Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

NÉT DỔI MỚI TRONG TIỂU THUYẾT "THỜI XA VẮNG" (LÊ LỰU)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.25 KB, 36 trang )

Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Lê Lựu là một trong những cây bút có đóng góp quan trọng đối với văn học Việt
Nam thời kỳ đổi mới. Khuynh hướng nhận thức lại hiện thực cùng với sự trở lại của cảm
hứng bi kịch trong “Thời xa vắng” và nhiều tác phẩm khác của ông đã góp phần đổi mới
tư duy tiểu thuyết nước ta. Sự thành công của “Thời xa vắng” và những cuốn tiểu thuyết
được dư luận chú ý như “Đại tá không biết đùa”, “Chuyện làng Cuội”, “Sóng ở đáy
sông”, “Hai nhà”… không những khẳng định được phong cách văn của Lê Lựu mà còn
ghi dấu ấn đậm nét tên tuổi nhà văn trong quá trình vận động của tiểu thuyết Việt Nam
đương đại.
Kể từ sau năm 1975, văn học Việt Nam đứng trước nhu cầu mở rộng hơn nữa trong
việc phản ánh mọi mặt cuộc sống đa dạng và phức tạp. Khuynh hướng sử thi và cảm
hứng lãng mạn nhạt dần và được thay thế bởi cảm hứng đời tư, thế sự. Các vấn đề về
cuộc sống, giá trị đạo đức, ý thức dân chủ, về cái tôi… đã trở thành chủ đề nổi bật khiến
cho văn học càng đổi mới mạnh mẽ. Người ta hình dung lại con người, thay đổi cách
miêu tả, sử dụng ngôn ngữ, giọng điệu mới… Trước thực tế đầy biến động của lịch sử,
tiểu thuyết “Thời xa vắng” của Lê Lựu ra đời như một bức tranh sinh động, khắc hoạ
chân thực những tháng ngày đất nước trong một thời đã qua. Tìm hiểu tác phẩm trên, ta
sẽ hiểu thêm về thể loại tiểu thuyết của một thời kỳ văn học sôi động. Đồng thời qua đó
hiểu được những đóng góp của nhà văn cho nền tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Lê Lựu với những sáng tác của mình đã góp phần quan trọng vào công cuộc đổi
mới văn học. Những sáng tác của ông thu hút sự chú ý của nhiều đọc giả và các nhà lí
luận, phê bình. Đã có nhiều bài viết đăng trên các báo, tạp chí nghiên cứu về Lê Lựu, các
sáng tác của ông nói chung và tiểu thuyết “Thời xa vắng” nói riêng. Tiêu biểu có một số
bài viết như: “Lê Lựu” – trích Chân dung và đối thoại của Trần Đăng Khoa,“Tiểu thuyết


Lê Lựu thời kỳ đổi mới” của tác giả Đỗ Hải Ninh, “Thời xa vắng” của Lê Lựu và tiến
trình đổi mới văn xuôi Việt Nam của tác giả Thái Thị Mỹ Bình…
3.Nhiệm vụ nghiên cứu


Dựa vào đặc điểm thể loại tiểu thuyết và các tác phẩm, trong đề tài này chúng tôi
giới thiệu về tiểu sử, sự nghiệp sáng tác cũng như phong cách nghệ thuật, những cách tân
đổi mới trong tiểu thuyết của Lê Lựu. Chúng tôi cũng cố gắng chỉ ra những chuyển biến
về quan niệm con người, những trăn trở tìm tòi cả về phương diện nội dung và hình thức
nghệ thuật trên trang viết của nhà văn Lê Lựu. Đề tài sẽ không đi vào toàn bộ tác phẩm
của ông mà chỉ tập trung vào một tác phẩm tiêu biêu của thời kỳ đổi mới, đó là: “Thời xa
vắng”(1986) và cũng chỉ chú trọng khắc họa những nét mới, nét độc đáo của Lê Lựu thể
hiện trong tiểu thuyết.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong công trình này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp lịch sử – xã hội;
-Phương pháp so sánh;
- Phương pháp phân tích.
5. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo đề tài được cấu trúc
gồm hai chương chính.
Chương một: Lê Lựu - người lính xung kích trong trận đánh mở đường ngoạn
mục đổi mới văn chương đương đại Việt Nam.
Chương hai: “Thời xa vắng” – tiểu thuyết tiêu biểu cho khuynh hướng đổi mới
của Lê Lựu.


Phần nội dung
Chương một: Lê Lựu - người lính xung kích trong trận đánh mở đường ngoạn
mục đổi mới văn chương đương đại Việt Nam
1.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Lê Lựu
1.1.1. Cuộc đời Lê Lựu
Lê Lựu sinh ngày 12 tháng 12 năm 1942 tại một làng ngoài đê sông Hồng, xã Tân
Châu, huyện Khoái Châu (nay là Châu Giang) tỉnh Hưng Yên. Xã Tân Châu là một vùng
quê nghèo, đến nỗi cả những vụ lúa thường không đủ để nuôi người, người dân phải

trồng thêm củ dao, củ đốt để chống đói tháng ba. Câu ngạn ngữ xưa “Oai oái như phủ
Khoái xin tương” đủ để chúng ta hình dung về cái nghèo của cả vùng quê ấy. Hơn nữa
làng quê của Lê Lựu nằm bên đê sông Hồng trước đây chưa được trị thủy, vào mùa mưa
thường bị ngập lụt lớn.
Lê Lựu sinh ra từ một làng quê của cái nghèo đói, làng quê của ông khá điển hình
cho những làng quê ở tỉnh Hưng Yên. Có lẽ vì thế mà hình ảnh đói nghèo của quê hương
thường xuyên xuất hiện trong tác phẩm của ông.
Lê Lựu sinh ra trong một gia đình nhà Nho và cha ông thuộc thế hệ thứ năm của
dòng họ khoa cử nên Lê Lựu được học trường huyện tại thị trấn Khoái Châu. Là con
trong một gia đình có tám anh em, năm người đã chết trong nạn đói 1945, Lê Lựu đã trải
qua thời niên thiếu đầy gian nan và khổ cực. Năm mười tuổi ông đã phải lấy vợ. Từ năm
lớp một cho đến năm lớp bảy ông phải dậy nấu cháo rồi mới đi học, khi đi học ông phải
đi bộ suốt mười cây số đến trường học của huyện. Là một con người thông minh, học
giỏi, từ nhỏ ông đã ý thức vai trò của việc học, nhưng cái nghèo, cái đói vẫn cứ đeo bám
gia đình ông, vậy nên ông không thể tiếp tục việc học của mình.
Năm 1959, từ phủ Khoái Châu, Lê Lựu lên đường nhập ngũ. Ở trong quân ngũ, Lê
Lựu vẫn tiếp tục học bổ túc và tốt nghiệp Trung học phổ thông. Trong thời gian này, Lê


Lựu bắt đầu viết văn. Từ tinh thần đam mê học tập của mình cộng với môi trường rèn
luyện có tính kỷ luật cao mà con đường thành công của ông đã bắt đầu từ đây. Năm 21
tuổi, ông viết tác phẩm đầu tay là “Tết làng Mụa” (năm 1964), và được đăng trên tạp chí
Văn nghệ Quân đội năm 1964.
Nền văn học chống Mỹ đã sản sinh ra một thế hệ nhà văn - chiến sĩ, hay nói một
cách hình tượng là một thế hệ “nhà văn mặc áo lính”. Đó là “đặc sản” của những nền văn
học phát triển trong cách mạng và chiến tranh. Lê Lựu là một gương mặt, một chân dung
sáng rỡ trong thế hệ nhà văn này. Ông nhập ngũ sớm, từng làm phóng viên Báo Quân khu
Ba, sau đó là phóng viên mặt trận 559, từng lăn lộn ở chiến trường máu lửa với tư cách
một người lính văn hóa… Có thể nói dân tộc, nhân dân và thời đại đã “kê chỗ đứng” cho
người cầm bút như Lê Lựu và đồng nghiệp cùng trang lứa với ông. Lịch sử văn học hiện

đại Việt Nam nhất thiết phải ghi chép, đánh giá công lao của thế hệ nhà văn trưởng thành
trong kháng chiến chống Mỹ như Lê Lựu. Dẫu biết rằng một cánh én không làm nên mùa
xuân, nhưng nếu thiếu đi một cánh én thì mùa xuân thể nào cũng sẽ hao khuyết!
Nhà văn Lê Lựu, là nhà văn ưu tú trong các sáng tác văn xuôi. Khởi nghiệp là nhà
báo nhưng lại thành công trong lĩnh vực văn chương. Con đường trở thành nhà văn của
ông cũng trầy trật không kém như khi đến với công việc làm báo. Cuộc đời ông là một
tấm gương về nhân cách, độc đáo, mạnh mẽ, luôn chiến đấu trước cái xấu cái ác và sự trì
trệ trong tiến trình phát triển của xã hội tiến bộ.
Lê Lựu xuất thân từ nông thôn, nhưng đó không phải là điều đặc biệt mà cái đặc
biệt hơn là cả cái chất nông thôn ấy nó đã thể hiện rất rõ, rất đặc trưng của con người của
Lê Lựu từ hình dáng đến nhân cách. “Trông anh nhuồm nhoàm, lượm thuộm và lúc nào
cũng tốt cả, nhếch nhác như một gã thợ cày vừa từ một thửa ruộng ngàu bùn nào đó
bước lên. Gương mặt, đầu tóc, quần áo và toàn bộ con người anh đang tỏa ra mùi bùn
đất, mùi nắng gió, bụi bặm của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Con người ấy có
“đắp” com lê, cà vạt, mũ phớt, kính gọng vàng, giày mô-ka, nghĩa là tất cả những trang
bị, những phụ tùng tối tân nhất của đời sống đô thị, thì trông anh cũng chẳng ra trí


thức, cũng chẳng ra người thành phố”, “Lê Lựu như viên gạch sỉ hay nói một cách
đúng hơn – như một tảng đá hộc mà đồng bằng Bắc Bộ đã đúc nên. Cái chất quê kiểng
đặc sịt này là cái duyên của Lê Lựu, cũng là cái Lê Lựu hơn người. Tiếp xúc với anh
người ta mến ngay. Mà đâu phải chỉ mến, còn “mê” nữa. Lê Lựu thông minh, hóm hỉnh,
nói chuyện có duyên và có sức lôi cuốn. Người nghe như bị bỏ bùa, bị thôi miên, bị đánh
huốc lú” (Thời xa vắng, Nhà xuất bản Hội Nhà văn).
Có lẽ vì gắn bó đặc biệt với nông thôn, với quê hương nên trong những tiểu thuyết,
truyện ngắn của ông, nhân vật đều là những người thân trong gia đình, làng xóm với bối
cảnh làng quê thân thuộc. Lê Lựu đã xây dựng nên những nhân vật điển hình trong văn
chương Việt Nam cuối thế kỷ XX, đầy ám ảnh trong tâm trí người đọc và đó luôn là
những “anh nông dân gốc rạ” như Giang Minh Sài (Thời xa vắng), Núi (Sóng ở đáy
sông)…

1.1.2. Sự nghiệp sáng tác của Lê Lựu
Lê Lựu là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn xuôi Việt Nam thời kỳ
đổi mới. Ông đã đóng góp vào nền văn học nước nhà hàng chục tác phẩm có giá trị, gồm
cả truyện ngắn và tiểu thuyết … Là một nhà văn quân đội đã “thử bút” trên nhiều thể
loại như: báo chí, phóng sự, bút kí, tiểu thuyết, truyện ngắn … Nhưng cá tính sáng tạo
của Lê Lựu chủ yếu in đậm trong thể loại tiểu thuyết. Không khí đổi mới tư duy trong
sáng tạo nghệ thuật đã hướng ngòi bút Lê Lựu đi sâu vào cảm hứng thế sự đời tư, thấm
đẫm nhân tình, thế thái và thân phận cá nhân thông qua tình yêu, hôn nhân, mối quan hệ
của con người với con người, giữa con người với hoàn cảnh xã hội trong những thăng
trầm của lịch sử, những chuyển biến của thời đại.
Sáng tác của Lê Lựu có nhiều đóng góp mới cho tiến trình đổi mới văn học. Nhà
văn đã xác lập cho mình một chỗ đứng vững chắc trên văn đàn bằng các tác phẩm như:
+ “Mở rừng” (1976)
+ “Thời xa vắng” (1986)


+ “Chuyện làng Cuội” (1991)
+ “Sóng ở đáy sông” (1994)
+ “Người cầm sung” (1970)
+ “Truyện ngắn Lê Lựu” (2003).
Lê Lựu là một trong số hiếm hoi những nhà văn thế hệ chống Mỹ vinh dự được
nhận giải thưởng Nhà nước về Văn Học Nghệ Thuật (2001) với cụm tác phẩm:
+ “Người cầm sung” (1970) – giải nhì báo Văn nghệ;
+ “Mở rừng” (1976);
+ “Thời xa vắng” (1986) - giải A Hội Nhà văn Việt Nam;
Với một tài năng văn chương của mình kết hợp với ngòi bút linh hoạt cũng đã có
khả năng “thâm canh” tác phẩm của mình.“Thời xa vắng”, “Sóng ở đáy sông” đã được
chuyển thể thành kịch bản phim mà tiêu biểu là tiểu thuyết “Thời xa vắng” đã được đạo
diễn Hồ Quang Minh của hãng phim Giải phóng dựng thành phim truyện nhựa và ra mắt
công chúng năm 2004.

1.2 Phong cách nghệ thuật của Lê Lựu
1.2.1.Là nhà văn luôn có ý thức cách tân nghệ thuật
Trong nhiều tác phẩm khác nhau, ở nhiều góc độ khác nhau, các nhà nghiên cứu
đều thống nhất rằng, Lê Lựu luôn có ý thức cách tân nghệ thuật. Ông không bao giờ bằng
lòng với lối viết mòn cũ. Ở mỗi tiểu thuyết của ông, người đọc đều có thể nhìn thấy sự
cách tân của nhà văn, đặc biệt là sự đổi mới hình tượng người trần thuật và kết cấu lời
văn trần thuật. Ý thức cách tân đã thực sự trở thành nhu cầu, đó là động lực thôi thúc để
Lê Lựu không ngừng tìm tòi và thay đổi ngòi bút sáng tạo của mình. Sáng tác của ông
đem đến cho văn đàn những quan niệm, những hình thức nghệ thuật mới mẻ, hấp dẫn.


1.2.2. Nhà văn chuyên viết về đề tài nông thôn
Với Lê Lựu, ở cả truyện ngắn và tiểu thuyết, người đọc đều dễ dàng nhận ra
miền đất quen thuộc của nhà văn là làng quê, đồng bãi, với dòng sông, con đê làng,
luống khoai, vồng cải... Lê Lựu viết về nông thôn bằng sự thông hiểu và những âu lo
về sự biến đổi từng ngày ngay trong từng ngôi nhà, từng thửa đất. Sự quan sát tinh tế
cộng với vốn sống phong phú về nông thôn và khiếu hài hước đã đem lại cho tiểu
thuyết của ông nhiều chi tiết rất "đắt". Chẳng hạn đoạn viết về buổi họp gia đình, bữa
cơm khi nhà có khách hay đám ma ông đồ… trong “Thời xa vắng” được miêu tả sống
động và hài hước. Nếp sống của “người nhà quê” theo chân nhân vật vào tiểu thuyết
của Lê Lựu thật ấn tượng, như cách biểu lộ tình cảm qua lời chào mời rối rít, chộp tay
lắc lắc, hay thói quen sống tuềnh toàng, ăn uống xì xoạp, ăn xong ngồi xỉa răng nhanh
nhách, hoặc như việc tiết kiệm kiểu dồn lẫn các thức ăn thừa vào nhau để dành cho
bữa sau. Nhà văn thấy ở đó là cái hồn nhiên chất phác của người dân quê khác biệt rõ
rệt với lối sống thị thành. Ông viết về nông thôn với tình cảm tha thiết của người đã
sinh ra và lớn lên nơi đây có cả niềm khắc khoải về cuộc sống và số phận những người
quê đã “nhuốm bụi” phố phường. Và ông không thể không thừa nhận rằng tư duy làng
xã, tâm lý tiểu nông đã cản trở đáng kể đời sống của họ, nhất là khi họ cố gắng để hoà
nhập với nếp sống thành thị.
Thông qua đó ông tái hiện lại một thời thiếu thốn và khó khăn của người dân quê

thời kì trước đổi mới bằng thái độ phê phán và cảm thông sâu sắc. Ông nhìn thấy những
bất hợp lý trong cơ chế xã hội bao cấp khiến người dân cơ cực. Cái cơ chế xã hội mà ý
thức cá nhân bao giờ cũng đặt sau tinh thần tập thể, những con người chỉ tôn sùng ý chí,
dùng ý chí chủ quan áp đặt người khác, không ai được phép vượt khỏi “cái khuôn đúc
sẵn”.
1.2.3.Nhà văn ý thức được trách nhiệm nghề nghiệp


Văn của ông không phải là kiểu văn dễ dãi, quen thuộc, đọc qua một lần có thể hiểu
hết các tầng nghĩa. Mỗi lần tiếp xúc là một lần tìm thấy thêm một vấn đề nào đó - những
vấn đề mà nhà văn giấu kín trong lời văn của mình.
Nói như Trần Đăng Khoa “Lê Lựu biết cuốn hút người đời bằng một thứ văn không
nhạt. Ngay cả những truyện xoàng người đọc vẫn thu lượm được một cái gì đấy, có khi là
một chi tiết, một đoạn tả cảnh hay một nét phát họa tính cách nhân vật”. Hay như Đinh
Quang Tốn cho rằng “anh chàng nhà quê” có một sức hút vô hình bằng một lời văn mang
phong cách riêng : “văn anh không rành rẽ, không mạch lạc nhưng có chất gì đó ở bên
trong”.
Suốt cuộc đời sáng tác, Lê Lựu luôn viết về những điều mình chiêm nghiệm, những
điều mắt thấy tai nghe, để từ đó, bằng lối văn tự nhiên, trong sáng của mình ông để lại
cho đời những tiểu thuyết đáng để người đọc suy ngẫm.
1.2.4. Nhà văn của lối hành văn tự nhiên và chất giọng giễu nhại
Các tiểu thuyết của ông đều hay sử dụng lớp ngôn ngữ tự nhiên, rất gần gũi với lời
nói thường ngày. Nhiều khi đọc cả đoạn, cả trang cứ thùng thình mà người đọc vẫn thích,
“không ai chê vì người ta biết đấy là văn tự nhiên của anh chứ không phải anh làm văn
mà chê anh về văn phạm”.
Bằng chất giong giễu nhại, nó đơn giản chỉ là thuật lại những chuyện “thật như đùa”
mà đã có thể tạo ra hình tượng đầy ám ảnh. Nhờ thế mà lời văn ông khi như bông đùa,
lúc lại xót xa, chì chiết như giễu nhại, đem lại cho người đọc tiếng cười chua xót.
1.3 Những nét đổi mới trong sáng tác của Lê Lựu
1.3.1. Khuynh hướng nhận thức lại hiện thực

Có thể nói rằng, với văn học thời kì đổi mới, Lê Lựu là một trong những người
đầu tiên nhìn nhận hiện thực đời sống xã hội một cách tỉnh táo và khách quan. Các tiểu


thuyết của Lê Lựu cho thấy sự phản ứng đối với quan niệm duy ý chí một thời, cái thời
mà với lối tư duy bảo thủ và thói vị kỷ, những kẻ nhân danh gia đình, đoàn thể có thể
áp đặt suy nghĩ của mình cho người khác. Lê Lựu nhận thức rất rõ điều đó và ông tỏ
thái độ phản ứng khá mạnh mẽ qua việc tái hiện mâu thuẫn giữa các thế hệ. Với đại tá
Hoàng Thủy trong “Đại tá không biết đùa”, để rèn luyện con, ông đã yêu cầu công an
huyện cho Tùy đi tập trung cải tạo, tự xin hoãn đi học đại học ở nước ngoài để làm
công nhân, bắt con phải từ bỏ tình yêu với cô gái đã từng yêu một người khác vì cho
rằng “người ta đã bỏ được người thứ nhất cũng dễ dàng bỏ đến người thứ một trăm”.
Cũng như người bố của Núi trong “Sóng ở đáy sông”, đến chết vẫn không thay đổi
cách nghĩ về đứa con của mình. Lạnh lùng và vô cảm, không chấp nhận đứa con mắc
lỗi, đứa con “loại hai”, ông dồn nó vào tình thế phải tự kiếm sống. Ông đẩy trách
nhiệm giáo dục con cho xã hội, chuẩn bị mọi tình huống để không ai có thể chê trách,
pháp luật không thể ràng buộc, nhưng đó là cách ứng xử phi nhân tính.
Trong tiểu thuyết Lê Lựu, những nhân vật “quyền huynh thế phụ” ấy đại diện
cho ý chí một thời. Thời mà ý thức cá nhân bao giờ cũng được đặt ở đằng sau tinh
thần tập thể. Cá thể không được phép tồn tại mà chỉ có hoạt động của “tổ tam tam”,
đoàn thể, hợp tác xã... Ở đó có những con người chỉ tôn sùng ý chí, dùng ý chí chủ
quan áp đặt người khác, không cho phép ai vượt khỏi “cái khuôn đã đúc sẵn”. Chủ
nghĩa duy ý chí đã triệt tiêu bao nhiêu khát vọng chính đáng của con người. Điều này
thực ra không phải chỉ có trong tiểu thuyết Lê Lựu mà còn được nói tới trong nhiều tác
phẩm khác cùng thời.
Trong hầu hết các tiểu thuyết của mình, Lê Lựu chỉ ra rất rõ quan niệm, lối tư
duy duy ý chí đã trở thành sợi dây trói buộc đời sống tinh thần con người gây ra bi
kịch cho mỗi số phận. Nhà văn thấy được sự thất bại của lối tư duy cực đoan đó và dứt
khoát phủ nhận. Bằng sự đối thoại với những quan niệm, lối tư duy của một thời, các
tiểu thuyết của Lê Lựu đã đóng góp vào sự hình thành khuynh hướng nhận thức và

đánh giá hiện thực của tiểu thuyết thời kỳ đổi mới.


Nguyên Ngọc trong bài thuyết trình về văn học Việt Nam nhắc đến trào lưu Đổi
mới với biểu hiện trước hết là "phơi bày cái tiêu cực, mô tả và tố cáo nó", nhiều nhà
văn đã tham gia tích cực vào trào lưu này, trong đó có Lê Lựu. Vậy phải chăng con
đường mà Lê Lựu và các nhà văn đổi mới đang đi chỉ là dẫm lên lối cũ của các nhà
văn hiện thực chủ nghĩa? Thực ra, nếu đặt toàn bộ các tác phẩm văn học có nội dung
"phơi bày" đó và tác phẩm của các nhà văn hiện thực 1930-1945 dưới một cái nhìn bao
quát sẽ thấy được tiến trình vận động với những nỗ lực đổi mới không chỉ ở bề mặt mà
cả ở chiều sâu. Không chỉ là sự mở rộng phạm vi hiện thực được phản ánh, không chỉ
là sự tiếp nhận kỹ thuật hiện đại mà còn là tư duy mới mẻ về đời sống.
Tiểu thuyết Lê Lựu mở ra một hiện thực sống động nhưng hết sức phức tạp. Qua
số phận của nhân vật, nhà văn tái hiện một cách chân thật nhất gương mặt lịch sử và
đời sống xã hội. Ông giúp cho chúng ta nhìn sâu vào mọi ngóc ngách của cuộc sống
nông thôn trước những thay đổi lớn như cách mạng, chiến tranh, cải cách ruộng đất,
hợp tác hóa... Tiểu thuyết Lê Lựu toát lên được không khí thời đại, đó là khí thế bừng
bừng của công cuộc cải tạo xã hội, là tinh thần cách mạng nhiệt tình của nhiều tầng
lớp, nhiều thế hệ. Nhưng bên cạnh những thành quả đạt được, những khẩu hiệu, thành
tích còn có cả sự ấu trĩ, có cả cay đắng và thất bại, cả những bất hạnh và ngang trái mà
trước đó người ta chưa nói hết ra, chưa thể đi đến tận cùng.
Tiểu thuyết gắn bó với đề tài nông thôn từ “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, “Bước
đường cùng” của Nguyễn Công Hoan, “Vỡ đê” của Vũ Trọng Phụng, cho đến “Mảnh
đất lắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc Trường, “Bến không chồng” của Dương
Hướng,... đã đi những chặng đường dài. Lê Lựu cũng góp cho văn đàn nhiều bức tranh
nông thôn sinh động. Nhà văn thấy ở đó là cái hồn nhiên chất phác của người dân quê
khác biệt rõ rệt với lối sống thị thành. Ông viết về nông thôn với tình cảm tha thiết của
người đã sinh ra và lớn lên nơi đây có cả niềm khắc khoải về cuộc sống và số phận
những người quê đã “nhuốm bụi” phố phường. Và ông không thể không thừa nhận
rằng tư duy làng xã, tâm lý tiểu nông đã cản trở đáng kể đời sống của họ, nhất là khi

họ cố gắng để hoà nhập với nếp sống thành thị.


Bên cạnh đó, hiện thực đời sống thành thị thời hậu chiến với những vấn đề gai
góc cũng được ngòi bút Lê Lựu quan tâm khai thác. Nếu như ở phần hai của “Thời xa
vắng”, quãng đời bi kịch tiếp theo của Sài đã cho thấy phần nào mặt trái của cơ chế
quan liêu bao cấp, sự phức tạp xô bồ nơi phố phường thì ở “Hai nhà” phạm vi và cấp
độ phản ánh hiện thực được mở rộng, nâng cao hơn. Tái hiện lại một thời thiếu thốn và
khó khăn, Lê Lựu nhìn thấy những bất hợp lý trong cơ chế xã hội. Nhà văn khái quát
hóa lối sống thực dụng, ích kỷ đang dần hình thành. Đó còn là sự tấn công mạnh mẽ từ
bên ngoài vào “tế bào” gia đình làm tan rã môtip gia đình truyền thống. Bằng cái nhìn
sắc sảo, ráo riết, Lê Lựu phân tích, lý giải những biến động của đời sống xã hội, sự tác
động đến số phận con người. Không chỉ phê phán sự tha hóa, cái xấu xa, ông cảm
nhận thấm thía những lầm lẫn, hạn chế của cả một thời. Nhận thức quá khứ và thực
trạng đời sống, tiểu thuyết Lê Lựu còn có khả năng dự báo xu thế phát triển tất yếu và
những đổi thay trong xã hội. Có thể nói đây là sự khởi đầu của dòng văn học “tự vấn”,
một hướng đi mới của tiểu thuyết nước ta mà trước đó chưa có.
1.3.2. Sự trở lại của cảm hứng bi kịch
Lê Lựu bắt đầu cầm bút với thể loại truyện ngắn, cho đến những năm 80, tập
hợp những sáng tác của Lê Lựu từ “Người cầm súng”, “Phía mặt trời”, đến “Người
về đồng cói” đã “định hình” một cây bút văn xuôi khá rõ nét khiến người ta có thể nói
đến "chất Lê Lựu tương đối ổn định". Cuốn tiểu thuyết đầu tay “Mở rừng” được viết
trong những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước khắc hoạ đậm nét
hình ảnh những con người lý tưởng, những nhân vật anh hùng. Điều đáng ghi nhận là
ở cuốn tiểu thuyết này nhà văn đã hướng tới số phận của cá nhân trong chiến tranh
bằng một tư duy khá mới mẻ: hầu như nhân vật nào cũng có đau khổ mất mát riêng.
Nhưng tất cả những khổ đau, mất mát ấy chủ yếu để tô đậm sự khốc liệt của chiến
tranh. Xu hướng làm mờ nhạt bi kịch cá nhân là đặc điểm chung của văn học thời kỳ
kháng chiến. “Mở rừng” cũng vậy. Nhưng Lê Lựu đã khai thác yếu tố bi kịch trong số
phận mỗi cá nhân bằng những phân tích khá kỹ với cách nhìn không đơn giản, phiến

diện.


Tiểu thuyết Lê Lựu ở chặng đường tiếp theo, với khởi đầu là “Thời xa vắng”, lấy
cảm hứng bi kịch cá nhân làm đối tượng đã đem lại cho người đọc hứng thú suy nghĩ,
chiêm nghiệm về cuộc sống. Thực ra vấn đề bi kịch cá nhân đã từng là nguồn cảm
hứng lớn của văn học nhân loại, nhưng suốt một thời gian dài, hầu như nó chỉ thấp
thoáng xuất hiện trong văn học của ta. Bởi vậy, không thể phủ nhận vai trò đi đầu của
Lê Lựu đối với sự trở lại của cảm hứng bi kịch nhân văn trong giai đoạn văn học mới.
Nếu như ở tiểu thuyết Ma Văn Kháng bi kịch thường xảy ra từ những mối quan
hệ xã hội như giữa các thế hệ trong gia đình (Mùa lá rụng trong vườn), đối với đồng
nghiệp trong quan hệ công việc (Mưa mùa hạ, Đám cưới không có giấy giá thú,
Ngược dòng nước lũ), thì với tiểu thuyết Lê Lựu, phạm vi hiện thực nhỏ hẹp hơn, bi
kịch thường ở ngay trong bản thân mỗi cá nhân. Trong “Đại tá không biết đùa” ta có
thể thấy được bi kịch của sự lầm lạc qua hình tượng đại tá Hoàng Thuỷ. Ông đã sai
lầm từ quan niệm đến phương pháp giáo dục con cái (muốn con phải sống theo cách
của mình, nghĩ giống như mình) nhưng con trai ông dù làm theo ý ông mà vẫn đeo
đuổi những ý định riêng. Ông đã tự đánh mất đứa con trai duy nhất, cái chết của con
ông là lời kết án chính ông. Ở “Hai nhà”, bi kịch của nhân vật Tâm tuy có chỗ giống
Sài là đánh mất bản thân, song ở một góc độ khác, là bi kịch bị phản bội. Tâm càng
chăm sóc, nín nhịn vợ thì cô ta càng lăng loan. Anh càng tin tưởng, thân thiết với
người hàng xóm thì càng tạo cơ hội cho ông ta ngoại tình với vợ anh, kết cục hai đứa
con mà anh dốc lòng chăm bẵm đều không phải con đẻ của Tâm. Cay đắng hơn, đứa
con của một người bạn thân đã chết oan trong trò gian dâm của vợ anh. Câu chuyện
“Chuyện làng Cuội” bắt đầu từ cái chết thảm thương của bà cụ Đất, người phụ nữ cả
cuộc đời là chuỗi bi kịch, bi kịch bởi quá giàu yêu thương. Hiền lành như đất, câm
lặng hy sinh, chịu đủ mọi điều tiếng nhục nhã cho đến tận sau khi chết.
Có thể thấy trong hầu hết các tiểu thuyết của mình, Lê Lựu đều quan tâm tới
những số phận bi kịch không chỉ do nguyên nhân khách quan mà bắt nguồn từ chính
tính cách nhân vật. Với sự đồng cảm sâu sắc, Lê Lựu đã nhìn thẳng vào những đau

khổ, bất hạnh của con người, những bi kịch đời thường đầy rẫy trong cuộc sống này.


Không nhằm mục đích chỉ ra giải pháp để giải quyết bi kịch nhưng ông đã giúp người
đọc ý thức hơn ý nghĩa cuộc sống và sống có trách nhiệm với chính mình.
Đi tìm căn nguyên của những bi kịch, Lê Lựu đã phân tích khá sắc sảo tính cách
các nhân vật. Rất nhiều nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu là những người đàn ông hèn
đuối, nhu nhược. Dù thông minh giỏi giang như Sài (Thời xa vắng), dù nhiệt tình, hăng
hái như Tâm, hiểu đời, sâu sắc như Địa (Hai nhà), hay khôn ngoan, lọc lõi như Hiếu
(Chuyện làng Cuội) họ đều thiếu sự "đàng hoàng, dứt khoát, một sự quyết đoán đầy
bản lĩnh" của người đàn ông. Họ dễ dàng bị lừa dối, bị phản bội trong tình cảm.
Những con người đó có thể có vị trí, được tôn trọng trong xã hội nhưng trong vai trò
người chủ gia đình thì họ chịu sự sai khiến, coi thường của vợ, bị vợ ngang nhiên
"cắm sừng". Có thể thấy thế giới nhân vật của tiểu thuyết Lê Lựu khá ấn tượng với hai
đối cực: một bên là những người vợ trẻ đẹp quyền uy, khát khao yêu đương mãnh liệt,
một bên là những anh chồng cục mịch, cúc cung tận tuỵ. Trong tiểu thuyết Ma Văn
Kháng, những nhân vật trí thức như Tự (Đám cưới không có giấy giá thú), Khiêm
(Ngược dòng nước lũ), Luận (Mùa lá rụng trong vườn) luôn tinh tế, sâu sắc trong cảm
nhận đời sống, quan sát và phân tích cuộc sống kỹ lưỡng. Nhân vật của Lê Lựu thì trái
lại, thường là những người đàn ông thô kệch và giản đơn trong lối sống hàng ngày, cả
tin, thậm chí mù quáng trong tình cảm. Lê Lựu cũng có những trang viết về đòi hỏi
được yêu chiều, khát khao được thoả mãn cả về thể xác và tinh thần của người đàn bà
thành phố như Châu (Thời xa vắng), như Linh Anh (Hai nhà), những nhân vật gợi đến
hình ảnh bà Bôvary trong văn học Pháp. Thực ra ở một hướng nhìn khác, có thể thấy
cuộc sống của những người phụ nữ đó cũng là những tấn bi kịch khi phải ghép tạm bợ
đời mình vào một mảnh đời hoàn toàn khác, ngày càng cách biệt, phải che giấu khát
khao thực sự của mình bên trong lớp vỏ nanh nọc, quá quắt.
Bi kịch trong tiểu thuyết Lê Lựu thường không nảy sinh từ mâu thuẫn gay gắt
giữa thiện ác, xấu tốt mà từ chính bản thân nhân vật. Lôgic nhân quả ở đây là tính cách
quyết định số phận. Và đúng như tính chất của bi kịch, đó là những mâu thuẫn không

thể giải quyết. Cùng với hàng loạt các tác phẩm có cảm hứng bi kịch cùng thời (Mùa


lá rụng trong vườn, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Đám cưới không có giấy
giá thú, Những thiên đường mù,...) những bi kịch trong tiểu thuyết Lê Lựu đặt ra nhiều
vấn đề có ý nghĩa sâu sắc về số phận con người, giúp con người nhận thức về cuộc
sống của mình rõ hơn.
1.3.3.Những hiệu ứng nghệ thuật
Xoáy sâu vào bi kịch tự thân của con người, nhà văn tập trung khai thác những
mâu thuẫn, những xung đột gây hiệu ứng tâm lý mạnh mẽ ở người đọc. Có thể coi đây
là một thành công của nghệ thuật tiểu thuyết Lê Lựu.
Lê Lựu không chỉ có nhiều cách tân trong lối viết, nỗ lực của ông chủ yếu thể
hiện ở việc khai thác cốt truyện. Tiểu thuyết Lê Lựu hấp dẫn người đọc ở sự dồn đẩy
tình huống truyện, khi kéo căng khi lại nhẩn nha kích thích xúc cảm yêu ghét của độc
giả. Tiểu thuyết “Sóng ở đáy sông” tập trung khai thác sự tương phản giữa ý chí lạnh
lùng, thái độ bất biến của người cha trước những biến động của thời đại và thế giới
tâm hồn của những đứa con. Vợ chết, ông tuyên bố cắt khẩu phần lương thực mà khi
còn sống người vợ đã đong thêm cho các con, đứa nào học đúp thì tự nuôi lấy thân.
Khi "ngã ngửa" ra là Núi đã bỏ học để kiếm sống nơi bến tàu, có liên quan đến những
kẻ gian, ông lập tức từ mặt để hắn không thể làm ô danh ông. Từ đó, ông vô cảm trước
bất kỳ một sự kiện nào của cuộc đời hắn, thậm chí còn viết đơn xin toà án nâng mức
án của hắn thành tù chung thân. Tính cách người bố đã tác động sâu sắc đến tình cảm
và thái độ người đọc, giúp họ tìm thấy căn nguyên tội lỗi bằng sự phán xét tỉnh táo.
Hiệu ứng tâm lý trong “Hai nhà” là cách mở dần từng ô cửa để thấy được thực chất
“ngôi nhà” bên trong, mỗi cánh cửa hé mở là mỗi lần thôi thúc sự dò tìm của người
đọc. Lần thứ nhất mượn lời người chú rể của Linh Anh để tiết lộ quá khứ của cô gái
thành thị lọc lõi, hư hỏng. Lần thứ hai nhấm nháp từng trang nhật ký của cô ta để vén
thêm bức màn bí mật về những hoan lạc của thời con gái buông thả, những cảm giác
bức bối khi phải sống với người chồng không như mong ước, những thèm khát dẫn tới
cuộc tình vụng trộm và trận đánh ghen bẽ bang. Lần thứ ba bức thư tuyệt mệnh của



ông Địa đã xé toang tất cả, làm rõ vì sao lại có cái chết oan uổng của thằng cháu ngoan
ngoãn, học giỏi và được tất cả mọi người yêu mến.
Một cách để gây hiệu ứng tâm lý nữa là Lê Lựu đảo ngược thời gian cốt truyện,
đưa ngay kết thúc lên đầu tác phẩm, thường là những tin tức quan trọng, sự kiện “giật
gân”, gây chú ý. Mở đầu “Chuyện làng Cuội” là “cái chết của bà Hiêu Đất lại tạo cho
làng Cuội ta một khí thế tưng bừng, sôi nổi, rất là tự hào”. “Hai nhà” đưa sự kiện của
mười năm sau “Thằng Hồng con trai nhà thơ, bạn anh chết rồi. Nó hứng lấy cái chết
để vợ anh khỏi bị lưỡi dao phay chém vào mặt...”. “Đại tá không biết đùa” bắt đầu
bằng việc con trai đại tá bị mất tích trong tình huống oái oăm, phức tạp... Cũng có thể
coi đây là “xảo thuật” câu khách trong những tiểu thuyết thời thị trường, nhưng vượt
lên trên đó, bằng tài năng triển khai cốt truyện, Lê Lựu đã đem đến cho độc giả những
thông điệp về cuộc sống một cách hữu hiệu.
Hiệu ứng tâm lý còn được tạo bởi không gian bức bối trong các tiểu thuyết Lê
Lựu. Vẫn là những làng quê, phố phường, có cả thời bình, có cả thời chiến, nhưng bị
chi phối bởi những mâu thuẫn căng thẳng, bởi công lực của quan niệm duy ý chí,...
không gian trở nên tù đọng, bức bối đến nghẹt thở. Không gian “Chuyện làng Cuội” bị
ám ảnh bởi cái chết đầy bí ẩn của bà Đất, từ đó mở ra những trang đời nhiều gam màu
trầm tối bởi những lừa gạt, oan ức, nhục nhã, khổ đau chất chồng. Không gian chiến
tranh của “Đại tá không biết đùa” với vô vàn hiểm nguy, bất trắc càng thêm ngột ngạt
bởi những cuộc kiếm tìm vô vọng người con bỏ trốn và bởi nỗi dày vò, ân hận bị kìm
nén, che giấu. Có thể nói Lê Lựu đã thừa hưởng được tài năng nghệ thuật của các cây
bút hiện thực lớn như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng trong việc tạo dựng không gian tù
đọng, bức bối để làm nổi bật trạng thái của con người. Cái khác của Lê Lựu là sự mở
rộng chiều không gian - thời gian và soi chiếu nó từ nhiều góc độ. Nhờ đó tiểu thuyết
Lê Lựu tạo ra hiệu ứng tâm lý không nhỏ, thu hút sự chú ý của công chúng.
Lê Lựu là nhà văn thường trực tiếp bộc lộ suy tư chiêm nghiệm thông qua người
kể chuyện. Trước mỗi tình huống, sự kiện, chi tiết, người kể chuyện đưa ra lời bình
luận, khái quát có ý nghĩa chỉ dẫn cho độc giả. Những nhận xét tinh tế và hóm hỉnh



làm cho mạch văn uyển chuyển và cuốn hút. Đôi khi nhà văn "nhờ" những nhân vật có
uy tín như chính uỷ Đỗ Mạnh (Thời xa vắng), Trung tướng tư lệnh (Đại tá không biết
đùa) phát biểu suy ngẫm, tổng kết một cách khá nhuần nhị. Sự giàu có về vốn sống
giúp cho Lê Lựu có những kiến giải sâu sắc trong tác phẩm của mình về lẽ sống, cách
ứng xử ở đời, về nhân tình thế thái... Khuynh hướng triết luận đem lại thành công cho
nhiều cây bút văn xuôi Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, và có thể nói nó cũng đã gia
tăng tính tư tưởng cho tiểu thuyết Lê Lựu.
Ở tiểu thuyết Lê Lựu, tố chất dân gian đưa các tác phẩm của ông trở về đúng
nghĩa là tiểu thuyết, phá vỡ khoảng cách sử thi mà suốt một thời gian dài trước đó tồn
tại trong văn học của ta. Tiểu thuyết Lê Lựu đầy ắp ngôn ngữ đời sống, có cả cãi vã,
chì chiết, có cả ngoa ngoắt, đáo để, có cả tình tứ, bồng bột, có cả thâm trầm, sâu sắc....
Chúng ta nhìn thấy cái "duyên" của Lê Lựu khi đưa được nét cười của dân gian hóm
hỉnh vào tác phẩm: từ cách đặt tên nhân vật (Sài, Lưu Minh Hiếu - Lưu Manh Hiêu,
Tâm và Địa,...) cho đến cảm quan phồn thực về cuộc sống. Nếu như có thể nêu dẫn
chứng cho nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng bằng cảnh đám ma cụ cố Hồng
(Số đỏ) thì cũng có thể lấy cảnh đám ma ông đồ Khang (Thời xa vắng) hoặc bà cụ Đất
(Chuyện làng Cuội) để thấy được cái hài hước “sắc lẻm” của Lê Lựu.
Không cố cách tân trong lối viết nhưng không phải Lê Lựu không có ý thức tìm
tòi, thay đổi ở từng tác phẩm. Điều đó giúp cho tiểu thuyết của ông tránh được sự đơn
điệu. “Thời xa vắng” là “lịch sử một số phận" với những đoạn đường đời cụ thể dưới
cái nhìn chiêm nghiệm, từng trải. “Sóng ở đáy sông” lại có vẻ như hồ sơ của một
phạm nhân được lần giở từng sự kiện qua sự phân tích chặt chẽ những nguyên nhân
sâu xa và trực tiếp dẫn tới hành vi phạm tội. Ở “Chuyện làng Cuội”, sự đan xen quá
khứ và hiện tại làm cho mạch truyện thêm linh hoạt, người đọc tuy khó nắm bắt truyện
hơn nhưng cũng chủ động hơn trong tiếp nhận tác phẩm. Nếu như ở “Hai nhà”, Lê
Lựu thay đổi điểm nhìn trần thuật bằng việc đưa những trang nhật ký vào tác phẩm để
người đọc có thể hiểu rõ hơn tâm trạng, cảm xúc, động cơ... của nhân vật thì trong
“Đại tá không biết đùa”, nhà văn chuyển hẳn đối thoại vào đoạn trần thuật, kể chuyện



bằng nhiều điểm nhìn. Không thoát ly khỏi tiểu thuyết truyền thống nhưng Lê Lựu đã
cố gắng làm mới cách viết của chính mình và điều đó cũng ít nhiều đem lại thành
công.
Tiểu kết:
Bằng những thay đổi trong quan niệm về hiện thực và con người cũng như những
nỗ lực trong sáng tạo nghệ thuật, tiểu thuyết Lê Lựu đã góp phần đổi mới tiểu thuyết
Việt Nam đương đại, trở thành một "gương mặt" riêng trong bức tranh đa dạng của
văn xuôi. Bảo Ninh, một nhà văn thuộc thế hệ cầm bút kế tiếp đã khẳng định:“Cánh
cửa mà nhà văn Lê Lựu đã mở ra cho tiểu thuyết thời Đổi Mới tuy rằng đã cũ nhưng
mà vẫn vô cùng mới đối với các nhà văn lứa kế sau ông. Những quan niệm về tiểu
thuyết có thể đúc rút được từ “Thời xa vắng” cũng không lạ thường gì song với những
người viết văn trẻ tuổi hồi đó thì vẫn có tác dụng gần như sự bừng tỉnh”. Nhìn lại
chặng đường văn học hai mươi năm qua, chúng ta có thể khẳng định những đóng góp
đáng kể đó của Lê Lựu đối với tiểu thuyết Việt Nam .


Chương hai: “Thời xa vắng” – tiểu thuyết tiêu biểu cho khuynh hướng đổi mới
của Lê Lựu
“Thời xa vắng” là tiểu thuyết tiêu biểu nhất trong đời viết văn của nhà văn Lê Lựu.
Tác phẩm ôm chứa một dung lượng lớn, mô tả chặng đường lịch sử 30 năm oai hùng
nhưng cũng lắm đau thương của dân tộc, thông qua số phận của anh nông dân Giang
Minh Sài. Anh học giỏi, là niềm hy vọng, tự hào của cả gia đình và dòng họ. Nhưng cũng
chính niềm tự hào đó cũng đã đặt lên vai cậu bé Sài một thứ áp lực vô hình, lúc nào cũng
phải học, phải làm theo những điều mà mọi người xung quanh cho là "tốt nhất". Lấy vợ
cũng phải do cha mẹ chọn, ngủ với vợ cũng vì để tránh cái án kỷ luật làm ô nhục danh
tiếng gia đình.... Là một người lính với vẻ ngoài thô mộc, khô khan nhưng thực chất bên
trong con người Sài lại là một người đang vùng vẫy với niềm khao khát được yêu, được
sống với cảm xúc thực sự của mình. Hơn nữa tác phẩm còn tiêu biểu cho những khuynh

hướng tìm tòi đổi mới của Lê Lựu ở thể loại tiểu thuyết.
2.1 Tóm tắt tác phẩm
Chuyện bắt đầu từ lời than vãn và tự vấn lương tâm của bố Sài - ông đồ Khang về
việc Sài đuổi vợ nó đi. Sài lấy vợ từ năm 10 tuổi, vợ nó là Tuyết, lớn hơn nó ba tuổi.
Không hiểu lí do vì sao nhưng Sài rất ghét Tuyết, luôn tìm cách né tránh Tuyết. Trong
một lần Tuyết giã ngô trẹo vào tay Sài, Sài tức giận đánh và đuổi vợ đi. Bố Sài nổi giận
gọi tất cả con dâu, con giai trong đó có anh Tính là cán bộ của Phòng thuế nông nghiệp
huyện đi tìm Sài. Biết được sự tình, Sài chạy trốn bố nhưng cuối cùng vẫn bị tìm thấy
trong cơn đói và mệt đến lả người đi.
Nạn đói xảy ra ra khiến tất cả mọi người không còn tâm trí nào để ý đến chuyện vợ
con của Sài nữa. Làng của Sài mới được giải phóng mấy tháng nhưng tàn tích của chiến
tranh thì vẫn còn ảnh hưởng tới đời sống của người dân nơi đây. Người trong làng chỉ
quen đi làm thuê chứ không thiết tha gì với đất đai ở nhà. Với những chật vật lo toan cho
cuộc sống đó, họ cứ sống kham khổ bữa đói bữa no cho qua ngày. Rồi một đêm nọ, xã Hạ
Vị hội họp ở đình và thông báo về việc chống đói và cứu đói cho người dân bằng cách


cấm mọi người đi làm thuê thay vào đó là việc tự làm cho chính mình bằng đất của mình
và cấp cho mỗi gia đình tạ thóc cứu tế. Thế là cả làng nghe theo không phản đối. Sài
được bầu làm liên đội trưởng của ba xóm thuộc thôn Hạ Vị.
Sài không còn chê vợ nữa khôngchỉ vì gia đình mà còn là vì vai trò gương mẫu của
một liên đội trưởng. Sài vẫn giữ đúng mực đạo làm con đối với cha mẹ vợ. Ai nhìn vào
cũng thỏa mãn về vợ chồng Sài chỉ riêng có Tuyết là biết thân biết phận mình. Đã bước
sang tuổi 17, cái tuổi dậy thì căng tràn sức sống và chờ mong được chồng yêu thương
nhưng mãi vẫn không được chồng gần gũi và để ý đến. Sài luôn tìm cách để lảng tránh
Tuyết. Mười bốn tuổi đầu đã phải sống hai cuộc đời thật - giả, Sài phải sống thành hai
con người một nửa là sống cho bản thân mình nửa kia là sống cho những người xung
quanh, trừ Tuyết. Và cứ như thế suốt bốn năm.
Sau khi Sài bước sang tuổi 18 tuy tốt nghiệp lớp 7 trường huyện và đỗ vào lớp 8 của
tỉnh nhưng anh lại bỏ về làm trưởng ban phụ trách thiếu niên xã. Năm ấy vỡ đê bồi làng

Hạ Vị thiệt hại chưa từng thấy. Sài đã gặp Hương một cô gái bằng tuổi mình và học cùng
với mình ở trường cấp 2 huyện trong những ngày lụt đó. Hai người có tình cảm với nhau
mặc dù vậy nhưng Sài vẫn biết rằng mình đã có vợ và vẫn giữ đúng mực của một người
chồng vì sợ người ngoài đàm tiếu. Sài biết mình yêu Hương và Hương cũng dành tình
cảm cho Sài. Chuyện của Sài và Hương bị mọi người phát hiện, Sài buộc phải đi lính.
Chú của Sài là ông Hà muốn giao phó Sài cho người bạn thân là thiếu tá chính ủy
trung đoàn 25 phòng thủ bờ biển để rèn luyện Sài. Ở trại lính Sài đã học tập tốt và rèn
luyện chăm chỉ khiến mọi người yêu quý đặc biệt là Đỗ Mạnh - thiếu tá chính ủy. Có một
hôm Sài bị ốm, đơn vị xác định là ốm “tư tưởng”, họ cho rằng chiến sỹ Giang Minh Sài
đã có vợ nhưng vẫn quan hệ bất chính với một phụ nữ, có ý định đào ngũ. Họ đã đọc nhật
ký của Sài và thu cuốn nhật ký đó. Ông thiếu tá chính ủy đến thăm Sài. Ông đã đọc nhật
ký - cuốn nhật ký viết về tâm tư tình cảm của Sài chủ yếu là dành cho Hương cô bạn học
của Sài và cũng là người mà Sài để ý và có tình cảm. Trong thời gian dưỡng bệnh, Sài


quen Kim, cô y tá làm ở trạm xá, cô có ý tìm hiểu Sài và biết được Sài đã có vợ. Sau
cùng Kim xem Sài như một người anh.
Nửa tháng sau khi ra viện, Sài được điều lên trung đoàn bộ làm tạp vụ cho ban Năm
và dạy văn hóa. Sài được chuyển hẳn sang sinh hoạt với tổ giáo viên một thời gian sau.
Tháng sáu năm sau, khi anh đã công tác ở trung đoàn bộ được hơn một năm, trung đoàn
cho anh đi thi tốt nghiêp lớp 10 ở trường bổ túc văn hóa của quân khu. Anh đỗ vào loại
ưu, được chọn gửi đi học tại trường đại học sư phạm ở Hà Nội. Tuyết đi thăm chồng với
sự chuẩn bị chu đáo hể hiện mình là người phụ nữ chỉnh chu. Điều này làm Sài thấy khó
chịu, bực bội.
Để có thể vào Đảng, Sài đã buộc phải “yêu” vợ. Tuyết có thai. Hương hiểu lầm và
đối xử lạnh nhạt, tàn tệ với Sài. Sài cũng có khát khao về tình yêu như tất cả bạn bè vậy
nhưng anh không có quyền hay nói đúng hơn là anh không được phép. Sài được nghỉ tết
hai tuần về nhà từ khi được đơn vị cử đi học đại học và điều này là hãnh diện cho cả họ
hàng nội, ngoại. Sài biết tin mình không được kết nạp Đảng vì lý do khúc mắc ở gia đình
vợ. Hương cũng đã đi lấy chồng tháng trước. Sài sống như một con người vô cảm ảnh

đạm trước mọi chuyện. Sài được tuyển đi B. Hiểu - người bạn đặc biệt của Sài là người
đã thông báo tin này cho Sài. Gần một năm sau khi Tuyết sinh được đứa con trai, như vồ
được hạnh phúc của nhà mình thì Sài lại càng đau buồn thêm.
Sài vào chiến trường, trải qua nhiều gian khổ, mất mát và lập được nhiều chiến
công. Sau17 năm vào bộ đội Sài không thể ngờ rằng cuộc sống cực nhọc của người lính
đối với anh lại thiêng liêng đến thế. Trở về nguyên vẹn, Sài nhận được quyết định chuyển
về trường đại học quân sự và anh có một cái nghề nuôi sống bản thân mình. Chính ủy Đỗ
Mạnh đã tìm cách giải phóng cho Sài và cả vợ Sài. Hai người được ly hôn đúng như
mong muốn của Sài. Hương vẫn lén chồng con, cơ quan đi gặp người tình cũ nhưng trong
Hương bao giờ cũng phân định ranh giới rõ ràng giữa gia đình và tình yêu. Hương lo lắng
cho Sài với một tình cảm thiêng liêng vượt lên cả tình yêu. Sài rất muốn quay lại với


Hương nhưng không thể, Hương đã có gia đình. Hương cảm thấy áy náy và ngỏ ý muốn
giới thiệu cho Sài một người vợ.
Anh gặp và yêu Châu, một cô gái Hà Nội xinh đẹp, khôn ngoan. Bất chấp sự gièm
pha can ngăn của Hương và những người thân, Sài vẫn quyết chí yêu Châu muốn lấy
Châu. Châu nói rằng cô có con với anh, hai người lấy nhau. Cuộc sống của Sài với Châu
chẳng mấy tốt đẹp, luôn cãi vã vì những chuyện vặt vãnh thường ngày. Anh được báo tin
đi ôn thi để nghiên cứu sinh nhưng vì muốn chăm sóc người vợ đang có chửa thì anh lại
không đi nữa quyết định để đợt sau. Anh cũng đã quyết định xin chuyển ngành làm công
tác thi đua, công đoàn ở một bộ để dành thời gian chăm sóc cho vợ.
Châu sinh được một đứa con trai đặt tên là bé Thùy, gia đình ngày càng xích mích,
xung đột. Châu và Sài ngày càng không tìm thấy tiếng nói chung, không hiểu nhau khiến
tình cảm cũng nhạt nhẽo. Mọi người nhìn vào đều cảm thấy bất lực trước tình cảnh ấy.
Đến những người thân của Sài cũng chán ngán, hờ hững, mặc kệ như chú Hà, anh Tính,
anh Hiểu…chỉ có thiếu tướng Đỗ Mạnh là bảo với mọi người nên thông cảm cho Sài
đừng ai xa cách hắt hủi Sài vì dù sao Sài cũng là đứa biết nghĩ. Hương vẫn dành tình cảm
cho Sài và lo toan cho Sài một cách thầm lặng. Châu sinh thêm một đứa con nữa. Sài vẫn
hết mực yêu thương vợ con, dồn hết tình cảm cho cái gia đình nhỏ bé của mình thế nhưng

Châu không thể hiểu được điều đó cô không trân trọng những tình cảm ấy mà còn được
thể sai khiến chồng như một người ở. Cô muốn chồng cung phụng mình, yêu thương như
một bà chúa. Sài còn vất vả về chuyện cơm, áo, gaọ, tiền lại còn thêm gánh nặng về vợ
con nữa đôi lúc Sài cảm thấy mệt mỏi.
Sài về lại thăm quê tìm sự bình yên thoải mái với người thân và bà con. Sài lại gặp
Hương, Hương khuyên nhủ Sài rất nhiều về chuyện gia đình. Gia đình Sài ngày một khúc
mắc trầm trọng. Tình cờ trên đường chở bé Thùy đi ăn đám cưới thì Châu gặp Toàn người
tình của Châu và cũng là bố đẻ của Thùy. Biết được Toàn vẫn qua lại chơi với con và
thăm con trên danh nghĩa là bố đứa bạn thì Châu tỏ rõ sự sợ hãi và giận dữ với những
mối quan hệ mập mờ của mình sợ chồng biết được.


Sài cảm thấy không còn ăn ở được với nhau nữa nên Sài đã viết đơn ly hôn và Châu
ký ngay không cần xem xét. Bằng lòng tin của mình, Châu đinh ninh rằng Sài dọa cô.
Cho tới khi toà án có giấy gọi thì cô mới ngớ người ra. Thế là hai người chính thức ly
hôn. Châu lại đến với Toàn như một sự giải thoát khỏi sự cô đơn. Toàn yêu Châu và sẵn
sàng đón nhận Châu với bất cứ thân phận gì. Đến ngày cuối cùng tòa xử ly hôn cho hai
người thì Châu đã thú nhận với tòa, với Sài là bé Thùy không phải là con của Sài, bây giờ
Sài mới ngớ người ra cho tới bây giờ anh mới được biết sự thật. Anh buồn vô cùng nhưng
tình yêu dành cho những đứa con thì vẫn hằn sâu vào tim anh.
Sau 3 tháng tìm hiểu tình hình ở huyện, Sài về Hạ Vị với tư cách là trưởng ban
thanh tra nhân dân của huyện về điều tra và xử lý những đơn tố giác của quần chúng. Sài
gặp lại Hương và ngỏ ý muốn về với nhau nhưng ở cái tuổi ngoài 40 thì có nhiều thứ
quan trọng hơn tình yêu. Hương khéo léo từ chối bằng tất cả những lời lẽ có lý, những
tình cảm chân thành của Hương bắt Sài phải chấp nhận. Sài nghĩ ra cách để giúp quê
hương mình thoát nghèo bằng nông nghiệp. Sài sống yên vui, thoải mái với đồng quê, với
bà con xóm giềng.
2.2. Đổi mới về nội dung
2.2.1 Đề tài
“Thời xa vắng” có một hệ thống đề tài vừa quen vừa lạ. Sự bổ sung đề tài thành

thị vào hệ thống những đề tài quen thuộc của văn học thời đại như đề tài nông thôn, đề
tài xây dựng, đề tài chiến tranh và người lính đã góp phần tạo nên bộ mặt vừa quen
vừa lạ đó của “Thời xa vắng”. Mặt khác, quan sát sự thể hiện các đề tài kể trên trong
tác phẩm, ta cũng nhận thấy tác giả đã xác định vị trí độc lập cho đề tài xây dựng, đã
tách nó khỏi ý nghĩa chức năng soi sáng cho đề tài chiến đấu như thường thấy trong
các tác phẩm văn xuôi giai đoạn trước. Đây là nét đổi mới ở phương diện đề tài của tác
phẩm này.
Vấn đề trung tâm đặt ra trong tác phẩm là số phận con người, cụ thể hơn là hạnh
phúc của con người. Nếu trong văn xuôi trước đây, hạnh phúc của con người được hòa


vào hạnh phúc chung của dân tộc, hạnh phúc là được cống hiến cho sự nghiệp chung
của đất nước, thì giờ đây trong tác phẩm của mình, Lê Lựu lại chú ý đến hạnh phúc
riêng tư, hạnh phúc cá nhân. Trong quan niệm của Lê Lựu, hạnh phúc của con người
trước hết là được ấm no, thứ đến là được yêu thương và cao hơn hết, hạnh phúc là khi
tư tưởng cá nhân được khẳng định, là khi con người xác định được vị trí của mình
trong mối quan hệ với cộng đồng xã hội.
Câu chuyện về một thời mà Lê Lựu gọi là “thời xa vắng” là một câu chuyện
buồn mà suốt một thời gian dài người ta cố tình không nhắc tới. Trong cái thời ấy,
người ta sống hào hùng, hồn nhiên; người ta thương yêu, đùm bọc và lo lắng cho nhau
nhưng lại giản đơn, ấu trĩ không biết người được yêu thương, quan tâm ấy có thực sự
hạnh phúc hay không. Đó là cái thời mà sự yêu ghét của con người bị định đoạt một
cách thô bạo, khiến người ta muốn tồn tại phải tự gọt đẽo mình, phải “sống hộ ý định
người khác”.
Tất cả những sai lầm một thời đó in rõ trong số phận và tính cách của nhân vật
chính Giang Minh Sài. Suốt nửa cuộc đời, Sài loay hoay giữa muôn vàn đau khổ do
sức ép từ nhiều phía. Thưở nhỏ, Sài phải dằn lòng sống theo ý muốn của gia đình,
dòng họ. Đến tuổi trưởng thành, Sài lại phải cố gồng mình lên để chịu đựng, phải “tự
giết chết đi những xao xuyến thèm khát một hạnh phúc thực sự”. Khi vào quân ngũ,
Sài lại phải theo ý các thủ trưởng “yêu cái người khác yêu, ghét bỏ cái người khác

ghét bỏ”. Khi bước vào cuộc hôn nhân thứ hai với Châu, tuy là người tự do lựa chọn
và sống theo ý mình, nhưng cách sống của anh vẫn là hệ quả của những tháng ngày
“sống hộ ý định người khác” thuở trước. Hôn nhân đổ vỡ là kết quả của một thời “yêu
cái mình không có” của anh. Sau biết bao đau khổ, dằn vặt, anh quyết định dứt bỏ quá
khứ lầm lạc, trở về Hạ Vị, góp phần xây dựng cuộc sống mới trên quê hương. Viết
thêm phần ba câu chuyện như một kết thúc có hậu, Lê Lựu muốn hoàn tất việc lý giải
chủ đề tác phẩm và thể hiện suy nghĩ của mình: Con người ta không nên “yêu cái
người khác yêu”, cũng không nên “yêu cái mà mình không có”. Người ta chỉ có thể
hạnh phúc khi biết sống theo suy nghĩ và hành động của mình.


Viết về cuộc đời Giang Minh Sài gắn với một “thời xa vắng” đầy những bi hài
mà ở đó, con người cá nhân bị đè nén, bị giết chết, nhà văn muốn hướng tới một cuộc
sống bình thường, một xã hội nhân văn tôn trọng cá nhân, cá tính; và ở đó, con người
cũng phải có ý thức sâu sắc hơn nữa về vị trí của mình trong mối quan hệ hài hòa,
thống nhất với gia đình, tập thể, cũng như dám chịu trách nhiệm về nhân cách của
mình. Với ý nghĩa này, “Thời xa vắng” của Lê Lựu thực sự hòa tiếng nói riêng của
mình vào tiếng nói nhân bản chung của văn học nhân loại.
2.2.2 Chủ đề
“Thời xa vắng” cũng như văn học thời đại không chỉ miêu tả đời sống mà
còn lý giải, cắt nghĩa đời sống. Trong tác phẩm, nhà văn đã đưa ra những lý giải thuyết
phục về những nguyên nhân cuộc sống đói nghèo của người nông dân Hạ Vị, đặc biệt lý
giải những nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng con người cá nhân không có chỗ
đứng trong cái “thời xa vắng” đã qua đầy những áp đặt duy lý, ấu trĩ và không ít những
sai lầm.
Vì sao Sài không được là mình, không thể sống theo ý mình, không thể đi theo
tiếng gọi của tình yêu đích thực? Bởi trước hết, theo Lê Lựu, trong cái thời ấy, không
ai cho Sài cái quyền làm như vậy. Cái danh dự của gia đình, dòng họ ông đồ Khang,
cái uy tín cán bộ của ông Hà, của anh Tính không cho phép Sài “thò ra cái ý định bỏ
vợ”. Cái sự yêu thương, quan tâm của Hiền, Hiểu và những người khác trong quân

ngũ cũng không cho phép Sài sống với tình yêu đích thực của mình, thâm chí không
thể sống với suy nghĩ riêng tư của mình.
Mặt khác, Sài không thể sống theo ý mình bởi dư luận. Chính cái sức mạnh của
dư luận đã đè nặng lên gia đình Sài, rồi tất cả đổ ụp lên đầu Sài. Và cũng như bao
người khác ở làng Hạ Vị, Sài phải “dựa vào dư luận mà sống”, Sài không đủ can đảm
“dẫm lên dư luận mà đi theo ý của mình”.
Bi kịch của Sài là do những nguyên nhân khách quan mang lại, bi kịch đó còn
được tạo nên từ nguyên nhân chủ quan: Sài là người nhu nhược, thiếu dũng cảm.


Trong đoạn đời đầu, vì nhu nhược, hèn nhát, Sài đã không dám chống lại sự áp đặt của
gia đình, không dám vượt qua dư luận, không dám phá bỏ những ràng buộc để sống
với con người thật của mình, không dám đấu tranh để bảo vệ tình yêu và hạnh phúc
thực sự của mình. Trong đoạn đời sau, cũng vì nhu nhược, Sài đã để vợ lấn lướt, xem
thường. Đó cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ trong cuộc hôn nhân thứ hai
của anh.
Với sự độc đáo của chủ đề, với những trang viết đầy ắp chất liệu thực, không tô
hồng nhưng cũng không nhìn hiện thực bằng con mắt màu xám, mà khách quan sâu
sắc, và một giọng văn thùng thình có kết dính, tạo hấp dẫn riêng, "Thời xa vắng" đã
đưa Lê Lựu lên trên những nhà văn cùng lứa viết về đề tài chống Mỹ và bước đầu
chuyển sang xây dựng thời bình.
2.2.3 Cảm hứng nghệ thuật
Cách lý giải chủ đề của Lê Lựu thể hiện cái nhìn biện chứng đối với quá khứ, thể
hiện cái nhìn đầy đủ, toàn diện về con người. Và do đó, những lý giải đó có sức thuyết
phục cao. Chính sự phức tạp trong việc lý giải và định giá thế giới như trên đã đưa đến
một cấu trúc cảm hứng phức tạp trong “Thời xa vắng”.
Cảm hứng bi - hài là cảm hứng cơ bản của tác phẩm đã tỏ rõ tính chân thực lịch
sử của nó. Cảm hứng này đem đến cho người đọc một cái nhìn sâu sắc và biện chứng
hơn về cuộc đời và con người. Câu chuyện về một thời đã qua trong “Thời xa
vắng” chứa chất biết bao nỗi buồn, bao bi kịch, và cũng chứa đựng biết bao chuyện

nực cười. Điều đặc biệt là với “Thời xa vắng”, Lê Lựu hầu như không sử dụng phương
thức cường điệu, phóng đại, phương thức quen thuộc của văn xuôi viết theo cảm hứng
hài kịch. Nhà văn kể về cái thời đã qua với những chuyện rất thật, thật như đùa. Những
đoạn kể, đoạn tả trong tác phẩm về cảnh đi làm thuê của người dân Hạ Vị; cảnh đám
tang cụ đồ Khang; chuyện người ta can thiệp thô bạo đến quyền tự do cá nhân; cách
đánh giá con người rất quan liêu, cứng nhắc; chuyện anh chàng Sài việc gì cũng phải
theo các thủ trưởng kể cả chuyện yêu và ngủ với vợ, chuyện Sài sập bẫy tình của cô
gái Hà thành khôn ngoan, lọc lõi là Châu, chuyện Sài sống với vợ mà chẳng khác gì


×