Soạn bài:
VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC
--- NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU ---
I.TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả: Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888)
- Sinh tại làng Tân Thới, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định, mất tại Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
- Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu khá lận đận:
+ Lớn lên và theo đuổi nghiệp khoa cử vào lúc xã hội loạn lạc, đất nước rơi
vào hoạ xâm lăng, bản thân lại mù loà từ năm 25 tuổi.
+ Bỏ dở nghiệp thi cử, ông chuyển sang học thuốc, làm nghề bốc thuốc chữa
bệnh và mở trường dạy học.
2. Tác phẩm:
Văn tế (ngày nay gọi là điếu văn) là thể văn thường dùng để
đọc khi tế, cúng người chết, nó có hình thức tế tưởng. Bài văn
tế thường có các phần: Lung khởi (cảm tưởng khái quát về người
chết); Thích thực (hồi tưởng công đức của người chết); Ai
vãn (than tiếc người chết); Kết (nêu lên ý nghĩa và lời mời của
người đứng tế đối với linh hồn người chết). Bài Văn tế nghĩa sĩ
Cần Giuộc có kết cấu đủ bốn phần như vậy.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được Nguyễn Đình Chiểu viết để
tưởng nhớ công ơn của những người nông dân đã anh dũng
đứng lên chống giặc. Năm 1858, giặc Pháp đánh vào Đà Nẵng,
nhân dân Nam Bộ đứng lên chống giặc. Năm 1861, vào đêm 14
12, nghĩa quân tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc trên đất Gia
Định, gây tổn thất cho giặc, nhưng cuối cùng lại thất bại. Bài
văn tế tuy được viết theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định, song
chính là những tình cảm chân thực của Đồ Chiểu dành cho
những người đã xả thân vì nghĩa lớn.
Với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, lần đầu tiên trong lịch sử
văn học dân tộc có một tượng đài nghệ thuật sừng sững về người
nông dân tương xứng với phẩm chất vốn có ngoài đời của họ
người nông dân nghĩa sĩ chống giặc, cứu nước. Đó là những con
người vốn hiền lành chất phác chỉ quen với chuyện “ruộng trâu
ở trong làng bộ” nhưng khi đất nước đứng trước nạn ngoại xâm
họ đã dám đứng lên chống lại kẻ thù mạnh hơn họ rất nhiều.
Bố cục: chia làm 4 phần:
+Lung khởi (Từ đầu đến tiếng vang như mõ) là
cảm tưởng khái quát về cuộc đời những người sĩ
Cần Giuộc.
+Thích thực (Từ Nhớ linh xưa... đến tàu đồng súng
nổ) là hồi tưởng cuộc đời và công đức của người nghĩa sĩ.
+Ai vãn (Từ Ôi! Những lăm lòng nghĩa lâu
dùng đến cơn bóng xế dật dờ trước ngõ là lời thương
tiếc người chết của tác giả và người thân của các nghĩa sĩ.
+Kết (còn lại) là tình cảm xót thương của người đứng tế đối
với linh hồn người chết.
II.ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
Câu 1:
a. Cảnh đất nước và nhân dân khi thực dân Pháp đến xâm lược:
- Mở đầu nhà thơ dùng cảnh chợ tan để thông báo một hiện thực tan nát.
- Tiếng súng là sự mở đầu cho cuộc xâm lược của thực dân Pháp.
- "Một bàn cờ thế phút sa tay": nói lên tình cảnh của đất nước ta hiện giờ: rất khó
khăn, nguy hiểm, chỉ cần đi sai một bước hậu quả khôn lường
- Nhân dân ta hoảng loạn, tan tác, nơi ở xác xơ tan hoang : "lũ trẻ lơ xơ chạy",
"bầy chim dáo dác bay"…
- Sự bị động của nhân dân, của triều đình phong kiến trước sự xâm lược của kẻ
thù đã dẫn đến hậu quả là mất nước. Đồng nghĩa với việc mất mát về người, về
của là những vết thương không dễ gì lành lại được.
b. Phân tích nét đặc sắc trong ngòi bút tả thực của tác giả:
Với ngôn ngữ hiện thực, trong trẻo hai câu thực (câu 3, 4) của bài thơ là một bức
tranh cụ thể sinh động thể hiện lại tình cảm tan tác bi thương của nhân dân khi ấy.
Sự xuất hiện của giặc thù quá đột ngột, sự chống chọi của quân ta lại thất bại quá
nhanh chóng khiến cảnh dắt dìu gồng gánh nhay chạy loạn càng thật đau lòng.
Đang sống hạnh phúc êm ấm bên những người thân, bất chợt giặc thù từ đâu ập
đến bắt giết, mọi gia đình đều chưa chuẩn bị gì, chỉ biết hốt hoảng dắt nhau trốn
chạy. Nhà thơ đặc tả cảnh tượng ấy bằng hai chữ hình ảnh lũ trẻ lơ xơ chạy và bầy
chim dáo dác bay. Lối đảo ngữ lơ xơ, dáo dác lên trước trong trường hợp này làm
nổi bật lên trước mắt người đọc dáng vẻ xơ xác, tan tác của lũ trẻ và bầy chim
nhưng cũng khắc họa được tâm trạng hoang mang và ngơ ngác của chúng.
Hai câu tiếp theo, ông tiếp tục vẽ lên một bức tranh toàn cảnh quê hương bị giặc
thù đang tâm tàn phá trong một không gian thật là xa rộng:
“Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.”
Tuy Bến Nghé, Đồng Nai chỉ là một bến nước, một dòng sông ở Gia Định nhưng
đó cũng chính là toàn cảnh của quê hương ta khi quân Pháp đặt gót giày xâm lược
đến. Cả một mảnh non sông gấm vóc đang yên ổn tốt tươi trong phút chốc đã bị
kẻ thù đang tâm tàn phá thành ra tro bụi. Tiền tài, sản vật của nhân dân bị chúng
thả sức cướp bóc. Nhà của làng quê bị đốt phá, lửa khói dấy lên ngút trời. Nỗi xót
đau thương thật lay động cả trăng sao.
Câu 2: Trong hoàn cảnh đó, tâm trạng, tình cảm của tác giả như thế nào?
Từng câu, từng chữ trong mỗi câu thơ là một tiếng kêu đau đớn, xót xa xuất phát
từ trái tim nồng nàn yêu quê hương, đất nước, đỏ rực ngọn lửa căm thù trước tội
ác trời không dung đất không tha của giặc. Nhà thơ không những đau xót vì cảnh
quốc phá gia vong, nhân dân tan tác, đau thương, lơ xơ, dáo dác mà ông còn thất
vọng và bất bình biết mấy trước tình cảnh quê hương ngập tràn bóng giặc mà quân
của triều đình thì bặt tăm khuất dạng bỏ mặc nhân dân phải chịu thống khổ điêu
linh.
Câu 3: Phân tích thái độ của nhà thơ trong hai câu thơ kết:
“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này?”
Nguyễn Đình Chiểu đặt ra câu hỏi, không phải hỏi chung chung mà là hỏi rất cụ
thể. "Trang" chỉ người đáng kính trọng. "Trang dẹp loạn" là người có chức trách
trước tình cảnh của nước, của dân. Nhà thơ đề cao họ trong mấy từ này. Song câu
kết "Nỡ để dân đen mắc nạn này" lại hạ thấp họ. Sự thờ ơ, vô trách nhiệm của
triều đình nhà Nguyễn, của vua, quan chức sắc, của tư tưởng bạc nhước, của hành
động hèn nhát có thấy gì không? Câu hỏi như một cái tát không kìm nén của một
người yêu nước vào mặt những con người ấy. Đồng thời nhà thơ cũng không giấu
nổi xót xa. Tất cả những điều đó đều nói lên lòng yêu nước, thương dân của
Nguyễn Đình Chiểu.