Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

KHÁI QUÁT THỊ TRƯỜNG SẢN PHẨM GỖ Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 35 trang )

KHÁI QUÁT THỊ TRƯỜNG SẢN PHẨM GỖ
Ở VIỆT NAM

1


KHÁI QUÁT THỊ TRƯỜNG SẢN PHẨM GỖ Ở VIỆT NAM
TS. Nguyễn Mạnh Dũng, TS. Dương Tiến Đức
1. Mở đầu
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, ngành chế biến gỗ đã đạt được
những thành tựu to lớn cả về số lượng, chất lượng doanh nghiệp chế biến, về kim
ngạch xuất khẩu và về thị trường tiêu thụ sản phẩm,... Các sản phẩm gỗ chế biến ngày
càng trở nên đa dạng hơn, có mẫu mã và chất lượng sản phẩm ngày càng phù hợp hơn
với cả thị trường trong nước và xuất khẩu. Từ chỗ chỉ tập trung để tái xuất khẩu sang
một nước thứ ba, đến nay các sản phẩm gỗ chế biến của Việt Nam đã có mặt ổn định ở
trên 120 nước và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới với nhiều doanh nghiệp trực tiếp xuất
khẩu sang các thị trường dành cho người tiêu dùng.
Kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm gỗ đang ngày càng tăng một cách ổn định.
Nếu như năm 2000, giá trị kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm gỗ của nước ta chỉ mức
khiêm tốn là 214 triệu đô la Mỹ thì đến năm 2004 kim ngạch xuất khẩu này đã lần đầu
tiên vượt mốc 01 tỷ đô la Mỹ để đạt giá trị 1,154 tỷ USD và năm 2015 kim ngạch xuất
khẩu gỗ và lâm sản đã đạt mức trên 6,9 tỷ USD. Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu
gỗ và sản phẩm gỗ lớn thứ sáu thế giới với hơn 4,0% thị phần thương mại đồ gỗ thế
giới, thứ hai châu Á và đứng đầu khu vực Đông Nam Á. Nói cách khác, chế biến và
xuất khẩu các sản phẩm gỗ đã và đang trở thành một ngành kinh tế quan trọng, chủ lực
trong nền kinh tế của nước ta. Đây là một ngành kinh tế chẳng những có thể đem lại
nhiều công ăn, việc làm, tạo ra thu nhập cho người lao động mà còn là một trong
những ngành có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn của nước ta.
Tuy nhiên, vẫn đang tồn tại một nghịch lý là trong khi các doanh nghiệp chế
biến gỗ và lâm sản đang ngày càng đẩy mạnh các hoạt động sản xuất, chế biến sản
phẩm xuất khẩu sang các thị trường khác nhau trên thế giới thì thị trường trong nước


với sức tiêu thụ của hơn 90 triệu người dân có nhu cầu ngày càng tăng cao, ước tính
khoảng 1-2 tỉ USD/năm lại đang chưa được chú ý đúng mức. Số liệu thống kê cho thấy
thị trường nội địa về đồ gỗ của Việt Nam hiện chỉ chiếm khoảng 1/3 so với kim ngạch
xuất khẩu các mặt hàng tương tự của các doanh nghiệp chế biến trong nước. Điều đáng
lo ngạu là tỷ lệ này lại đang có chiều hướng giảm xuống chứ không phải là tăng thêm
theo chiều hướng phát triển của ngành trong lĩnh vực xuất khẩu. Tỷ giữa giá trị kim
ngạch xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam với giá trị thị trường nội địa đang giảm từ
37,60% (năm 2011) xuống chỉ còn 25-27% những năn 2014-2016 (xem bảng dưới).
Bảng 1: Tiêu thụ đồ gỗ trên thị trường nội địa Việt Nam (triệu USD)
2011

2012

2013

2014

2015

2016

Tiêu thụ nội địa*

1.072

1.188

1.328

1.228


1.271

1.306**

Kim ngạch xuất
khẩu ***

2.851

3.395

3.803

4.442

4.788

5.127

Tỷ lệ giữa tiêu thụ
nội địa và KNXK
(%)

37,60

34,99

34,92


27,65

26,55

25,5

2


(Nguồn: *CSIL – World Furniture Outlook tháng 6/2016. **dự báo. *** TC Hải quan)

Đây là một điều đáng lo ngại vì với một ngành sản xuất chủ yếu dựa vào xuất
khẩu thì đương nhiên hoạt động của các doanh nghiệp chế biến sẽ không bền vững.
Mỗi khi thị trường thế giới có biến động các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu sẽ bị
tác động khá lớn. Thực tế cho thấy năm 2016, lần đầu tiên sau nhiều năm phát triển
mạnh mẽ, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ nói chung chỉ đạt 6,69 tỷ USD
(tăng 1,1% so năm 2015) và kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ nói riêng 5,127 tỷ USD
(tăng 7,1% so năm 2015). Do vậy, hướng đến tăng cường sản xuất, chế biến phục vụ
thị trường nội địa chính là một trong những giải pháp chiến lược mà các doanh nghiệp
chế biến gỗ cần phải tính đến ngay từ bây giờ.
Mặc dù vậy, cho đến nay hầu như chưa có bất cứ một công trình nghiên cứu
toàn diện, có hệ thống nào về thị trường nội địa đối với các sản phẩm chế biến lâm sản
của Việt Nam được thực hiện. Các xem xét, đánh giá về thị trường này hầu hết đều
dựa vào một số ít các nghiên cứu riêng lẻ với từng nhóm sản phẩm, từng phân khúc thị
trường riêng rẽ,... và nhìn chung là dựa vào các ước đoán của chuyên gia. Do vậy, việc
đánh giá về thị trường này đều ít cơ sở khoa học và thiếu tính chính xác cần có. Chính
vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng thị trường nội địa về các sản phẩm gỗ toàn
quốc một cách toàn diện, làm cơ sở cho việc hoạch định các cơ chế, chính sách ổn
định và phát triển thị trường này nói chung và chiến lược phát triển của mỗi doanh
nghiệp chế biến gỗ là rất cần thiết trong thời điểm hiện nay, khi cả nước đang thực

hiện tái cơ cấu ngành lâm nghiệp, trong đó có việc tái cơ cấu lĩnh vực chế biến, thương
mại lâm sản theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.
2. Cấu trúc của thị trường sản phẩm gỗ nội địa
Thời gian gần đây nhiều nghiên cứu đã đánh giá là các làng nghề chế biến lâm
sản của Việt Nam cung cấp đến 80% sản phẩm gỗ và gần 100% sản phẩm lâm sản
ngoài gỗ chế biến cho thị trường nội địa. Trên thực tế hầu hết các doanh nghiệp chế
biến gỗ quy mô vừa và lớn đều chỉ tập trung vào thị trường xuất khẩu mà không hoặc
ít tham gia vào thị trường trong nước. Theo Hội mỹ nghệ và chế biến gỗ thành phố Hồ
Chí Minh (Hawa) thì chỉ có chưa đến 20% doanh nghiệp hội viên của mình có thị phần
ổn định tại thị trường nội địa. Do vậy, việc điều tra, đánh giá hoạt động chế biến, tiêu
thụ sản phẩm thị trường nội địa của sản phẩm gỗ và lâm sản hiện nay là khá khó khăn
một phần do không thống nhất được nguồn số liệu, nhưng phần khác còn vướng từ
những nhận định cảm tính của các chuyên gia trong ngành.
2.1. Cơ cấu thị trường theo loại hình sản phẩm
Gỗ và sản phẩm gỗ tham gia vào thị trường trong nước bao gồm một số mặt
hàng chính sau:
- Gỗ nguyên liệu: Bao gồm gỗ xẻ, gỗ tròn, gỗ nhân tạo (ván dăm, ván sợi, ván
dán, gỗ ghép thanh,...). Các loại sản phẩm này đều đến từ hai nguồn, khai thác, chế
biến trong nước và nhập khẩu.Trong đó khai thác từ các nguồn trong nước chiếm ưu
thế cao hơn. Chẳng hạn như trong giai đoạn 2012-2015 cả nước chỉ nhập khẩu mỗi
năm khoảng 4,0-4,5 triệu m3 nguyên liệu gỗ tự nhiên và 400.000 m3 ván nhân tạo
MDF trong tổng số 20-25 triệu m3 gỗ nguyên liệu sử dụng cho chế biến các loại.
- Sản phẩm đồ gỗ ngoài trời (ngoại thất): Người tiêu dùng trong nước ít quan
tâm đến các loại đồ gỗ ngoài trời, trừ một số ít địa phương khu vực phía Nam sử dụng
một vài loại sản phẩm như bàn ghế để ở sân, vườn, song lại chủ yếu được chế biến từ

3


các loại gỗ lũa, gốc cây,... Có thể nói đồ gỗ ngoài trời đúng nghĩa hiện rất ít có mặt

trên thị trường nội địa hiện nay.
- Đồ gỗ nội thất, bao gồm nội thất phòng ngủ (giường, tủ áo, bàn phấn, bàn
trang điểm...), nội thất nhà bếp (bàn ăn, tủ bếp), nội thất phòng khách (bàn, ghế phòng
khách, sofa, kệ TV, tủ gương, tủ góc,...), nội thất văn phòng: Đây là các sản phẩm chủ
yếu trên thị trường trong nước hiện nay.
- Sản phẩm gỗ phục vụ xây dựng, bao gồm một số sản phẩm chính như cốp pha,
xà gồ, cột chống,...
- Đồ gỗ thủ công mỹ nghệ, bao gồm những sản phẩm như tượng gỗ, tranh khắc
gỗ, khảm trai, tranh ghép gỗ, độc bình, đồ sơn mài, chạm khắc, các sản phẩm trang trí
lưu niệm, quảng cáo như: cốc, chén, đĩa, khay, thìa (muỗng), quạt, lọ, bình, cung,
kiếm, đế lọ, guốc, bài vị, thảm hạt, chuỗi hạt, hộp các loại, huy hiệu, biểu tượng, biểu
trưng, khung tranh, khung ảnh, phào mỹ nghệ, thuyền buồm mỹ nghệ các loại, mành
trang trí, giá đỡ hàng mỹ nghệ,.... Đôi khi người ta còn xếp một số đồ nội thất phòng
khách thuộc nhóm sản phẩm truyền thống, được chế biến từ các loại gỗ tốt, gỗ quý vào
nhóm này như tràng kỷ, salon gỗ, tủ góc, tủ thờ, bàn thờ, đôn kỷ, án thư, bàn trà, tủ
chè, tủ chùa, tủ đồng hồ, tủ gương,... vào nhóm này do có độ cầu kỹ, tinh xảo trong
chế biến và các sản phẩm hầu hết đều được sản xuất từ các làng nghề chế biến gỗ
truyền thống. Trong nhiều trường hợp nhóm sản phẩm này được biết đến dưới tên gọi
là đồ gỗ cao cấp. Nếu tách riêng nhóm sản phẩm sau ra thì thị phần của nhóm sản
phẩm thủ công mỹ nghệ khá hạn chế. Trong khi nếu tính cả hai nhóm thì thị phần của
chúng cũng khá cao, nhất là tại thị trường các địa phương phía Bắc.
- Các sản phẩm gỗ khác: Nhóm sản phẩm này bao gồm các sản phẩm như nhạc cụ,
đồ chơi trẻ em, vợt cầu lông, vợt tennít, vượt bóng bàn, gậy chơi bi-da, gậy chăn cừu, ót
giầy (cái đón gót giầy), chân tay giả, dù cán gỗ, cán dù, chổi cán gỗ, cán chổi sơn, sản
phẩm gỗ mỹ nghệ kết hợp song, mây, tre, trúc, vật liệu khác,...
Bảng 2: Cơ cấu sản phẩm theo loại hình sản phẩm
Năm

Gỗ nội
thất


2012
- Khối
lượng(m3)
86.186,88
- Tỷ trọng
(% so tổng
SP )
5,16
2013
- Khối
lượng(m3) 100.789,29
- Tỷ trọng
(% so tổng
SP)
7,21
2014
- Khối
lượng(m3) 127.961,29
- Tỷ trọng
(% so tổng
SP)
8,70

Gỗ ngoại
thất và gỗ
xây dựng

Gỗ thủ
công mỹ

nghệ

Gỗ và ván
nhân tạo

34.171,17

9.853,40

2,04

0,59

1,69

43.255,27

11.684,50

91.034,00

3,09

0,84

6,51

57.142,77

13.671,20


31.261,00

3,89

0,93

2,13

Gỗ dăm và
bột giấy

Gỗ chống
lò, cốp
pha và
bao bì

28.315,00 1.191.607,00 321.442,20

71,29

Tổng

1.671.575,65

19,23

100,00

795.796,00 355.789,60


1.398.348,66

56,91

25,44

100,00

877.899,10 362.080,10

1.470.015,46

59,72

24,63

100,00

4


(Nguồn: Dự án “Điều tra, đánh giá thực trạng, đề xuất cơ chế chính sách phát triển thị trường nội địa
về sản phẩm gỗ, lâm sản toàn quốc phục vụ tái cơ cấu ngành”)

Hiện tại, tổng khối lượng đồ gỗ các loại trên thị trường 16 địa phương được
điều tra dao động trong khoảng từ 1.398.348,66m3 (2013) đến 1.671.575,65 m3 (năm
2012). Trong đó đồ gỗ nội thất dao động từ 86.186,88m3 (2012) đến 127.961,29 m3
(2014) và đang có xu hướng tăng. Đồ gỗ ngoại thất và xây dựng cũng đang có xu
hướng tăng từ 34.171,17m3 (2012) lên 57.142,77m3 (2014). Sản phẩm gỗ chống lò

cũng tăng từ 321.442,20m3 (2012) lên 362.080,10m3(2014). Trong khi đó sản phẩm gỗ
dăm và bột giấy có xu hướng giảm từ 1.191.607,00m3 (2012) xuống 795.796,00m3
(2013) và 877.899,10m3 (2014)…

Cơ cấu sản phẩm gỗ (% so tổng SP)

80

71.29

Gỗ nội thất

70
59.72

56.91

60

Gỗ ngoại thất và gỗ xây
dựng
Gỗ thủ công mỹ nghệ

50
40
30

25.44
19.23


20

10

24.63

Gỗ dăm và bột giấy
8.70

7.21

5.16

Gỗ và ván nhân tạo

0.59

0.84

0.93

2012

2013

2014

0

Gỗ chống lò, cốp pha và

bao bì

Hình 1: Cơ cấu sản sản phẩm gỗ lưu thông trên thị trường nội địa
Kết quả điều tra của Dự án “Điều tra, đánh giá thực trạng, đề xuất cơ chế
chính sách phát triển thị trường nội địa về sản phẩm gỗ, lâm sản toàn quốc phục vụ tái
cơ cấu ngành” cho thấy sản phẩm gỗ dăm và bột giấy chiếm tỷ trọng lớn hơn cả với
56,91% - 71,29% tổng lượng sản phẩm lưu thông trên thị trường nội địa. Đây có thể là
kết quả của việc mua bán sản phẩm giữa các doanh nghiệp, đơn vị chế biến loại sản
phẩm này với các doanh nghiệp, đơn vị thực hiện việc xuất khẩu. Điều này cũng phù
hợp với thực tế là hàng năm nước ta xuất khẩu khoảng 7,0-8,0 triệu tấn dăm gỗ và
không phải doanh nghiệp nào cũng thực hiên toàn bộ chuỗi sản phẩm từ chế biến đến
xuất khẩu. Tiếp sau là các sản phẩm gỗ chống lò, cốp pha và bao bì với thị phần dao
động từ 19,23% (năm 2012) đến 25,44% (2013). Sự ổn định của loại sản phẩm này là
không cao, phản ánh quá trình thay thế sản phẩm gỗ bằng các sản phẩm khác đang và
sẽ diễn ra.
Đồ gỗ nội thất là nhóm sản phẩm có tỷ trọng thứ ba trên thị trường nội địa.
Chúng chiếm từ 5,16% (năm 2012) đến 8,70% (2014) trong cơ cấu sản phẩm lưu
thông trên thị trường nội địa. Điều đáng mừng là cơ cấu này tăng lên đáng kể trong
những năm gần đây. Đồ gỗ ngoại thất và xây dựng cũng chiếm một tỷ lệ khá trong cơ
cấu thị trường với khoảng 2,04% - 3,89% tổng lượng sản phẩm gỗ lưu thông trên thị
trường. Các sản phẩm gỗ và ván nhân tạo chưa có ưu thế trên thị trường nội địa hiện
nay với 1,69% (2012) và 6,51% (2013). Sản phẩm thủ công mỹ nghệ có tỷ trọng thấp
nhất trong cơ cấu thị trường đồ gỗ nội địa hiện nay với 0,59% (năm 2012) đến 0,93%
(2014) tổng lượng sản phẩm đồ gỗ trên thị trường nội địa. Các số liệu điều tra nêu trên

5


cũng phản ánh khá rõ thực trạng sản xuất và tiêu dùng sản phẩm gỗ chế biến trên thị
trường nội địa hiện nay. Đó là trên thị trường này vẫn chủ yếu là các sản phẩm sơ chế,

có giá trị gia tăng chưa cao chiếm ưu thế. Các sản phẩm chế biến vẫn chưa có những
đóng góp thiết thực trong đời sống sản xuất, chế biến và tiêu dùng đồ gỗ trong nước.

Gỗ nội thất

4%
1%

9%

24%

2%

Gỗ ngoại thất và gỗ xây dựng
Gỗ thủ công mỹ nghệ
Gỗ và ván nhân tạo

60%
Gỗ dăm và bột giấy
Gỗ chống lò, cốp pha và
bao bì

Hình 2: Cơ cấu loại hình sản phẩm đồ gỗ trên thị trường nội địa năm 2014
Trong nhóm gỗ dăm và bột giấy thì tỷ trọng của các loại sản phẩm có chiều
hướng ngược nhau. Trong khi tỷ trọng của gỗ bột giấy gảm từ 55,79% (2012) xuống còn
21,07% (2014), thì lượng gỗ dăm lại có xu hướng tăng lên theo thời gian. Lượng gỗ dăm
lưu thông trên thị trường nội địa đã tăng từ 29,20% (2012) lên 76,97% (2014) tổng
lượng sản phẩm lưu thông của nhóm này (hình 3).
90

76.97

Cơ cấu sản phẩm
(% so tổng sản phẩm)

80
70
60

56.09

55.79

Gỗ bột giấy

50
40
30
20
10

41.63
Dăm

29.26
21.07
14.95
2.28

1.95


0

Hình 3: Cơ2012
cấu sản phẩm2013
nhóm gỗ dăm2014
và bột giấy
Hình 3: Tỷ trọng sản lượng gỗ dăm và gỗ bột giấy
Đối với nhóm sản phẩm gỗ và ván nhân tạo thì ván dăm chiếm ưu thế với
87,46% (2012) đến 94,29% (2013). Điều này phản ánh tình trạng chất lượng đồ gỗ sản
xuất trong nước chưa cao do đã phần các doanh nghiệp, đơn vị, nhất là các hộ chế biến
đồ mộc ở khu vực làng nghề đều sử dụng các loại ván dăm (sản xuất trong nước với
chất lượng thấp) để sản xuất. Tuy nhiên, tỷ trọng ván dăm đã và đang giảm xuống chỉ
còn 75,20% vào năm 2014. Ván ghép thanh cũng đang có chiều hướng tăng từ 12,36%

6


Tỷ trong sản phẩm
(% so tổng SP trong nhóm)

(2012) lên 18,12% (2014). Ván sợi là một loại nguyên liệu chế biến đồ mộc khá tốt
hiện nay và là một trong những loại nguyên liệu tiềm năng nhất để sản xuất đồ gỗ
trong tương lai, do vậy, thị trường ván sợi (MDF) trên thế giới, cũng như ở Việt Nam
tương đối sôi động, nhất từ năm 2016 trở đi. Mặc dù vậy, trong nghiên cứu của Dự án
“Điều tra, đánh giá thực trạng, đề xuất cơ chế chính sách phát triển thị trường nội địa
về sản phẩm gỗ, lâm sản toàn quốc phục vụ tái cơ cấu ngành” loại sản phẩm này
chiếm một tỷ lệ khá khiêm tốn. Hiện tượng này có thể do các địa phương được điều tra
ít sử dụng loại nguyên liệu này trong sản xuất và tiêu thụ đồ mộc, hoặc do đa phần các
tập đoàn sản xuất MDF chủ yếu phục vụ cho nhu cầu nội tại nên số lượng sản phẩm

tham gia thị trường chưa nhiều.
100
90
80
70
60
50
40
30
20
10
0

87.46

94.29

75.20
Ván ghép thanh
Ván dăm
Ván sợi
18.12

12.36

Các loại khác

5.69

2012


2013

2014

Hình 4: Cơ cấu sản phẩm nhóm gỗ và ván nhân tạo
Với tốc độ xây dựng các nhà máy chế biến ván sợi (MDF) ở Việt Nam hiện
nay, cùng quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thị trường nội địa MDF sẽ tăng trưởng
khá mạnh mẽ với hai quá trình trái ngược nhau: (i) Sản phẩm MDF của một số nước
trong khu vực như Malaysia, Thái Lan tăng cường nhập khẩu vào Việt Nam do nhu
cầu chế biến đồ mộc tăng cao, do giá bán sản phẩm (kể cả do biến động tỷ giá) thấp
hơn và chất lượng sản phẩm cao hơn sản phẩm sản xuất trong nước và (ii) Sản phẩm
MDF do các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất sẽ xuất khẩu nhiều hơn sang các nước
có nhu cầu sử dụng sản phẩm có chất lượng phù hợp.
Bảng 3: Thị trường ván sợi (MDF) ở Việt Nam
Tổng nhu cầu thị trường
Sản xuất trong nước
Nhập khẩu
Sử dụng trong nước
Xuất khẩu

2015
1.200
972
400
800
60

2016
1.380

1.244
400
980
72

2017*
1.587
1.360
1.187
-

2018*
1.825
1.844
1.425
-

(Nguồn: Tập đoàn Cao su Việt Nam-4/2016. * dự báo)

Bàn, ghế là loại sản phẩm chiếm ưu thế trong nhóm đồ gỗ nội thất với khoảng
56,84% -66,91% tổng lượng sản phẩm lưu thông trên thị trường nội địa. Tuy nhiên,
nhóm sản phẩm này đang có xu hướng giảm, nhường chỗ cho loại sản phẩm khác. Tốc
độ giảm là khá đáng kể/ Từ 66,91% (năm 2012) xuống còn chỉ 56,84% (năm 2014).

7


Tỷ trọng sản phẩm
(% so tổng SP trong nhóm)


80
66.91
70
60
50
40
30 24.32
20
10
0
2012

60.95

Gường tủ

56.84

Bàn ghế

35.30

30.68

Kệ

Ván sàn
2013

2014


Hình 5: Cơ cấu sản phẩm trong nhóm đồ gỗ nội thất
Giường, tủ là nhóm sản phẩm có tỷ trọng cao thứ hai (24,32% - 35,30%) trong
nhóm đồ gỗ nội thất và đang có xu hướng tăng dần đều trong những năm gần đây.
Các sản phẩm khác như kệ các loại, ván sàn, ốp tường, ốp trần có khuynh
hướng ổn định. Kệ các loại chiếm khoảng 3,46% - 3,81%. Thị trường ván sàn nhìn
chung ổn định ở 2,71% - 3,04% tổng lượng sản phẩm trong nhóm. Trong khi đó tỷ
trọng của các sản phẩm ốp tường và ốp trần chỉ dao động trong khoảng 1,15% 1,36%.
Các sản phẩm thuộc nhóm đồ gỗ nội thất phục vụ xây dựng nói chung đều ổn
định suốt từ năm 2012 đến nay. Trong nhóm này cửa các loại là loại sản phẩm có sự
thay đổi đáng kể theo chiều hướng tăng lên và chiếm tỷ trọng cao thứ hai với 34,26% 38,79%. Khuôn cửa các loại chiếm tỷ trọng cao nhất với 34,62% - 39,16% tổng số sản
phẩm lưu thông trên thị trường, nhưng đang có chiều hướng giảm. Sự giảm sút này có
lẽ do các loại khuôn cửa thường được làm từ các loại gỗ tốt, quý, hiếm mà các loại gỗ
này đang bị hạn chế khai thác. Thêm vào đó là sự tăng lên đáng kể của các loại sản
phẩm thay thế không dùng gỗ. Cầu thang gỗ chiếm tỷ trọng thứ ba một cách ổn định
với 16,99% - 18,37% tổng lượng sản phẩm trong nhóm. Cuối cùng là các loại sản
phẩm ốp sàn, ốp tường,... chiếm 5,00% - 5,12% tổng lượng sản phẩm trong nhóm lưu
thông trên thị trường.

Cơ cấu sản phẩm
(% so tông SP trong nhóm)

45.00
40.00

35.00

39.16

37.23

37.52

34.26

38.79
34.62
Cầu thang

30.00

Cửa (ra vào, sổ ..)

25.00
20.00 17.76

16.99

18.37

15.00
10.00

Ốp sàn và ốp tường
Khuôn, khung cửa

5.12

5.11

5.00


2012

2013

2014

Khác

5.00
0.00

Hình 6: Tỷ trọng sản phẩm trong nhóm đồ gỗ nội thất phục vụ xây dựng

8


Nhóm sản phẩm thủ công mỹ nghệ là nhóm đa dạng nhất về chủng loại sản
phẩm, mặc dù tỷ trọng của nhóm này không cao. Các loại giường tủ (có trang trí hoa
văn cầu kỳ) là tiểu nhóm sản phẩm có tỷ trọng cao nhất và đang có xu hướng tăng
trong thời gian gần đây, với 25,45% - 29,41%. Xếp thứ hai là nhóm sản phẩm tượng
gỗ với 14,31% - 14,58%. Đặc trưng của các tiểu nhóm sản phẩm này là độ ổn định
tương đối cao. Kế đó là các loại áo quan cao cấp với khoảng trên 13,00%, nhưng cho
đến năm 2014, sản phẩm loại này chỉ còn chiếm khoảng 10,46% tổng lượng sản phẩm
tham gia trong nhóm.
Bàn ghế cao cấp (chạm, khảm,...) cũng chiếm tỷ trọng khá và ổn định trong
khoảng 12,82% (2012) đến 14,55% (2014). Bàn thờ các loại chiếm tỷ trọng khá cao
trong nhóm với 8,00% (năm 2012), nhưng hiện đang giảm và chỉ chiếm 6,37% tổng
lượng sản phẩm lưu thông của nhóm trong năm 2014. Tranh gỗ, tủ chùa, đôn kỷ,...
chiếm khoảng 4,8% đến 6,27% tùy loại sản phẩm và tùy theo thời gian. Tủ chè, tủ

gương mỗi loại chỉ chiếm từ 3,32% đến 4,34% tổng lượng sản phẩm trong nhóm. Cuối
cùng là các sản phẩm tượng gỗ, chỉ chiếm rất nhỏ là 0,18% đến 0,24% tổng lượng sản
phẩm. Các sản phẩm trong tiểu nhóm này đang có xu hướng giảm.
Đáng chú ý là án thư, mặc dù là một loại sản phẩm tương đối ấn tượng trong
nhóm này đối với người tiêu dùng đồ gỗ, nhất là ở khu vực nông thôn, song trong 3
năm gần đây đã hoàn toàn vắng bóng trên thị trường nội địa.
Sự biến động về tỷ trọng trong cơ cấu sản phẩm thủ công mỹ nghệ dường như
phản ánh tương đối sát tình hình cạn kiệt nguồn nguyên liệu gỗ tốt, quý, cũng như
ngày càng hạn chế về khả năng chế tác và tiêu thụ của loại sản phẩm này trong đời
sống ngày càng cởi mở và hiện đại như hiện nay.
120.00
Tỷ trọng các loại SP
(% so tổng lượng SP lưu thông)

Khác
100.00

Đôn kỷ
Án thư

80.00

Giường tủ
Tượng

60.00

Bàn thờ

40.00


Bàn ghế

20.00

Áo quan cao cấp
Tủ cao cấp

0.00
2012

2013

2014

Tủ gương

Hình 7: Cơ cấu các loại sản phẩm trong nhóm thủ công mỹ nghệ
2.2. Cơ cấu thị trường theo nguồn gốc sản phẩm: Sản xuất trong nước và
nhập khẩu
Nhìn chung trên thị trường nội địa, sản phẩm gỗ sản xuất và chế biến trong nước
chiếm ưu thế về số lượng và giá trị hơn so với các sản phẩm nhập ngoại. Tuy nhiên, các
nguồn số liệu thu thập được kể cả từ góc độ trong nước lẫn quốc tế, có sự chênh lệch

9


rất lớn (có thể thấy rõ điều này trong bảng dưới đây), khiến cho những sự đánh giá về
thị trường ở khía cạnh này rất khó khăn và cần được cân nhắc thận trọng khi sử dụng.
Bảng 4: Kim ngạch nhập khẩu đồ gỗ của Việt Nam (triệu USD)

Năm
Theo số liệu của Tổng cục
Hải quan*
Theo CSIL**

2011

2012

2013

2014

2015

45,0

47,5

58,6

76,2

79,4

376

366

394


355

419

(Nguồn: * dữ liệu TCHQ – Phân tích bởi Vifores, Hawa, FPA và Forest Trends 2016
** CSIL – World Furniture Outlook 6/2016)

Các số liệu dẫn ra và phân tích dưới đây (nếu không dẫn nguồn) đều được tổng
hợp từ Dự án “Điều tra, đánh giá thực trạng, đề xuất cơ chế chính sách phát triển thị
trường nội địa về sản phẩm gỗ, lâm sản toàn quốc phục vụ tái cơ cấu ngành” do Tổng
cục Lâm nghiệp làm chủ đầu tư, Viện Nghiên cứu và Phát triển Lâm nghiệp nhiệt đới
triển khai thực hiện năm 2015-2016.
Xét trên tổng số thì các sản phẩm gỗ nhập ngoại là không quá nhiều so với các
sản phẩm gỗ sản xuất trong nước để tiêu thụ trên thị trường nội địa. Tỷ lệ sản phẩm
nhập ngoại và sản phẩm gỗ sản xuất trong nước dao động trong khoảng 1,74%-2,76%.
Tỷ lệ này dao động tùy thời điểm và chưa có quy luật rõ ràng. Mặc dù vậy có thể thấy
rằng kết quả điều tra của Dự án gần với số liệu công bố của CSIL – World Furniture
Outlook hơn là các số liệu của cơ quan Hải quan Việt Nam đưa ra.
Bảng 5: Cơ cấu thị trường phân theo nguồn gốc sản phẩm
2012

2013

2014

Khối lượng
sản phẩm
SX trong
nước (m3)


Khối
lượng sản
phẩm
nhập
khẩu (m3)

Tỷ trọng
sản
phẩm
NK/SX
trong
nước
(%)

Khối lượng
sản phẩm
SX trong
nước (m3)

Khối
lượng sản
phẩm
nhập
khẩu (m3)

Tỷ
trọng
SP
NK/SX

trong
nước
(%)

Khối lượng
sản phẩm
SX trong
nước (m3)

Khối
lượng sản
phẩm
nhập
khẩu (m3)

Tỷ trọng
sản
phẩm
NK/SX
trong
nước
(%)

Gỗ nội
thất

92.189,50

6.705,00


7,27

88.756,00

9.350,00

10,53

87.844,50

15.470,00

17,61

Gỗ ngoại
thất và
gỗ xây
dựng

22.497,50

10.325,00

45,89

29.512,50

14.070,00

47,67


37.553,00

20.590,00

54,83

Gỗ thủ
công mỹ
nghệ

6.565,70

2.909,00

44,31

8.284,70

3.249,00

39,22

10.638,70

3.639,00

34,21

22.544,00


360,00

1,60

126.371,00

0,00

0,00

70.037,00

360,00

0,51

591.644,23

0,00

0,00

925.136,48

0,00

0,00

880.448,59


0,00

0,00

320.507,28

0,00

0,00

355.656,00

0,00

0,00

362.358,00

0,00

0,00

Sản
phẩm

Gỗ và
ván
nhân tạo
Gỗ dăm

và bột
giấy
Gỗ
chống lò,
cốp pha
và bao bì

10


1.055.948,2

20.299,0

1,92

1.533.716,7

26,669.0

1,74

1.448.879,8

40.059,0

2,76

Sản phẩm gỗ ngoại thất và gỗ xây dựng, phục vụ xây dựng có số lượng sản
phẩm ngoại nhập lớn nhất trong các nhóm đồ gỗ trên thị trường nội địa. Tỷ lệ giữa sản

phẩm nhập khẩu và sản phẩm sản xuất trong nước của nhóm này đang ở mức 45,89%54,83% và đang có chiều hướng ngày càng có nhiều sản phẩm ngoại nhập về để tiêu
thụ trong nước. Nếu như tỷ lệ này là 45,89% (năm 2012) thì năm 2013 đã là 47,67%
và năm 2014 tăng mạnh lên 54,83%. Một điều đáng ngạc nhiên là các sản phẩm gỗ thủ
công mỹ nghệ lại có tỷ lệ sản phẩm nhập khẩu so với sản lượng sản phẩm sản xuất
trong nước khá cao (đứng thứ hai) với 34,21%-44,31%. Tuy nhiên, xu hướng nhập
ngoại các sản phẩm này vào thị trường nội địa đang giảm khá mạnh từ 44,31% năm
2012 xuống còn 34,21% năm 2014. Các sản phẩm gỗ nội thất có tỷ lệ sản phẩm nhập
ngoại đứng hàng thứ ba với 7,27%-17,61%. Điều ngạc nhiên không kém là tỷ lệ này
đang tăng với tốc độ cao, từ 7,27% năm 2012 lên 17,61% năm 2014. Các nhóm sản
phẩm gỗ còn lại hầu như không có sản phẩm ngoại nhập vào để tiêu thụ tại thị trường
nội địa. Các xu hướng nhập ngoại sản phẩm đồ gỗ này chứng tỏ khả năng hội nhập cao
của nền kinh tế Việt Nam vào kinh tế thế giới và cũng phần nào cho thấy sự thay đổi
thị hướng của người tiêu dùng trong nước về đồ gỗ theo tốc độ hội nhập với thế giới.
2.2.1. Cơ cấu thị trường đồ gỗ nội thất
Trong nhóm đồ gỗ nội thất, các sản phẩm ốp tường và ốp trần có tỷ lệ nhập
khẩu so với sản phẩm sản xuất trong nước cao nhất, chiếm từ 35,87% đến 45,65% số
lượng sản phẩm cùng loại được sản xuất trong nước. Kệ các loại là nhóm sản phẩm có
tỷ lệ này cao thứ hai với 27,01%-44,03%. Tuy nhiên, tỷ lệ này tương đối ổn định và
chỉ có sự tăng đột biến vào năm 2014.
120
Tỷ lệ SPNK/SP sản xuất trong nước
(%)

Tổng

100
Gường tủ

80


Bàn, ghế
60

Kệ
Ván sàn

40

Ốp tường và ốp trần
Khác

20
0
2012

2013

2014

Hình 8: Cơ cấu thị trường sản phẩm gỗ nội thất theo nguồn gốc
Tương tự như các sản phẩm kệ các loại, nhóm sản phẩm bàn, ghế các loại cũng
tương đối ổn định với tỷ lệ sản phẩm nhập khẩu khoảng 6,0%-8,0% so với khối lượng
sản phẩm sản xuất trong nước, nhưng năm 2014 đã có sự tăng đột biến các sản phẩm
ngoại nhập lên 25,91%. Giường, tủ có tỷ lệ sản phẩm nhập tương đối ổn định trong

11


khoảng 10,20% đến 16,18%. Ván sàn các loại cũng là nhóm sản phẩm có tỷ lệ nhập
khẩu cao ở mức 14,32%-28,89% so với sản phảm sản xuất trong nước. Đây là điều dễ

hiểu vì tâm lý hướng ngoại của phân khúc người có thu nhập trung bình đến cao đối
với loại hình sản phẩm này, cùng với chất lượng sản phẩm ván sản sản xuất trong nước
chưa cao so với sản phẩm có nguồn gốc từ nước ngoài.
2.2.2. Cơ cấu thị trường đồ gỗ ngoại thất và gỗ xây dựng, phục vụ xây dựng
Cầu thang gỗ và các loại ốp tường, ốp sàn là hai nhóm sản phẩm có tỷ lệ hàng
ngoại nhập cao nhất so với sản phẩm sản xuất trong nước. Tỷ lệ này ở mỗi loại sản phẩm
là 50,35% -79,58%. Cả hai cùng có sự tăng đột biến vào năm 2014.

Tỷ lệ SPNK/SPSX trong nước
(%)

90
80
70
60

Cầu thang

50

Cửa (ra vào, sổ ..)

40

Ốp sàn và ốp tường

30

Khuôn, khung cửa


20

Khác

10
0

2012

2013

2014

Hình 9: Cơ cấu thị trường gỗ ngoại thất và xây dựng theo nguồn gốc sản phẩm
Cửa các loại (cửa ra vào, cửa sổ,...) là nhóm sản phẩm có tỷ lệ hàng ngoại nhập
cao thứ ba với 42,24%-60,25%. Trung bình tỷ lệ này ở mức 42,24%-47,95%, song
năm 2014 cũng chứng kiến sự tăng vọt của các loại cửa ngoại nhập, chiếm 60,25% so
với sản phẩm sản xuất trong nước. Các loại khuôn cửa sản xuất trong nước có ưu thế
hơn trên thị trường nội địa. Tỷ lệ hàng ngoại nhập chỉ chiếm 40,59%-47,50% so với
khối lượng sản phẩm sản xuất trong nước.
2.2.3. Cơ cấu thị trường sản phẩm thủ công mỹ nghệ
Sản phẩm áo quan cao cấp được nhập khẩu trong 3 năm qua cao hơn rất nhiều
là nguyên nhân khiến cho nhóm sản phẩm thủ công mỹ nghệ nói chung có tỷ lệ sản
phẩm nhập khẩu cao hơn sản xuất trong nước. Áo quan cao cấp nhập khẩu thường cao
gấp hơn 10 lần sản phẩm sản xuất trong nước. Đây là một điều khá bất thường đối với
thị trường đồ gỗ nội địa hiện nay vì nhiều năm trước đây, sản phẩm này là một trong
những mặt hàng được xuất khẩu đến các nước trong khu vực. Có hai mặt hàng là án
thư và đôn kỷ hiện chưa có sản phẩm ngoại nhập vào thị trường trong nước. Nguyên
nhân có thể là phông văn hóa của các loại sản phẩm ngoại nhập chưa thực sự phù hợp
với văn hóa của người tieu dùng Việt Nam đối với nhóm sản phẩm này. Bàn thờ các

loại cũng được nhập khẩu nhiều. Khối lượng hàng nhập khẩu luôn cao hơn sản phẩm
sản xuất trong nước với mức 226,57%-324,87%. Gần đây việc nhập khẩu mặt hàng
này có giảm, nhưng tỷ lệ vẫn còn rất cao (226,57% trong năm 2014). Tủ chùa cũng là
mặt hàng có tỷ lệ nhập khẩu cao với tỷ lệ ổn định 205,88% so khối lượng sản xuất
trong nước. Đây cũng là một điều ngạc nhiên vì tủ chùa vốn là sản phẩm đặc trưng của
các làng nghề chế biến gỗ Việt nam thường được xuất khẩu sang các nước trong khu

12


vực như Trung Quốc, Đài Loan,... Đây là những điểm khá đặc biệt trong kết quả điều
tra của Dự án. Cần có những nghiên cứu sâu hơn để làm rõ nguyên nhân của hiện
tượng này và để có cái nhìn đúng đắn hơn về sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam.
Điều này càng trở nên rõ ràng hơn khi các sản phẩm như tủ chè, tủ đồng hồ, tủ gương,
giường tủ chỉ có tỷ lệ hàng nhập khẩu chiếm dưới 10,64% mỗi loại. Thậm chí là khối
lượng nhập khẩu của tủ cao cấp cũng chỉ chiếm 33,57%-56,33%.

Tỷ lệ SPNK/SPSX trong
nước (%)

1400

Tượng, tranh gỗ

1200

Tủ chùa

1000


Tủ chè

800

Tủ đồng hồ

600

Tủ gương

400

Tủ cao cấp

200

Áo quan cao cấp

0

2012

2013

2014

Bàn ghế

Hình 10: Cơ cấu thị trường sản phẩm thủ công mỹ nghệ theo nguồn gốc SP
Tranh tượng gỗ có khối lượng hàng nhập khẩu cao, song đang có chiều hướng

giảm. Tỷ lệ nhập khẩu của mặt hàng này đang giảm từ 145,74 (năm 2012) xuống còn
97,60% vào năm 2014.
2.2.4. Cơ cấu thị trường gỗ và ván nhân tạo
Gỗ và ván nhân tạo là những loại sản phẩm tương đối mới đối với thị trường nội
địa Việt Nam, song tỷ lệ sản phẩm ngoại nhập khá thấp so với sản phẩm sản xuất trong
nước do hiện đã có nhiều nhà máy của nước ta sản xuất các loại sản phẩm này và do
nhu cầu tiêu dùng chưa cao. Các sản phẩm ngoại nhập đa phần là các loại ván nhân tạo
chất lượng cao mà trong nước chưa sản xuất được, hoặc đã sản xuất được nhưng giá
thành còn cao hơn sản phẩm cùng loại của nước ngoài. Số liệu của Tập đoàn Cao su
Việt Nam cho thấy các loại ván sợi nhập khẩu vào Việt Nam thời gian qua vào khoảng
400.000 m3/năm, cũng chỉ chiếm khoảng 1/3 nhu cầu thị trường nội địa.
2.2.5. Cơ cấu thị trường lâm sản ngoài gỗ
Các loại lâm sản ngoài gỗ được chế biến cung cấp cho thị trường nội địa và xuất
khẩu là chủ yếu. Hiện tại chưa phát hiện được loại sản phẩm nào được nhập từ nước
ngoài vào.Tuy nhiên, qua quan sát cũng có thể có một vài loại sản phẩm đã được nhập
vào thị trường Việt Nam như:
- Sản phẩm mây tre đan: Chủ yếu nhập từ Trung Quốc vào phục vụ cho nhu cầu
của khách du lịch do mẫu mã sản phẩm đa dạng và giá rẻ.
- Quan trọng hơn cả là nhóm sản phẩm chế biến công nghiệp từ tre. Từ những
năm 2010 với Chương trình tre Mê Kông, việc chế biến tre công nghiệp thành các sản
phẩm như tre ép khối, ván sàn tre,..., dần được làm quen với thị trường nội địa. Một số
doanh nghiệp như Tiến Động, Mê Kông,... được hình thành để sản xuất nhiều loại sản
phẩm từ tre, luồng,... của Việt Nam mà chủ yếu là ván sàn tre, bàn ghế phòng ăn,cầu
thàng tre, cốp pha tre,... cung cấp cho thị trường. Mặc dù vậy, do đặc điểm tre, luồng

13


của Việt Nam tương đối khác trúc moso của Trung Quốc, trong khi công nghệ, thiết bị
chế biến lại chủ yếu nhập từ Trung Quốc nên các sản phẩm làm ra hầu hết đều có chất

lượng chưa cao, giá thành chưa cạnh tranh với sản phẩm nhập, do vậy hầu hết các
doanh nghiệp đều hoạt động chưa thực sự hiệu quả. Trong khi đó, với thế mạnh về
nguyên liệu, công nghệ và thiết bị chế biến tre công nghiệp các sản phẩm loại này của
Trung Quốc đang tỏ rõ ưu thế vượt trội không chỉ tại thị trường Việt Nam. Chính vì
vậy, nhiều doanh nghiệp chế biến tre công nghiệp của Việt Nam đã chuyển từ việc chế
biến tre công nghiệp tại Việt Nam sang nhập sản phẩm từ Trung Quốc về tiêu thụ tại
thị trường nội địa, thậm chí là thực hiện cả việc tái xuất sang thị trường thứ ba (nhất là
với sản phẩm tấm lót đường xuất khẩu sang các nước Bắc Mỹ). Hiện chưa có những số
liệu chính xác về lượng sản phẩm tre chế biến công nghiệp từ Trung Quốc vào Việt
Nam, nhưng qua phân tích, đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp chế biến tre công
nghiệp hiện có của nước ta thì có thể thấy rằng không dưới 90% sản phẩm chế biến tre
công nghiệp hiện đang tiêu thụ tại thị trường nội địa có nguồn gốc từ Trung Quốc.
3. Cơ cấu sản phẩm thay thế đồ gỗ gia dụng và xây dựng nội địa
Trong xu thế phát triển của khoa học, công nghệ và áp lực của việc bảo vệ rừng
tự nhiên chống lại quá trình biến đổi khí hậu toàn cầu ngày càng có nhiều loại sản
phẩm chế biến từ các loại nguyên liệu khác nhau thay thế nguyên liệu gỗ cả trong lĩnh
vực đồ gỗ nội thất, đồ gỗ gia dụng và sản phẩm đồ gỗ phục vụ xây dựng.
Trong lĩnh vực chế biến đồ gỗ nội thất, nhất là nội thất phòng ăn, phòng ngủ và
phòng khách thì tre ép khối và ván sàn tre đang được chú ý nhiều nhất và là nhóm sản
phẩm có nhiều ưu thế trong việc thay thế đồ gỗ. Một số sản phẩm trong tương lai sẽ là
các loại sản phẩm nội thất từ tre ép khối như bàn ghế phòng bếp, tủ bếp, nội thất phòng
khách, phòng ngủ,.... Nhiều địa phương, nhất là các địa phương miền Trung như
Thanh Hóa, Nghệ An đã và đang xây dựng chiến lược phát triển chế biến tre công
nghiệp với mục tiêu thay thế dần nguyên liệu gỗ trong chế biến. Các địa phương này
đang đặt mục tiêu đến năm 2030 giá trị sản phẩm chế biến tre công nghiệp sẽ thay thế
khoảng 30% tổng giá trị sản phẩm chế biến gỗ. Một số nhà máy chế biến gỗ mới xây
dựng tại Hà Giang, Yên Bái,... cũng đã lắp đặt và đưa vào vận hành dây chuyền chế
biến tre ép thanh, tre ép khối,.. để sản xuất đồ gia dụng và đồ nội thất. Do vậy, đến
năm 2030 có thể có khoảng 15- 20% tổng giá trị sản phẩm chế biến chế biến gỗ sẽ
được thay thế bằng sản phẩm từ nguyên liệu tre ép, nhất là tại thị trường phía Bắc.

Trong lĩnh vực xây dựng, các loại ván sàn tre, ván ốp trang trí, cầu thang,... từ
tre ép hoặc từ sắt, nhôm, kính,... cũng sẽ ngày càng phổ biến hơn và thay thế dần các
loại sản phẩm truyền thống từ gỗ, đặc biệt là ở chung cư, ở các đô thị lớn và các địa
phương phía Nam. Các loại cốp pha gỗ truyền thống cũng đã và đang được thay thế
bằng nhiều loại sản phẩm khác. Trước hết đó là các loại cốp pha gỗ nhưng được phủ
các loại vật liệu khác như nhựa, keo formaldehyt,... nhằm tăng độ cứng và thời gian sử
dụng. Nhóm sản phẩm này hiện đang đến từ những nước có nền công nghiệp chế biến
gỗ phát triển như Malaysia, Indonesia,... Thứ hai là các sản phẩm cốp pha bằng gỗ dán
có và không sử dụng vật liệu bao phủ nhằm tận dụng các loại gỗ nhỏ, gỗ rừng trồng,
gỗ phế, phụ phẩm. Thứ ba là các loại cốp pha từ tre ép có và không sử dụng vật liệu
bao phủ. Nhóm sản phẩm này đang được phát triển mạnh cả tại Trung Quốc và Việt
Nam. Thứ tư là các loại cốp pha, cột chống, xà gỗ,... làm từ sắt, thép, nhôm và nhựa,...
Nhóm sản phẩm này hiện đã được sử dụng rộng rãi trên các công trường xây dựng lớn.
Có thể nói đến năm 2030 về cơ bản các loại sản phẩm đồ gỗ phục vụ công trình xây

14


dựng lớn sẽ được thay thế bằng các loại sản phẩm khác, không làm từ gỗ. Các công
trình xây dựng dân sinh, nhỏ lẻ khác cũng sẽ được thay thế dần bằng các sản phẩm
phục vụ xây dựng từ các công trình xây dựng lớn loại ra. Hiện tại cũng đã có những
doanh nghiệp sử dụng các sản phẩm thay thế cho sản phẩm gỗ truyền thống trong lĩnh
vực xây dựng như công ty Minh Dương đã sản xuất và thương mại sản phẩm cốp pha
gỗ phủ film bên cạnh sản phẩm cốp pha tre truyền thống. Cốp pha gỗ phủ phim hay
còn gọi là gỗ ván ép phủ phim, ván cốp pha. Sản phẩm này được sản xuất bằng nguyên
liệu làgỗ keo và keo chống nước (phenol formaldehyde), nhập khẩu trực tiếp từ
Malaysia, keo melamin 40%,..., đạt tiêu chuẩn E0 (tiêu chuẩn cao nhất trên thế giới về
nồng độ Formaldehyde thoát ra ngoài không khí).
Các sản phẩm gỗ dùng trong xây dựng khác như cửa các loại, ốp tường, trang
trí,… cũng đang được thay thế bởi những loại vật liệu khác như nhôm, kính, sắt… Sự

tiện lợi của những loại cửa hiện đại như Eurowindow, hoặc các loại cửa nhôm kính dân
dụng,... vừa tiện lợi vừa có giá thành rẻ đang ngày càng trở thành sự lựa chọn của nhiều
thành phần dân cư kể cả ở thành thị và nông thôn.
4. Chuỗi cung ứng một số mặt hàng sản phẩm gỗ chủ yếu
4.1. Kênh thị trường, mạng lưới và hình thức phân phối các sản phẩm gỗ và
lâm sản nội địa
Khác với quá trình xuất khẩu, việc lưu thông, phân phối gỗ và sản phẩm lâm
sản trên thị trường nội địa rất đa dạng và phức tạp, phụ thuộc vào từng địa phương và
từng loại sản phẩm. Tuy nhiên, có thể thấy rõ là cho đến nay trên thị trường này chưa
hình thành những kênh thị trường và mạng lưới phân phối sản phẩm nào được hình
thành một cách chính thức, hoạt động có hiệu quả và có tính chất chi phối trên phạm vi
cả nước. Hầu hết các kênh thị trường và mạng lưới phân phối sản phẩm đều là tự phát,
mang tính địa phương và không có khả năng chi phối một cách tự giác đến nhà sản
xuất, khai thác và chế biến.
Hiện tại, thị trường gỗ nội địa có thể chia làm 4 nhóm sau:
- Thị trường gỗ nguyên liệu làm giấy và bột giấy,
- Thị trường gỗ phục vụ xây dựng,
- Thị trường nguyên liệu cho sản xuất ván nhân tạo, và
- Thị trường đồ mộc.
Mối quan hệ giữa sản phẩm và thị trường tiêu thụ được tóm tắt trong bảng dưới
đây.

Lâm sản

Bảng 6: Sản phẩm, thị trường và hình thức tiêu thụ
Đầu mối sản
Thị
Hình thức tiêu thụ
Dạng sản phẩm
xuất/khai thác

trường tại thị trường nội địa

Gỗ
nhỏ Công ty lâm - Phục vụ xây Nội địa
(keo,
bạc nghiệp,
trang dựng
đàn,…)
trại, hộ gia đình, - Nguyên liệu
HTX
giấy
- Nguyên liệu sản
xuất ván nhân tạo
Gỗ lớn
Công ty lâm Đồ mộc dân dụng Nội địa

Bán buôn, bán lẻ, bán
theo hợp đồng. Điều
tiết theo nhu cầu thị
trường tự do
Bán buôn, bán lẻ, bán

15


nghiệp,
trang
trại lớn, doanh
nghiệp
trồng

rừng
LSNG làm
dược liệu,
phục vụ các
ngành công
nghiệp khác
(hồi, quế, sa
nhân,..)
LSNG làm
thực phẩm
(măng, mộc
nhĩ,…)
Tre, luồng

Khai thác và
phát triển ở quy
mô hộ gia đình
một cách tự phát

LSNG lấy
sợi và gỗ
chế
biến
hàng
thủ
công
mỹ
nghệ (Tăm,
đũa, mành,
gỗ mỹ nghệ,

mây
tre
đan,….

Khai thác và
phát triển ở quy
mô họ, HTX,
doanh
nghiệp
nhỏ và vừa

Khai thác và
phát triển ở quy
mô hộ gia đình
một cách tự phát
Làm nguyên liệu
chế biến sản
phẩm
công
nghiệp

theo hợp đồng, qua
doanh nghiệp thương
lại, đại lý,... Điều tiết
theo nhu cầu thị
trường tự do
Sản phẩm sấy Xuất
Bán buôn cho các đại
khô, chưng cất khẩu là lý, người thu gom,
tinh dầu,..

chủ yếu doanh nghiệp xuất
khẩu

Sản phẩm sấy
khô, ngâm dấm,
đóng túi, đóng
lọ,….
Tre ép khối, ván
sàn tre, đồ nội
thất,…

Tiêu thụ Bán buôn cho các đại
nội địa
lý, người thu gom,
Tiêu thụ
nội địa
và xuất
khẩu

Nguyên liệu bán
thẳng cho doanh
nghiệp chế biến.
Sản phẩm chế biến
được bán buôn và bán
lẻ
Sản phẩm thủ Tiêu thụ Bán buôn, bán lẻ, bán
công mỹ nghệ
nội địa qua đại lý, trung
và xuất gian,.. Sản phẩm chế
khẩu

biến được tự tiêu thụ
là chủ yếu

4.1.1. Số lượng các doanh nghiệp, cơ sở phân phối sản phẩm theo hình thức sở
hữu
Bảng 7: Hệ thống phân phối sản phẩm theo sở hữu
Sở
hữu
Hộ
kinh
doanh
cá thể
Công
ty liên
doanh

Năm

Miền Bắc
Tỷ lệ
Số
(% so
lượng
cả
nước)

2012
2013

9890

10713

29.06 21816
28.85 20138

64.11
54.24

500
517

1.47
1.39

420
4306

1.23
11.60

1404
1456

4.13
3.92

34030
37130

2014


11123

34.59 17928

55.76

532

1.65

677

2.11

1893

5.89

2012
2013
2014

0
1
87

4
4
4


0.23
0.23
0.22

2
2
3

0.12
0.12
0.17

0
0
0

0.00
0.00
0.00

1705
1714
1719

99.65
99.59
94.82

32153

1711
1721
1813

0.00
0.06
4.80

Miền Trung
Tỷ lệ
Số
(% so
lượng
cả
nước)

Duyên Hải
Tỷ lệ
(% so
SL
cả
nước)

Tây Nguyên
Tỷ lệ
(% so
SL
cả
nước)


Miền Nam
Tỷ lệ
(% so
SL
cả
nước)

Cả
nước

16


Công
ty
TNHH
Công
ty cổ
phần
Doanh
nghiệp

nhân
Doanh
nghiệp
Nhà
nước

2012
2013

2014
2012
2013
2014
2012
2013

239
368
256
18
63
57
129
144

20.73
29.04
21.64
7.93
23.51
21.67
10.25
11.60

149
157
157
53
55

48
172
171

12.92
12.39
13.27
23.35
20.52
18.25
13.67
13.78

159
159
173
123
117
119
139
131

13.79
12.55
14.62
54.19
43.66
45.25
11.05
10.56


195
170
150
11
11
11
84
54

16.91
13.42
12.68
4.85
4.10
4.18
6.68
4.35

411
413
447
22
22
28
734
741

35.65
32.60

37.79
9.69
8.21
10.65
58.35
59.71

1153
1267
1183
227
268
263
1258
1241

2014

110

8.86

183

14.75

144

11.60


51

4.11

753

60.68

2012
2013

2
17

10.00
51.52

3
3

15.00
9.09

4
3

20.00
9.09

10

9

50.00
27.27

1
1

5.00
3.03

1241
20
33

2014

19

54.29

3

8.57

3

8.57

9


25.71

1

2.86

35

Cho đến năm 2014, cả nước có khoảng 36.688-41.660 đơn vị, hộ gia đình và
doanh nghiệp ở các hình thức sở hữu khác nhau tham gia vào mạng lưới phân phối sản
phẩm gỗ và lâm sản. Trong đó khu vực miền Trung có số lượng lớn nhất với 18.323 cơ
sở phân phối. Tiếp đến là khu vực miền Bắc với 11.652 cơ sở. Miền Nam hiện tại có
4.841 cơ sở, còn khu vực Duyên hải miền Trung có 974 và Tây Nguyên có 898 cơ cở
trong mạng lưới phân phối sản phẩm.

3%

2%

13%

Miền Bắc
32%

Miền Trung
Duyên Hải

50%


Tây Nguyên
Miền Nam

Hình 11: Cơ cấu hệ thống phân phối sản phẩm theo khu vực năm 2014
Cơ cấu hệ thống phân phối sản phẩm gỗ và lâm sản theo hình thức sở hữu trên
các khu vực của các nước khá ổn định trong 3 năm qua. Khu vực miền Trung có nhiều
cơ sở tham gia hệ thống này hơn cả với 49,35%-57,81%. Điều này có được là do khu
vực này tập trung nhiều doanh nghiệp, cơ sở chế biến có quy mô lớn và cũng là khu vực
có sản lượng chế biến gỗ lớn nhất nước. Đứng thứ hai là khu vực miền Bắc với 26,76%31,73% tổng số cơ sở cả nước. Đặc trưng cơ bản của khu vực này là có nhiều làng nghề
chế biến gỗ nhất trong cả nước (hơn 70% số làng nghề chế biến gỗ) nên các cơ sở kinh
doanh tập trung vào việc phân phối các sản phẩm của các làng nghề này. Khu vực miền
Nam có khoảng 10,55%-13,20% tổng cơ sở cả nước do các tỉnh Đông Nam bộ có nhiều
nhà máy, doanh nghiệp chế biến gỗ quy mô vừa và lớn, đồng thời là khu vực có hoạt
động chế biến rất năng động. Các khu vực còn lại như Tây Nguyên, Duyên Hải Nam
Trung Bộ có ít hơn 3,0% tổng cơ sở phân phối sản phẩm gỗ và lâm sản cả nước do khu
vực này có diện tích nhỏ và hoạt động chế biến gỗ cũng không nhiều.

17


Bảng 8: Cơ cấu vùng, miền của hệ thống phân phối sản phẩm theo sở hữu
Đơn vị tính: % so tổng số cả nước
Năm
2012
2013
2014

Miền
Bắc
26,76

27,18
31,73

Miền
Trung
57,81
49,35
49,94

Duyên Hải Nam
Trung bộ
2,41
2,23
2,68

Tây
Nguyên
1,88
10,69
2,45

Miền
Nam
11,14
10,55
13,20

Như vậy việc tác động chính sách nhằm xây dựng hệ thống phân phối sản phẩm
gỗ và lâm sản trong tương lai nên đặc biệt quan tâm đến các khu vực như miền Trung,
miền Bắc và miền Nam, nơi có hoạt động chế biến sôi động và có nhiều cơ sở tham

gia vào việc phân phối sản phẩm.

5%

3% 1% 3%

0%
Hộ kinh doanh cá thể
Công ty liên doanh
Công ty TNHH
Công ty cổ phần
88%

Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp Nhà nước

Hình 12: Cơ cấu hệ thống phân phối sản phẩm gỗ và lâm sản nội địa năm 2014
Trong hệ thống phân phối sản phẩm gỗ và lâm sản cả nước các hộ kinh doanh cá
thể chiếm phần đa số với 88% (năm 2014) tổng số doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân tham
gia mạng lưới này. Trong khi đó các doanh nghiệp nhà nước tham gia phân phối sản phẩm
hết sức nhỏ bé với 0,1% tổng số cơ sở tham gia.
Bảng 9: Cơ cấu hệ thống và mạng lưới phân phối sản phẩm theo sở hữu
Đơn vị tính: % so tổng cơ sở cả nước
Hộ
Công
kinh
Năm
ty liên
doanh
doanh

cá thể
2102
88,62
4,46
2013
89,13
4,13
2014
87,64
4,94

Công
ty
TNHH
3,00
3,04
3,22

Doanh
nghiệp

nhân
0,59
3,28
0,64
2,98
0,72
3,38

Công

ty cổ
phần

Doanh
Tổng số
nghiệp lượng cơ
Nhà
sở cả
nước
nước
0,05
38,399
0,08
41,660
0,10
36,688

Các công ty cổ phần thực hiện kinh doanh, phân phối sản phẩm-nhân tố quan
trọng và năng động nhất trong một nền kinh tế thị trường cũng chiếm một tỷ lệ quá
nhỏ bé trong cơ cấu này với chỉ 0,72% tổng số cơ sở của cả nước. Các hình thức sở

18


hữu còn lại như Công ty liên doanh, công ty TNHH, công ty tư nhân là những đơn vị
có nhiều khả năng tác động đến tính hiệu quả, chi phối khả năng điều tiết thị trường,
cũng như kết nối sản xuất với thị trường cũng chỉ chiếm một tỷ trọng rất khiêm tốn
trong mạng lưới phân phối sản phẩm gỗ và lâm sản hiện nay. Mỗi loại hình sở hữu này
cũng chỉ chiếm dưới 5,0% tổng số cơ sở tham gia mạng lưới. Cơ cấu các cơ sở phân
phối sản phẩm theo hình thức sở hữu khá ổn định trong 3 năm gần đây. Điều này

chứng tỏ hệ thống và mạng lưới phân phối sản phẩm gỗ và lâm sản hiện nay rất nhỏ lẻ,
manh mún và không có khả năng chi phối thị trường, cũng như khó có khả năng kết
nối giữa doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, chế biến với thị trường.

Số lương doanh nghiệp, cơ sở

4.1.2. Số lượng các doanh nghiệp, cơ sở phân phối sản phẩm theo quy mô
12,000
10,000

9,572

10,329

9,882

8,000

Miền Bắc

6,000

Miền Trung

4,000

Duyên Hải

2,000


Tây Nguyên

,0

2012

2013

2014

Miền Nam

Hình 13: Số lượng doanh nghiệp theo quy mô
Nếu không tính đến các hộ gia đình tham gia vào hệ thống phân phối sản phẩm
gỗ và lâm sản thì đến năm 2014, cả nước có 12.822 - 14.309 doanh nghiệp, cơ sở tham
gia vào hệ thống này.Trong đó tập trung chủ yếu ở khu vực các tỉnh phía Bắc với trên
dưới 10.000 doanh nghiệp, cơ sở. Miền Nam có khối lượng doanh nghiệp, cơ sở đứng
thứ hai với 1.402 - 2.283 doanh nghiệp. Khu vực miền Trung có khoảng trên 800
doanh nghiệp, cơ sở.Các khu vực còn lại ổn định với trên dưới 600 doanh nghiêp, cơ
sở mỗi vùng.
Các doanh nghiệp có quy mô vốn đầu tư dưới một tỷ đồng chiếm số lượng lớn
nhất với 61,09% - 70,04% tổng số doanh nghiệp, cơ sở. Các cơ sở có vốn đầu tư từ 1
đến 5 tỷ đồng chiếm khoảng 21% - 27%. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư càng lớn thì
số lượng trong hệ thống phân phối sản phẩm càng thấp. Chỉ có 6,44% - 9,70% tổng số
doanh nghiệp là có vốn trên 5 tỷ đồng đến dưới 10 tỷ đồng. Trong khi đó tỷ lệ doanh
nghiệp có vốn đầu tư trên 10 tỷ chỉ là 2,08% - 2,53%.
Bảng 10: Hệ thống phân phối sản phẩm theo quy mô DN, cơ sở
Duyên
Miền
Miền

Tây
Miền
Cả
Quy mô
Năm
Hải
Nam
Bắc
Trung
Nguyên
nước
NTB
2012
6914
517
341
324
884
8,980
Doanh
nghiệp, cơ sở 2013
7339
503
259
420
948
9,469
có vốn đầu
tư dưới 1 tỷ
2014

5605
524
324
624
1665
8,742
VNĐ

19


Doanh
nghiệp, cơ sở
có vốn đầu
tư từ 1 đến 5
tỷ VNĐ
Doanh
nghiệp, cơ sở
có vốn đầu tư
từ 5 đến 10 tỷ
VNĐ

2012
2013

2138
2377

172
158


158
139

41
41

240
236

2,749
2,951

2014
2012
2013
2014

3226
504
564
1026

164
46
55
48

150
20

25
26

41
8
8
8

301
248
248
280

3,882
826
900
1,388

2014

25

102

123

10

37


297

Rõ ràng với cơ cấu hệ thống phân phối sản phẩm có rất ít các doanh nghiệp có
vốn đầu tư lớn, đóng vai trò chủ đạo, chi phối các hoạt động của hệ thống như hiện
nay thì khó có thể hình thành được hệ thống phân phối sản phẩm một cách có hiệu
quả. Nói cách khác hệ thống phân phối sản phẩm gỗ và lâm sản của nước ta hiện nay
chỉ như “một bao tải đựng đầy khoai tây” nên được gọi là “một bao tải khoai tây” vậy.
Chúng rất ít có ý nghĩa trong việc kết nối đơn vị sản xuất, chế biến với thị trường.
Doanh nghiệp, cơ sở có
vốn đầu tư dưới 1 tỷ

2%
10%

Doanh nghiệp, cơ sở có
vốn đầu tư từ 1 đến 5 tỷ
VNĐ

27%
61%

Doanh nghiệp, cơ sở có
vốn đầu tư từ 5 đến 10
tỷ VNĐ
Doanh nghiệp, cơ sở có
vốn đầu tư từ 5 đến 10
tỷ VNĐ

Hình 14: Cơ cấu hệ thống phân phối sản phẩm theo quy mô
vốn đầu tư năm 2014

4.1.3. Số lượng các doanh nghiệp, cơ sở phân phối theo loại hình sản phẩm
Tính đến năm 2014, cả nước có 14.566 doanh nghiệp, cơ sở tham gia vào hệ thống
phân phối tính theo loại sản phẩm gỗ và lâm sản. Trong đó có 7.974 doanh nghiệp, cơ sở
(54,74% tổng doanh nghiệp, cơ sở) chuyên phân phối sản phẩm đồ gỗ nội, ngoại thất;
5.343 cơ sở (36,68%) chuyên phân phối đồ thủ công mỹ nghệ; 403 cơ sở (2,77%) phân
phối ván dăm và bột giấy; 175 cơ sở (1,20%) phân phối ván nhân tạo; 440 cơ sở (3,02%)
phân phối gỗ chống lò, cốp pha, bao bì và chỉ có 231 cơ sở (1,59%) cơ sở chuyên phân
phối sản phẩm lâm sản ngoài gỗ.
Bảng 11: Doanh nghiệp, cơ sở phân phối theo loại hình sản phẩm
Miền Miền Duyên
Tây
Miền
Cả
Sản phẩm Năm
Bắc Trung Hải
Nguyên
Nam
nước
2012 4208
555
345
353
1346 6807
Nội thất,
ngoại thất,
2013 4344
537
333
453
1400 7067


20


gỗ xây
dựng
Đồ mỹ
nghệ
Ván dăm
và bột giấy
Ván nhân
tạo
Chống lò,
cốp pha và
bao bì
Lâm sản
ngoài gỗ

2014
2012
2013
2014
2012
2013
2014
2012
2013
2014
2012
2013

2014
2012
2013
2014

4754
4591
4775
4978
309
77
302
36
392
112
310
352
301
78
77
120

559
137
147
151
42
47
47
32

32
33
64
56
55
46
50
51

373
99
83
94
38
43
39
2
2
2
61
61
61
11
16
18

644
18
14
8

1
1
1
19
19
19
11
11
11
26
32
32

1644
89
96
112
13
14
14
7
7
9
11
11
12
3
6
10


7974
4934
5115
5343
403
182
403
96
452
175
457
491
440
164
181
231

Cơ cấu hệ thống phân phối
theo loại hình SP (%)

Nhìn chung, các doanh nghiệp, cơ sở tham gia vào hệ thống chủ yếu là để phân
phối các sản phẩm đồ gỗ nội thất, đồ gỗ ngoại thất, xây dựng và đồ gỗ mỹ nghệ. Các
doanh nghiệp hầu như chưa chú ý đến các loại sản phẩm khác, nhất là các loại lâm sản
ngoài gỗ, ngoài các loại hình sản phẩm nêu trên.
60.00

Nội thất, ngoại thất, gỗ xây
dựng
Đồ mỹ nghệ


50.00
40.00
30.00

Ván dăm và bột giấy

20.00

Ván nhân tạo

10.00

Chống lò, cốp pha và bao bì

0.00
2012

2013

2014

Lâm sản ngoài gỗ

Hình 15: Cơ cấu hệ thống phân phối theo loại hình sản phẩm
4.1.4. Các doanh nghiệp, cơ sở phân phối sản phẩm theo tính chất thị trường
4.1.4.1. Các doanh nghiệp, cơ sở vừa chế biến vừa cung ứng sản phẩm
Đây là một loại hình khá phổ biến trong hoạt động sản xuất, chế biến nông, lâm
thủy sản nói chung và trong chế biến, thương mại sản phẩm gỗ và lâm sản nói riêng ở
nước ta.
Bảng 12: Doanh nghiệp vừa chế biến, vừa cung ứng sản phẩm

Miền Miền Duyên
Tây
Miền
Doanh nghiệp
Năm
Bắc Trung
Hải
Nguyên Nam
2012 3473
307
228
353
1143
Vừa sản xuất, vừa
cung cấp các sản
2013 3717
319
229
525
1184

Cả
nước
5504
5974

21


Số lượng DN vừa CB, vừa

cung ứng SP

phẩm gỗ
Vừa sản xuất, vừa
cung cấp các sản
phẩm mỹ nghệ
Vừa sản xuất, vừa
cung cấp các sản
phẩm ván dăm và
bột giấy
Vừa sản xuất, vừa
cung cấp các sản
phẩm chống lò, cốp
pha và bao bì
Vừa sản xuất, vừa
cung cấp các sản
phẩm lâm sản ngoài
gỗ

2014
2012
2013
2014
2012
2013

4276
4518
4718
4919

60
34

314
89
95
96
41
46

212
13
15
17
5
5

714
18
14
8
1
1

1414
110
113
369
12
13


6930
4748
4955
5409
119
99

2014
2012
2013

58
147
196

46
77
66

6
0
0

1
11
11

16
11

11

127
246
284

2014
2012
2013

146
86
86

66
41
46

0
2
2

11
26
26

12
3
6


235
158
166

2014

130

46

4

26

10

216

12,000
10,000

Miền Bắc

8,000

Miền Trung

6,000

Duyên Hải


4,000

Tây Nguyên

2,000

Miền Nam

,0
2012

2013

2014

Hình 16: Số lượng doanh nghiệp vừa chế biến, vừa cung ứng sản phẩm theo vùng
Cho đến nay, có khoảng 10.620-12.711 doanh nghiệp trong ngành vừa thực
hiện chế biến và cung ứng sản phẩm ra thị trường. Nói cách khác đây là hình thức
tham gia thị trương theo hình thức “tự sản, tự tiêu”. Các doanh nghiệp, cơ sở trong loại
hình này chủ yếu tập trung ở phía Bắc- nơi có những hoạt động chế biến, tiêu thụ sản
phẩm gỗ và lâm sản khá nhỏ, lẻ, manh mún với khoảng 10.210-11.413 doanh nghiệp
(90%-96% tổng số lượng doanh nghiệp). Các doanh nghiệp loại hình này ở các địa
phương phía Nam đứng thứ hai, nhưng với số lượng ít hơn nhiều, chỉ vào khoảng
1.300- 1.800 (12%-14,5%). Số lượng doanh nghiệp vừa chế biến, vừa phân phối sản
phẩm ở khu vực miền Trung cũng khá thấp với 600-650 doanh nghiệp (5,13%-5,65%).
Các khu vực còn lại chỉ có dưới 5,0% tổng lượng doanh nghiệp mỗi vùng.

22



1%

Doanh nghiệp, cơ sở vừa sản xuất,
vừa cung cấp các sản phẩm gỗ

2% 2%

Doanh nghiệp, cơ sở vừa sản xuất,
vừa cung cấp các sản phẩm mỹ nghệ
43%

52%

Doanh nghiệp, cơ sở vừa sản xuất,
vừa cung cấp các sản phẩm ván dăm
và bột giấy

Doanh nghiệp, cơ sở vừa sản xuất,
vừa cung cấp các sản phẩm chống lò,
cốp pha và bao bì
Doanh nghiệp, cơ sở vừa sản xuất,
vừa cung cấp các sản phẩm lâm sản
ngoài gỗ

Hình 17: Phân bố của các doanh nghiệp vừa chế biến vừa phân phối sản phẩm
năm 2014
Lĩnh vực chế biến gỗ cung cấp cho thị trường nội địa có tỷ trọng các doanh
nghiệp vừa chế biến vừa phân phối sản phẩm khá cao. Năm 2014 có đến 54,52% tổng
số doanh nghiệp trong nhóm. Chế biến đồ gỗ thủc ông mỹ nghệ cũng trong tình trạng

tương tự với 45,55% tổng số lượng doanh nghiệp trong nhóm. Các số liệu này càng
cho thấy rõ ràng hơn tình trạng thiếu chuyên nghiệp trong chế biến và thương mại các
sản phẩm đồ gỗ chủ yếu. Các nhóm còn lại chỉ có tỷt rọng dưới 2,0% mỗi nhóm. Điều
này không phản ánh được tính chuyên nghiệp của doanh nghiệp mà do số lượng các
doanh nghiệp trong nhóm quá ít.
4.1.4.2. Các doanh nghiệp, cơ sở chuyên cung ứng sản phẩm (các doanh nghiệp
trung gian)
Hệ thống phân phối sản phẩm trên thị trường nội địa có khoảng 10.000 đến
11.208 doanh nghiệp, cơ sở chuyên cung ứng sản phẩm các loại. Các doanh nghiệp
này cũng tập trung chủ yếu ở khu vực miền Bắc với 8.933-9.737 doanh nghiệp, cơ sở
(xấp xỉ 90% tổng số lượng doanh nghiệp). Các doanh nghiệp ở miền Trung và Tây
Nguyên chiếm gần 5,0% mỗi vùng. Các khu vực còn lại chỉ có ít hơn 1,0% tổng số
doanh nghiệp mỗi vùng.
Bảng 13: Doanh nghiêp, cơ sở chuyên cung ứng sản phẩm
Miền Miền Duyên
Tây
Miền
Cả
Doanh nghiệp
Năm
Bắc Trung Hải
Nguyên Nam
nước
Doanh nghiệp,
2012
4107
271
70
353
100

4901
cơ sở chuyên
2013
4259
235
75
453
101
5123
cung cấp các sản
phẩm gỗ
2014
4531
256
74
644
102
5607
Doanh nghiệp,
2012
4507
53
2
18
40
4620
cơ sở chuyên
2013
4707
60

2
14
42
4825
cung cấp các sản
phẩm mỹ nghệ
2014
4909
67
4
8
42
5030

23


Doanh nghiệp,
cơ sở chuyên
cung cấp các sản
phẩm ván dăm
và bột giấy
Doanh nghiệp,
cơ sở chuyên
cung cấp các sản
phẩm chống lò,
cốp pha và bao

Doanh nghiệp,
cơ sở chuyên

cung cấp các sản
phẩm lâm sản
ngoài gỗ
Tổng

2012
2013

51
21

49
64

22
22

4
7

1
1

127
115

2014
2012
2013


32
163
211

68
79
76

23
0
0

7
11
11

1
0
0

131
253
298

2014
2012
2013

160
105

105

80
38
42

0
2
2

11
26
26

5
6
7

256
177
182

2014
2012
2013
2014

105
8,933
9,303

9,737

42
490
477
513

4
96
101
105

26
412
511
696

7
147
151
157

184
10,078
10,543
11,208

Tỷ trọng doanh nghiệp
(%)


Các doanh nghiệp phân phối sản phẩm gỗ nội thất, ngoại thất và đồ gỗ thủ công
mỹ nghệ chiếm tỷ trọng lớn hơn cả với 4.910-5.607 doanh nghiệp (48,63%-50,03%)
mỗi nhóm. Các loại sản phẩm còn lại có số doanh nghiệp chuyên cung ứng sản phẩm rất
thấp, chỉ từ 100-200 doanh nghiệp (dưới 3,0% tổng doanh nghiệp) mỗi loại hình sản
phẩm. Có lẽ khối lượng sản phẩm như ván dăm, cốp pha, và nhất là lâm sản ngoài gỗ
tham gia vào thịtrường nội địa thấp so với khối lượng sản phẩm đồgoỗ nội thất, ngoại
thất và đồ gỗ thủ công mỹ nghệ.
100.00
90.00
80.00
70.00
60.00
50.00
40.00
30.00
20.00
10.00
0.00

,90.81

,88.64

,86.88
Miền Bắc
Miền Trung
Duyên Hải
Tây Nguyên

Miền Nam


2012

2013

2014

Hình 18: Cơ cấu các chuyên doanh nghiệp cung ứng sản phẩm theo khu vực

24


Doanh nghiệp, cơ sở chuyên
cung cấp các sản phẩm gỗ
1%

2% 2%

Doanh nghiệp, cơ sở chuyên
cung cấp các sản phẩm mỹ
nghệ
Doanh nghiệp, cơ sở chuyên
cung cấp các sản phẩm ván
dăm và bột giấy

50%
45%

Doanh nghiệp, cơ sở chuyên
cung cấp các sản phẩm chống

lò, cốp pha và bao bì
Doanh nghiệp, cơ sở chuyên
cung cấp các sản phẩm lâm
sản ngoài gỗ

Hình 19: Phân bố của các chuyên doanh nghiệp cung ứng theo sản phẩm
4.1.5. Các kênh tiêu thụ sản phẩm chính
Chuỗi hành trình của gỗ từ nguyên liệu đến tiêu thụ sản phẩm cuối tương đối đơn
giản và có thể được mô tả trong sơ đồ sau.
Gỗ khai tháctrong nước

Bán lẻ

Bán theo
hợp đồng

Xưởng mộc tại
địa phương

Gỗ nhập khẩu

Bán buôn

Thu gom, đại


Chợ gỗ, doanh
nghiệp nhập khẩu

Bán buôn


Doanh nghiệp và
cơ sở chế biến

Doanh nghiệp
xuất khẩu

Bán lẻ

Đại lý,
người buôn

Người tiêu dùng
trong nước

Thị trường
xuất khẩu

người buôn

người buôn

Hình 20: Sơ đồ kênh tiêu thụ gỗ và sản phẩm gỗ
Như vậy, đối với gỗ nguyên liệu được khai thác trong nước (chủ yếu là gỗ rừng
trồng) được tiêu thụ theo 3 kênh thị trường chính sau:
- Kênh 1: Các hộ trồng rừng bán cho các xưởng mộc tại địa phương (bán lẻ) để
sản xuất các lọai đồ mộc dân dụng, các đồ nội thất gia đình như giường, tủ, bàn ghế,

25



×