Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

ĐƯỜNG lối GIÁO dục của NHO GIÁO và ẢNH HƯỞNG đến xã hội VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.34 KB, 29 trang )

Tiểu luận Triết học

TIỂU LUẬN:
ĐƯỜNG LỐI GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ - NHO GIÁO VÀ ẢNH
HƯỞNG TỚI XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
MỞ ĐẦU
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục - sự nghiệp “trồng người” là một
chiến lược vừa cơ bản, lâu dài, vừa là quốc sách hàng đầu của Đảng và Nhà nước
ta. Điều này cũng đúng với tuyên bố đưa ra năm 1994 của Tổ chức Giáo dục, Khoa
học, và Văn hóa của Liên Hợp quốc (UNESCO): Không có một sự tiến bộ và thành
đạt nào có thể tách khỏi sự tiến bộ và thành đạt trong lĩnh vực giáo dục của quốc
gia đó. Và những quốc gia nào coi nhẹ giáo dục hoặc không đủ tri thức và khả năng
cần thiết để làm giáo dục một cách có hiệu quả thì số phận của quốc gia đó xem
như đã an bài và điều đó còn tồi tệ hơn cả sự phá sản.
Có thể nói, từ ngày xưa, giáo dục đã là một vấn đề cấp thiết đối với mỗi quốc
gia, dân tộc. Mục đích hơn hết của giáo dục là tạo ra đội ngũ những người tài năng,
đức độ, có nhiệt tình yêu nước, có ý thức vì dân tộc, vì con người để tạo sức mạnh
dân tộc, đất nước. Và Khổng Tử (551-479 Tr.CN), người đã sáng lập Nho giáo, là
nhà triết học lớn nhất Trung Hoa cổ đại, một nhà giáo dục lớn được người Trung
Hoa tôn vinh là “Chí thánh tiên sư”, “Vạn thế sư biểu” … đã xây dựng một đường
lối giáo dục với những nguyên tắc khác nhau, hiện nay vẫn còn ảnh hưởng đến xã
hội Trung Quốc và cả xã hội Việt Nam.
Bàn về đường lối giáo dục, như đã nói, vì đây là một vấn đề quan trọng được
hướng tới, đầu tư phát triển trong bất cứ thời đại, quốc gia, dân tộc nào nên từ
phương Đông đến phương Tây, từ cổ đại đến cận đại, hiện đại đều có những nhà
triết học, những nhà giáo dục học đưa ra những quan điểm, đường lối, nguyên tắc
giáo dục khác nhau. Có thể kể tới Aristotle (384–322 trước Công nguyên) với
ngôi trường được nhận xét là tiên tiến nhất trong thời kỳ cổ đại và mang lại đầy đủ
1



Tiểu luận Triết học

lợi ích cho người học với khu vườn rộng trồng đủ mọi loại cây và trở thành viện
bảo tàng thực vật tại chỗ cho thầy và trò cùng nghiên cứu. Ngoài ra, ông cũng lập
nên một thư viện sách đồ sộ ngay trong trường học. Ở đây, ông chỉ dạy học trò vào
buổi sáng. Buổi chiều là những bài học “mềm”, khi đó thầy trò sẽ cùng nhau đi bộ
trên những quãng đường dài, cùng quan sát, bàn luận và học hỏi từ những quan sát
đó. Sau này, cách giảng dạy của Aristotle đã hình thành nên một trường phái trong
ngành giáo dục có tên là “peripatos” (tiêu dao học). Hay nhà giáo dục Johann
Amos Comenius (1592–1670), là người đầu tiên đề cập đến khái niệm “giáo dục tự
nhiên”, theo đó, mỗi người có những thiên hướng khác nhau và nhiệm vụ của giáo
dục là phát hiện và phát triển những thiên hướng tiềm ẩn trong mỗi cá nhân.
Comenius cũng là người áp dụng những bộ sách giáo khoa đầu tiên vào quá trình
giảng dạy. Ở Việt Nam, người đời luôn khắc ghi tên tuổi của những thầy giáo đầy
nhân cách: Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đồ Chiểu … và vị lãnh tụ kính yêu
– nhà giáo dục tên tuổi Hồ Chí Minh. Theo Hồ Chí Minh, “Một dân tộc dốt là một
dân tộc yếu”, ông chủ trương phải xây dựng một nền giáo dục hướng vào các giá
trị dân tộc, hiện đại và nhân văn, một nền giáo dục phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân
dân. Trở lại vấn đề, trong tiểu luận này, tôi muốn đề cập tới đường lối giáo dục của
Khổng Tử - Nho giáo và những ảnh hưởng tới xã hội Việt Nam hiện nay vì thật sự,
tầm ảnh hưởng của nhà giáo dục đối với đất nước ta quá lớn. Ngay từ thời nghìn
năm Bắc thuộc, thời phong kiến, trong xã hội thực dân nửa phong kiến, khi giặc
Mỹ xâm lược nước ta và cho tới ngày nay, không lúc nào xã hội Việt Nam không
chịu ảnh hưởng của đường lối giáo dục của Khổng giáo. Tất nhiên, trong xã hội
hiện nay, khi mà trình độ khoa học phát triển, quá nhiều luồng văn hóa du nhập vào
nước ta, con người cũng đã có nhiều sự thay đổi trong quan niệm sống, trong cách
tiếp cận đời sống xã hội, tầm ảnh hưởng của đường lối giáo dục của Khổng Tử
không có nhiều ưu thế như trong xã hội Việt Nam thời phong kiến. Nhưng như là
một cây cổ thụ bám trụ từ lâu đời, khí chất của nó còn vang vọng, hay như loài cỏ
hoang với những chùm rễ bám sâu vào đất, sức sống bền bỉ, tư tưởng của Khổng

2


Tiểu luận Triết học

Tử về giáo dục vẫn còn tồn tại trong xã hội Việt Nam. Hiện nay, khi đất nước đang
bước vào thời kì phát triển, vẫn còn những nhìn nhận, đánh giá chưa chính xác: hoặc
quá đề cao, hoặc phủ nhận sự ảnh hưởng tư tưởng triết học về chính trị - đạo đức của
Khổng Tử trong sự nghiệp giáo dục đào tạo con người Việt Nam. Vì vậy, viêc nghiên
cứu đường lối giáo dục của Khổng Tử và sự ảnh hưởng của nó đến sự nghiệp giáo
dục đào tạo con người hiện nay ở nước ta là điều rất cần thiết.

3


Tiểu luận Triết học

NỘI DUNG
CHƯƠNG I: ĐƯỜNG LỐI GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ - NHO GIÁO
1.1 Hoàn cảnh ra đời đường lối giáo dục của Khổng Tử
1.1.1 Hoàn cảnh lịch sử xã hội
Trung Quốc có nghĩa là “Quốc gia trung tâm” (do thiếu thông tin về sự tồn tại
của những nền văn minh khác, nên người Trung Quốc cổ đại coi đất nước của họ là
quốc gia ở trung tâm thiên hạ), là một trong những nước có một nền văn hoá phát
triển sớm và cao nhất ở thời cổ đại. Thời nhà Chu, khoa học tự nhiên phát triển mạnh
mẽ và đạt được nhiều thành tựu. Tình hình kinh tế, xã hội cũng có nhiều biến động,
kết quả là đã dẫn đến sự đa dạng trong kết cấu giai tầng của xã hội. Chiến tranh
giành quyền lợi giữa các chư hầu xảy ra liên miên, xã hội nảy sinh nhiều mâu thuẫn,
tầng lớp dân tự do xuất hiện. Do đó, một loạt vấn đề xã hội quan trọng đặt ra cho các
nhà triết học, trong đó vấn đề quan trọng nhất là tìm con đường, kế sách đưa đất

nước Trung Quốc từ loạn thành trị. Hơn nữa, trong thời kỳ này, các thế lực phong
kiến đang lên có nhu cầu sử dụng người hiền tài để giúp họ quản lí xã hội, phát triển
thế lực, tranh giành quyền lực và đồng thời cũng để cho giới trí thức có được tự do tư
tưởng trong những giới hạn nhất định. Những điều kiện đó tạo ra một môi trường
thuận lợi cho các nhà triết học phát triển và khẳng định quan điểm của mình. Lịch sử
gọi là thời kì “bách gia chư tử” , “bách gia tranh minh”. Những tình hình này có ảnh
hưởng lớn đến các tư tưởng triết học Trung Quốc thời cổ đại trong đó có tư tưởng
triết học của Khổng Tử.
Thời đại của Khổng Tử là thời đại “Vương đạo suy vi”, “Bá đạo” đang nổi lên
lấn át “Vương đạo” của nhà Chu; trật tự lễ pháp cũ của nhà Chu đang bị đảo lộn.
Đứng trên lập trường bộ phận cấp tiến trong giai cấp quý tộc Chu, ông chủ trương
lập lại pháp chế của nhà Chu với một nội dung mới cho phù hợp. Và từ đó, ông chủ
chủ trương đường lối giáo dục riêng, đáp ứng nhu cầu thực tế lịch sử xã hội Trung
Quốc lúc bấy giờ.
4


Tiểu luận Triết học

1.1.2 Cuộc đời và sự nghiệp của Khổng Tử
Khổng Tử (551 – 479 TCN) tên là Khâu, tự là Trọng Ni, là nhà triết học lớn
nhất ở Trung Quốc cổ đại, là người sáng lập ra đạo Nho – học thuyết triết học chính
trị – xã hội lớn nhất ở Trung Quốc thời kì Xuân Thu. Ông sinh ra tại ấp Trâu, làng
Xương Bình, nước Lỗ (nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc) trong
một gia đình quí tộc. Cha mất khi lên 3 tuổi, Khổng Tử ở với mẹ trong cảnh nghèo
khổ, phải làm việc vất vả hằng ngày nhưng rất chăm học. Năm 19 tuổi lấy vợ và
được bổ nhiệm chức quan coi kho sách. Năm 22 tuổi, Khổng Tử mở trường dạy học
và trong suốt 20 năm từ năm 34 tuổi đến năm 51 tuổi ông dẫn học trò đi khắp nơi để
truyền bá tư tưởng và tìm người sử dụng tư tưởng đó. Có nơi ông được trọng dụng
nhưng cũng có nơi không. Năm 51 tuổi ông quay về nước Lỗ làm đến chức Thượng

thư nhưng rồi lại từ quan vì bị dèm pha và lại phải ra đi một lần nữa. Nhìn chung tư
tưởng và đạo lí của ông không phù hợp với các chế độ chính trị đương thời. Năm 68
tuổi, Khổng Tử quay về quê nước Lỗ, tiếp tục dạy học và bắt tay soạn sách với lòng
mong muốn học trò sẽ tiếp tục thực hiện lí tưởng của mình.
Khổng Tử là một nhà giáo dục lớn được người Trung Hoa tôn vinh là “Vạn
thế sư biểu” nghĩa là bậc thầy của muôn đời. Nhìn vào sự nghiệp của Khổng Tử trên
lĩnh vực học thuật và đạo lý, ngoài việc “san dịch” các cuốn Kinh Thi, Thư, Dịch,
Lễ, Nhạc và viết cuốn biên niên nước Lỗ gọi là Kinh Xuân Thu, còn có nhiều câu nói
ông giảng giải cho các môn đệ được các môn đệ ghi lại (sau khi ông mất) thành cuốn
“Luận ngữ”. Trải qua bốn mươi năm “dạy người không mỏi”, Khổng Tử thu nhận
trên dưới ba nghìn môn đệ. Trong đó, có bảy mươi hai người được gọi là hiền, bao
gồm cả những người được gọi là “triết”, hậu thế gọi là “Thất thập nhị hiền”. Học
thuyết chính trị đạo đức của Khổng Tử được công nhận là học thuyết chính thống ở
Trung Hoa, Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật Bản trong thời đại phong kiến. Nhà thờ và
tượng Khổng Tử được xây dựng ở khắp nơi. Hiện nay, ở huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn
Đông, Trung Quốc còn gìn giữ mộ Khổng Tử và có hàng chục nghìn người họ
5


Tiểu luận Triết học

Khổng nhận mình là hậu duệ Khổng Tử. Ông Khổng Đức Thành, hậu duệ đời thứ 77
của Khổng Tử hiện là giáo sư Đại học Quốc gia Đài Loan. Hậu duệ đời thứ 80 của
Khổng Tử cũng đã được thông báo ra đời ở Đài Bắc.
1.2. Nội dung tư tưởng triết học chính trị - đạo đức của Khổng Tử
Nho giáo được ra đời ở thời Xuân Thu do Khổng Tử (551 – 479 TCN) sáng
lập. Sau khi ông mất, tư tưởng của ông đã được các thế hệ học trò kế thừa. Đến thế
kỷ II TCN, Nho giáo mới được giai cấp phong kiến sử dụng vào việc trị quốc. Ở
Trung Quốc, Nho giáo đã tồn tại trong suốt thời phong kiến và là công cụ giúp các
triều vua cai trị đất nước.

Khổng Tử và các học trò của ông đã thấy được sức mạnh và vai trò to lớn
của đạo đức đối với xã hội. Vì vậy, nội dung quan trọng của Nho giáo là luận bàn
về đạo đức.
Theo Khổng Tử, đạo là năm mối quan hệ xã hội cơ bản của con người được
gọi là nhân luân, Mạnh Tử gọi là ngũ luân: vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh
em, bạn bè. Trong đó, ba mối quan hệ cơ bản nhất, Đổng Trọng Thư gọi là Tam
cương - ba sợi dây ràng buộc con người từ trong quan hệ gia đình đến ngoài xã
hội. Đức chính là các phẩm chất quan trọng nhất mà con người cần phải có để thực
hiện tốt các mối quan hệ cơ bản trên. Khổng Tử nhấn mạnh “Tam đức” (nhân, trí,
dũng); ở Mạnh Tử là “Tứ đức” (nhân, nghĩa, lễ, trí); Đổng Trọng Thư là “ngũ
thường” (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Tam cương và ngũ thường được kết hợp và gọi tắt
là đạo cương - thường.
Cương - thường là nội dung cơ bản trong đạo làm người của Nho giáo, là
nguyên tắc chi phối mọi suy nghĩ, hành động và là khuôn vàng thước ngọc để đánh
giá phẩm hạnh của con người. Một mặt, đạo cương - thường góp phần điều chỉnh
hành vi của con người, đưa con người vào khuôn phép theo chế độ lễ pháp của nhà
Chu trước đây và các triều đại phong kiến sau này đặt ra. Cương - thường là nhân
tố quan trọng làm cho xã hội ổn định theo thứ bậc, là cơ sở đảm bảo quyền thống trị
6


Tiểu luận Triết học

của thiên tử. Mặt khác, đạo cương - thường với nội dung “quân xử thần tử, thần bất
tử bất trung”, “phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu” (vua xử bề tôi chết, bề tôi
không chết là không có lòng trung, cha xử con chết, con không chết là không có
hiếu) là sợi dây trói buộc con người, làm cho con người thụ động trong cả suy nghĩ
và hành động. Tư tưởng này là lực cản sự phát triển của xã hội và là một trong
những nguyên nhân làm cho xã hội phương Đông trì trệ.
Phạm trù đạo đức đầu tiên, cơ bản nhất trong đạo cương - thường là Nhân

(đức nhân). Tất cả các phạm trù đạo đức khác đều xoay quanh phạm trù trung tâm
này. Từ đức nhân mà phát ra các đức khác và các đức khác lại quy tụ về đức này.
Cả cuộc đời mình, Khổng Tử đã dành nhiều tâm huyết để làm cho đức nhân trở
thành hiện thực. Ông mong muốn các học trò rèn luyện để đạt được đức nhân và
ứng dụng nó trong thực tiễn. Đức nhân được Khổng tử bàn đến với nội dung cơ bản
sau:
- Nhân có nghĩa là yêu người : “Phàn Trì hỏi về người nhân, Khổng Tử nói:
(đó là người biết) yêu người” (Phàn Trì vấn nhân, Tử viết: “ái nhân”)(1).
- Nhân có nghĩa là trung và thứ. Bàn về chữ trung, ông giải thích:“Người
nhân là người mình muốn lập thân thì cũng giúp người lập thân, mình muốn thành
đạt thì cũng giúp người thành đạt” (Phù nhân giả, kỉ dục lập nhi lập nhân, kỉ dục
đạt nhi đạt nhân)(2). Về chữ thứ, ông viết: “Điều gì mình không muốn, chớ thi
hành cho người khác” (Kỉ sở bất dục vật thi ư nhân)(3). Như vậy, trung thứ tức là
từ lòng mình suy ra lòng người, phải giúp người. Khổng Tử khuyên rằng nên làm
cho người những cái mà mình muốn và đừng làm cho người những cái mình không
muốn.
- Đối với bản thân mình, người có đức nhân là phải thực hiện đúng lễ: “Dẹp
bỏ tư dục, trở về với lễ là phát huy điều nhân” (Khắc kỉ phục lễ vi nhân)(4). Lễ là
hình thức thể hiện nhân và cũng là một chuẩn mực của Ngũ thường.

7


Tiểu luận Triết học

Phạm trù đức nhân tuy bao chứa nhiều nội hàm khác nhau, song cái gốc và
cốt lõi của nhân là hiếu đễ. Theo Khổng Tử, tình cảm giữa cha mẹ và con cái, giữa
chồng và vợ, giữa anh em với nhau (quan hệ gia đình) là những tình cảm tự
nhiên,vốn có thuộc về bản tính con người. Từ cách hiểu này, ông cho rằng, trong
gia đìnhnếu người cha đứng đầu thì mở rộng ra trong nước có ông vua đứng đầu.

Khổng Tử hình dung quốc gia là một gia đình lớn, ông vua là người cha của gia
đình ấy. Nho giáo đặt vua đứng đầu trong tam cương và ngũ luân. Vì vậy, đạo làm
người phải tận hiếu với cha mẹ, tận trung với vua. Một người biết yêu thương kính
trọng cha mẹ mình thì mới biết yêu thương người ngoài. Khổng Tử bàn đến đạo
đức từ xuất phát điểm đầu tiên là gia đình, từ đó suy rộng ra đến quốc gia và thiên
hạ. Coi trọng vai trò gia đình trong việc hình thành và tu dưỡng đạo đức của con
người ở Nho giáo là một khía cạnh hợp lý và vẫn còn có ý nghĩa nhất định đối với
ngày nay, bỡi lẽ, gia đình là một tế bào của xã hội, xã hội không thể ổn định, thịnh
trị nếu các gia đình lục đục và vô đạo. Vì vậy, người cầm quyền nếu không “tề gia”
(cai quản gia đình) của mình thì cũng không thể “trị quốc” (cai trị đất nước) được.
Nhân còn gắn liền với Nghĩa (nghĩa vụ, thấy việc đúng cần phải làm để giúp
người). Khổng Tử cho rằng người quân tử cần chú ý đến nghĩa và coi thường lợi.
Muốn thực hiện nhân, nghĩa thì cần có lòng dũng cảm (dũng) và có Trí (trí tuệ). Có
trí mới biết cách giúp người mà không làm hại đến người, đến mình, mới biết yêu
và ghét người, mới biết đề bạt người chính trực và gạt bỏ người không ngay thẳng.
Tuy nhiên, trí theo Khổng Tử và các môn đệ của ông không phải là những tri thức
phản ánh thực tại khách quan của tự nhiên và xã hội để từ đó chỉ đạo hành động của
con người mà là những tri thức mang tính giáo điều, chỉ gói gọn trong sự hiểu biết
sách vở của Nho giáo (Tứ thư và Ngũ kinh).
Như vậy, đối với Khổng Tử, nhân chính là đạo lý làm người, vừa thương
người (ái nhân), vừa phải giúp người (cứu nhân). Ông cho rằng, khi thi hành điều
nhân phái phân biệt thân sơ, trên dưới. Nếu ở Khổng Tử đức nhân mang tính phức
8


Tiểu luận Triết học

tạp rất khó thực hiện, nó vừa là lý tưởng nhưng lại mang yếu tố không tưởng thì
đến thời Hán, đức nhân lại được khoác thêm cái vỏ tôn giáo thần bí, do vậy càng
không tưởng hơn.

Về phạm trù Lễ, theo Nho giáo, lễ là quy định về mặt đạo đức trong quan hệ
ứng xử giữa người với người. Con cái phải có hiếu với cha mẹ, bề tôi phải trung
với vua, chồng vợ có nghĩa với nhau, anh em phải trên kính dưới nhường, bạn bè
phải giữ được lòng tin. Những quy tắc này là bất di bất dịch mà ai cũng phải tuân
theo. Lễ là sợi dây buộc chặt con người với chế độ phong kiến tập quyền. Khổng
Tử yêu cầu, từ vua cho đến dân phải rèn luyện và thực hiện theo lễ. Đến Đổng
Trọng Thư, lễ đã được đẩy lên đến cực điểm của sự khắt khe. Chỉ vì giữ lễ mà dẫn
đến những hành vi ngu trung, ngu hiếu một cách mù quáng ở không ít người trong
xã hội trước đây.
Tư tưởng lễ của Nho giáo có tính hai mặt. Về ý nghĩa tích cực, tư tưởng lễ đã
đạt tới mức độ sâu sắc, trở thành thước đo, đánh giá phẩm hạnh con người. Sự giáo
dục con người theo lễ đã tạo thành một dư luận xã hội rộng lớn, biết quý trọng
người có lễ và khinh ghét người vô lễ. Lễ không dừng lại ở lý thuyết, ở những lời
giáo huấn mà đã đi vào lương tâm của con người. Từ lương tâm đã dẫn đến hành
động đến mức trong các triều đại phong kiến xưa, nhiều người thà chết chứ không
bỏ lễ: chết đói là việc nhỏ, nhưng thất tiết mới là việc lớn (Chu Hy). Nhờ tin và làm
theo lễ mà các xã hội theo Nho giáo đã giữ được yên ổn trong gia đình và trật
tự ngoài xã hội trong khuôn khổ của chế độ phong kiến. Lễ trở thành điều kiện bậc
nhất trong việc quản lý đất nước và gia đình. Yếu tố hợp lý này chúng ta có thể học
tập.
Về mặt hạn chế, lễ là sợi dây ràng buộc con người làm cho suy nghĩ và hành
động của con người trở nên cứng nhắc theo một khuôn phép cũ; lễ đã kìm hãn sự
phát triển của xã hội, làm cho xã hội trì trệ. Điều này nói lên rằng, tư tưởng Nho
giáo mang tính bảo thủ, tiêu cực, phản lịch sử. Khổng Tử đã từng nói: “ Ta theo lễ
9


Tiểu luận Triết học

của nhà Chu vì lễ đó rực rỡ lắm thay” và ông luôn mong xã hội lúc đó quay về thời

đại Nghiêu, Thuấn. Khách quan mà đánh giá, thì hạn chế trên của Nho giáo có
nguyên nhân từ thực tế lịch sử. Bởi vì, Khổng Tử sống trong thời đại xã hội loạn
lạc, người ta tranh giành nhau, chém giết nhau không từ một thủ đoạn tàn ác nào để
tranh bá, tranh vương, để có bổng lộc chức tước. Ông hoài cổ, muốn quay ngược
bánh xe lịch sử cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, chính mặt hạn chế này của Nho
giáo đã để lại tàn dư cho đến tận ngày nay, nó trở thành phong tục, lối sống, nó
thấm sâu vào suy nghĩ và hành động của không ít người ở các nước phương Đông,
nơi tiếp nhận và chịu ảnh hưởng của Nho giáo.
Tín là đức tính thứ năm trong Ngũ thường. Tín có nghĩa là lời nói và việc
làm phải thống nhất với nhau, là lòng tin của con người với nhau. Tín góp phần
củng cố lòng tin giữa người với người. Trong ngũ luân thì tín là điều kiện đầu tiên
trong quan hệ bè bạn. Tuy nhiên, nội hàm của đức tín không chỉ bó hẹp trong mối
quan hệ duy nhất này mà nó còn bao gồm cả lòng tin vô hạn vào đạo lý của bậc
thánh hiền và các mối quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ. Theo quan niệm của Nho
giáo thì đức tín là nền tảng của trật tự xã hội.
Để thực hiện nhân và lễ, Khổng tử đã nêu ra tư tưởng chính danh (danh
nghĩa là tên gọi, danh phận, địa vị; chính có nghĩa là đúng, là chấn chỉnh lại cho
đúng tên gọi và danh phận). Do đó, chính danh là làm cho mọi người ai ở địa vị
nào, danh phận nào thì giữ đúng vị trí và danh phận của mình, cũng không dành vị
trí của người khác, không lấn vượt và làm rối loạn. Ông cho rằng nguyên nhân hỗn
loạn ở thời Xuân Thu là do thiên tử nhà Chu không làm tròn trách nhiệm (không
làm đúng danh) để quyền lợi vào tay chư hầu; chư hầu không làm đúng danh nên sĩ
đã lấn át. Vì vậy, để xã hội ổn định thì mọi người cần làm đúng danh phận. Theo
ông, “Danh không chính thì lời nói chẳng thuận, lời nói không thuận thì việc chẳng
nên, việc không nên thì lễ nhạc chẳng hưng vượng, lễ nhạc không hưng vượng thì
hình phạt chẳng trúng, hình phạt không trúng ắt dân không biết xử trí ra sao” (danh
10


Tiểu luận Triết học


bất chính tắc ngôn bất thuận, ngôn bất thuận tắc sự bất thành, sự bất thành tắc lễ
nhạc bất hưng, lễ nhạc bất hưng tắc hình phạt bất trúng, hình phạt bất trúng tắc dân
vô sở thố thủ túc)(5). Riêng đối với người cầm quyền vua- thiên tử được thay trời
cai trị thì càng phải làm đúng danh của mình, như vậy mọi người mới noi theo. Đặc
biệt, trong việc chính sự (việc nước), điều đầu tiên nhà vua phải làm là lập lại chính
danh, phải xác định vị trí, vai trò, nghĩa vụ và trách nhiệm của từng người để họ
hành động cho đúng. Khổng tử cho rằng không ở chức vị ấy thì không được bàn
việc của chức vị đó, không được hưởng quyền lợi, bổng lộc của chức vị ấy.
Mục đích của chính danh mà Nho giáo đề cao là sự ổn định xã hội, suy cho
cùng là để bảo vệ quyền của thiên tử, duy trì sự phân biệt đẳng cấp. Chính danh
không những chỉ là nội dung tư tưởng chính trị của Nho giáo, mà còn mang ý nghĩa
đạo đức, là một yêu cầu về mặt đạo đức của con người. Chúng ta biết rằng, một
trong những phạm trù đạo đức đó là lương tâm, trách nhiệm. Nếu xét theo nghĩa
này thì một người làm tròn nghĩa vụ và bổn phận của mình tức là người đó có đạo
đức.
Ý nghĩa tích cực của tư tưởng chính danh là làm cho con người ý thức được
trách nhiệm, nghĩa vụ của mình một cách rõ ràng trong các mối quan hệ xã hội.
Con người tồn tại trong vô vàn các quan hệ xã hội đan xen, ở mỗi mối quan hệ đó
con người có nghĩa vụ nhất định phải thực hiện. Điều này là cần thiết ở mọi chế độ
xã hội, ở mọi thời đại. Tư tưởng chính danh yêu cầu con người thực hiện một cách
đúng mức nghĩa vụ của bản thân trước cộng đồng và xã hội trong khuôn khổ danh
phận, góp phần vào duy trì bình ổn xã hội. Tư tưởng này còn kìm hãm tự do của
nhân cách tới mức không chấp nhận bất kì sáng kiến nào của con người, làm cho
con người luôn ở trạng thái nhu thuận, chỉ biết phục tùng theo chủ trương “thuật
nhi bất tác” (chỉ làm theo mà không sáng tác gì thêm). Tư tưởng chính danh đã quá
đề cao danh phận, làm cho con người luôn có tư tưởng hám danh, chạy theo danh,

11



Tiểu luận Triết học

theo chức đến mức nhiều người vì hám danh quên phận mà quên cả luân thường
đạo lý.
Mặc dù có những quan niệm khác nhau, nhấn mạnh đức này hay đức khác
của con người nhưng nói chung, các nhà nho đều cho rằng con người cần phải có
những phẩm chất đạo đức cơ bản: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
1.3. Đường lối giáo dục của Khổng Tử - Nho giáo
Khổng Tử là nhà giáo dục lớn. Học trò của ông có đến ba nghìn, trong đó có
nhiều người nổi tiếng. Khổng Tử cho rằng “tính tương cận, tập tương viễn” (Tính thì
gần nhau, nhưng tập thì xa nhau). “Tính” có nghĩa là bản tính tự nhiên của con người
(human nature); tập có nghĩa là rèn luyện (practice). Bản tính tự nhiên của mọi người
gần giống nhau (vì nó xuất phát từ bản năng), nhưng do việc học tập, rèn luyện của
mỗi người khác nhau, nên nhân cách của mỗi người trở nên khác nhau. Theo ông,
mục đích của giáo dục là rèn luyện nhân cách. Ông nói, “Đại học chi đạo tại minh
đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện” (Cái đạo đại học là làm rạng cái đưc sáng, đổi
mới con người, hướng tới điều thiện cao nhất).
Người nhân cũng là người có trí, dũng. Muốn có trí phải học tập, tu dưỡng.
Người quân tử học không chỉ để hiểu biết sự vật, có tri thức, biết đạo lí, để tu thân, tề
gia (cách vật, trí tri, tu thân, tề gia) mà còn để trị quốc, bình thiên hạ.
Nguyên tắc giáo dục của Khổng Tử là:
Học đi đôi với hành. Học (lí thuyết) đi đôi với tập (rèn luyện kỹ năng) (Học nhi
thời tập chi). Thực hành tri thức, đạo lý của mình chính là ra làm quan giúp vua giúp
nước. Khổng Tử nói: “Trong lúc xã hội rối ren, không ra làm quan không phải là kẻ
trí, không ra giúp đời không phải là người nhân”. Tuy nhiên, đối với người quân tử,
học không phải để mưu cầu chức tước, bồng lộc. Học phải không biết mệt mỏi. Học
phải đào sâu suy nghĩ. Thông qua việc nghiên cứu cái cũ để biết cái mới (Ôn cố nhi
tri tân).


12


Tiểu luận Triết học

Tuy nhiên, đường lối giáo dục của Khổng Tử có những hạn chế: Nặng về giáo
dục chính trị đạo đức, không coi trọng việc giáo dục trí thức, khoa học, kỹ thuật.
Khổng Tử coi sản xuất vật chất là công việc của kẻ tiểu nhân, không phải là trách
nhiệm của người quân tử. Chủ trương theo khuôn mẫu cũ, không khuyến khích việc
sáng tạo ra cái mới. Chính Khổng Tử cũng thú nhận: “Thuật nhi bất tác”, coi thường
phụ nữ.
Khổng Tử rất vui với cuộc đời dạy học và bầu bạn với nhiều người từ phương
xa đến, như ông đã nói trong quyển Luận Ngữ:
“Học nhi thời tập chi bất diệc duyệt hồ?
Hữu bằng tự viễn phương lai bất diệc lạc hồ?”
Ý nghĩa của câu này là: “Học và thường luyện tập chẳng đẹp lắm sao? Có bầu
bạn từ phương xa tìm đến như vậy chẳng vui lắm sao?”
Tuy nhiên nhà giáo dù có yêu nghề, yêu thương đệ tử đến đâu cũng không thể
quên được nợ núi sông. Học không phải chỉ để “tu thân” với “tề gia”, nó còn đòi
hỏi người ta phải đem tài đức của mình ra để “trị quốc” và giúp “bình thiên hạ”
nữa. Khổng Tử là bậc thầy đã dạy người ta phải “tu, tề, trị, bình” thì không thể
không tự mình áp dụng chủ trương đó. Ông phải đem “vương đạo” ra thi thố, phải
phổ biến chủ trương và chánh sách chính trị, đạo đức ở các nơi trên đất nước. Do
đó mà ông đã tạm ngưng việc dạy học để ra chấp chánh một thời gian. Theo lời mời
của vua nước Lỗ, ônhg ra giữ chức Trung Đồ Tể, tức là Kinh Thành Phủ Doãn (như
Đô trưởng bây giờ.) Sau đó ít lâu được thăng lên chức Đại Tư Khấu, cũng như
Hình Bộ Thượng Thư, tức như Tổng Trưởng Tư Pháp ngày nay. Và sau cùng được
cử làm Nhiếp Tướng Sự, quyền nhiếp việc chính trị trong nước như Thủ tướng của
một quốc gia vậy.
Tuy nhiên vì ông là người hết mực đạo đức, chỉ muốn đem Vương đạo ra thi

thố trên đời, cho nên chính sách cai trị của ông tuy có lợi cho nhân dân vẫn không
được các vua chúa thời đó trọng dụng. Lý do dễ hiểu là vì thứ chính trị đạo đức đó
13


Tiểu luận Triết học

chỉ có lợi cho dân mà không thỏa mãn được lòng tham quyền quý cao sang của vua
chúa lúc bấy giờ. Khổng Tử và một số ít đệ tử trung thành đã đi chu du thiên hạ
suốt mười mấy năm trời không tìm được một nơi nào để có thi hành vương đạo
nữa. Sau 14 năm chu du khắp nước mà không được ai dùng đến trong việc trị nước.
ông lại trở về nước Lỗ, sống những ngày còn lại của cuộc đời nơi quê nhà. Lúc này
Ngài đã được 68 tuổi.
Năm 474 trước Tây lịch, một hôm Khổng Tử dậy sớm đi tới đi lui trước cửa
vừa hát:
“Thái Sơn kỵ đồi hồ?
Lương mộc kỵ hoại hồ?
Triết nhân kỵ ngụy hồ?
(Tạm dịch)
“Núi Thái Sơn có lẽ sẽ đổ chăng?
Cây lương mộc có lẽ sẽ nát chăng?
Người hiền triết có lẽ sẽ nguy rồi chăng?”
Bài hát này nói lên tâm trạng của Khổng Tử khi ông nằm mộng thấy rằng
mình sắp sửa lìa đời. Ông thuật giấc mộng đó cho người học trò thân tín nhất của
mình là Tử Cống biết. Giấc chiêm bao thật là linh ứng. Mấy hôm sau Khổng Tử
trút hơi thở cuối cùng. Ông thọ 73 tuổi.
Khổng Tử mất rồi các đệ tử vô cùng thương tiếc. Ai cũng để tang ba năm. Có
hơn 100 đệ tử làm nhà ở gần mộ Khổng Tử cho đến khi mãn tang. Riêng Tử Cống
thì đã ở đó đến hơn 6 năm.
Tư Mã Thiên trong phần thuật lại cuộc đời của Khổng Tử đã viết: “Tôi đọc

sách họ Khổng, tưởng tượng như trông thấy cách làm người của Thầy. Sang nước
Lỗ xem nhà thờ Khổng Tử với nào xe, nào áo, nào đồ thờ, nào các học trò thời
thường đến đó tập lễ, tôi bồi hồi ở lại không về được. Nhiều vua chúa và những
14


Tiểu luận Triết học

người tài giỏi khi sống rất vẻ vang nhưng khi chết rồi là hết, chẳng còn gì để lại cho
đời sau. Thầy Khổng Tử thì áo vải đạm bạc vậy mà khi mất đi rồi lời dạy của thầy
truyền hơn 10 đời mà học giả vẫn còn tôn trọng. Từ Thiên Tử đến vương thần ở nơi
xứ Trung Quốc này, hễ nói đến Sấm Kinh đều phải lấy thầy làm đích. Thật đáng là
bậc chí thánh vậy.”
Cuộc đời của Khổng Tử là cuộc đời của một nhà giáo dục chân chính, một
bực thầy vĩ đại không phải là chỉ riêng Trung Hoa mà còn cho cả thế giới loài
người nữa. Với Khổng Tử địa vị của ông thầy đã được người đời xưa nâng lên trên
cả địa vị của ông cha trong gia đình . “ Quân, Sư, Phụ” sau ông vua là đến ông thầy
rồi sau hết mới đến ông cha. Người cha cũng có bổn phận dạy dỗ, giáo dục con cái
của mình, nhưng trong xã hội xưa người dạy dỗ con mình nhiều nhất, người theo
dõi san sóc vun xới cái vườn kiến thức và đạo đức của con mình biến nó thành một
vườn hoa tươi tốt người đó chính là ông thầy nó. Làm cho một người trở thành một
người có kiến thức có đạo đức sống xứng đáng với ý nghĩa cao đẹp của con người
đó là công của ông thầy, của người biết mang trong mình cái trọng trách “hối nhân
bất quyện” (dạy người không biết mệt). Khổng Tử đã ý thức được sứ mạng cũng
như thiên chức cao quý của một lương sư. Sứ mạng cũng như thiên chức đó là
truyền bá cho người đời đạo làm người hay lề lối sống thế nào để cho cá nhân, gia
đình, quốc gia, xã hội loài người được tốt đẹp, trật tự, hòa bình. Hậu thế đã tôn
sung ông như bậc thầy của muôn đời, bậc “vạn thế sư biểu”, bởi chủ trương, đường
lối, mục tiêu, phương pháp giáo dục của ông chứa đựng nhiều giá trị mà người đời
sau phải công nhận và học hỏi.

Giáo dục là phải đổi mới. Nhưng đổi mới ở đây không phải cắt đứt hẳn với
quá khứ để khoác lên mình một bộ mặt hoàn toàn mới lạ không liên hệ gì tới dĩ
vãng. Giáo dục không phải là cách mạng để có thể xóa bỏ hết những gì đã có dù
tốt, dù xấu. Sự đổi mới của giáo dục có tính cách liên tục và chọn lọc. Người làm
giáo dục phải nghiên cứu học hỏi cái cũ, chọn lấy cái hay cái đẹp của quá khứ để từ
15


Tiểu luận Triết học

đó thêm vào cái tốt đẹp của cái mới. Một phần quan trọng của cuộc đời Khổng Tử
đã được dâng hiến cho việc sưu tầm, nghiên cứu, chọn lọc, san định kinh sách để
lưu truyền di sản tinh thần tốt đẹp đó của cố nhân cho thế hệ sau nầy. Khổng Tử đã
từng khiêm nhượng bảo là ông chỉ “thuật nhi bất tác” (có nghĩa là chỉ thuật lại
những gì người xưa đã nói chớ chính mình không có sáng tác gì mới mẻ), nhưng
ngay trong việc thuật lại đó cũng đã có phải sáng tác lớn lao của ông rồi. Vì thuật
lại ở đây không có nghĩa là ghi chép lại trọn vẹn y như cũ mà là nghiên cứu, sưu
tập, chọn lựa, sắp xếp làm thành hệ thống. Đó là một hình thức sáng tác vậy… Vả
lại Khổng Tử không phải chỉ đào sâu vào quá khứ thôi mà ông còn bổ sung cho quá
khứ đó nữa. Cho nên một ông thầy giỏi, theo Khổng Tử phải là người biết những
cái mới bằng cách ôn lại những cái cũ. Biết “Ôn cố nhi tri tân” là có thể dạy được
người khác vậy. Trong chủ trương trên người ta thấy có tinh thần khiêm nhường để
học hỏi cái hay xưa cùng với tính cách liên tục từ trước đến giờ và mãi mãi về sau.
Nó không phải là một thứ cách mạng cắt đứt hoàn toàn với quá khứ để tạo ra cái gì
mới mẻ lạ lùng. Nó bao hàm ý nghĩa của sự tiến bộ, đổi mới, thực hiện một cách
chắc chắn vững chãi, tựa trên sự tiếp nối liên tục với quá khứ.
Những suy tư về giáo dục cũng như phương pháp học tập của Khổng Tử tuy
rải rác ở nhiều chỗ trong Tứ Thư nhưng phần chính yếu được cô đọng trong quyển
Đại học. Ngày nay chúng ta dùng danh từ đại học để chỉ bậc học cao nhất trong ba
bậc học quen thuộc là tiểu học, trung học và đại học. Bậc đại học là bậc tiếp theo và

cao hơn bậc trung học. Ngày xưa ở thời đại của đức Khổng Tử, giáo dục chưa được
tổ chức có hệ thống và qui củ như ngày nay thành ra chưa có sự phân định rõ ràng
về ba bậc tiểu – trung – đại học như bây giờ. Tuy nhiên danh từ “Đại Học” mà
Khổng Tử dùng làm nhan đề cho quyển sách của ông cũng mang ý nghĩa của cái
học ở bậc cao. Thật sự thì cũng chẳng có tiêu chuẩn nào ấn định rõ rệt thế nào là
bậc cao vì vậy nên nhiều học giả cho rằng đại học ở đây chỉ cái học của bậc cao
nhân quân tử (hay đại nhân) tức là cái học của những người có tài có đức để kẽ sĩ ra
sức gánh vác việc quốc gia, xã hội. Nhưng dù hiểu thế nào đi nữa thì việc giáo dục
16


Tiểu luận Triết học

của đức Khổng Tử cũng có tính cách mở rộng cho mọi người chớ không phải giới
hạn cho một loại người nào lúc bắt đầu. Không phải là bậc đại nhân rồi mới được
lựa chọn để theo học. Không có vấn đề thi tuyển hay khảo sát gì cả, và cũng không
có một chính sách kỵ thị nào trong vấn đề thu nhận người vào học. Đối với Khổng
Tử mọi người khi sinh ra đời đều mang trong mình bản tính tốt tự nhiên ai cũng
như ai. Nhưng khi lớn lên vì ảnh hưởng của xã hội, của hoàn cảnh xung quanh và
môi trường sinh sống mà người ta thay đổi khác nhau. Người ta khi sinh ra đời ai
cũng có bộ óc, có đời sống trí thức, hay cái “minh đức” như Khổng Tử gọi, cho nên
ai cũng có thể được giáo dục để trở nên tốt đẹp hơn.
Vì ai cũng như ai, lúc bắt đầu, ai cũng mang trong mình bản chất và giá trị
của con người, nên cần phải có cơ hội đồng đều cho mọi người trong vấn đề học
vấn, giáo dục. Tính cách nhân bản của một nền giáo dục bắt đầu từ chỗ đó. Dịch vụ
giáo dục phải được đem đến cho mọi người một cách đồng đều không có vấn đề
sàng sãi, lựa chọn, thứ nhất là bằng lý lịch của gia đình hay tổ tông, bằng màu da,
bằng nơi sanh đẻ bằng tình trạng kinh tế xã hội (social economic status) hay bằng
bất cứ những yếu tố gì khác. Nền giáo dục được coi là nhân bản phải bắt đầu từ chỗ
mở rộng cửa ngay từ đầu để đón nhận mọi người như nhau. Vấn đề chuyên môn

hóa ở trên đại học ngày nay có thể đưa đến sự giới hạn, chọn lọc sinh viên trong
một số ngành chuyên môn nào đó. Nhưng sự hạn chế số sinh viên trong một ít
ngành chuyên môn trên đại học không phải là sự đóng kín cửa các đại học không
cho người ta được đi học vì một lý do nào đó (như vì cha ông thuộc thành phần
chánh trị khác với nhóm người đang cầm quyền chẳng hạn.) Nền giáo dục nhân bản
phải bắt đầu từ chỗ xem mọi người là con người như nhau, nghĩa là cùng mang bản
chất người và cùng có giá trị của con người.
Giáo dục của đức Khổng Tử bắt đầu từ chỗ đó. Đối tượng của nó là con
người với tất cả giá trị của con người. Mở đầu quyển Đại học Khổng Tử bảo: “Đại
học chi đạo tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện.” Câu này có nghĩa
17


Tiểu luận Triết học

là : “Con đường của đại học là ở chỗ làm sáng cái đức sáng ở nơi con người, ở chỗ
làm mới người dân, ở chỗ dừng lại ở nơi thật đẹp.” Ý nghĩa thật sự của câu nói này
cần được khai triển thêm cho rõ. Nó nói lên mục tiêu của sự học hỏi của bậc đại
nhân. Mục tiêu đó là học hỏi để làm cho tâm trí của mình được sáng tỏ, và khi tâm
trí mình được sáng tỏ mở mang thì hãy đem sự hiểu biết của mình mà giúp đỡ khai
hóa người dân làm cho dân chúng được tiến bộ mới mẻ, và tiếp tục giúp đỡ người
đời và quốc gia xã hội đưa quốc gia xã hội đến chỗ thật tốt đẹp. Mọi người ai cũng
như ai, đều mang sẵn trong người một cái “đức sáng” (minh đức) khi sanh ra đời.
Tuy nhiên vì hoàn cảnh xã hội, vì môi trường sinh sống khác biệt của mỗi người
mà cái đức sáng đó không được phát huy hoặc bị lu mờ như một tấm gương bị bám
bụi. Công việc của giáo dục là làm sao phát huy được đức sáng đó, cũng như luôn
luôn lau chùi tấm kiếng đừng cho bám bụi để làm cho nó trở nên sáng sủa sẵn có từ
trước chớ không làm cho sự sáng sủa của nó gia tăng. Ngược lại cái đức sáng ở nơi
con người nếu được trao dồi cẩn thận sẽ đựơc phát huy và trở nên sáng sủa hơn
trước rất nhiều.

Nhưng đức sáng ở con người là cái gì?
Trong địa hạt tâm lý, nhất là khi liên hệ tới giáo dục, người ta thường nói đến
trí tuệ (intelligence), là khả năng thu nhận những tin tức những dữ kiện những kiến
thức cũng như khả năng giải quyết các vấn đề một cách khéo léo nhanh chóng. Nó
là đầu não, là bộ óc là tâm trí hiểu theo nghĩa thông thường. Cái minh đức mà
Khổng Tử nói đến trong quyển Đại học của ông là trí tuệ của con người, là đầu não
là bộ óc hay tâm trí của con người vậy. Tự nó, tuy đã mang cái mầm sáng sủa,
nhưng chưa đủ sáng, nó cần phải được rèn luyện trao dồi thêm. Học vấn, giáo dục
là công trình giúp tâm trí con người được phát triển mở mang đầy đủ. Mục tiêu kế
tiếp là làm mới người dân. Có người nào cho rằng chữ “tân dân” ở đây phải đọc và
hiểu là “thân dân” mới đúng. Thân dân là gần gũi với dân, thương yêu giúp đỡ
người dân. Thân dân mới hàm chứa được lòng nhân mà Nho giáo luôn luôn nhấn
18


Tiểu luận Triết học

mạnh. Tân dân chỉ là làm mới người dân, mà làm mới người dân vì lợi ích của kẻ
thống trị, thì chưa chắc đã bao hàm ý nghĩa gần gũi, thương yêu dân chúng. Thật sự
thì đối với dân, nhà Nho thường đặt trọng tâm vào ba việc là “thứ, phú, giáo” tức là
làm cho dân đông, làm cho dân giàu và dạy dỗ giáo dục người dân. Thương dân, lo
cho đời sống của người dân được phát triển đầy đủ. Nhà Nho lúc nào cũng nghĩ đến
dân, ý dân là lòng trời theo quan niệm của Nho giáo. Cho nên theo thiển ý, tân dân
hay thân dân gì cũng được vì đối với Nho giáo tinh thần nhân bản vẫn được đề cao,
và người dân là cứu cánh chớ không phải là một phương tiện trong hệ thống triết lý
này.
Mục tiêu sao hết là dừng lại ở chỗ thật tốt đẹp (chỉ ư chí thiện). Có lẽ đây là
mục tiêu không bao giờ đạt được bởi có bao giờ đi tới chỗ chí thiện đâu. Thành ra
có thể đây là mục tiêu để người ta luôn luôn hướng tới vậy thôi chớ sự chí thiện thì
chắc chắn chẳng bao giờ có được. Chúng ta có thể hiểu mục tiêu này như là sự luôn

luôn hướng đến chỗ toàn thiện toàn mỹ. Chi tiết hơn và với một hiện biện chứng
chặt chẽ hơn Khổng Tử nói đến những giai đoạn ứng dụng của học vấn giáo dục
như sau: Tu thân, tề gia, trị quốc bình thiên hạ, tức là sửa mình cho tốt đẹp, sắp đặt
việc nhà cho đâu vào đấy, góp phần vào việc xây dựng quốc gia, và đóng góp vào
việc làm cho thế giới hòa bình yên ổn. Học vấn giáo dục phải được dùng vào việc
làm cho tốt đẹp từ cá nhân đến gia đình đến quốc gia và đến cả thế giới loài người
ở trên trần gian.
Tu thân là sửa mình, là biến con người từ chỗ sai lầm khiếm khuyết đến chỗ
đúng đắn, tốt đẹp. Tu thân đòi hỏi phải có học vấn giáo dục để mở mang trí tuệ,
phát triển óc suy tư, nhận biết được cái gì đúng, cái gì sai, giữ lấy cái đúng, cái tốt
và hành động theo những tiêu chuẩn đúng và tốt đó. Học vấn giáo dục ứng dụng
vào trường hợp mỗi cá nhân là như thế. Khi cá nhân được tu sửa, con người trở nên
tốt và đúng, thì người ta có thể dùng ảnh hưởng tốt của mình cộng thêm những kiến
thức mình đã học hỏi được để dùng vào việc sắp đặt lo lắng cho gia đình được yên
19


Tiểu luận Triết học

ấm đâu vào đó, trên dưới có ngăn nắp có trật tự. Lo cho gia đình yên ổn được rồi
thì có thể đem tài đức của mình phụng sự cho quốc gia, góp phần dựng nước và trị
nước. Trong một quốc gia, nếu từ người lãnh đạo ở trên cao như vua, tổng thống,
thủ tướng, quốc trưởng cho đến những cấp lãnh đạo ở dưới như tổng, bộ trưởng đến
đổng lý, tổng thư ký, tổng giám đốc và xuống dưới nữa như chánh sự vụ, trưởng ty,
chủ sự…đều có học vấn giáo dục, đều biết sửa mình để trở nên đúng và tốt đều biết
làm hết bổn phận và trách nhiệm của mình đối với quốc gia dân tộc thì bộ máy
chính quyền sẽ vô cùng tốt đẹp và công việc trị nước và dựng nước rất hữu hiệu và
kết quả sẽ thật mỹ mãn. Nhà cửa yên ổn, quốc gia hùng mạnh tốt đẹp thì có thể mở
rộng ảnh hưởng đi đến cảnh thanh bình an lạc cho cả thế giới loài người. Lý tưởng
hơn nữa là nếu quốc gia nào cũng có được những người có kiến thức tốt, biết sửa

mình để hành động đúng thì cảnh thanh bình an lạc cho mọi người trên cõi đời này
chắc chắn sẽ thực hiện được như vậy.
Nhưng phải học như thế nào để có thể đạt được kết quả tốt? Trong quyển Đại
học thầy Khổng Tử bảo phải “thành ý, chánh tâm, trí tri, cách vật”. Thành ý là lòng
thành thật, thành thật nhận thấy mình biết hay không biết, hiểu hay không hiểu, và
thành thật muốn học hỏi. Muốn học hỏi cho đến nơi đến chốn thì trước hết phải
nhận biết tình trạng của mình và có tấm lòng thành muốn học hỏi thật sự. Đó là
điều kiện cần phải có cho việc học. Nhưng thành ý chỉ mới là điều kiện cần thôi
chưa phải là điều kiện đủ. Chánh tâm mới là điều kiện đủ. Chánh tâm là lòng mình
phải ngay thẳng. Làm cho lòng mình ngay thẳng ở đây có nghĩa là phải dứt bỏ mọi
định kiến, mọi hiểu biết sai lầm đã có từ trước vì tất cả những cái đó có thể làm cho
cái nhìn của mình thiên lệch, thiếu vô tư. Sự thiên lệch (bias), thiếu vô tư, thiếu
khách quan sẽ rất dễ đến những nhận xét hay những hiểu biết nông nỗi, không
chính chắn. Làm cho lòng mình ngay thẳng chính chắn để đừng bị chi phối bởi
những định kiến, những hiểu biết sai lầm từ trước, để cho mình có được cái nhìn
trung thực, chính chắn về mọi sự, mọi vật. Đó là điều kiện đủ để cho sự học hỏi có
kết quả thực sự. Khi đã có những điều kiện cần và đủ rồi thì người ta có thể đi đến
20


Tiểu luận Triết học

chỗ “trí tri” tức là hiểu biết đến nơi đến chốn, bằng phương pháp “cách vật” tức là
mổ xẻ phân tích sự vật. Vật ở đây không chỉ giới hạn ở vật thể mà nên hiểu rộng là
mọi sự việc và mọi vật hay một cách tổng quát là tất cả những gì có thể trở thành
đối tượng của sự nghiên cứu học hỏi. Một vật như máy điện thoại, máy tính, cái
dây, cái hoa, con chim, con cá cho đến các sự việc như một hiện tượng xã hội hay
một hiện tượng thiên nhiên…đều có thể là đối tượng của sự nghiên cứu. Hãy phân
tích, mổ xẻ đối tượng, tìm hiểu sâu xa các chi tiết liên hệ để đi đến sự hiểu biết đầy
đủ đến nơi đến chốn đó là “trí tri tại cách vật” vậy.

Trên đây là đường lối, phương cách học hỏi, còn phương pháp giảng huấn thì
như thế nào?
Phương pháp giảng huấn mà đức Khổng Tử đã áp dụng trong cuộc đời dạy
học của Ngài cho đến ngày nay vẫn còn được khoa sư phạm (pedagogy) lưu ý học
hỏi để áp dụng, nhất là ở những nước có tự do dân chủ và nền giáo dục mang nhiều
tính chất nhân bản. Phương pháp giảng huấn của Khổng Tử không được ghi chép
thành văn nhưng người đời sau có thể suy ra từ những gì mà các đệ tử của Ngài ghi
lại về cuộc đời dạy học của Ngài. Có thể tóm tắt những nét chính trong phương
pháp giảng huấn của ông thầy vĩ đại này như sau:
- Thương từng người học trò; hiểu rõ từng cá nhân mỗi người; giúp mỗi cá
nhân phát triển tựa trên hoàn cảnh và điều kiện của mỗi người. Đây là một
điểm tâm lý sư phạm rất đáng được lưu ý. Ngày nay nhiều nhà tâm lý sư phạm vẫn
đề cao đường lối “cá nhân giáo huấn” (individualized instruction) vì người ta thấy
rằng mỗi người có một đời sống tâm lý (nhất là tính tình, nhân cách, trí tuệ…) cũng
như một môi trường sinh sống (hoàn cảnh gia đình và xã hội) đặc biệt của mình,
không ai hoàn toàn giống ai cả. Do đó khi áp dụng một chương trình học duy nhất,
cứng rắn cùng một cách giảng dạy như nhau cho cùng một số đông người thì kết
quả của công trình giảng dạy, học tập (teaching / learning process) sẽ không được
tốt đẹp lắm. Đáng lý ra người ta phải có một chương trình học và một phương pháp
21


Tiểu luận Triết học

giảng dạy thích hợp cho mỗi cá nhân học sinh nhưng việc đó không thể nào thực
hiện được cho nên người ta phải tạm dùng cách chuyên môn hóa (specializing)
phân chia các ban, phân chia học sinh ra từng lớp hay từng nhóm có trình độ gần
nhau để công việc giảng dạy / học tập có kết quả hơn. Tạo cơ hội đồng đều (equal
opportunity) để mọi người đều được hưởng quyền giáo dục, tức là không kỳ thị,
không loại bỏ một ai là điều cần phải có trong một nền giáo dục nhân bản, nhưng

điều đó không có nghĩa là phải xem tất cả các người đi học đều giống hệt như nhau
và đều bằng nhau về phương diện khả năng thu nhận và học tập.
- Vai trò của người thầy không phải là tạo ra những bộ óc cho người đi học,
cũng không phải là để nhồi vào đầu óc người đi học một mớ kiến thức nào đó
một cách máy móc và cũng không nên xem bộ óc con người như một tờ giấy
trắng mà mình muốn vẽ cái gì lên đó cũng được.
Vai trò thực sự đúng nghĩa của người thầy là người hướng dẫn, giúp đỡ cho người
đi học có cơ hội và biết đường hướng để phát triển con người toàn diện. Ở bên trời
Tây, và cũng xấp xỉ đồng thời với Khổng Tử, nhà hiền triết Socrates cũng có quan
niệm tương tự như Khổng Tử về vai trò của giáo dục hay của người làm giáo dục.
Socrates dùng một hình ảnh cụ thể hơn để nói rõ vai trò của kẻ làm thầy. Người làm
thầy cũng làm công việc tương tự như người hộ sinh (đỡ đẻ). Người đó giúp cho
đứa trẻ ra khỏi bụng mẹ để vào đời chớ người đó không phải là người sanh ra đứa
bé.
- Phương pháp giảng huấn của đức Khổng Tử đòi hỏi phải dựa trên thực tế và
có phần thực hành trong việc học chứ không phải chỉ có tính cách lý thuyết
suông. Phương pháp đó dùng lối đối thoại, dùng cách hỏi và trả lời giữa trò và thầy
khiến cho sự học vấn giáo dục trở nên linh động, gần gũi đi liền với cuộc sống thật
sự ở ngoài đời. Với mỗi đệ tử trong mỗi hoàn cảnh, Khổng Tử có câu trả lời khác
về cùng một vấn đề, vì phải tùy lúc, tùy người, tùy hoàn cảnh mà có cách giải đáp

22


Tiểu luận Triết học

cho sát với thực tế. Lý thuyết và thực hành cần phải đi đôi với nhau thì cái học mới
hữu dụng.
Giáo dục ngày nay còn bao gồm nhiều vấn đề quan trọng khác như vấn đề
quản trị, việc phát triển trường sở, thiết lập chương trình học, đào tạo giáo chức,

soạn và in sách giáo khoa, tổ chức thi cử và lượng giá, vấn đề tu nghiệp và hội thảo
v.v…ngoài những gì liên hệ tới triết lý giáo dục như mục tiêu, đường hướng,
phương pháp.
Lẽ dĩ nhiên là ổ thời đại của Khổng Tử có những vấn đề chưa được đặt ra vì
việc giáo dục ở thời đại đó chưa có lớn lao, phức tạp như bây giờ. Tuy nhiên với
mục tiêu cao cả, đường lối tốt đẹp, phương pháp hữu hiệu, giáo dục của Khổng Tử
mang nhiều tính cách nhân bản và khoa học khiến cho người đời sau phải tôn thờ
ông như bậc thầy của muôn đời “VẠN THẾ SƯ BIỂU”
Ngày đản sinh của đức Khổng Tử có một thời đã được chọn làm ngày biết ơn
thầy (teacher’s day) ở Trung Hoa. Giáo dục của đức Khổng Tử mới là giáo dục thật
sự có ý nghĩa và làm người thầy trong “nền giáo dục có ý nghĩa đó mới xứng đáng
với địa vị “quân, sư, phụ” vậy.

23


Tiểu luận Triết học

CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA ĐƯỜNG LỐI GIÁO DỤC CỦA KHỔNG
TỬ - NHO GIÁO TỚI XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
Nho giáo được du nhập vào nước ta và đã tồn tại trong suốt thời kỳ phong
kiến. Trong khoảng thời gian không ngắn đó, lịch sử tư tưởng Việt Nam đã tiếp thu
nhiều tư tưởng khác như Phật giáo, Đạo giáo…. Đã có thời kỳ Phật giáo giữ vai trò
chính yếu, nhưng nhìn chung càng về sau Nho giáo càng chiếm ưu thế và trở thành
công cụ tư tưởng cho các triều đại phong kiến Việt Nam. Do có thời gian tồn tại lâu
dài, do được các triều đại phong kiến tiếp thu và sử dụng có mục đích, cho nên Nho
giáo có ảnh hưởng sâu rộng ở nhiều lĩnh vực. Đặc biệt, tư tưởng đạo đức Nho giáo
đã trở thành cơ sở cho đạo đức thời phong kiến Việt Nam và ngày nay ảnh hưởng
của nó vẫn còn.
Đức Nhân, Nghĩa của Nho giáo đã làm cho con người có sự đối xử nhân ái,

khoan dung, độ lượng với nhau. Đức lễ, với hệ thống các qui định chặt chẽ đã giúp
con người có thái độ và hành vi ứng xử với nhau theo thứ bậc, theo khuôn phép.
Xét theo phương diện pháp luật thì lễ của Nho giáo có tác dụng tích cực trong việc
duy trì trật tự, kỷ cương của xã hội, ngày nay chúng ta có thể kế thừa. Nho giáo
quan niệm trong nước cần phải có pháp lễ (luật pháp) thì nước mới nghiêm; trong
gia đình phải có gia pháp thì mới có trên có dưới. Điều này đã tạo cho con người
nếp sống trên kính dưới nhường. Tư tưởng chính danh giúp cho con người xác định
được nghĩa vụ và trách nhiệm của mình để từ đó suy nghĩ và xử thế đúng trong các
quan hệ xã hội.
Nét đặc sắc của Nho giáo là chú trọng đến vấn đề tu dưỡng đạo đức cá nhân,
đặc biệt là chú ý đến đạo đức người cầm quyền (những người có chức, quyền). G.S.
Vũ Khiêu đã nhận xét: Ở đây Nho giáo đã nhận thức được một thực tế là những
người trong bộ máy nhà nước mà mất đạo đức thì không thể cai trị được nhân dân.
Cho nên đạo đức là một phương tiện để tranh thủ được lòng dân. Theo Nho giáo,
đạo đức người cầm quyền có ảnh hưởng lớn đến sự hưng vong của một triều đại. Vì
24


Tiểu luận Triết học

vậy, Khổng Tử khuyên người cầm quyền phải “tu thân” để làm tấm gương cho
người dưới. Với việc đề cao tu thân, coi đây là cái gốc trong rèn luyện nhân cách,
Nho giáo đã tạo nên một lớp người sống có đạo đức. Trong lịch sử dân tộc Việt
nam đã có nhiều tấm gương sáng ngời về đạo đức của các vị vua, của các anh hùng
hào kiệt. Theo các nhà kinh điển của Nho giáo, người làm quan phải có đức, phải
lấy nhân nghĩa, lấy chữ tín làm mục tiêu để cảm hóa lòng người, để cai trị. Muốn
vậy, phải đặt lợi ích của thiên hạ lên trên lợi ích của vua quan. Thiết nghĩ, ngày nay
tư tưởng nêu trên vẫn còn nguyên giá trị. Người cán bộ trong bộ máy nhà nước phải
có đức, đó là điều kiện đầu tiên để dân tin yêu, kính phục. Nho giáo coi những
người làm quan mà hà hiếp dân là độc ác, để dân đói rét là nhà vua có tội. Nho giáo

đã đề cao việc cai trị dân bằng đạo đức, bằng nhân nghĩa, bằng lễ giáo. Muốn thực
hiện được đường lối đức trị, người cầm quyền phải luôn “tu, tề, trị, bình”.
Bên cạnh ảnh hưởng tích cực, Nho giáo cũng có một số tác động tiêu cực, cụ
thể là:
Một số người do quá “trọng đức”, “duy tình” trong khi xử lý các công việc
và các mối quan hệ xã hội, dẫn đến buông lỏng kỷ cương phép nước và vi phạm
pháp luật. Coi trọng đạo đức là cần thiết nhưng vì tuyệt đối hóa vai trò của đạo đức
mà quên pháp luật là sai lầm. Tiếp thu truyền thống trọng đức của phương Đông,
nhấn mạnh quan hệ đạo đức “thân thân”, “thân hiền” của Nho giáo, nhiều người khi
có chức quyền đã kéo bè kéo cánh, đưa người thân, anh em họ hàng vào cơ quan
mình đang quản lý. Sắp xếp và bố trí cán bộ không theo năng lực, trình độ và đòi
hỏi của công việc mà dựa vào sự thân thuộc, gần gũi trong quan hệ tông tộc, dòng
họ. Trong công tác tổ chức cán bộ, vì đề cao quan hệ thân thích dẫn đến tư tưởng
cục bộ địa phương. Nhiều người vì quan hệ thân thuộc mà không dám đấu tranh với
những sai lầm của người khác. Do quan niệm sai lệch về đức Nhân Nghĩa với nội
dung đền ơn trả nghĩa mà trong thực tế một số cán bộ có thái độ ban ơn, cố tình lợi
dụng kẽ hở của chính sách và luật pháp để trục lợi, móc ngoặc, hối lộ, cửa
25


×