Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

KHẢO SÁT VÀ THỐNG KÊ THÀNH NGỮ TRONG TRUYỆN KIỀU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.91 KB, 43 trang )

Khảo sát và thống kê hệ thống thành ngữ thuần Việt và Hán Việt trong Truyện Kiều

Phần mở đầu...................................................................................................................... 2
Phần nội dung.................................................................................................................... 4
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung............................................................................ 4
1.1. Về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều............................................... 4
1.1.1. Về tác giả Nguyễn Du.................................................................................. 4
1.1.1.1. Cuộc đời......................................................................................... 4
1.1.1.2 Sự nghiệp sáng tác........................................................................... 5
1.1.2 Về tác phẩm Truyện Kiều ..............................................................................7
1.1.2.1. Giá trị nội dung................................................................................. 7
1.1.2.2. Giá trị nghệ thuật.............................................................................. 8
1.2 Về thành ngữ, thành ngữ thuần Việt và thành ngữ Hán Việt ...............................9
1.2.1 Thành ngữ...................................................................................................... 9
1.2.2 Thành ngữ thuần Việt ..................................................................................11
1.2.3 Thành ngữ Hán Việt ....................................................................................11
1.2.4. Đặc điểm tu từ của thành ngữ thuần Việt và thành ngữ Hán Việt............... 12
Chương 2: Hệ thống thành ngữ trong Truyện Kiều......................................................... 13
2.1 Khảo sát và thống kê thành ngữ Hán Việt trong Truyện Kiều ...........................13
2.2. Khảo sát và thống kê thành ngữ Thuần Việt trong Truyện Kiều..................... 17
2.3. Khảo sát và thống kê thành ngữ bán Hán Việt trong Truyện Kiều ...................26
Chương 3: Nhận xét về nghệ thuật sử dụng thành ngữ trong Truyện Kiều .....................38
3.1. Về số lượng .................................................................................................38
3.2. Đặc điểm nghệ thuật sử dụng thành ngữ trong Truyện Kiều ...........................41
3.2.1 Đặc điểm về nghệ thuật sử dụng thành ngữ Hán Việt ..................................41
3.2.2. Đặc điểm về nghệ thuật sử dụng thành ngữ thuần Việt và bán Hán Việt ....42
Phần kết luận ................................................................................................................... 44
Tài liệu tham khảo ...........................................................................................................46

GVHD: Th.S Võ Minh Hải


Page 1


Khảo sát và thống kê hệ thống thành ngữ thuần Việt và Hán Việt trong Truyện Kiều

Phần mở đầu
Nói đến nền văn học cổ điển Việt Nam không thể không nhắc đến đại thi hào
Nguyễn Du với kiệt tác Truyện Kiều. Khi viết Truyện Kiều, Nguyễn Du khiêm nhường
coi đây chỉ là Lời quê góp nhặt một vài trống canh, nhưng thực tế đã chứng minh vị trí
không thể thay thế của kiệt tác này trong nền văn học dân tộc. Từ xưa đến nay, hầu như
tất cả các nhà nghiên cứu, bình luận Truyện Kiều đều khẳng định Nguyễn Du là bậc thầy
của ngôn ngữ dân tộc, là tập đại thành về ngôn ngữ của thời đại ông, là người đã nâng
ngôn ngữ văn học dân tộc của thời đại lên một đỉnh cao chói lọi. Đào Nguyên Phổ đánh
giá Truyện Kiều là một khúc Nam âm tuyệt xướng. Giáo sư Nguyễn Khánh Toàn so sánh
đóng góp của Nguyễn Du về phương diện phát triển ngôn ngữ dân tộc với công của
Puskin trong việc phát triển ngôn ngữ văn học Nga. Những đánh giá trên hoàn toàn có cơ
sở. Tác phẩm này đã bất chấp quy luật tinh lọc trong tiếp nhận của công chúng và sự
sàng lọc khắc nghiệt của thời gian để chứng minh sức sống bất tử của mình.
Về mặt ngôn ngữ, Truyện Kiều vừa mang vẻ đài các, kiêu sa của một đóa mẫu đơn,
vừa mang nét giản dị, mộc mạc của một cành sen giữa ao làng. Truyện Kiều đánh dấu
một bước phát triển mới về chất, có ý nghĩa đặc biệt trong việc học tập thơ ca dân gian
và ngôn ngữ quần chúng của nhà thơ. Một trong những lý do làm người đọc cảm nhận
ngôn ngữ trong Truyện Kiều đẫm chất dân gian, gần gũi với đời sống hàng ngày là nghệ
thuật sử dụng tiếng nói quần chúng của đại thi hào qua biệt tài vận dụng thành ngữ, tục
ngữ. Có lẽ trong lịch sử thi ca của ta từ xưa đến nay, khó tìm được một tác phẩm nào mà
thành ngữ xuất hiện nhiều và đặc sắc như trong Truyện Kiều. Đại thi hào sử dụng cả
thành ngữ thuần Việt lẫn thành ngữ Hán Việt. Và cách xuất hiện cũng hết sức linh hoạt,
khi thì nguyên văn, khi thì được biến đổi bằng cách chèn thêm một số từ khác, cho hợp
tình, hợp cảnh. Nguyễn Du sử dụng khéo léo đến nỗi, lắm lúc chúng ta không còn biết
được những câu thành ngữ quen thuộc đã nhập vào trong Truyện Kiều, hay chính Truyện

Kiều đã tạo ra những thành ngữ ấy.
Thành công của Nguyễn Du về phương diện ngôn ngữ có ý nghĩa vô cùng to lớn
đối với lịch sử văn học dân tộc. Nó khẳng định một cách đầy thuyết phục sự phong phú
và khả năng to lớn của ngôn ngữ dân tộc trong sáng tác văn học. Khó lòng mà liệt kê hết
tất cả những nghiên cứu, khảo sát, bình luận của các tác giả trong và ngoài nước về
Truyện Kiều. Tác phẩm đã làm tốn không biết bao nhiêu giấy mực của các nhà tư tưởng,
GVHD: Th.S Võ Minh Hải

Page 2


Khảo sát và thống kê hệ thống thành ngữ thuần Việt và Hán Việt trong Truyện Kiều

nhà lí luận, nhà ngôn ngữ học… thế mà dường như người ta vẫn cảm thấy chưa nói hết,
nói đủ về nó. Với vị trí là đỉnh cao nghệ thuật của đất nước, Truyện Kiều được hầu hết
những nhà nghiên cứu lớn về văn học tìm hiểu, với những tên tuổi như Đào Duy Anh,
Trương Chính, Hoài Thanh, Nguyễn Lộc, Đặng Thanh Lê, Nguyễn Đăng Na, Trần Nho
Thìn v.v. Trong đó có thể kể đến những công trình như chương viết về Nguyễn Du trong
cuốn giáo trình Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - hết thế kỷ XIX của Nguyễn
Lộc, Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm của Đặng Thanh Lê v.v. Đây là những công
trình nghiên cứu trọn vẹn về Nguyễn Du và Truyện Kiều.
Xưa nay, nghiên cứu ngôn từ nghệ thuật trong Truyện Kiều, người ta thường hay
chú ý trước hết đế những chỗ dùng từ chính xác, từ hay, tinh tế thường được gọi là lối
dùng từ đắt của Nguyễn Du, cũng như cách dùng hư từ, khối lượng từ đồng nghĩa... Các
nhà nghiên cứu cũng dành một sự quan tâm đặc biệt trong việc khảo sát và phân tích
nghệ thuật sử dụng thành ngữ của tác giả. Có thể điểm qua một số công trình như:
Truyện Kiều và biệt tài vận dụng thành ngữ của Nguyễn Du của Vương Trọng; Cách sử
dụng tục ngữ, thành ngữ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du của Thanh Công…. Tuy
nhiên các tác giả chỉ mới dừng lại ở thao tác phát hiện và thống kê mà chưa đi sâu phân
tích nghệ thuật sử dụng thành ngữ trong Truyện Kiều cũng như chưa phân loại và chỉ rõ

vị trí của chúng trong tác phẩm.
Chúng tôi tiến hành bài tiểu luận “Khảo sát và thống kê hệ thống thành ngữ
Hán Việt và thành ngữ Việt trong Truyện Kiều” với hi vọng đem đến cho các bạn một
cái nhìn tổng quan về việc sử dụng thành ngữ của Nguyễn Du trong kiệt tác của dân tộc.
Bài tiểu luận ngoài phần mở đầu và kết luận bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lí luận chung.
Chương 2: Khảo sát và thống kê hệ thống thành ngữ Hán Việt và thành ngữ Việt
trong Truyện Kiều.
Chương 3: Nhận xét về nghệ thuật sử dụng thành ngữ trong Truyện Kiều.

GVHD: Th.S Võ Minh Hải

Page 3


Khảo sát và thống kê hệ thống thành ngữ thuần Việt và Hán Việt trong Truyện Kiều

Phần nội dung
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG
1.1. Về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều
1.1.1. Về tác giả Nguyễn Du
1.1.1.1. Cuộc đời
Theo gia phả của dòng họ Nguyễn ở làng Nghi Xuân, Nguyễn Du sinh ngày 23
tháng 11 năm Ất Dậu 1766 tại phường Bích Câu, Thăng Long. Cha là Nguyễn Nghiễm,
người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh), có biệt hiệu là Hồng Ngư cư sĩ, đậu
Nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư đô (Tể tướng), tước Thượng thư bộ Hộ triều
Lê. Mẹ là bà Trần Thị Tần, con gái của một người làm chức câu kê, quê làng Hoa Thiều,
xã Minh Đạo, huyện Tiên Du, xứ Kinh Bắc (nay là Tỉnh Bắc Ninh). Bà Tần là vợ thứ ba
của Nguyễn Nghiễm (kém chồng 32 tuổi, sinh được năm con, bốn trai và một gái). Tổ
tiên của Nguyễn Du có nguồn gốc từ làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam

(nay thuộc Hà Nội), sau di cư vào Hà Tĩnh, có truyền thống khoa hoạn nổi danh ở làng
Tiên Điền.
Cuộc đời Nguyễn Du trải qua nhiều sóng gió. Năm 1775, anh trai cùng mẹ là
Nguyễn Trụ qua đời. Năm 1776, cha Nguyễn Du qua đời. Năm 1778, mẹ Nguyễn Du qua
đời. Cũng trong năm này, anh thứ hai của Nguyễn Du là Nguyễn Điều được bổ làm trấn
thủ Hưng Hóa, mới 13 tuổi Nguyễn Du mồ côi cả cha lẫn mẹ nên ông phải ở với người
anh khác mẹ là Nguyễn Khản (hơn ông 31 tuổi).
Năm Quý Mão (1783), Nguyễn Du thi Hương ở trường Sơn Nam, đậu tam trường
(Tú tài). Ông lấy vợ, là con gái Đoàn Nguyễn Thục và ông được tập ấm chức Chánh thủ
hiệu quân hùng hậu của cha nuôi họ Hà ở Thái Nguyên.
Mùa đông năm Bính Thìn (1796), Nguyễn Du trốn vào Gia Định theo chúa Nguyễn
Ánh nhưng bị Quận công Nguyễn Thận bắt giam ba tháng ở Nghệ An, sau khi được tha
ông về sống ở Tiên Điền.
Mùa thu năm Nhâm Tuất (1802), vua Gia Long diệt nhà Tây Sơn, Nguyễn Du ra
làm quan Tri huyện Phù Dung, Phủ Khoái Châu, Trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hưng
Yên). Mấy tháng sau thăng Tri phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc Hà
Nội).
GVHD: Th.S Võ Minh Hải

Page 4


Khảo sát và thống kê hệ thống thành ngữ thuần Việt và Hán Việt trong Truyện Kiều

Năm 1805, ông được thăng Đông các đại học si (hàm Ngũ phẩm), tước Du Đức
Hầu và vào nhậm chức ở kinh đô Phú Xuân. Năm 1807 được cử làm giám khảo kì thi
Hương ở Hải Dương. Mùa thu năm 1808 ông xin về quê nghỉ.
Năm 1809 ông được bổ chức Cai bạ (hàm Tứ phẩm) ở Quảng Bình. Năm Quý Dậu
1813 ông được thăng Cần chánh điện học si và được cử làm chánh sứ sang nhà Thanh.
Năm 1814 ông đi sứ về, được thăng Hữu tham chi bộ Lễ (hàm Tam phẩm).

Năm 1820 Gia Long qua đời, Minh Mạng nối ngôi. Lúc này Nguyễn Du được cử đi
làm Chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong nhưng ông bị bệnh dịch, mất ngày
mồng 10 tháng 8 âm lịch ( 16 tháng 9 năm 1820), lúc 54 tuổi.
Năm Giáp Thân 1824, di cốt của ông được cải táng về quê nhà làng Tiên Điền, Hà
Tĩnh.
1.1.1.2 Sự nghiệp sáng tác

Các sáng tác chính: Nguyễn Du sáng tác cả chữ Hán lẫn chữ Nôm.
• Sáng tác bằng chữ Hán: hiện nay giới nghiên cứu đã sưu tầm được 249 bài thơ
chữ Hán do Nguyễn Du sáng tác vào các thời kì khác nhau:
− Thanh Hiên thi tập gồm 78 bài chủ yếu trong những năm tháng trước khi ra làm
quan nhà Nguyễn.
− Nam trung tạp ngâm có 40 bài viết thời gian làm quan ở Huế và Quảng Bình,
những địa phương ở phía Nam Hà Tĩnh - quê hương ông.
− Bắc hành tạp lục gồm 131 bài thơ sáng tác trong chuyến đi sứ Trung Quốc.
Thơ chữ Hán của Nguyễn Du thể hiện tư tưởng, tình cảm, nhân cách của ông. Các
bài thơ trong Thanh Hiên thi tập và Nam Trung tạp ngâm tuy biểu hiện một tâm trạng
buồn đau, day dứt nhưng đã cho thấy rõ khuynh hướng quan sát, suy ngẫm về cuộc đời,
về xã hội của tác giả. Trong Bắc hành tạp lục, những điểm đặc sắc của tư tưởng, tình
cảm Nguyễn Du được thể hiện rõ ràng hơn. Xét về đề tài và cảm hứng sáng tác, có nhiều
điểm tương đồng giữa Truyện Kiều và các bài thơ chữ Hán trong Bắc hành tạp lục.
• Sáng tác bằng chữ Nôm: tiêu biểu nhất là Đoạn trường tân thanh (còn gọi là
Truyện Kiều) và Văn chiêu hôn.
Truyên Kiều được sáng tác trên cơ sở cốt truyện của tiểu thuyết chương hồi Trung
Quốc Kim Vân Kiều truyện. Tuy nhiên, Nguyễn Du đã sáng tạo nên một tác phẩm mới,
với cảm hứng mới, nhận thức lý giải nhân vật theo cách của riêng ông, với thể loại
truyện thơ khác hẳn Kim Vân Kiều truyện là tác phẩm tự sự văn xuôi. Trên một nền tảng
GVHD: Th.S Võ Minh Hải

Page 5



Khảo sát và thống kê hệ thống thành ngữ thuần Việt và Hán Việt trong Truyện Kiều

nhân đạo chủ nghĩa vững chải, với tài năng điêu luyện, với sự lựa chọn thể loại truyện
thơ kết hợp nhuần nhuyễn cả chất tự sự và chất trữ tình, với sự am hiểu đồng thời cả
ngôn ngữ bình dân cũng như ngôn ngữ văn học bác học, Nguyễn Du đã sáng tạo nên một
kiệt tác độc nhất vô nhị của văn học trung đại Việt Nam.
Văn chiêu hôn nguyên tên là Văn tế thập loại chúng sinh (Văn tế mười loại chúng
sinh) viết bằng thể thơ song thất lục bát. Bài văn tế thể hiện một phương diện quan trọng
của chủ nghĩa nhân đạo trong sáng tác Nguyễn Du. Theo quan niệm xưa, hồn của những
người chết bất hạnh cần được siêu sinh tịnh độ. Nguyễn Du viết bài thơ chiêu hồn cho
nhiều hạng người khác nhau, kể cả những người thuộc tầng lớp phong kiến quý tộc. Song
tấm lòng nhân ái của nhà thơ vẫn hướng về những thân phận nhỏ bé, dưới đáy xã hội như
các em nhỏ, các kĩ nữ, những anh học trò nghèo.
 Một vài đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Du
• Đặc điểm nội dung: Nếu so với nhiều nhà nho xưa làm thơ để nói chí thì nét nổi
bật xét về nội dung của sáng tác Nguyễn Du là sự đề cao xúc cảm, tức đề cao tình. Nội
dung quan trọng hàng đầu trong thơ chữ Hán, Truyện Kiều, Văn chiêu hôn là tình cảm
chân thành, là sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với cuộc sống và con người, đặc biệt
là những con người nhỏ bé, bất hạnh, người phụ nữ. Người ăn mày, người mù hát rong,
những ca nhi, kĩ nữ,…vốn bị xã hội cũ coi rẻ được nhà thơ nói đến bằng một tấm lòng
trân trọng, thương yêu. Những khái quát của ông về cuộc đời, về thân phận con người
thường mang tính triết lí cao và thấm đẫm cảm xúc. Nhà thơ triết lí với nỗi đau về thân
phận bất hạnh của phụ nữ trong xã hội cũ: “Đau đớn thay phận đàn bà – Lời rằng bạc
mệnh cũng là lời chung” (Truyện Kiều), “Đau đớn thay phận đàn bà – Kiếp sinh ra thế
biêt là tại đâu ?” (Văn chiêu hồn). Ông khái quát bản chất tàn bạo của xã hội phong kiến,
bộc lộ sự phẫn nộ đối với những kẻ đã hãm hại Khuất Nguyên : “Hậu thế nhân nhân giai
Thượng quan – Đại địa xứ xứ giai Mịch La” (người đời sau ai cũng là Thượng Quan –
trên mặt đất đâu cũng có song Mịch La). Ý nghĩa xã hội sâu sắc của thơ ca Nguyễn Du

gắn chặt với tình đời, tình người bao la của nhà thơ.
•Đặc điểm nghệ thuật: Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác. Ông nắm vững
nhiều thể thơ của Trung Quốc, làm thơ theo thể ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật, thất ngôn
luật và ca, hành (nhạc phủ),… Thơ chữ Hán của ông ở thể thơ nào cũng có bài xuất sắc.
Đặc biệt phải nói đến tài năng nghệ thuật của nhà thơ trong các sáng tác bằng chữ Nôm.
Nguyễn Du đã góp phần trau dồi ngôn ngữ văn học dân tộc, làm giàu cho tiếng Việt qua
GVHD: Th.S Võ Minh Hải

Page 6


Khảo sát và thống kê hệ thống thành ngữ thuần Việt và Hán Việt trong Truyện Kiều

việc Việt hóa nhiều yếu tố ngôn ngữ ngoại nhập. Đến Truyện Kiều của ông, thể thơ lục
bát đã chứng tỏ khả năng chuyển tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn của thể loại truyện
thơ.
1.1.2 Về tác phẩm Truyện Kiều
Truyện Kiều có một số phận kì diệu chưa tác phẩm nào sánh kịp. Tác phẩm đã đi
vào đời sống, trường tồn trong đời sống văn hóa, tinh thần của hàng triệu triệu công
chúng Việt Nam. Truyện Kiều đã thành đề tài nghiên cứu của các nhà Việt Nam học
trong nước và trên thế giới, tìm hiểu về văn học, triết học, xã hội học, đạo đức học…
Truyện Kiều là nội dung của những sinh hoạt nghệ thuật rất đa dạng, sâu sắc và tinh tế,
tài hoa và trí tuệ : Bình Kiều, vịnh Kiều, án Kiều, thổng Kiều, lẩy Kiều… Truyện Kiều đã
được chuyển thể ra nhiều loại hình sân khấu dân tộc: Tuồng, chèo, cải lương, kịch, thơ…
đã lên màn ảnh, đã gợi ý, gợi cảm cho hội họa, vũ đạo…
1.1.2.1. Giá trị nội dung:
Truyện Kiều là một cuốn tiểu thuyết bằng thơ, là tác phẩm phản ánh xã hội thông
qua vận mệnh và tính cách nhân vật trung tâm: Vương Thúy Kiều.
Ngoài nhân vật trung tâm Thúy Kiều, nhân vật Từ Hải giữ vị trí quan trọng thứ hai
trong tác phẩm. Từ không chỉ đóng vai trò là vị cứu tinh của Kiều, không chỉ có tác dụng

soi sáng một số nét trong tính cách của Kiều mà nhân vật này còn giữ một vị trí tương
đối độc lập trong tác phẩm. Từ phản ánh nhiều vấn đề xã hội, Từ biểu hiện nhiều chủ đề
có tính độc lập tương đối so với các vấn đề xã hội, các chủ đề được xác định từ nhân vật
Thúy Kiều.
Tác phẩm mở đầu bằng thuyết tài mệnh tương đố (tài mệnh ghét nhau) và kết thúc
bằng giải pháp tu tâm nhưng chất liệu làm nên tác phẩm lại là những điều trông thấy mà
đau đớn lòng của tác giả. Ngoài vấn đề trung tâm được đặt ra trong tác phẩm là vấn đề số
phận con người trong xã hội phong kiến suy tàn nhà thơ còn phản ánh khát vọng lớn lao
của con người thời đại nên phải phân tích tác phẩm với hai nội dung này.
Truyện Kiều có giá trị hiện thực sâu sắc. Nó là bản cáo trạng bằng thơ về một xã
hội phong kiến đang trên đà mục nát, đầy rẫy sự bất công, tàn bạo. Phản ánh sâu sắc hiện
thực xã hội đương thời là cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Phản ánh thân phận thấp hèn
của người phụ nữ trong xã hội, cho dù là người phụ nữ có nhan sắc cũng không nắm
GVHD: Th.S Võ Minh Hải

Page 7


Khảo sát và thống kê hệ thống thành ngữ thuần Việt và Hán Việt trong Truyện Kiều

được số phận của mình.
Bên cạnh đó Truyện Kiều còn có giá trị nhân đạo rất cao khi khẳng định, ca ngợi tài
năng, nhan sắc của người phụ nữ; ca ngợi tình yêu cao đẹp và ca ngợi nhân phẩm con
người. Nàng Kiều - người con gái thông minh, nhạy cảm, giàu tình yêu thương, giàu đức
hi sinh, có ý thức về nhân phẩm, sẵn sàng đấu tranh để bảo vệ phẩm giá nhưng lại bị xã
hội phong kiến chà đạp.
1.1.2.2. Giá trị nghệ thuật
Tất cả mọi người đọc Truyện Kiều đều nhất trí cho rằng nghệ thuật của tác phẩm là
tuyệt diệu. Chỗ được nhất trí cao nhất là ngôn ngữ Truyện Kiều phong phú, tinh luyện,
giàu sưc gợi cảm, gợi tả và trong sáng. Nghệ thuật viết Truyện Kiều như kết cấu chuyển

đoạn, kể chuyện, mô tả... đều đạt đến mức tuyệt diệu. Nghệ thuật xây dựng tính cách
nhân vật cũng phát triển lên met đỉnh cao mới, vượt xa các tác phẩm cùng thời. Nhân vật
trong Truyện Kiều nói chung là sinh động, có sức sống lâu bền là nhờ ông đã cá thể hóa
nhân vật qua cách miêu tả ngoại hình, ngôn ngữ nhân vật, hành động nhân vật và cả
những suy nghĩ sâu kín, nội tâm của nhân vật.
Xét về cả hai mặt nội dung và nghệ thuật Truyện Kiều xứng đáng là tác phẩm ưu tú
nhất của văn học Việt Nam trong quá khứ. Tác phẩm không phải là sáng tác của một cá
nhân mà là tập đại thành của truyền thống văn học dân tộc, là kết tinh của một giai đoạn
phát triển rực rỡ của nền văn học dân tộc.
Như vậy, Truyện Kiều là một di sản quý gía bậc nhất trong kho tàng văn hóa dân
tộc. Hơn thế nữa, Truyện Kiều từ mấy trăm năm qua trên các chặng đường lịch sử đau
khổ, vinh quang của dân tộc đã đi vào đời sống của nhân dân từ thế hệ này sang thế hệ
khác, trở thành trí tuệ, tình cảm máu thịt của con người Việt Nam.
Các nhà nghiên cứu trên thế giới đều đánh giá cao Truyện Kiều. Năm 1926 dịch giả
người Pháo Ronecresac khi dịch Truyện Kiều đã viết bài nghiên cứu có đoạn viết: Kiệt
tác của Nguyễn Du có thể so sánh một cách xứng đáng với kiệt tác của bất kỳ quốc gia
nào, trong bất kỳ thời đại nào. Ông so sánh: Trong tất cả các nền văn chương Pháp,
không một tác phẩm nào được phổ thông, được toàn dân sùng kính và yêu chuộng bằng
quyển truyện này ở Việt Nam. Cuối cùng ông kết luận: Sung sướng thay bậc thi si với
một tác phẩm độc nhất vô nhị đã làm rung động và ca vang tất cả tâm hôn của một dân
GVHD: Th.S Võ Minh Hải

Page 8


Khảo sát và thống kê hệ thống thành ngữ thuần Việt và Hán Việt trong Truyện Kiều

tộc.
1.2 Về thành ngữ, thành ngữ thuần Việt và thành ngữ Hán Việt
1.2.1 Thành ngữ

1.2.1.1. Khái niệm thành ngữ
Thành ngữ là những đơn vị định danh biểu thị khái niệm nào đó dựa trên những
hình ảnh những biểu tượng cụ thể (Nguyễn Thiện Giáp - Từ vựng tiếng Việt).
Thành ngữ là những cụm từ mang ngữ nghĩa cố định (chưa phải một câu hoàn
chỉnh về mặt ngữ pháp, không thể thay thế và sửa đổi về mặt ngôn từ) và độc lập riêng rẽ
với từ ngữ hay hình ảnh mà thành ngữ sử dụng. Thành ngữ được sử dụng tương đương
một từ (cụm từ). Thành ngữ là loại ngữ cố định, đã hình thành từ trước, thuộc loại đơn vị
có sẵn, chứ không phải sản phẩm nhất thời trong giao tiếp như cụm từ tự do.
1.2.1.2.Cấu tạo thành ngữ
Thành ngữ có cấu tạo ngắn gọn, cân đối, cố định và thường được tạo ra bằng các
cách sau:
- Thành ngữ được cấu tạo theo quy tắc đối.
Ví dụ: Đầu voi đuôi chuột; Đầu xuôi đuôi lọt; trên đe dưới búa; Mẹ tròn con
vuông…
- Thành ngữ được cấu tạo theo quy tắc so sánh.
Ví dụ: Vắng như chùa bà Đanh; Khỏe như trâu, Ngu như bò ...
- Thành ngữ cấu tạo bằng ghép từ.
Ví dụ: : Theo voi hít bã mía; Gió chiều nào xoay chiều ấy; Trăm voi không được
bát nước xáo; Vạch áo cho người xem lưng; Chọc gậy bánh xe ...
1.2.1.3. Đặc điểm thành ngữ
- Tính hình tượng:
Đây là đặc trưng cơ bản của thành ngữ. Thành ngữ được cấu tạo dựa vào quy tắc
ngữ pháp, quy luật âm thanh, nhưng những quy luật trên đều do sự chi phối của quy tắc
ngữ nghĩa - đó là cơ sở tạo nên tính hình tượng.
Thành ngữ bao giờ cũng có hai nghĩa: nghĩa đen là do bản thân nghĩa của các thành
tố trong tổ hợp từ mang lại nên có tính cụ thể, sinh động, giàu hình ảnh. Nghĩa bóng,
được nảy sinh trên cơ sở các quy tắc chuyển nghĩa nhất định và được lấy làm biểu tượng.
GVHD: Th.S Võ Minh Hải

Page 9



Khảo sát và thống kê hệ thống thành ngữ thuần Việt và Hán Việt trong Truyện Kiều

- Tính chặt chẽ, hàm súc
Đặc tính này có quan hệ nhân quả với tính hình tượng. Nó được xây dựng nhằm đạt
hiệu quả ít lời nhiều ý. Tính hàm súc này còn do nghĩa bóng (nghĩa hình tượng) mang lại.
- Tính cân đối
Xuất phát từ đặc điểm cấu tạo theo quy tắc đối. Tính cân đối thể hiện ở ngữ âm,
ngữ pháp, ngữ nghĩa.
+ Hai vế cùng chiều: Mèo mả gà đông; Cá chậu chim lông; Mẹ tròn con vuông...
+ Hai vế ngược chiều: Miệng hùm gan sứa; Mặt sứa gan lim ...
Tính cân đối còn thể hiện ở sự hài hòa về âm thanh, luật bằng trắc: Nhà tranh vách
đất; Xanh vỏ đỏ lòng; Đội trời đạp đất...
1.2.2 Thành ngữ thuần Việt
Căn cứ vào nguồn gốc, hệ thống thành ngữ gồm hai loại: Thành ngữ Việt và thành
ngữ Hán Việt.
Thành ngữ thuần Việt là những thành ngữ có nguồn gốc bản địa, có thể do người
Việt hoàn toàn sáng tạo ra hoặc dịch từ thành ngữ Hán Việt. Nó sử dụng từ ngữ thân
thuộc gần gũi, do chính cha ông ta sáng tạo hoặc chuyển hóa từ tiếng Hán trong quá trình
lao động sinh hoạt hằng ngày, phù hợp với tâm lý tư duy của người Việt.
Gía trị tu từ của thành ngữ Thuần Việt: được sử dụng rộng rãi trong lời ăn tiếng nói
hằng ngày của nhân dân, có cách ví von rất hay, giàu hình ảnh, rất thấm thía, mang tính
cụ thể, sinh động…
Ví dụ: Vui như mở cờ trong bụng; Đen như cột nhà cháy; Đẹp như tiên; Xấu như
ma lem; Vắng ngắt như chùa Bà Đanh…
1.2.3 Thành ngữ Hán Việt
Từ Hán Việt có nguồn gốc từ tiếng Hán được du nhập vào bộ phận tiếng Việt của
chúng ta vào giai đoạn đời Đường. Những từ này đã được người Việt đọc thành âm
chuẩn theo đúng ngữ âm của mình. Lúc đầu từ Hán Việt còn mang nhiều âm vận của

tiếng Trung Quốc thời Đường. Do có lợi thế đi vào Tiếng Việt ngay từ đầu nên các từ này
đã được đồng hóa trong ngôn ngữ Việt, nó trở thành một phần không thẻ thiếu của hệ
thống từ Tiếng Việt.
Trong hệ thống từ Hán Việt có một bộ phận không nhỏ thành ngữ Hán Việt. Thành
ngữ Hán Việt đươc cấu thành từ từ Hán Việt nên nó cũng có nguồn gốc từ Trung Hoa. Do
vị trí địa lý, do quá trình tiếp biến văn hóa thì được du nhập vào Việt Nam được chúng ta
đọc theo âm Việt nên được gọi là thành ngữ Hán Việt. Mặt khác thành ngữ Hán Việt
thường gắn liền với các điển tích, điển cố từ đời sống sinh hoạt văn hóa ở Trung Hoa.
GVHD: Th.S Võ Minh Hải

Page 10


Khảo sát và thống kê hệ thống thành ngữ thuần Việt và Hán Việt trong Truyện Kiều

Các thành ngữ Hán Việt thường có cấu trúc bền vững thuộc dạng tiểu đối, kết cấu
theo kiểu biền ngẫu. Hàng nghìn thành ngữ Hán Việt được sử dụng trong tiếng Việt từ
xưa tới nay, không chỉ bởi những người thích nói chữ mà rất phổ biến trong đời sống
thường nhật, do sự cô đọng, khái quát về mặt ngữ nghĩa khiến các thành ngữ đó có giá trị
ứng dụng rất lớn.
1.2.4. Đặc điểm tu từ của thành ngữ thuần Việt và thành ngữ Hán Việt
Mỗi một loại từ, từ Hán Việt hay từ ngữ thuần Việt đều mang một ý nghĩa tu từ nhất
định. Và thành ngữ Hán Việt cũng vậy, khi du nhập vào Việt Nam tới khi bị đồng hóa thì
vẫn không mất đi cái gốc Hán và giá trị của mình. Có những thành ngữ Hán được sử
dụng theo âm đọc của người Việt:
Bách chiến bách thắng/ Trăm trận trăm thắng
Tọa thực băng sơn/ Miệng ăn núi lở
Phong y túc thực/ Đủ ăn đủ mặc
Di huyết tẩy huyết/ Nợ máu phải trả bằng máu.
Tuy nhiên vẫn còn nhiều thành ngữ Hán Việt được sử dụng theo đúng nguồn gốc

của nó mà không hề có sự thay đổi: Công dung ngôn hạnh; Quân tử nhất ngôn; Tâm đầu
ý hợp; Vạn sự khởi đầu nan…
Tuy nhiên, dù là thành ngữ Hán Việt nào đi chăng nữa nếu đi so sánh với thành ngữ
Thuần Việt thì nó vẫn có một giá trị rất riêng, rất độc đáo. Một ví dụ điển hình dễ dàng
nhận thấy nhất là ở Việt Nam ta có câu: Uống nước ở đâu nhớ nguôn ở đó. Còn ở thành
ngữ Hán: Ẩm thủy tư nguyên (uống nước nhớ nguồn) thì ta sẽ thấy sự chênh lệch về ý
nghĩa mà nó mang lại.
Ở câu Ẩm thủy tư nguyên khi đọc lên nó tạo cho câu nói có vẻ uy nghiêm mang
màu sắc trí tuệ, thể hiện một châm ngôn, mang một chân lí mà lối diễn đạt bình thường
như câu Uống nước ở đâu nhớ nguôn ở đó không có được.
Hay như câu: Di huyết tẩy huyết (Nợ máu phải trả bằng máu); Phong túc y thực
(Đủ ăn đủ mặc); Công dung ngôn hạnh; Quân tử nhất ngôn…Đọc những thành ngữ Hán
Việt, người đọc cảm nhận đươc sự tinh tế của ngôn ngữ, làm cho người đọc thấy tính
chất trang trọng cao độ của câu nói chứ không phải là một tầng ý nghĩa khơi gợi, kém
phần trang trọng về mặt ngôn từ.
Tóm lại, thành ngữ Hán Việt hơn thành ngữ Thuần Việt ở cái chất trí tuệ mà nó phả
GVHD: Th.S Võ Minh Hải

Page 11


Khảo sát và thống kê hệ thống thành ngữ thuần Việt và Hán Việt trong Truyện Kiều

vào ngôn ngữ, hơn ở tính chất uyên bác về mặt ngữ nghĩa mà nó mang lại, mà những
phân tích trên là một trong những ví dụ điển hình cho nhận định ấy.
Nói tóm lại, ở mỗi loại thành ngữ, tùy vào từng đặc điểm, đặc trưng riêng mà nó
làm nên những nét tương đồng nhau đồng thời cũng tách xa nhau về mặt tu từ.
Sự khác biệt ở quá trình hình thành của hai loại thành ngữ Thuần Việt, Hán Việt
dẫn đến sự chênh lệch về ý nghĩa tu từ mà nó mang lại là một hệ quả tất yếu. Do quá
trình sáng tạo và chuyển hóa từ từ Hán rất phù hợp với tâm lí của người Việt nó đã làm

cho ý nghĩa xét về mặt sắc thái của thành ngữ Thuần Việt đã giảm dần so với cái gốc là
từ Hán của nó. Cũng vì lẽ đó, mà thành ngữ Thuần Việt rất giàu hình ảnh, phù hợp với
lối nói khẩu ngữ hằng ngày. Đọc thành ngữ Hán Việt cái mà người ta cảm nhận đầu tiên
là cái không khí uy nghiêm, đậm màu sắc chân lí mà lối diễn đạt bình thường như thành
ngữ thuần Việt không làm được. Cái tạo nên giá trị của thành ngữ Hán Việt đó là sự tinh
tế của ngôn ngữ. Chính vì sự tinh tế cao độ như vậy đã làm cho thành ngữ Hán Việt
không bị hòa tan, trộn lẫn vào trong thành ngữ thuần Việt. Đó là giá trị mà mọi thời đại
không thể phủ nhận.
Mỗi loại thành ngữ ở mọi góc độ lại có một giá trị thẩm mĩ khác nhau. Dù xét ở
phương diện nào thì chúng ta cũng phải khẳng định rằng thành ngữ thuần Việt và thành
ngữ Hán Việt được sử dụng rất rộng rãi rất phổ biến trong đời sống văn chương lẫn tinh
thần của người Việt. Nó là một trong những nhân tố làm nên thành công cho không ít
những nhà thơ, làm nên sự khác biệt của thơ ca Việt Nam và thơ ca thế giới.

Chương 2: HỆ THỐNG THÀNH NGỮ TRONG TRUYỆN KIỀU
Không phải đến Truyện Kiều, Nguyễn Du mới đưa vào sáng tác của mình những
yếu tố văn học dân gian. Ngay từ những sáng tác đầu tay bằng tiếng dân tộc, khuynh
hướng học tập tục ngữ, ca dao, dân ca; học tập ngôn ngữ của quần chúng của Nguyễn Du
đã thể hiện khá rõ. Trong hai bài: Thác lời trai phường nón và Văn tế sống hai cô gái
Trường Lưu, nhà thơ đã có dụng ý sử dụng ngôn ngữ quần chúng, cách nói của quần
chúng. Cả hai bài thơ có rất nhiều thành ngữ, tục ngữ và cách nói của quần chúng được
thi nhân sử dụng như cốc mò cò xơi, chó treo mèo đậy, quýt làm cam chịu, cú tha ma bắt,
bóng chim tăm cá, chó cậy nhà, gà cậy chuông, hàng thịt nguýt hàng cá, trâu buộc ghét
trâu ăn,… nhưng nhìn chung bản sắc nhà thơ vẫn chưa rõ. “Thác lời trai phường nón có
GVHD: Th.S Võ Minh Hải

Page 12


Khảo sát và thống kê hệ thống thành ngữ thuần Việt và Hán Việt trong Truyện Kiều


tính chất một bài vè của quần chúng hơn là một bài thơ” (Nguyễn Lộc). Truyện
Kiều đánh dấu một bước phát triển mới về chất, có ý nghĩa đặc biệt trong việc học tập
thơ ca dân gian và ngôn ngữ quần chúng của nhà thơ, nhất là việc sử dụng thành ngữ.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng cả hai hệ thống thành ngữ Hán Việt và
thuần Việt. Tần số xuất hiện của chúng khá lớn.
2.1. Khảo sát và thống kê thành ngữ Hán Việt trong Truyện Kiều
Cũng giống như tất cả những tác phẩm văn học đương thời, bên cạnh lớp từ Việt,
Truyện Kiều còn sử dụng phổ biến lớp từ Hán Việt. Theo thống kê của tổ tư liệu Viện
ngôn ngữ thì trong số 3412 từ của tác phẩm, có 1310 từ Hán Việt, chiếm tỉ lệ 35%. Trong
số 35% đó, Nguyễn Du cũng khá nhiều lần sử dụng các thành ngữ Hán Việt. Những
thành ngữ có nguồn gốc từ tiếng Hán và tất cả các thành tố đều được đọc theo âm Hán
Việt thì chúng tôi xếp vào lớp thành ngữ Hán Việt.
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát và lập bảng thống kê về việc sử dụng thành ngữ
Hán Việt trong Truyện Kiều như sau:

STT
1

2

NGỮ LIỆU
Âm cực dương
hồi

Bỉ sắc tư phong

CÂU
THƠ


Ý NGHĨA

CHU
THÍCH

Khi khí âm đã cùng cực thì khí
2646

dương bắt đầu trở lại ( hết bi rồi
tới thái ).
Dồi dào cái này thì kém cỏi cái Rút ra từ câu

5

kia.

Phong vu bi
sắc vu thử

Cái này một thì, cái kia một thì. Ý
3

Bỉ thử nhất thì

3051

4

Bình địa ba đào


2491

5

Cốt nhục tử sinh

1099

6

Cung nga thể nữ

GVHD: Th.S Võ Minh Hải

2263

nói có lúc đi tu là phải, nhưng có
lúc lấy chồng thì phải hơn .
Đất bằng nổi sóng, chỉ việc biến
động không ngờ, tai biến đột ngột.
Nói đến công ơn to lớn, như chỉ
còn xương mà làm sinh thịt, đã
chết làm cho sống.
Gọi chung người con gái hầu hạ
trong cung vua chúa.
Page 13


Khảo sát và thống kê hệ thống thành ngữ thuần Việt và Hán Việt trong Truyện Kiều


Rung động cả đất, làm sợ cả trời, Biến đổi từ
7

Động địa kinh
thiên

2924

chỉ một sự việc trọng đại, một sự thành

ngữ

biến đổi lớn lao.

gốc

kinh

thiên

động

địa.
8

9

Động tỏa nguyên
phong
Giải cấu tương

phùng

Động tỏa là của động đóng kín,
285

nguyên phong là nguồn nước bọc
kín. Ý chỉ không có lối vào ra.
Tình cờ mà gặp

159, 419
Hại người thì người hại lại.

10

11

12

13

14

15

Hại nhân nhân hại

Hiếu trọng tình
thâm
Hồng diệp xích
thằng

Hồng nhan bạc
mệnh
Kim mã ngọc
đường
Khốc quỷ kinh
thần

2382
Tình nặng, hiếu sâu. Ý nặng lòng
609

vì đạo hiếu vì thương cha.
Nghĩa là lá thắm chi hông, chỉ

459

duyên vợ chồng
Người con gái đẹp thường có số

1906

phận mỏng manh.
Kim mã tức Kim mã môn, Ngọc

2870

đường là dinh thự của quan Hàn
lân. Chỉ cảnh làm quan sang.
Làm cho quỷ phải khóc thần phải


1642

sợ, tức là ghê gớm lắm.
Lễ đi trước, binh kéo đi sau, ý chỉ

16

17

Lễ tiên binh hậu

Lộc trọng quyền
cao

GVHD: Th.S Võ Minh Hải

2508

mưu kế đánh lừa của Hồ Tôn
Hiến.
Làm quan cao, ăn lộc nhiều, có

2497

quyền lớn.

Page 14


Khảo sát và thống kê hệ thống thành ngữ thuần Việt và Hán Việt trong Truyện Kiều


18

19

Ngộ biến tòng
quyền
Nhân định thắng
thiên

Gặp biến cố thì phải theo lối bất
600

bình thường mà xử lý.
Người quyết định có thể thắng

420

được ý trời.
Chồng hiển quý thì vợ cũng vẻ

20

Phu quý phụ vinh

2553

vang.
Kiệu trang sức bằng hình chim


21

Phượng liễn loan
nghi

22

Quốc sắc thiên
hương

2265

phượng và đồ nghi trượng trang
sức bằng hình chim loan, chỉ nghi
vệ của hoàng hậu.
Nghĩa là sắc nước hương trời chỉ

825

người người con gái tuyệt đẹp.
Nghĩa là sắc nước tài trời, chỉ Có khi dùng

23

Quốc sắc thiên tài

163;

người đàn bà đẹp và người đàn nguyên vẹn,


2922

ông giỏi.

có khi tách,
xen.

Chỉ bốn loại quỷ ma, chỉ người
24

Quỷ quái tinh ma

2333

xảo quyệt, tàn ác.
Đốt bùa thổi bay lên mà gọi quỷ

25

26

Phi phù trí quỷ

Phỉ nguyền sánh
phượng

1684

thần đến, chỉ bùa phép của người
đạo sĩ.

Thỏa lòng ước mong về hôn nhân

2212

tốt.
Chỉ người đàn ông tài giỏi và

27

Tài tử giai nhân

GVHD: Th.S Võ Minh Hải

47; 1457

người đàn bà đẹp.

Page 15


Khảo sát và thống kê hệ thống thành ngữ thuần Việt và Hán Việt trong Truyện Kiều

Ba chỗ quy y của người tu đạo
28

Tam quy ngũ giới

Tâm phúc tương

29


tri

1920

Phật và năm điều răn cấm của
Phật.
Lòng dạ hiểu biết nhau.

2119
Nợ kiếp trước, oan kiếp trước.

30

Túc trái tiền oan

1765
Ly biệt nhau vì chết và sống mà Nguyên vẹn

31

Tử biệt sinh ly

phải ly biệt nhau.

617

là sinh ly tử
biệt


32

Thanh thiên bạch
nhật

Giữa ban ngày, đường đường
2396

chính chính.
Thề biển thề non, lời thề trước trời

33

Thệ hải minh sơn

603

đất.
Nghìn năm có một buổi, ý nói lâu

34

Thiên tải nhất thì

2399

lắm mới gặp được nhau.
Hoa lan mùa xuân, hoa cúc mùa

35


Xuân lan thu cúc

162

thu, đều là thứ hoa đẹp mỗi mùa.
Ý nói cả hai cô đều đẹp.

2.2. Khảo sát và thống kê thành ngữ Thuần Việt trong Truyện Kiều
Bên cạnh việc vay mượn thành ngữ Hán Việt, Nguyễn Du cũng sử dụng một số
lượng lớn thành ngữ Thuần Việt. Những thành ngữ có nguồn gốc từ bản địa do ông cha
ta sáng tạo ra hoặc những thành ngữ được dịch hoàn toàn (không còn yếu tố Hán Việt)
thì được xếp vào lớp thành ngữ thuần Việt.
Chúng tôi đã thống kê về số lượng và vị trí thành ngữ Thuần Việt trong Truyện
Kiều như sau:

TT

NGỮ LIỆU

GVHD: Th.S Võ Minh Hải

CÂU
THƠ

Ý NGHĨA

CHU
THÍCH
Page 16



Khảo sát và thống kê hệ thống thành ngữ thuần Việt và Hán Việt trong Truyện Kiều

1

Ăn gió nằm mưa

554

2

Bèo nổi mây chìm

770

3

Bể rộng sông dài

2110

4

Bể sâu sóng cả

1882

5
6


7

Buôn thịt bán
người
Bước thấp bước
cao
Bướm chán ong
chường

2140
1128

1238

Sự vất vả, gian khổ, trải qua
nhiều sóng gió.
Chỉ sự trôi nổi, bấp bênh, lìa
tan.
Không gian rộng lớn.
Bể đã sâu, sóng lại lớn, chỉ
tình hình nguy hiểm tột bực.
Chỉ những kẻ buôn bán thân
xác phụ nữ.
Đi lần mò, dò dẫm, không
thuộc, không thấy rõ lối đi.
(Người đàn bà làm nghề mại Tách xen từ
dâm) nhan sắc tàn phai bướm

ong


không còn hấp dẫn khách chán chường.
làng chơi.
Chỉ sự đùa cợt suồng sã của Tách xen từ

8

Bướm lả ong lơi

1229

khách làng chơi.

bướm ong lả
lơi.

Mở mắt bắt chim đã khó nói
chi tới bịt mắt, chỉ việc
9

Bưng mắt bắt chim

1508

không thể xảy ra. Ý nói việc
giấu Hoạn Thư lấy thiếp là
việc không thể.
Cá nhốt trong chậu, chim bị
nhốt trong lồng, chỉ những


10

Cá chậu chim lồng

2184

người bị uy quyền hay danh
lợi ràng buộc, cuộc sống mất
tự do.
Cá ở dưới nước, chim ở trên

11

Cá nước chim trời

3166

12

Cát dập sóng vùi

2605

13

Cây quỳnh cành

144

dao

GVHD: Th.S Võ Minh Hải

trời, xa cách không được gặp
nhau.
Chỉ những vất vả, sóng gió
bên ngoài đến dồn dập.
Cây ngọc quỳnh cành ngọc
dao, tả vẻ đẹp của người có
Page 17


Khảo sát và thống kê hệ thống thành ngữ thuần Việt và Hán Việt trong Truyện Kiều

phong cách như tiên.
Cau lông mày và nghiến
14

Chau mày nghiến
răng

2010

răng. Chỉ sự tức tối mà
không phát ra được bằng lời
nói, việc làm.
Nhớ mãi không quên, như Từ thành ngữ

15

Chạm xương chép

dạ

2425

chạm vào xương, ghi vào Hán
lòng.

Việt

khắc cốt ghi
tâm .

16

17

Chân trời mặt bể

Chọc trời khuấy
nước

2607

Chỉ nơi xa xôi, tận cùng.
Đâm chọc lên trời, khua
động cả nước, chỉ sự phiến

2471

động cả nước non. Tinh thần

tự do, không ai sai khiến
được.
Chọn ngọc ở trong đống đá

18

Chọn đá thử vàng

2187

19

Con ong cái kiến

1758

20

Cờ đã đến tay

823

và thử vàng xem có tốt
không → ý nói kén chọn lấy
người tốt.
Tỉ dụ người nhỏ bé, hèn
mọn.
Chỉ cơ hội đã đến, nên tận Rút từ câu tục
dụng cơ hội.


ngữ Cờ đến
tay ai thì nấy
phất.

21

Cửa đóng then cài

271

22

Cữ gió tuần mưa

567

23

Dãi gió dầm mưa

3080

24

Đá nát vàng phai

1955

25


Đan đập giật giàm

GVHD: Th.S Võ Minh Hải

586

Cửa thì đóng lại cài then.
Chỉ sự kín đáo, sâu kín.
Người đi xa phải trải qua cữ
gió này tuần mưa khác.
Sự chịu đựng, vất vả.
Thề giữ lòng như đá, vàng
nhưng lại để cho đá nát vàng
phai, tức là không giữ lời
thề.
Thêu dệt chuyện để hãm hại
Page 18


Khảo sát và thống kê hệ thống thành ngữ thuần Việt và Hán Việt trong Truyện Kiều

người khác.
Chỉ sự đau đớn, xót xa đến
26

Đau như dần

2114

tột độ, như bị dần vào xương

thịt.
Làm những việc viển vông, Biến đổi từ

27

Đáy bể mò kim

3175

không thể đem lại kết quả.

mò kim đáy

bể
Bất thường xảy ra sự kiện Dịch từ thành
28

Đất bằng nổi sóng

1405

lớn, sự bất trắc không thể ngữ Hán Việt
lường trước được.

bình địa ba
đào.

29
30


Đo đắn ngược xuôi
Đóng cửa cài then

865
3229

Tính đi tính lại.
Chỉ sự cẩn thận, kín đáo.
Chỉ người độc lập ở giữa

31

Đội trời đạp đất

2171

trời, không ở dưới uy quyền

32

Đổi trắng thay đen

690

nào.
Đảo lộn trắng đen, phải trái.
Gặn bỏ cặn để cho trong, chỉ

33


Gạn đục khơi trong

3181

việc bỏ cái xấu, giữ lại cái
tốt.
Ghi trong lòng, để trong dạ, Nguyên

34

Ghi lòng để dạ

2790

gốc

để nhớ mãi mãi, không bao là ghi lòng
giờ quên.
tạc dạ
Giấm chua chỉ vợ cả ghen, Được sử dụng

35

36

37

Giấm chua lửa
nồng
Giấu ngược giấu

xuôi
Giết người không
dao

1352

1513

1816

lửa nông chỉ cảnh làm đĩ. Ý theo lối tách,
cả câu là giấm chua lại khổ xen
bằng mấy lửa nông.
Tìm cách này hay cách khác
mà giấu giếm.
Chỉ con người nham hiểm, Lấy ý từ câu
làm hại người khác bằng chữ Hán Tiếu
những thủ đoạn thâm độc.

trung

hữu

đao
38

Gió giật mây vần

907


Hình dung cuộc đi lật đật,
vội vàng, khác với cuộc rước

GVHD: Th.S Võ Minh Hải

Page 19


Khảo sát và thống kê hệ thống thành ngữ thuần Việt và Hán Việt trong Truyện Kiều

39

Gió mát trăng
trong

455

dâu bình thường.
Như gió mát trăng thanh.
-

40

Gió quét mưa sa

2443

Sự gian truân, vất vả.
Có sức mạnh to lớn, có
khả năng thay đổi tình

hình một cách nhanh

41
42

Giọt dài giọt ngắn
Giữa đường đứt

43

gánh
Góc bể bên trời

44

Hai mặt một lời

45

46
47

48

Kẻ ngược người
xuôi
Kẻ ở người đi
Kẻ thang người
thuốc
Không khảo mà

xưng

684; 1840
725
899
450

1973

781
761

chóng.
Cách nói hình tượng chỉ việc
khóc nhiều.
Sự lỡ làng trong tình yêu.
Chỉ nơi xa xôi.
Hai người cùng nói một lời,
cùng đọc một lời thề.
Mỗi người ở mỗi đường, mỗi
nẻo khác nhau, không thể
gặp được nhau nữa.
Chỉ sự chia tay, kẻ ở lại
người ra đi.
Người nọ, người kia lo liệu
thuốc thang.
Không hỏi mà trả lời.

1578


Thành

ngữ

không

được

sử

dụng

nguyên vẹn
49

50

Kiến bò miệng

1548;

chén

2335

Kín mít như bưng

1563

51


Kín như hủ nút

1577

52

Lá gió cành chim

1231

GVHD: Th.S Võ Minh Hải

Ý chỉ quản quanh, không sao
thoát khỏi vị trí hoặc ý nghĩ
nào đó.
Kín mít, không có chỗ hở,
tối om.
Rất kín, như cái hủ bị gài nút Thành
chặt lại.

ngữ

không

được

sử

dụng


nguyên vẹn
Chỉ cảnh gái giang hồ đón Mượn
tích
Page 20


Khảo sát và thống kê hệ thống thành ngữ thuần Việt và Hán Việt trong Truyện Kiều

khách bốn phương.

nàng Tiết Đào
đời Đường.

53

Làm trâu làm ngựa

708

54

Lặng ngắt như tờ

2753

55

Lên thác xuống


1951

56

ghềnh
Lìa cửa lìa nhà

57

Lót đó luồn đây

611

58

Lỡ một lầm hai

1007

59

Lưng túi gió trăng

137

1142

Chịu vất vả để trả nợ hoặc
đền ơn.
Yên ắng, tĩnh mịch, không

một động tĩnh nhỏ.
(Mặt

nước)

phẳng

lặng,

không gợn sóng.
Chỉ cuộc sống vất vả, tình
hình nguy hiểm.
Xa lìa nhà cửa, quê hương.
Đút lót chạy chọt mọi nơi để
đạt được mục đích.
Một là lỡ, hai là lầm.
Chỉ tính tình phong lưu, tao Từ thành ngữ
nhã của người văn nhân mặc Hán Việt bán
khách.

nang

phong

nguyệt.
60

61

62


Máu chảy ruột
mềm
Mạt cưa mướp
đắng
Mặt dạn mày dày

Chỉ sự đau xót khi những
3068

812
1223
3150

63

Mặt như chàm đổ

2326

64

Mặt ủ mày chau

2113

người ruột thịt bị tàn sát,
thương đau.
Chỉ bọn người bịp bợm, lừa
đảo.

Da mặt dạn đi, dày ra, không Như mặt dày
còn cảm giác, không biết xấu mày dạn.
hổ.
Mặt vì sợ mà xanh đi tưởng
như đổ chàm lên mặt.
Mặt ủ rũ buồn bã, mày nhăn
nhó, tức vẻ buồn rầu, tức
giận.
Mèo ở mả, gà ở đồng, không

65
66

Mèo mả gà đồng
Nắng giữ mưa gìn

GVHD: Th.S Võ Minh Hải

1731

có nhà chỉ những hạng người

790

vô lại, ma mãnh.
Giữ cho hoa khỏi bị nắng,
Page 21


Khảo sát và thống kê hệ thống thành ngữ thuần Việt và Hán Việt trong Truyện Kiều


mưa nghĩa bóng là chỉ việc

67

Nắng quáng đèn
lòa

1807

gìn giữ trinh tiết.
Quáng vì ánh nắng, lòa bởi
ánh đêm, không nhìn rõ.
Bồ hòn là thứ trái rất đắng. Nguyên

vẹn

Ý chỉ việc cố gắng chịu là ngậm bô
68

Ngậm bồ hòn

1846

đựng để chiều ý người khác; hòn làm ngọt
cố tỏ ra vui vẻ để che giấu
nỗi chua chat, xót xa bên

69
70

71

72

73

Ngậm đắng nuốt
cay
Ngứa ghẻ hờn
ghen
Nhà tranh vách đất

Nhắm mắt đưa
chân

Nhẹ như bấc, nặng
như chì.

490
1609
2767

1115

cuồng lên như ngứa ghẻ.
Nhà cửa đơn sơ, gia cảnh
nghèo nàn thiếu thốn.
Làm liều, không để ý mọi
việc nữa vì không còn con
đường nào khác, phó mặc


1879

không thể lường trước được,
khi nặng khi nhẹ.
Lời nói nhẹ nhàng, êm ái.
Vui vẻ, tự hào, hạnh phúc về

Nói như ru

347

75

Nở mày nở mặt

2993

Nước đã đến chân

không thổ lộ ra được.
Hờn ghen cũng khó chịu đến

cho số phận.
Chỉ thái độ của Hoạn Thư,

74

76


trong.
Chịu cay đắng khổ sở mà

một điều gì đó.
Lâm vào tình thế nguy cấp.

Lấy ý từ câu
tục ngữ Nước

801

đến chân mới
nhảy.
Nước đang trong mà hóa Lấy ý
đục, bụi đang đục mà hóa thành

77

Nước đục bụi trong

879

từ
ngữ

trong, chỉ cảnh huống trái Hán Việt trọc
ngược nhau.

thủy


thanh

trần.
GVHD: Th.S Võ Minh Hải

Page 22


Khảo sát và thống kê hệ thống thành ngữ thuần Việt và Hán Việt trong Truyện Kiều

78

79

Ong bướm đãi
đằng

Ong qua bướm lại

Ong bướm lôi thôi, ý nói
1025

việc tiếp khách của khách
làng chơi.
Như hoa bị nhiều ong bướm Nguyên

3098

80


Rày gió mai mưa

337

82

Rày lần mai lữa

1494

qua lại, chỉ người phụ nữ đã là ong bướm
trải qua nhiều người đàn qua lại.
ông.
Thời tiết thay đổi, sự vật đổi
dời.
Cứ lần lữa, chần chừ ngày
này sang ngày mai, không
giải quyết cho xong.
Mong chờ từ ngày này sang

83

Rày mong mai chờ

1040

84

Rẽ cửa chia nhà


704

ngày khác.
Sự chia lìa, chia tách.
Sét nổ ở lưng trời, chỉ tin tức

85

Sét đánh lưng trời

2763

bất ngờ ghê gớm khiến

86

Sông cạn đá mòn

1975

87

Suy trước nghĩ sau

1169

88

Tạc đá ghi vàng


2855

89

Tay bồng tay mang

2244

vẹn

người ta sự hãi.
Chỉ cảnh vật thay đổi do thời
gian.
Suy nghĩ trước sau, cẩn thận.
Chỉ tình yêu bền vững như
chạm vào đá, ghi vào vàng.
- Mang xách nhiều thứ lỉnh
-

kỉnh.
Chỉ người đàn bà nhiều
con, mộtmình đảm đang,

90

91
92

Tháo cũi sổ lồng
Thầm trông trộm

nhớ
Thịt nát xương
mòn

GVHD: Th.S Võ Minh Hải

1072

lo toan mọi việc.
Giải phóng khỏi sự kiềm
hãm, được tự do.
Trông mong thầm kín một

324

mình nhớ nhung vụng trộm

733

riêng mình.
Chết một cách thê thảm, đau
đớn, không còn nguyên hình
Page 23


Khảo sát và thống kê hệ thống thành ngữ thuần Việt và Hán Việt trong Truyện Kiều

93

94


Tính quẩn lo quanh
Trong giá trắng
ngần

681

1191

hài.
Sự lo âu, không yên lòng, lo
lắng không yên.
Trong như giá, trắng như
bạc, chỉ vẻ đẹp của người
con gái.
- Hòa thuận, yên ổn mọi Thành

ngữ

bề, ở trong nội bộ cũng được sử dụng
95

Trong ấm ngoài
êm

1506

-

như ở bên ngoài.

theo kiểu cắt,
Trong nội bộ hòa thuận,
xen.
tốt đẹp thì mới giải quyết
được các mâu thuẫn bên

ngoài.
Ra vào đều phải luồn cúi,
khúm núm. Chỉ thái độ
96

Vào luồn ra cúi

2468

người làm quan ở triều đình
hạ mình,quỵ lụy trước những
kẻ quyền thế để kiếm chác
bổng lộc.
Người vào trước người vào

97

Vào trước ra sau

2189

sau, ý nói hết người này đến
người kia.
Vẫy tay mà sinh ra gió, chảy


98

Vẫy gió tuôn mưa

2795

nước mắt như đổ mưa, hình
dung người vật vã khóc lóc.

2.3. Khảo sát và thống kê thành ngữ bán Hán Việt trong Truyện Kiều
Trong Truyện Kiều ngoài hệ thống thành ngữ Hán Việt và thành ngữ thuần Việt thì
còn có một bộ phận không nhỏ thành ngữ bán Hán Việt. Đó là những thành ngữ mà trong
nội bộ của nó vừa có yếu tố Hán vừa có yếu tố Việt.
Dưới đây là bảng thống kê thành ngữ bán Hán Việt trong Truyện Kiều

TT

NGỮ LIỆU

1

Ăn xổi ở thì

GVHD: Th.S Võ Minh Hải

CÂU

Ý NGHĨA


THƠ
509

Ăn xổi là muốn ăn ngay các

CHU THÍCH

Page 24


Khảo sát và thống kê hệ thống thành ngữ thuần Việt và Hán Việt trong Truyện Kiều

thứ vừa mới muối như cà,
dưa… Ở thì là ở không lâu
dài, mang tính chất tạm bợ.
Chỉ người lười nhác, không
lo xa, không tính chuyện lâu
dài.
- Bạc, trắng như màu của

2

3

4

5
6
7


8

Bạc như vôi

Bắt khoan bắt
nhặt

Bèo hợp mây tan

Bể Sở sông Ngô
Buôn phấn bán
hương
Cách mặt khuất
lời
Cầm đã bén dây

753

-

vôi.
(Số phận) mỏng manh,

-

bất hạnh.
Vô ơn, đối xử thiếu tình

nghĩa.
Khoan là nới rộng, nhặt là

1837

khít chặt. Cả cụm chỉ sự bắt
buộc từng ly, từng tý.
Bèo mây khi tan, khi hợp,

2401

2464
814
747, 1545

1963

hợp rồi sẽ tan ngay. Ý chỉ
mọi thứ sẽ tan như bèo mây.
Miền đất phương Nam của
Trung Quốc.
Bán sắc đẹp, chỉ người làm
nghề mại dâm.
Chỉ tình hình hai người xa
cách, người sống, kẻ chết.
Cái dây đã quen, đã hợp với
đàn. Ý nói đã là vợ chồng,
đã hòa hợp với nhau.
Chén tạc là chén rượu chủ
rót mời khách, chén thù là

9


Chén tạc chén thù

1835

chén khách mời lại chủ. Chỉ
việc ăn uống, tiếp đĩ thân
mật với nhau.
Cỏ ngoài đồng, hoa hèn

10

Cỏ nội hoa hèn

2197

mọn. Chỉ người đàn bà hèn
mọn.

GVHD: Th.S Võ Minh Hải

Page 25


×