách hàng vay từ các ngân hàng, họ hầu như không được kiểm
soát so với các ngân hàng thương mại và các tổ chức tiết kiệm.
3 loại công ty tài chính:bán hàng, tiêu dùng, và kinh doanh:

1.Công ty tài chính bán hàng: được sở hữu bởi một bán lẻ hoặc một công ty sản
xuất nói riêng và cho vay đối với người tiêu dùng mua hàng từ công ty.Một ví dụ điển
hình dễ hiểu như công ty chấp nhận Roebuck tài trợ mua hàng tiêu dùng của tất cả các
hàng hóa dịch vụ tại các có cửa hàng của chính mình, và công ty động cơ nhận thanh
toán không điều kiện tài trợ tài chính mua xe ô tô GM nơi công ty mình đã bán động cơ
cho .Công ty tài chính bán hàng cạnh tranh trực tiếp với các ngân hàng cho vay tiêu
dùng và được sử dụng bởi người tiêu dùng vì các khoản vay thường có thể thu được
nhanh hơn và thuận tiện hơn tại các địa điểm mà một mục được mua.
2.Công ty tài chính tiêu dùng: cho vay đối với người tiêu dùng để mua các vật
phẩm đặc biệt như đồ nội thất hoặc đồ gia dụng,để cải thiện nhà hoặc để tái tài trợ các
khoản nợ nhỏ. Công ty tài chính tiêu dùng là các công ty riêng biệt (như công ty tài chính
hộ gia đình) hoặc được sở hữu bởi các ngân hàng (Citi group sở hữu công ty tài chính
trực tiếp có văn phòng hoạt động trên toàn quốc ). Thông thường công ty này cho những
người tiêu dùng không thể vay tín dụng vay và sẽ tính lãi suất cao hơn.
3. Công ty tài chính kinh doanh: cung cấp các hình thức chuyên ngành về tín
dụng cho các doanh nghiệp bằng cách làm cho các khoản vay và mua các tài khoản phải
thu (hóa đơn sở hữu đến hãng) theo giá chiết khấu, cung cấp tín dụng này được gọi là
“bao thanh toán”. Ví dụ một công ty thay đồ có thể có các món nợ ( các khoản phải thu)
là $100,000 thuộc sở hữu của các cửa hàng bán lẻ đã mua trang phục của mình. Bên cạnh
việc thanh toán, các công ty tài chính doanh nghiệp cũng chuyên về các thiết bị hàng đầu
(như xe lửa, máy bay phản lực bào, máy tính) mà họ mua và sau đó cho các doanh nghiệp
thuê một số lần ấn định trong năm.

Qũy tương hỗ
Quỹ tương hỗ là trung gian tài chính bởi các nguồn lực của nhiều nhà đầu tư nhỏ
bằng cách bán chúng dưới dạng cổ phiếu và sử dụng tiền thu được để mua chứng khoán.
Thông qua quá trình chuyển đổi tài sản của phát hành cổ phiếu có mệnh giá nhỏ và mua
với khối lượng lớn các chứng khoán, các quỹ tương hỗ có thể tận dụng lợi thế của sự
giảm giá đối với hoa hồng và mua bán đa dạng cổ phần (danh mục đầu tư ) của chứng
khoán. Quỹ tương hỗ cho phép các nhà đầu tư nhỏ để có được những lợi ích của chi phí

giao dịch thấp hơn trong việc mua chứng khoán và tận dụng lợi thế của việc giảm rủi ro
bằng cách đa dạng hóa danh mục đầu tư chứng khoán được tổ chức. Nhiều quỹ tương hỗ
đều do các ngân hàng hoặc các cố vấn đầu tư độc lập như độ tập trung hay tiền phong.
Quỹ tương hỗ đã thấy một sự gia tăng lớn trong thị phần của họ kể từ năm 1980
(xem bảng 1) chủ yếu do thị trường chứng khoán bùng nổ sau đó. Một nguồn quỹ tăng
trưởng chuyên về các công cụ nợ đầu tiên xuất hiện vào những năm 1970. Trước năm
1970, quỹ tương hỗ đầu tư chỉ trong cổ phiếu thường. Quỹ mua cổ phiếu phổ thông phổ
biến nhiều hơn nữa và đầu tư chỉ trong chứng khoán nước ngoài hoặc các ngành công


GVHD: Trần Ái Kết

Chương 12; Các tổ chức tài chính phi ngân hàng.

nghiệp chuyên ngành chẳng hạn như năng lượng, công nghệ cao. Quỹ mua các công cụ
nợ có thể phổ biến hơn nữa trong các công ty, chính phủ Mỹ , hoặc được miễn thuế trái
phiếu đô thị trong dài hạn hoặc chứng khoán ngắn hạn.
Các quỹ tương hỗ được chủ yếu do các hộ gia đình (khoảng 80% ) với phần còn
lại do các tổ chức tài chính khác và các doanh nghiệp tài chính.Quỹ tương hỗ có đã ngày
càng quan trọng trong tiết kiệm hộ gia đình. Vào năm 1980 chỉ có 6% số hộ gia đình đã
tổ chức cổ phiếu quỹ tương hỗ; con số này đã tăng lên khoảng 50% trong những năm gần
đây. Nhóm tuổi với sự tham gia lớn nhất trong quyền sở hữu quỹ tương hỗ bao gồm các
cá nhân từ 50 đến 70 tuổi, có ý nghĩa bởi vì họ là những người quan tâm nhất trong việc
tiết kiệm hưu trí. Thật thú vị thế hệ X ( 18- 30 tuổi ) là nhóm tuổi tích cực nhất thứ hai
trong quyền sở hữu quỹ tương hỗ cho thấy rằng họ có khả năng chịu đựng lớn hơn cho
đầu tư rủi ro hơn so với những người có phần lớn hơn . Thế hệ X cũng đang dẫn đầu
trong việc truy cập Internet cho các quỹ tương hỗ (xem bảng 2 ).
Tầm quan trọng ngày càng tăng của các nhà đầu tư vào quỹ tương hỗ và quỹ hưu
trí vì vậy được gọi là các nhà đầu tư tổ chức đã dẫn đến việc kiểm soát của họ trên 50%
số cổ phiếu lưu hành tại Mỹ. Do đó các nhà đầu tư giống như là các cầu thủ chiếm ưu thế

trong thị trường cổ phiếu với hơn 70% tổng khối lượng hàng ngày trên thị trường chứng
khoán do kinh doanh của họ. Tăng quyền sở hữu cổ phiếu nghĩa là các nhà đầu tư có ảnh
hưởng nhiều hơn trong việc quản lý công ty, thường buộc thay đổi lãnh đạo, chính sách
công ty.
Quỹ tương hỗ được tổ chức theo hai hướng. Cấu trúc phổ biến hơn là một quỹ
mở, từ đó cổ phiếu có thể được mua lại bất cứ lúc nào ở một mức giá cố định.
Bảng 2 E-tài chính
Quỹ tương hỗ và mạng Internet
Viện công ty đầu tư ước tính rằng đến năm 2000 có 68% hộ gia đình sở hữu các quỹ
tương hỗ sử dụng Internet và gần một nửa trong số những cổ đông trực tiếp truy cập trang
web quỹ liên quan.Internet làm tăng sự hấp dẫn của các quỹ tương hỗ vì nó cho phép các
cổ đông xem xét thông tin và chia sẻ giá trị hiệu suất và thông tin tài khoản cá nhân.
Của tất cả các hộ gia đình thuộc Mỹ mà tiến hành các quỹ giao dịch tương hỗ giữa
tháng 4 năm 1999 và tháng 3 năm 2000 có 18% mua hoặc bán cổ phiếu quỹ trực tuyến.Số
trung bình của các quỹ giao dịch được tiến hành trong thời gian 4 buổi/12 tháng trong khi
con số trung bình là 8 buổi chỉ ra rằng một khối lượng lớn các giao dịch trực tuyến đã
được thực hiện bởi một số lượng nhỏ các cổ đông.
Cổ đông trực tuyến thường là trẻ hơn, có thu nhập hộ gia đình cao hơn và được giáo
dục tốt hơn so với những người không sử dụng Internet. Các cổ đông trực tuyến trung
bình là 42 tuổi đã có thu nhập hộ gia đình là $100,900 và đã từng học đại học. Các cổ
đông trung bình không sử dụng Internet là 51 tuổi, đã có thu nhập lá $41,000 và không có
bằng đại học.
Việc sử dụng mạng Internet để theo dõi và buôn bán quỹ tương hỗ đang gia tăng nhanh
chóng. Số lượng cổ đông- người đến thăm trang web chào bán cổ phiếu tăng gần gấp đôi
từ tháng 4 năm 1999 và tháng 3 năm 2000.
với giá trị tài sản của quỹ. Các quỹ tương hỗ cũng có thể được cấu trúc như một
quỹ đóng kết thúc, trong đó có một số lượng cố định số cổ phiếu không thể hủy ngang và


GVHD: Trần Ái Kết


Chương 12; Các tổ chức tài chính phi ngân hàng.

được bán ở đợt chào bán ban đầu và không là giao dịch giống như cổ phiếu phổ thông.
Giá thị trường của các cổ phiếu này dao động với giá trị tài sản của quỹ. Trái ngược với
quỹ mở, tuy nhiên, giá của cổ phiếu có thể ở trên hoặc dưới giá trị tài sản nắm giữ của
quỹ, tùy thuộc vào các yếu tố như tính thanh khoản của cổ phiếu hoặc chất lượng quản lý.
Sự phổ biến rộng rãi hơn của các quỹ đầu tư mở được giải thích bởi tính thanh
khoản cao hơn của cổ phiếu có thể thanh toán của họ so với các cổ phần không thể hoàn
trả của các quỹ đóng.
Ban đầu, phần lớn các quỹ tương hỗ mở đã được bán bởi nhân viên bán
hàng( thường là các công ty môi giới) đã được trả hoa hồng. Kể từ khoản hoa hồng được
thanh toán tại thời điểm mua và ngay lập tức được trừ vào giá trị hoàn lại của cổ phần,
các quỹ này được gọi là các quỹ đầu tư. Hầu hết các quỹ tương hỗ hiện đang không hoàn
vốn, chúng được bán trực tiếp cho công chúng mà không có hoa hồng bán hàng. Trong cả
hai loại quỹ, các nhà quản lý kiếm sống từ phí quản lý do các cổ đông chi trả.
Quỹ tương hỗ được quy định bởi Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch, được trao
cho khả năng kiểm soát gần như hoàn toàn trong các công ty đầu tư năm 1940. Các tình
trạng liên quan yêu cầu công bố thông tin định kỳ về các quỹ này cho công chúng và
những hạn chế về các phương thức thu hút kinh doanh.

Các quỹ tương trợ thị trường
Một bổ sung quan trọng cho các gia đình có quỹ tương trợ là quỹ tương trợ thị
trường tiền tệ. Loại quỹ tương trợ này đầu tư vào các công cụ nợ ngắn hạn( thị trường
tiền tệ) có chất lượng, giá trị cao, ví dụ như tín phiếu kho bạc, thương phiếu và các giấy
chứng nhận tiền gửi của ngân hàng. Có thể giao động về giá trị thị trường của những loại
chứng khoán nay, nhưng vì do kỳ hạn thanh toán của chúng là ít hơn 6 tháng và sự thay
đổi về giá trị thị trường thì nhỏ khiến cho các cổ phần của họ được mua lại ở một giá cố
định. 9 Những thay đổi về giá trị thị trường của các chứng khoán này nằm trong lợi tức
do quỹ thanh toán). Bởi vì chia sẻ này có thể được cứu chữa tại một giá trị cố định, các

khoản tiền cho phép cổ đông để chuộc lại chia sẻ bằng cách viết chi phiếu vào tài khoản
của quỹ tại một ngân hàng thương mại. Bằng cách này, chia sẻ trong thị trường tiền quỹ
lẫn nhau một cách hiệu quả chức năng như tiền gửi thể kiếm được trường lãi suất tỷ giá
chứng khoán nợ ngắn hạn.
Năm 1977, tài sản có của các quỹ tương trợ thị trường tiền tệ là dưới 4 tỉ đôlla,
năm 1950 tăng lên 50 tỉ đôlla và hiện nay là 2.1 trillion, với một phần của tài sản tài
chính trung gian đã phát triển đến gần 9%( xem bảng 1). Hiện nay, thị trường tiền quỹ
tương trợ tài khoản cho khoảng một phần tư giá trị tài sản của tất cả các quỹ tương trợ.

Quỹ Hedge
Quỹ Hedge là một loại đặc biệt của Quỹ tương trợ, với tài sản ước tính khoảng
hơn 500 tỷ USD. Quỹ Hedge đã nhận được sự chú ý đáng kể gần đây do những cú sốc
với hệ thống tài chính là hệ quả từ sự sụp đổ gần đây của quản lý vốn đầu tư dài hạn, một
một quỹ phòng hộ quan trọng nhất (Box3). Cũng được biết các quỹ phòng hộ bao gồm:
Moore Capital Management và nhóm Quantum của quỹ kết hợp với George Soros. Giống


GVHD: Trần Ái Kết

Chương 12; Các tổ chức tài chính phi ngân hàng.

như quỹ tương hỗ, các quỹ hedge tích lũy tiền từ nhiều người và đầu tư trên danh nghĩa
của họ, nhưng một số tính năng phân biệt chúng với các quỹ tương hỗ truyền thống.
Hộp 3
Thất bại quản lý vốn dài hạn.
Quản lý vốn dài hạn là một quỹ phòng hộ với các nhà quản lý nổi tiếng , bao gồm 25
PhDS, hai người đoạt giải Nobel về kinh tế( Myron Scholes và Robert Merton), cựu phó
chủ tịch Hệ thống Dự trữ Liên bang( David Mullins), và một trong những nhà kinh doanh
trái phiếu thành công nhất ở Phố Wall ( John Meriwether). Nó đã trở thành các tiêu đề
vào tháng 9 năm 1998 vì thị trường bị sụp đổ gần đây và yêu cầu có một kế hoạch giải

cứu được tổ chức bởi Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York.
Kinh nghiệm về các quỷ vốn dài hạn cho thấy các quỹ phòng hộ này không có rủi ro, mặc
dù họ sử dụng các chiến lược trung lập của thị trường. Vốn dài hạn gặp khó khăn khi nghĩ
rằng sự chênh lệch giữa giá trái phiếu kho bạc dài hạn và trái phiếu doanh nghiệp dài hạn
quá cao và đặt cược rằng "bất thường" này sẽ biến mất và sự lây lan sẽ thu hẹp. Sau sự
sụp đổ của hệ thống tài chính Nga vào tháng 8 năm 1998, Các nhà đầu tư tăng đánh giá
của họ về rủi ro của chứng khoán doanh nghiệp và như chúng ta đã thấy trong chương 6,
sự lan rộng giữa các doanh nghiệp và Kho bạc tăng lên chứ không phải thu hẹp lại như
dự báo dài hạn vốn. Kết quả là rằng vốn đã bị thiệt hại lớn và ăn lỗ nhiều vị trí vốn chủ
sở hữu của nó.
Vào giữa tháng 9, vốn dài hạn không thể huy động đủ vốn để đáp ứng nhu cầu của các
chủ nợ. Với nguồn vốn dài hạn phải đối mặt với nhu cầu tiềm năng cần thanh lý danh
mục vốn đầu tư trị giá 80 tỷ đô la Mỹ và hơn 1 nghìn tỷ đô la Mỹ đối với các sản phẩm
phái sinh (thảo luận trong chương 13), ngân hàng Dự trữ Liên bang New York đã gia
nhập vào ngày 23 tháng 9 và tổ chức một kế hoạch cứu giúp với chủ nợ của mình. Cơ sở
lý luận của FED về bước vào là việc thanh lý đột ngột danh mục đầu tư vốn dài hạn sẽ
tạo ra rủi ro hệ thống không thể chấp nhận. Hàng chục tỷ đô la của chứng khoán illiquid
sẽ bị bán phá giá trên một thị trường đã được jittery, gây thiệt hại lớn cho nhiều nhà cho
vay và các tổ chức khác. Kế hoạch giải cứu yêu cầu các chủ nợ, ngân hàng và ngân hàng
đầu tư, cung cấp thêm 3,6 tỷ đô la vốn cho vốn dài hạn để đổi lấy sự quản lý chặt chẽ hơn
của các quỹ và giảm 90% cổ phần của các nhà quản lý. In the middle of 1999, John
Meriwether bắt đầu thu hẹp hoạt động của quỹ.
Even though no public funds were expended, Sự tham gia của FED trong việc tổ chức
giải cứu vốn Long Term đã gây nhiều tranh cãi. Một số nhà phê bình lập luận rằng sự can
thiệp của Fed làm tăng nguy cơ về đạo đức do kỷ luật yếu ớt trong thị trường quản lý bởi
các nhà quản lý quỹ vì các can thiệp của Fed trong tương lai sẽ được dự kiến. Một số
khác cho rằng hành động của FED là cần thiết để ngăn chặn một cú sốc lớn đối với hệ
thống tài chính có thể đã gây ra một cuộc khủng hoảng tài chính. Cuộc tranh luận về việc
liệu Fed có nên can thiệp có khả năng sẽ tiếp tục trong một thời gian
Quỹ Hegde có một yêu cầu đầu tư tối thiểu từ 100.000 đến 20 triệu USD, với mức

đầu tư tối thiểu điển hình là 1 triệu USD. Quản lý vốn dài hạn yêu cầu một khoản đầu tư
tối thiểu 10 triệu đô la. Luật liên bang hạn chế các quỹ phòng hộ không có hơn 99 nhà


GVHD: Trần Ái Kết

Chương 12; Các tổ chức tài chính phi ngân hàng.

đầu tư( giới hạn đối tác) phải có thu nhập ổn định hàng năm từ 20.000 đô la trở lên hoặc
một khoản tiền ròng là 1 triệu đô la, không bao gồm nhà cửa. Những hạn chế này nhằm
mục đích cho phép các quỹ phòng hộ được phần lớn không được kiểm soát, theo lý
thuyết rằng người giàu có thể tìm ra cho mình. Nhiều trong số 4000 quỹ phòng hộ nằm
ngoài dự đoán để thoát khỏi những hạn chế về quy định. Các quỹ phòng hộ cũng khác với
các quỹ tương hỗ truyền thống vì họ thường yêu cầu các nhà đầu tư cam kết tiền của họ
trong thời gian dài, thường một vài năm. Mục đích của yêu cầu này là để cho các nhà
quản lý thở phòng để theo đuổi chạy dài ....( khúc đầu 301 uyên)
Các quỹ phòng hộ thường tính các khoản chi phí lớn cho các nhà đầu tư.Qũy tiêu
biểu tín lệ phí 1% hàng năm cho tài sản mà nó quản lý cộng thêm 20% lợi nhuận và một
số phí đáng kể khác.Vốn dài hạn,chẳng hạn tính tiền nhà đầu tư 2% quản lý tài sản phí và
lấy 25% lợi nhuận.
Quỹ đầu tư phòng hộ là thuật ngữ rất sai lạc vì thế giới “hedge” thường cho biết
chiến lược phòng tránh rủi ro.Gần như trong suy nghĩ minh họa vốn dài hạn gắn với tên
của họ nhưng quỹ này có thể chịu nhiều nguy cơ.Nhiều quỹ phòng hộ tham gia vào
những chiến lược được gọi là “trung lập về thị trường” nơi họ mua bảo mật như trái
phiếu,có vẻ rẻ và bán một khoản tiền tương đương với một khoản bảo đảm tương tự
dường như bị đánh giá quá cao.Nếu tỷ lệ lãi suất tăng lên hoặc giảm xuống, quỹ này sẽ
không được bảo hiểm,bởi vì sự suy giảm giá trị của một chứng khoán được khớp với sự
gia tăng của một giá trị.Tuy nhiên quỹ đang suy đoán liệu sự chênh lệch giữa giá trên hai
chứng khoán sẽ đi theo hướng mà các nhà quản lý đang mong đợi.Nếu quỹ đặt cược sai
lầm, nó có thể mất nhiều tiền,đặc biệt nếu nó đã đòn bẩy lên vị trí của nó,tức là đã mượn

rất nhiều tiền để vào vị trí này có cổ phần của nó nhỏ hơn so với quy mô danh mục đầu
tư.Khi vốn dài hạn được giải cứu,nó có tỷ số đòn bẩy từ 50 đến 1,nghĩa là tài sản của nó
lớn gấp 50 lần so với vốn cổ phần, và thậm chí trước khi nó gặp rắc rối nó đã được tận
dụng từ 20 đến 1.
Sau sự gần như sụp đổ của vốn dài hạn, nhiều chính trị gia Hoa Kỳ đã kêu gọi điều
chỉnh các quỹ này.Tuy nhiên bởi vì nhiều quỹ trong số các quỹ này hoạt động ngoài khơi
ở những nơi như quần đảo Cayman và nằm ngoài phạm vi Hoa Kỳ nên họ sẽ rất khó điều
chỉnh. Những gì cơ quan quản lí Hoa Kỳ có thể làm là đảm bảo rằng các ngân hàng và
các ngân hàng đầu tư Hoa Kỳ có hướng dẫn rõ ràng về số tiền mà họ có thể cung cấp cho
các quỹ phòng hộ và yêu cầu các tổ chức được nhận này phải trình bày được mức độ rủi
ro mà họ gặp phải.

Sự trung gian tài chính của chính phủ
Chính phủ đã đánh vào trung gian tài chính bằng hai cách cơ bản:thứ nhất lập ra các
cơ quan tín dụng liên bang,những cơ quan này trực tiếp tiến hành sự trung gian tài chính
và thứ hai sự đảm bảo của chính phủ cho các món vay tư nhân.

Các cơ quan tín dụng liên bang
Để thúc đẩy việc cung cấp chỗ ở,chính phủ đã lập ra ba cơ quan chính phủ để
cung cấp vốn cho thị trường vay thế chấp bằng cách bán các trái khoán và sử dụng tiền
thu được này để mua các món vay thế chấp:Hiệp hội thế chấp quốc gia của chính phủ


GVHD: Trần Ái Kết

Chương 12; Các tổ chức tài chính phi ngân hàng.

(GNMA,hoặc còn gọi là “Ginnie Mae”),Hiệp hội thế chấp quốc gia của liên bang(FNMA,
hoặc còn gọi là “Fannie Mae”),và công ty thế chấp cho vay mua nhà của liên bang
(FHLMC, hoặc còn gọi là “Freddie Mac”).Ngoại trừ Ginnie Mae là một cơ quan liên

bang và như một thể là một thực thể của chính phủ Mỹ, các cơ quan còn lại là các cơ
quan được bảo trợ của liên bang và chúng hoạt động như những công ty tư nhân ràng
buộc chặt chẽ vào chính phủ.Kết quả là món nợ của các cơ quan được bảo trợ không
được sự hỗ trợ của chính phủ Mỹ như những trường hợp trái khoán kho bạc.Tuy nhiên vì
lý do thực dụng chính phủ liên bang sẽ không thể để các cơ quan được bảo trợ này bị vỡ
nợ.
Công nghiệp là một lĩnh vực trong đó sự trung gian tài chính của các cơ quan
chính phủ đóng một vai trò quan trọng. Hệ thống tín dụng nông trại( gồm các ngân hàng
hợp tác xã,các ngân hàng tín dụng nông nghiệp và nhiều đoàn thể tín dụng trang trại )
phát hành các chứng khoán và sau đó dùng tiền thu được để cho các nông gia vay.

Bảng 4
Có phải Fannie Mae và Freddie Mac đang tự cao tự đại?
Với sự tăng trưởng của Fannie Mae và Freddie Mac đến những tỷ lệ to lớn,có những lo
ngại gia tăng rằng các cơ quan bảo trợ liên bang này có thể đe dọa đến sự tồn tại của hệ
thống tài chính. Fannie Mae và Freddie Mac sở hữu bảo hiểm rủi ro cho gần một nữa số
nợ thế chấp nhà ở của Hoa Kỳ (lên đến 2 nghìn tỷ đô la).Trong thực tế nợ công đã phát
hành của họ quá một nửa do chính phủ liên bang phát hành. Thất bại của hai cơ quan này
sẽ mang đến một cú sốc trầm trọng trong hệ thống tài chính.Mặc dù chính phủ liên bang
sẽ không đứng vững và để cho thất bại, trong trường hợp đó người nộp thuế sẽ phải đối
mặt với những chi phí lớn như trong cuộc khủng hoảng S&L.
Lo ngại về sự an toàn và sự đúng đắn của cơ quan này xảy ra vì họ có thủ đô-đến-tỷ lệ
tài sản nhỏ hơn nhiều ngân hàng.Nhà phê bình cũng cho rằng Fannie Mae và Freddie Mac
đã sử dụng một số tiền lớn để có được sụ ảnh hưởng về chính trị.Ngoài ra cơ quan tài trợ
trên toàn liên bang này có sự xung đột về quyền lợi vì họ phải dành riêng cho hai chủ :là
các công ty thương mại công khai,họ phải tăng tối đa lợi nhuận cho các cổ đông nhưng vì
các cơ quan chính phủ nên họ làm việc vì lợi ích cộng đồng. Mối quan tâm của họ đã dẫn
đến những lời kêu gọi cải tổ các cơ quan này, với nhiều chủ trương nhân hóa hoàn toàn
như đã được Hiệp hội thị trường sinh viên cho vay (Sallie Mae) tự nguyện vào giữa những
năm 1990.

Trong các năm gần đây các trung gian tài chính của chính phủ đang trải qua
những khó khăn tài chính .Hệ thống tín dụng nông trại là một ví dụ.Xu hướng phá san
nông trại đang gia tăng có nghĩa là có các tổn thất nhiều tỷ đô la cho các ngân hàng tín
dụng nông trại và kết cục là các ngân hàng này đã đòi hỏi sự bảo lãnh của chính phủ năm
1987.Đại lý được phép mượn tăng lên tới 4 triệu đô la Mỹ trả trong 15 năm và nhận hơn
1 tỷ đô la trợ giúp.Càng ngày người ta càng lo lắng về sức khỏe của cơ quan tín dụng liên
bang Washington.Nguời đứng đầu các chương trình cứu trợ của chính phủ như của Hệ
thống tín dụng nông trại, Đạo luật cải cách tín dụng liên bang đã đưa ra các quy định mới


GVHD: Trần Ái Kết

Chương 12; Các tổ chức tài chính phi ngân hàng.

đòi hỏi các cơ quan này phải tăng vốn để cung cấp một bước đệm lớn hơn để bù đắp cho
bất kỳ thiệt hại tiềm ẩn nào.Tuy nhiên,Fannie Mae và Freddie Mac đã và đang được quan
tâm đến sự phát triển(xem bảng 4).

Hoạt động thị trường chứng khoán
Hoạt đông trơn tru của thị trường chứng khoán trong đó trái phiếu và cổ phiếu
được giao dịch liên quan đến một số tổ chức tài chính bao gồm các môi giới chứng khoán
và các đại lý, ngân hàng đầu tư và các cuộc trao đổi có tổ chức. Không có tổ chức nào
trog số các tổ chức này nằm trong danh sách các tổ chức trung gian tài chính của chúng
tôi ở chương 2 bởi vì họ không thực hiện chức năng trung gian thu hồi vốn bằng cách
phát hành nợ và sau đó sử dụng các quỹ để mua tài sản tài chính. Mặc dù vậy,họ là quan
trọng trong quy trình hướng kinh phí từ người gửi tiết kiệm đến người tiêu tiền và có thể
được xem là “tài chính thuận lợi”.
Tuy nhiên trước hết chúng ta cần nhớ lại sự khác biệt giữa các thị trường chứng
khoán cấp một và cấp hai đã thảo luận ở Chương 2.Trong một thị trường cấp một, một
chứng khoán mới được phát hành do một cơ quan chính phủ hay công ty bán ra để vay

vốn từ các người mua đầu tiên.Một thị trường cấp hai sau đó, mua bán các chứng khoán
đã được bán trước đó ở thị trường cấp một nói trên(và do đó gọi là chứng khoán cấp
hai).Các ngân hàng đầu tư là các hãng tham gia việc bán lần đầu các chứng khoán trong
thị trường cấp một,trong khi đó những người môi giới chứng khoán và những người buôn
chứng khoán tham gia việc mua bán chứng khoán ở thị trường cấp hai, một số trong các
thị trường đó được tổ chức thành trung tâm giao dịch. Ngân hàng đầu tư hỗ trợ ban đầu
mua bán chứng khoán tại các thị trường chính. , công ty môi giới chứng khoán và các đại
lý hỗ trợ trong các giao dịch chứng khoán tại các thị trường thứ cấp, một số trong đó
được tổ chức vào trao đổi.

Ngân hàng đầu tư
Khi một công ty muốn vay vốn( dựng vốn), thì thường thuê các dịch vụ của một
ngân hàng đầu tư để giúp bán các loại chứng khoán của mình( mặc dù tên gọi như vậy,
nhưng ngân hàng đầu tư không phải là một ngân hàng theo nghĩa thông thường; tức là
không phải là một trung gian tài chính, nhận món tiền gửi sau đó đem cho vay). Một số
trong những ngân hàng đầu tư nổi tiếng ở Mỹ là Merrill Lynch, Salomon Smith Barney,
Mogran Stanley Dean Witter, Goldman Sachs, Lehman Brothers và Credit suisse First
Boston, mà đã rất thành công không chỉ ở Mỹ mà còn các khu vực bên ngoài.
Các ngân hàng đầu tư tham gia việc bán chứng khoán như sau. Thứ nhất, họ tư vấn cho
các công ty cho dù nó bán chứng khoán về việc phát hành trái phiếu hoặc cổ phiếu. Nếu
họ gợi ý rằng công ty này phát hành các loại trái khoán, thì các ngân hàng đầu tư cho lời
khuyên về kỳ hạnh thanh toán và tiến hành thanh toán sẽ như thế nào. Điều này là khá dễ
dàng để làm nếu công ty có trước các vấn đề hiện đang bán trên thị trường, được gọi là
vấn đề dày dạn. Tuy nhiên, khi các cổ phiếu công ty inssue lần đầu tiên trong những gì
được gọi là một cung cấp khu vực ban đầu (IPO), nó là khó khăn hơn để xác định những
gì nên giá chính xác. Tất cả các kỹ năng và experise của ngân hàng đầu tư công ty cần
phải được mang theo để xác định giá phù hợp nhất. IPO đã trở thành rất imortant trong


GVHD: Trần Ái Kết


Chương 12; Các tổ chức tài chính phi ngân hàng.

nền kinh tế Mỹ, beause họ là một nguồn tài chính cho các công ty internet, mà đã trở
thành tất cả các cơn thịnh nộ trên phố Wall cuối thập niên 1990. Không chỉ có IPO đã
giúp các công ty này để có được vốn đầu tư đáng kể mở rộng hoạt động của họ, nhưng họ
cũng đã thực hiện các chủ sở hữu bản gốc của những công ty rất phong phú. Nhiều một
nerdy 20 đến 30 tuổi đã trở thành một triệu phú ngay lập tức khi cổ phần của mình tại
công ty internet của ông đã được đưa ra một đánh giá cao sau khi cung cấp ban đầu của
khu vực cổ phần trong công ty. Tuy nhiên, với các bursting của bong bóng công nghệ cao
vào năm 2000, nhiều người trong số họ đã mất phần lớn tài sản của họ khi giá trị chia sẻ
của họ đến xuống trái đất.
Khi các công ty quyết định loại công cụ tài chính nó sẽ issure, nó cung cấp cho họ
để nguyên đầu tư ngân hàng đó bảo lãnh công ty một giá trên các chứng khoán và sau đó
bán cho công chúng. Nếu vấn đề nhỏ, chỉ có một công ty ngân hàng đầu tư bảo kê nó
(thường đầu tư ban đầu ngân hàng công ty thuê để cung cấp lời khuyên về vấn đề). Nếu
các vấn đề lớn, ngân hàng công ty từ một syndicate để bảo kê các vấn đề phối hợp đầu tư
nhiều, do đó hạn chế các rủi ro bất kỳ một trong những đầu tư ngân hàng phải người mua
hàng, chẳng hạn như ngân hàng và công ty bảo hiểm, trực tiếp và bằng cách đặt quảng
cáo trong newpapers như tờ Wall street Journal (xem các "sau các tài chính mới là hộp).
Các hoạt động của ngân hàng đầu tư và hoạt động của trường tiểu học trung cấp
được quy định bởi Ủy ban hối đoái và chứng khoán, Ủy ban này được thành lập 1933 và
1934 để đảm bảo các thông tìn đầy đủ đến được các nhà đầu tư trong tương lai.
Những người phát hành các chứng khoán mới này cho công chúng rộng rãi, phỏ biến( số
tiền lớn hơn 1,5 triệu đôlla một năm với hạn kỳ tahnh toán dài hơn 270 ngày) phải trình
một bản kê khai đăng kí với Ủy ban hối đoái và chứng khoán SEC và phải cung cấp cho
các nhà đầu tư tiềm năng một bản chưa mọi thông tin đáng tin cậy về các chứng khoán
này. Sau khi kê khai đăng kí đ1o được trình với SEC người phát hành phải chò trong 29
ngày. Nếu trong khoang 20 ngày đó, SEC không phản đối về bản đăng kí nói tr6en thì các
chứng khoán đó có thể bán.

Theo tin tức tài chính
Vấn đề chứng khoán mới
Thông tin về chứng khoán mới đang được phát hành được trình bày trong các quảng cáo
đặc biệt được công bố trong the Wall Street Journal và báo chí khác. Những quảng cáo
này, được gọi là "tombstones" vì sự xuất
hiện của họ, thường được tìm thấy trong
phần "Tiền bạc và đầu tư" của Wall Street Journal. Tombstone chỉ số cổ phần của cổ
phiếu (5,7 triệu cổ phiếu cho Cinergy) và ngân hàng đầu tư liên quan đến bán cho họ.
Vấn đề mới 5.700.000 chia sẻ
Cinergy
cổ phiếu phổ thông
giá $31.20 cho mỗi cổ phần Merrill Lynch & Co.


GVHD: Trần Ái Kết

Chương 12; Các tổ chức tài chính phi ngân hàng.

Những người môi giới và những người mô giới chứng khoán.
Những người mô giới và buôn bán chứng khoán tiến hành buôn bán ở thị trương cấp hai.
Những người mô giới là những người trung gian thuần túy, họ hoạt động như các nhà đại
lý cho các nhà đầu tư của họ trong việc mua hoặc bán các chứng khoán thuần túy. Chức
năng của họ là giao dịc phù hợp giữa người mua và người bán, và việc này họ nhận được
các khoản hoa hồng mô giới. Khác với những người mô giới thì những người bôn mối
những người mau và người bán sẵn sàng đứng ra mua và bán các chứng khoán này ở một
mức gia nhất định. Do đó, những người buôn năm giữ các danh mục chứng khoán và sinh
sống dựa vào bán các loại chứng khoán này với giá cao hơn với giá mà họ mua, tức là có
sự chênh lệc giữa người mua và người bán. Đây là một lĩnh vực kinh doanh có rủi ro lớn,
vì những người buôn bán năm giữ các chứng khoán, chúng ta có thể tăng giá hoặc giảm
giá, trong những năm gần đây một hãng chuyên môn vể trái khoán đã sụp đổ. Ngược lại,

những người mô giới không đăt trước rủi ro vì họ không năm giữ chứng khoán torng khi
tiên hành các hoạt động kinh doanh của mình.
Nhiều hãng được gọi là các hãng môi giới hoạt động cả 3 thị trường chứng khoán tức là
họ hoạt động như một nhà mô giới,như người buôn bán hay ngân hàng đầu tư. Hãng lớn
nhất ở Mĩ là Merrill Lynch, tuy nhiên vẫn nếu xét theo tiêu chuẩn của Nhật Bản, các hãng
nổi tiếng khác như Paine Webber, Morgan Stanley Dean Witter và Salomon Smith
Barney. SEC không chỉ điều hanh hoạt động ngân hàng đầu tư của các hãng đó, mà cũng
hạn chế những người mô giới, buôn bán được mô tả sai lệch các chứng khoán và mua bán
thông tin nội bộ, là thứ thông tin cho công chúng rộng rãi mà chỉ giánh cho những người
quản lý của công ty.
Các lực lượng cạnh tranh dẫn đến sự phát triển quan trọng :các công ty
môi giới bắt đầu tiến hành các hoạt động mà theo truyền thống thì do các ngân hàng
thương mại tiến hành. Năm 1977, Merrill Lynch đã mở ra tài khoản quản lý tiền mặt
(CMA) của hãng này, tài khoản này cung cấp một gói dịch vụ tài chính bao gồm thẻ tín
dụng ,các khoản vay nhanh, các đặc quyền phát séc, tự động đầu tư tiền thu được từ việc
bán chứng khoán vào quỹ tương trợ thị trường tiền tệ và việc lưu giữ hồ sơ một cách
thống nhất hóa. CMA đã được những công ty môi giới khác chấp nhận và phát triển rất
nhanh. Kết quả là sự khác biệt giữa hoạt động của ngân hàng và hoạt động của những tổ
chức tài chính phi ngân hàng đã trở nên mờ nhạt(xem bảng 5). Phát triển khác là tầm
quan trọng ngày càng tăng của Internet trên thị trường chứng khoán (xem bảng 6).

Các trung tâm giao dịch
Như được thảo luận trong Chương 2 ,các thị trường cấp2 có thể được tổ chức
hoặc là các thị trường trao tay, trong đó các giao dịch được tiến hành dưới hình thức đại
lý hoặc như các cuộc trao đổi có tổ chức, trong đó các giao dịch được tiến hành ở vị trí
trung tâm. Thị trường chứng khoán New York(NYSE), kinh doanh hàng ngàn chứng
khoán là trung tâm giao dịch có tổ chức lớn nhất trên thế giới được tổ chức như vậy trong
khi đó thị trường chứng khoán Mỹ (AMEX) cũng là một trung tâm như vậy nhưng đứng
hàng thứ 2 và nhỏ hơn nhiều.Một sốtrung tâm giao dịch vùng, cỡ nhỏ, các trung tâm này
chỉ buôn bán một số lượng nhỏ các chứng khoán (dưới 100) tồn tại ở những nơi như

Boston và Los Angeles.


GVHD: Trần Ái Kết

Chương 12; Các tổ chức tài chính phi ngân hàng.

Bảng 5
Sự trở lại của các siêu thị tài chính?
Vào những năm 1990, các công ty mơ ước tạo nên cho mình một “siêu thị tài chính”
trong đó sẽ có một- dừng mua dịch vụ tài chính.Người tiêu dùng có thể đặt cọc trong tài
khoản tín dụng của họ ,mua quỹ tương hỗ, có được khoản thế chấp hoặc khoản vay sinh
viên,trong chính sách bảo hiểm xe hơi hoặc bảo hiểm xã hội,có được một thẻ tín dụng hay
mua bất động sản. Vào đầu những năm 1980,Sears đã sở hữu All State Insurance và một
công ty con về tài chính tiêu dùng ,đã mua Coldwell Banker Real Estate và Dean Wittermột công ty môi giới.Nó cũng nợ ngân hàng 6 tỷ đô la Mỹ khoản tiền tiết kiệm và phát
hành thẻ. Thật đáng tiếc khái niệm siêu thị tài chính này không bao giờ xuất hiện ở Sears.
Thật ra khái niệm này đã bị chế giễu như “cổ phiếu ” “n” “cổ phiếu”.Công ty dịch vụ tài
chính Sears bị tổn thất bắt đầu thua lỗ và bắt đầu bán rẻ doanh nghiệp này vào cuối
những năm 1980 đầu những năm 1990.
Sears không phải là thị trường chứng khoán duy nhất gặp khó khăn trong việc thực
hiện khái niệm siêu thị tào chính.Trong những năm 1980, American Express đã mua
chứng khoán nhưng không có lợi. Tương tự,việc Bank of American mua Chales Schwabnhà môi giới giảm giá cũng tỏ ra không có lợi.
Citigroup và Travelers Group được sáp nhập vào tháng 10 năm 1998 với quan
điểm Quốc Hội sẽ loại bỏ tất cả các rào cản đối với doanh nghiệp kết hợp và phi ngân
hàng trong một công ty dịch vụ tài chính (mà Quốc Hội đã làm vào năm 1999),đặt cuộc
rằng siêu thị tài chính sẽ là một ý tưởng hay trong thời gian tới .Citigroup hy vọng rằng
việc tận dụng thời gian sẽ là lợi thế của việc mở rộng quy mô trong kinh tế. Với sự thành
công của các ngân hàng chi nhánh của Citigroup về việc phát hành thẻ tín dụng ,nó trở
thành công ty phát hành thẻ tín dụng lớn nhất với hơn với hơn 60 triệu thành viên tham
gia và thành công của Travelers trong lĩnh vực bảo hiểm và kinh doanh chứng khoán,

công ty sáp nhập Citigroup hy vọng sẽ tạo ra lợi nhuận khổng lồ bằng cách cung cấp việc
mua sắm tài chính thuận tiện cho người tiêu dùng.

Bảng 6
Internet đến Phố Wall
Một sự phát triển quan trọng trong những năm gần đây là tầm quan trọng ngày càng
tăng của Internet trên thị trường chứng khoán. Việc chào bán cổ phần đầu tiên trên
Internet ra mắt công chúng và nhiều công ty môi giới cho phép khách hàng tiến hành giao
dịch chứng khoán trực tuyến hoặc để chuyển lệnh mua bám qua e-mail.Vào đầu tháng 6
năm 1999,Wall Street bị phá vỡ bởi thông báo cho rằng công ty môi giới lớn nhất toàn cầu
Merrill Lynch sẽ bắt đầu cung cấp giao dịch trực tuyến với mức giá chỉ 29.95 $ cho
thương mại với 5 triệu khách hàng. Bây giờ kinh doanh môi giới trực tuyến có ở khắp mọi
nơi và dĩ nhiên nó không giống với môi giới thông thường.


GVHD: Trần Ái Kết

Chương 12; Các tổ chức tài chính phi ngân hàng.

Các trung tâm giao dịch chứng khoán có tổ chức thường hoạt động như là sự lai
ghépcủa một thị trường bán đấu giá (trong đó người mua và người bán giao dịch với
nhau tại một địa điểm trung tâm ) và một thị trường của người buôn (trong đó các nhà
buôn tạo ra thị trường bằng cách mua và bán chứng khoán với giá đã định).Các chứng
khoán được mua bán theo giá thấp nhất của trung tâm đó với sự giúp đỡ của một nhà
buôn kiêm người môi giới đặc biệt gọi là chuyên gia. Một chuyên gia khớp lệnh các đơn
đặt mua và đơn đặt bán được nêu ra ở cùng một mức giá và như thế thực hiện chức năng
môi giới. Tuy nhiên nếu các đơn đặt mua và các đơn đặt bán các đơn hàng không khớp
với nhau, chuyên gia này mua cổ phiếu hoặc bán một lượng nào đó nằm trong danh mục
chứng khoán của người đó, theo cách này người đó thực hiện chức năng nhà buôn. Bằng
cách đảm nhận hai chức năng này, chuyên gia này duy trì việc mua bán theo đơn đặt hàng

một nhóm chứng khoán người đó có thể đảm nhận.
Các trung tâm giao dịch có tổ chức để mua bán chứng khoán cũng được SEC điều
hành. SEC không chỉ có thẩm quyền áp đặt các quy định điều chỉnh hành vi của các nhà
môi giới và các nhà buôn liên quan đến giao dịch mà nó còn có thẩm quyền thay đổi các
quy tắc đặt ra bởi các trung tâm giao dịch. Chẳng hạn như ở năm 1975, SEC không cho
phép sự tồn tại của các quy tắc đặt ra các mức hoa hồng môi giới. Kết quả là có sự
sụtgiảm mạnh về các mức hoa hồng môi giới, đặc biệt là đối với các nhà đầu tư có tổ
chức(quỹ tương hỗ và quỹ trợ cấp), những nhà đầu tư này mua khối lượng lớn các cổ
phiếu. Đạo luật bổ sung về các chứng khoán năm 1975 là công nhận hành động nói trên
của SEC bằng cách coi các quy tắc định ra các hoa hồng môi giới tối thiểulà bất hợp
pháp.
Hơn thế các hoạt động sửa đổi chứng khoán do SEC chỉ đạo đã tạo thuận lợi cho
một hệ thống thị trường quốc gia hợp nhất giao dịch của tất cả các chứng khoán được
niêm yết trên các sàn giao dịch trong nước và khu vực cũng như những giao dịch trên thị
trường tự do bằng cách sử dụng Hiệp Hội Quốc Gia Các Nhà kinh doanh chứng khoán
niêm yết giá tự động (NASDAQ).Máy tính và thông tin viễn thông tiên tiến làm giảm chi
phí liên lạc giữa các thị trường này, đã khuyến khích mở rộng hệ thống thị trường quốc
gia. Như vậy chúng tôi xem luật pháp và công nghệ máy tính hiện đại đang dẫn đường
tình trạng trên đây đến công nghiệp chứng khoán cạnh tranh hơn.
Sự quốc tế hóa phát triển của các thị trường vốn đã khuyến khích một xu hướng
khác trong giao dịch chứng khoán. Ngày càng có nhiều công ty nước ngoài đang được
niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ và thị trường đang tiến tới giao dịch cổ phiếu
quốc tế hóa suốt 24 giờ một ngày.

Tóm tắt
1. Các công ty bảo hiểm do tiểu bang điều hành và các công ty này thu vốn bằng cách
bán các hợp đồng bảo hiểm, các hợp đồng này thanhh toán trả tiền bồi thường nếu sự
kiện tai họa xảy ra. Các công ty bảo hiểm tai nạn và tài sản nắm giữ các tài sản có tính
lỏng cao hơn so với các công ty bảo hiểm nhân thọ bởi vì có kém chắc chắn hơn trong



GVHD: Trần Ái Kết

Chương 12; Các tổ chức tài chính phi ngân hàng.

việc dự tính số tiền bối thướng mà công ty phải thanh toán. Tất cà các công ty bảo hiểm
phải đối mặt với các rủi ro đạo đức và lụa chọn bất lợi, điều này giải thích rằng phải sử
dụng các công cụ quản lý bảo hiểm. Ví dụ nhu tập hợp thông tin và sàng lọc những người
có thể mua bảo hiểm, phí bảo hiểm được dựa trên cơ sở của rủi ro, nhằm để hạn chế gian
lận, hủy bỏ họp đồng bảo hiểm và giới hạn đối với món tiền bảo hiểm.
2.Các chương trình trợ cấp thì mang lại tiền và thanh toán thu nhập cho những người về
hưu sau khi có đóng góp cho cac chương trình đó trong nhiều năm. Nhiều chương trình là
loại cấp thei6u1 vố, nghĩa là trong những năm sắp tới chương trình bắt buộc phải thanh
toán trả tiền trợ cấp lớn hơn so với giá trị đóng góp mà họ thu được và thu nhạp mà họ
được do các công ty mang lại. Vấn đế vốn thiếu đặc biệt quan trọng đối với các quỹ trợ
cấp công cộng Như Quỹ bảo hiểm Xã hội. Do đó các lạm dụng, quốc hội đã ban hành các
đạo luật về bảo hiểm thu nhập hưu trí cho người lam thêu( ERISA) và đạo luật này đã
quy định ra các tiêu chuẩn tối thiểu cho việc báo cáo, cho điều kiện thuộc về một chương
trình trợ cấp riêng. Và đạo luật này cũng đã tạo ra công ty bảo hiểm trợ cấp, các công ty
này bảo hiểm các khoản tiển trợ cấp.
3. Các công ty tài chính thu nhận vốn bằng cách phát hành trái phiếu và cổ phiếu, rồi
dùng tiền thu được để thực hiện các món cho vay thích hợp cho các ngân hnag2 thương
mại và các tổ chức tiết kiệm, các công ty tài chính này có khả năng đi vào hoạt động tìn
dúng mới một cách nhanh chóng.
4. Các quỹ trợ bán cổ phần và dùng tiền thu được để mua các loại chứng khoán. Các quỹ
kết thúc mở phát hành các cổ phần có thể mua lại được vào bất kỳ lúc nào ở một gía gắn
gái trị của tài sản của hãng náy. Các quỹ thúc đẩy phát hành cổ phần không thể mua lại
được và các cổ phần này được mua bán giống như bất kỳ các cổ phiếu nào. Các quỹ này
kém phổ biến so với các quỹ kết thúc mở bởi vì các cổ phần nó không bị coi lỏng. Các
quỹ tương trợ tị trường tiền tệ chỉ nắm giữ những chứng khoán chất lượng cao và kỳ hạn

thấp giúp cho các cổ phần mua lại ở một giá cố định bằng cách dùng sec. Và các cổ phần
ở những quỹ này thực tế tác dụng như một món tiền gửi có thể phát sec và mang lại lải
suất theo thị trường và tất cả các quỹ tương trợ điều là đo SEC điều hành.
5. Các ngân hàng đầu tư là những hãng tham gia bán các chứng khoán trong thị trường
cấp một lần đầu tiên, trong khi mô giới và các nhàn buôn tham gia việc buôn bán chứng
khoán ở các thị trường cấp hai, một trong số các thị trường được tổ chức thành các trung
tâm giaoo dịch. SEC đã điều hành các tổ chức tài chính trong thị trường chứng khoán và
bảo đảm rằng các thọng tin này đầy đủ tới các nhà đầu tư trong tương lai. Đạo luạt về
hoạt độngnăm 1993( Glass Steagall Act) đã tách biệt các hoạt động ngân hàng thương
mại ra khỏi công nghiệp chứng khoán bằng cách cấm các ngân hàng thương mại không
được thực hiện việc bán hoặc phân phối chứng khoán được phát hành một cách riêng rẽ.
Nhưng các lực lượng cạnh tranh đã phớt lò ý của đạo luật Glass Steagall và gây ra thất
bại trong sự tách biệt ngân hàng và công nghiệp chứng khoán.

Câu hỏi và bài tập.
1. Nếu mức độc chết khó dự tính hơn so với thực tế thì các công ty bảo hiểm nhân
thọ sẽ thay đổi loại tài sản mà họ đang nắm giữ nhưng thế nào?


GVHD: Trần Ái Kết

Chương 12; Các tổ chức tài chính phi ngân hàng.

2. Vì sao các công ty bảo hiểm tai nạn và tài sản có khối lượng tài sản trái khoán địa
phương lớn trong khi các công ty bảo hiểm nhân thọ lại nhỏ?
3. Vì sao tất các các chương trỉnh tải trợ có sự đóng góp xác định đều góp vốn đủ?
4. Điều gì giải thích cho viêc ử dụng rộng rãi các khoản khấu trừ trong trường hợp
đồng bảo hiểm?
5. Vì sao các công ty bảo hiểm hạn chế tiền bảo hiểm mà người giữ hợp đồng bảo
hiểm có thể mua?

6. Hãy trả lời câu hỏi đúng sai sau: “khác với chương trình trợ cấp tư, các chương
trình trợ cấp của chính phủ hiếm là những hương trình ấp vốn thiếu”
7. Nếu bạn cần một món tiền vì sao trước hết bạn phải tới ngân hàng của đai phương
bạn hơn là công ty tài chính?
8. Hãy giải thích vì sao các cổ hần trong quỹ tương trợ kết thúc nói trên bán ít so với
giá thị trường cổ phiếu mà họ nắm giữ?
9. Vì sao bnban5 có thể mua vốn tương trợ không chịu hoa hông thay vì khoản vốn
chịu hoa hông?
10. Vì sao một quỹ tương trợ thị trường tiền tệ có thể cho phép cổ đông của nó mua
lại các cổ phần với giá cố định trong khi các quỹ khác không cho phép?
11.Vì sao các đảm bảo cho vay mà chính phủ thực hiến có thể là phương pháp tổn phí
cao để chính phủ trợ cấp cho một số hoạt động?
12. Nếu bạn muốn gánh rủi ro thì bạn sẽ chọn nghề nào: nhà buôn, nhà mô giối hoặc
chuyên gia, vì sao bạn chọn nghề đó?
13. Hoạt động ngân hàng đầu tư có phải là nghành nghề tốt cho những người sợ rủi
ro? Vì sao có và vì sao không?
14. Giả sử bạn thiết lập một quỹ ủy thác do một ngân hàng đứng ra quản lý cho bạn.
Bạn sẽ tán thành hay phản đối ngân hàng này bảo đảm chứng khoán?
15. Vì sao các hãng ngân hàng vận động ráo riết để duy trì đạo luật Glass-Steagall?

HẾT



×