SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Trường THPT Lê Chân
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Đông Triều, ngày 20 tháng 5 năm 2018.
KẾT QUẢ BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN
NĂM HỌC 2017 – 2018.
Họ và tên: Phạm Hoàng Bách.
Năm sinh: 29/07/1985.
Đơn vị: Trường THPT Lê Chân.
Chức vụ: Giáo viên giảng dạy bộ môn Thể dục.
Câu 1. Xây dựng một đề thi THPT quốc gia ở môn được phân công giảng dạy.
Trả lời:
Môn thi: THỂ DỤC
Thời gian làm bài 150 phút.
Câu 1.(4,0 điểm).
Anh (chị) hãy nêu yêu cầu chung của việc dạy học bám sát chuẩn kiến thức, kỹ
năng ?.
Câu 2. (3,0 điểm).
Anh (chị) hãy trình bày các bước xây dựng kế hoạch bài học theo phương pháp
dạy học tích cực ?.
Câu 3. (3,0 điểm).
Các yếu tố ảnh hưởng và quyết định đến thành tích lần nhảy trong môn Nhảy xa.
---Hết---ĐÁP ÁN:
Câu 1: (4,0 điểm)
Những yêu cầu chung của việc dạy học bám sát chuẩn kiến thức kỹ năng bao
gồm:
- Căn cứ chuẩn kiến, thức kỹ năng để xác định mục tiêu bài học. Chú trọng dạy học
nhằm đạt được các yêu cầu cơ bản và tối thiểu về kiến thức, kỹ năng, đảm bảo không
quá tải và không quá lệ thuộc hoàn toàn vào sách giáo khoa;
mức độ khai thác sâu kiến thức, kỹ năng trong sách giáo khoa phải phù hợp với
khả năng tiếp thu của học sinh.
- Sáng tạo về phương pháp dạy học phát huy tính chủ động, tích cực, tự giác học tập
của học sinh. Chú trọng rèn luyện phương pháp tư duy, năng lực tự học, tự nghiên
cứu;
tạo niềm vui, hứng khởi, nhu cầu hành động và thái độ tự tin trong học tập cho
học sinh.
- Dạy học thể hiện mối quan hệ tích cực giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh với
học sinh;
tiến hành thông qua việc tổ chức các hoạt động học tập của học sinh, kết hợp giữa
học tập cá thể với học tập hợp tác, làm việc theo nhóm.
1
- Dạy học chú trọng đến việc rèn luyện các kỹ năng, năng lực hành động, vận dụng
kiến thức, tăng cường thực hành và gắn nội dung bài học với thực tiễn cuộc sống.
- Dạy học chú trọng đến việc sử dụng có hiệu quả phương tiện, thiết bị dạy học được
trang bị hoặc do giáo viên và học sinh tự làm; quan tâm ứng dụng công nghệ thông
tin trong dạy học.
- Dạy học chú trọng đến việc động viên, khuyến khích kịp thời sự tiến bộ của học
sinh trong quá trình học tập;
đa dạng nội dung, các hình thức, cách thức đánh giá và tăng cường hiệu quả việc
đánh giá.
+ Dự kiến những khó khăn, những tình huống có thể nảy sinh và các phương án
giải quyết.
- Lựa chọn phương pháp, phương tiện thiết bị; hình thức tổ chức dạy học và cách
thức đánh giá thích hợp nhằm giúp học sinh học tập tích cực, chủ động sáng tạo, phát
triển năng lực tự học.
- Xây dựng kế hoạch bài học: Xác định mục tiêu, thiết kế nội dung, nhiệm vụ, cách thức
hoạt động, thời gian và yêu cầu cần đạt cho từng hoạt động dạy của giáo viên và hoạt
động học tập của học sinh.
Câu 2: (3,0 điểm)
Các bước xây dựng kế hoạch bài học bao gồm:
- Xác định mục tiêu của bài học, căn cứ vào chuẩn kiến thức kỹ năng và yêu cầu về
thái độ trong chương trình.
- Nghiên cứu sách giáo khoa và các tài liệu liên quan
để:
+ Hiểu chính xác, đầy đủ những nội dung của bài học.
+ Xác định những kiến thức, kỹ năng, thái độ cơ bản cần hình thành và phát triển ở
học sinh.
+ Xác định trình tự logic của bài học.
- Xác định khả năng đáp ứng các nhiệm vụ nhận thức của hoc sinh.
+ Xác định những kiến thức, kỹ năng mà học sinh đã có và cần có.
+ Dự kiến những khó khăn, những tình huống có thể nảy sinh và các phương án
giải quyết.
- Lựa chọn phương pháp, phương tiện thiết bị; hình thức tổ chức dạy học và cách
thức đánh giá thích hợp nhằm giúp học sinh học tập tích cực, chủ động sáng tạo, phát
triển năng lực tự học.
- Xây dựng kế hoạch bài học: Xác định mục tiêu, thiết kế nội dung, nhiệm vụ, cách
thức hoạt động, thời gian và yêu cầu cần đạt cho từng hoạt động dạy của giáo viên và
hoạt động học tập của học sinh.
Câu 3: (3,0 điểm)
Các yếu tố ảnh hưởng và quyết định đến thành tích lần nhảy trong môn Nhảy xa
là:
- Tầm vóc, thể lực và tâm lý.
- Nắm vững kỹ thuật nhảy xa.
- Yếu tố môi trường (tốc độ gió, thời tiết...)
- Vê lý thuyết: Tầm bay xa của lần nhảy được tính theo công thức:
2
S
V02 sin 2
. Trong đó: + S: là tầm bay xa của lần nhảy.
g
+ V0 : là tốc độ bay ban đầu (do chạy đà tạo ra).
+ : là góc độ bay (do giậm nhảy tạo ra).
+ g: là gia tốc rơi tự do.
- Từ công thức trên ta thấy: Giai đoạn chạy đà là một trong hai giai đoạn kỷ thuật có
ý nghĩa quyết định vì tạo ra tốc độ theo phương nằm ngang lớn nhất tạo điều kiện để
V0 lớn nhất.
- Giai đoạn giậm nhảy là yếu tố thứ hai quyết định đến thành tích lần nhảy vì: Giậm
nhảy kết hợp với chạy đà tạo nên lực giậm nhảy lớn nhất và góc độ bay hợp lý nhất.
Câu 2. Lập 01 giáo án có tích hợp giáo dục (giáo dục đạo đức, giáo dục môi
trường, giáo dục kỹ năng sống...) cho học sinh trong dạy học bộ môn.
Trả lời:
TIẾT: 65.
BÓNG RỔ (TTTC 2): Ôn
- Nhảy bắt bóng bằng 2 tay trên cao.
- Di chuyển và bắt bóng bằng 2 tay trước ngực.
- Nhảy ném rổ bằng 1 tay trên vai.
I – Mục tiêu:
- Ôn các KT nhảy ném rổ bằng 1 tay trên vai, nhảy bắt bóng bằng 2 tay trên cao…
- Nâng cao tính ổn định của các kĩ thuật đã học.
- HS nghiêm túc, tích cực trong học tập và luyện tập.
II – Địa điểm, phương tiện:
- Địa điểm
: Sân thể dục (Trường THPT Lê Chân).
- Phương tiện : Bóng rổ, trang phục đúng quy định.
III – Tiến trình lên lớp:
ĐỊNH
NỘI DUNG
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
LƯỢNG
A.Phần chẩn bị:
8’
1) Nhận lớp :
1’
*Đội hình tập trung.
- Tập trung lớp.
GV
- Kiểm tra sĩ số,phổ biến nội
x x x x x x x x x CS
dung, yêu cầu buổi học.
xxxxxxxxx
- CS tập trung lớp, báo cáo sĩ số.
- GV kiểm tra sĩ số, phổ biến nội
dung, yêu cầu giờ học.
2) Khởi động:
6’
a) Khởi động chung:
*Đội hình khởi động.
- Chạy khởi động.
- Tập bài TDPTC.
2x8 nhịp
CS
GV
- Ép dọc – ép ngang.
x x x x x x x x x x
b) Khởi động chuyên môn:
x x x x x x x x x x
- Xoay các khớp.
- Bước nhỏ, nâng cao đùi, đạp sau
2 lần/
- CS điều khiển lớp tập đồng loạt.
3
( tại chỗ).
nội dung - GV quan sát nhắc nhở HS tập luyện.
3) Kiểm tra bài cũ:
- Bóng rổ: Thực hiện KT chuyền
và bắt bóng bằng 2 tay trước
ngực.
1’
B.Phần cơ bản:
1) Bóng rổ (TTTC2): Ôn
- Nhảy bắt bóng bằng 2 tay trên
cao.
32’
24’
- Gọi 2 HS thực hiện KT, cho lớp
nhận xét.
- GV nhận xét chung và cho điểm.
- GV phân tích, làm mẫu các kĩ thuật
động tác, sai lầm thường mắc, cách
sửa chữa, hướng dẫn HS tập luyện.
* Nhảy bắt bóng bằng 2 tay trên cao:
x x x x x x x x x
GV
5 - 6m
x x x x x x x x x
- Di chuyển và bắt bóng bằng 2
tay trước ngực.
xxxx x
GV
xxxx
* Di chuyển chuyền và bắt bóng
bằng 2 tay trước ngực:
x
* Nhảy ném rổ bằng 1 tay trên vai
- Nhảy ném rổ bằng 1 tay trên vai.
xxxxxxxxx
xxxxxxxxx
- GV chia lớp thành các nhóm nhỏ
thực hiện tập luyện với các nội dung
đã học.
- GV quan sát, sửa sai, nhắc nhở HS
trong tập luyện kĩ thuật động tác.
2) Chạy bền: Chạy trên địa hình
Nam: 800m
Nữ : 600m
6’
4
tự nhiên
3) Củng cố:
- Nhảy ném rổ bằng 1 tay trên vai.
- Chia lớp thành 2 nhóm nam – nữ,
mỗi nhóm chạy thành 1 hàng dọc.
2’
- Gọi 1 – 2 HS thực hiện KT.
- Cho lớp nhận xét.
- GV nhận xét chung.
C.Phần kết thúc
- Hồi tĩnh, thả lỏng.
5’
-Theo đội hình khởi động.
GV
x x x x x x x x x
x x x x x x x x x
- Nhận xét đánh giá buổi học.
- Giao bài tập về nhà.
- Xuống lớp.
- GV hướng dẫn HS động tác thả lỏng
rồi trở về đội hình tập trung lớp.
- GV hướng dẫn HS tự tập luyện.
Câu 3:
I - Trình bày bố cục của sáng kiến kinh nghiệm đang áp dụng trong ngành giáo
dục?
1. Đặt vấn đề
Phần này tác giả chủ yếu trình bày lý do chọn đề tài. Cụ thể tác giả cần trình
bày các ý chính sau đây:
* Nêu rõ hiện tượng (vấn đề) trong thực tiễn giảng dạy, giáo dục.
* Ý nghĩa và tác dụng (về mặt lý luận) của hiện tượng (vấn đề).
* Những mâu thuẫn giữa thực trạng (có những bất hợp lý, có những điều cấn
cải tiến, sửa đổi...)
Từ những ý đó, tác giả khẳng định lý do mình chọn vấn đề viết SKKN.
2. Giải quyết vấn đề: (hoặc Nội dung sáng kiến kinh nghiệm)
Đây là phần quan trọng, cốt lõi nhất của một SKKN, theo chúng tôi tác giả nên trình
bày theo 4 mục chính sau đây:
* Cơ sở lý luận của vấn đề: Trong mục này tác giả cần trình bày tóm tắt
những lý luận, lý thuyết đã được tổng kết, bao gồm những khái niệm, những kiến
thức cơ bản về vấn đề được chọn để viết SKKN. Đó chính là những cơ sở lý luận có
tác dụng định hướng cho việc nghiên cứu, tìm kiếm những giải pháp, biện pháp
nhằm khắc phục những mâu thuẫn, khó khăn tác giả đã trình bày trong phần đặt vấn
đề.
* Thực trạng của vấn đề: Tác giả trình bày những thuận lợi, khó khăn mà tác
giả đã gặp phải trong vấn đề mà tác giả đã chọn để viết SKKN. Điều quan trọng trong
phần này là mô tả, làm nổi bật những khó khăn, những mâu thuẫn mà tác giả đang
tìm cách giải quyết, cải tiến.
* Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề: Trình bày trình tự những
biện pháp, các bước cụ thể để giải quyết vấn đề, trong đó có nhận xét về vai trò, tác
dụng, hiệu quả của từng biện pháp hoặc từng bước đó.
5
* Hiệu quả của SKKN: Trong mục này cần trình bày được các ý:
- Đã áp dụng SKKN ở lớp nào, khối nào, cho đối tượng cụ thể nào?
- Trình bày rõ kết quả cụ thể khi áp dụng SKKN. (có đối chiếu so sánh với kết
quả khi tiến hành công việc theo cách cũ)
Việc đặt tiêu đề cho các ý chính trên đây cần được cân nhắc, chọn lọc sao cho
phù hợp với đề tài đã chọn và diễn đạt được nội dung chủ yếu mà tác giả muốn trình
bày trong đề tài.
3. Kết luận: Cần trình bày được:
- Ý nghĩa của SKKN đối với công việc giảng dạy, giáo dục, trong việc tiến
hành các hoạt động Đội hoặc thực hiện các nhiệm vụ của người giáo viên, phụ trách
Đội.
- Những nhận định chung của tác giả về việc áp dụng và khả năng phát triển
của SKKN.
- Những bài học kinh nghiệm thu được rút ra từ quá trình áp dụng SKKN của
bản thân.
- Những ý kiến đề xuất (với Bộ GD-ĐT, Sở GD-ĐT, lãnh đạo trường... tuỳ theo từng
loại đề tài) để áp dụng SKKN có hiệu quả.
II - Viết báo cáo sáng kiến kinh nghiệm năm học 2017-2018.
Câu 4. Hướng dẫn và tư vấn đồng nghiệp trong phát triển nghề nghiệp:
- Thế nào là hướng dẫn đồng nghiệp trong phát triển nghề nghiệp giáo viên?
- Kể 5 hoạt động bạn đã thực hiện trong năm học vừa qua ở trường mà bạn cho
rằng hoạt động đó mang thuộc tính của hướng dẫn đồng nghiệp trong phát triển
nghề nghiệp giáo viên.
- Đồng chí làm thế nào để thực hiện tốt vai trò hướng dẫn đồng nghiệp trong phát
triển nghề nghiệp giáo viên?
Trả lời:
1. Phát triển nghề nghiệp của giáo viên
Phát triển nghề nghiệp của giáo viên bao gồm phát triển năng lực của giáo viên
về chuyên môn và năng lực nghiệp vụ của nghề (nghiệp vụ sư phạm). Năng lực
nghiệp vụ sư phạm của giáo viên lại được xác định bởi năng lực thực hiện các vai trò
của giáo viên trong quá trình lao động nghề nghiệp của mình. Bản thân các vai trò
của giáo viên gắn liền với đó là các chức năng của họ.
Nhà trường hiện đại đã và đang đặt ra những yêu cầu mới đối với giáo viên,
theo đó, người giáo viên phải đảm nhận thêm những vai trò mới. Vai trò người hướng
dẫn, tư vấn và chăm sóc tâm lí mà người giáo viên trong nhà trường hiện đại phải
đảm nhận là một minh hoạ.
6
Theo logic trên, nội dung phát triển nghề nghiệp liên tục của giáo viên rất
phong phú, bao gồm cả việc mở rộng, đổi mới tri thức khoa học liên quan đến giảng
dạy môn học do giáo viên giảng dạy đến mở rộng, phát triển, đổi mới tri thức, kĩ năng
thực hiện các hoạt động dạy học và giáo dục trong nhà trường
Thực tiễn dạy học đã khẳng định: Những phương pháp giảng dạy tốt sẽ có ảnh
hưởng tích cực đến việc học sinh học cái gì và học như thế nào. Học cách dạy và làm
việc để trở thành một giáo viên giỏi (gặt hái được những thành tựu cao trong lao động
nghề nghiệp) là cả một quá trình lâu dài. Kết quả của quá trình này như thế nào phụ
thuộc vào mức độ tích cực của mọi giáo viên trong việc phát triển những kiến thức
nghề nghiệp cũng như các giá trị và quan điểm đạo đức nghề nghiệp của họ. Bên
cạnh đó, việc giám sát và hỗ trợ của các chuyên gia hoặc đồng nghiệp có kinh nghiệm
để mỗi giáo viên phát triển được các kĩ năng nghề nghiệp đóng vai trò không kém
phần quan trọng.
Phát triển nghề nghiệp giáo viên là một quá trình mang tính tất yếu và lâu dài
đổi với mọi giáo viên. Tất yếu bởi dạy học và giáo dục là những quá trình thay đổi và
gắn liền với sự sáng tạo của mỗi giáo viên. Lâu dài bởi phát triển nghề nghiệp giáo
viên bắt đầu từ sự chuẩn bị khởi đầu ở cơ sở đào tạo nghề và tiếp tục trong quá trình
lao động nghề nghiệp của giáo viên tại cơ sở giáo dục cho đến khi về hưu.
Về bản chất, đó là quá trình gia tăng sự thích ứng trong lao động nghề nghiệp
của người giáo viên. Mức độ thích ứng nghề của cá nhân diễn ra dưới sự tác động của
nhiều yếu tố, tuy nhiên những yếu tố liên quan đến cá nhân và nghề nghiệp có vai trò
quan trọng hơn cả. Đây cũng là lí do khiến cho mọi giáo viên cần phát triển nghề
nghiệp của mình một cách liên tục, mỗi trường học phải coi việc phát triển nghề
nghiệp liên tục cho đội ngũ giáo viên là nhiệm vụ quan trọng.
Quan sát các giáo viên trẻ trong lao động nghề nghiệp, có thể nhận thấy những
hạn chế nhất định của họ so với những yêu cầu của dạy học, giáo dục trong nhà
trường. Điều này không chỉ là sự cánh báo về một khoảng cách đã có giữa đào tạo
giáo viên (công việc của các trường sư phạm) với thực tiến lao động nghề nghiệp tại
7
các cơ sở giáo dục mà còn là những gợi ý về những vấn đề liên quan đến phát triển
nghề nghiệp liên tục của giáo viên.
Một cách diễn đạt khác, chức năng phát triển của phát triển nghề nghiệp giáo
viên là quá trình làm cho các năng lực nghề nghiệp của giáo viên ngày càng được
nâng cao, giúp giáo viên có thể thực hiện hoạt động nghề nghiệp của mình ở những
tình huống khác nhau (các tình huống phi chuẩn) mà vẫn đảm bảo kết quả.
Có thể xem xét quá trình hình thành kĩ năng như một minh hoạ cho chức năng
phát triển của phát triển nghề nghiệp giáo viên. Mọi kĩ năng mà cá nhân có được đều
trải qua các giai đoạn cụ thể, từ giai đoạn hình thành, củng cổ đến giai đoạn thuần
thục (đôi khi có tính chất của tự động hoá). Ở giai đoạn hình thành phải từ những tình
huống mẫu, bằng sự luyện tập của mình, cá nhân sẽ hình thành kĩ năng xác định.
Sang giai đoạn củng cố, cá nhân có thể thực hiện được kĩ năng ở tình huống đã có
những thay đổi ít nhiều so với tình huống mẫu. Trong những tình huống biến đổi,
hoặc những tình huống hoàn toàn khác biệt với tình huống mẫu, cá nhân vẫn có thể
đạt đuợc mục tiêu của hoạt động. Đây là giai đoạn cá nhân đã có kĩ năng ở mức độ
phát triển cao.Chức năng đổi mới của phát triển nghề nghiệp giáo viên chỉ quá trình
tạo ra những thay đổi theo chiều hướng tích cực trong năng lực nghề nghiệp của giáo
viên.
Thay đổi là thuộc tính của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Dựa
vào thuộc tính này, con người có thể chủ động tạo ra sự thay đổi cho sự vật, hiện
tượng. Những thuật ngữ như cải tiến, đổi mới, cách mạng... dùng để chỉ sự thay đổi
đuợc con người thực hiện một cách có chủ định.
Đổi mới năng lực nghề nghiệp của giáo viên là quá trình phúc tạp, là kết quả của sự
thay đổi trong nhận thức, hành động và khắc phục những rào cản của hành vi, thói
quen trong dạy học, giáo dục của giáo viên.
Kinh nghiệm nghề nghiệp là tài sản của mọi giáo viên, tuy nhiên đôi khi kinh
nghiệm này lại trở thành rào cản đối với những đổi mới mang tính hệ thổng hoặc đổi
mới đối với từng phương diện năng lực nghề nghiệp của họ. Trong trường hợp này,
8
người giáo viên cần thay đổi chính những kinh nghiệm của họ. chẳng hạn, để đổi mới
phương pháp dạy học, giáo viên phải đổi mới tư duy về dạy học và tổ chức dạy học
(xác lập quan điểm/những quan điểm mới về dạy học và tổ chức dạy học), đổi mới
trong thiết kế các mô hình/chiến lược dạy học và tiếp đến là đổi mới trong thực thi
từng phương pháp dạy học cụ thể.
Các chương trình nhằm mục đích phát triển nghề nghiệp cho giáo viên:
(i) Phát triển các kĩ năng sổng;
(iì) Trở thành người có năng lực đối với các kĩ năng cơ bản của nghề dạy học;
(iii) Phát huy tính linh hoạt của người giảng dạy; Có chuyên môn giảng dạy;
Đóng góp vào sự phát triển nghề nghiệp của đồng nghiệp;
(iv) Thực hiện vai trò lãnh đạo và tham gia vào việc ra quyết định.
Các quan niệm về tiêu chí định hướng của chương trình phát triển nghề nghiệp
giáo viên nêu trên cho thấy, phát triển nghề nghiệp giáo viên có thể được thực hiện
một cách có chủ định hoặc không chủ định. Không ít những trường hợp, nhiều hoạt
động được thực hiện liên quan đến giáo viên (hoặc được thực hiện bởi giáo viên)
nhưng không có chú ý thực hiện các tiêu chí của phát triển nghề nghiệp giáo viên.
Tuy nhiên, nếu các hoạt động đó được định hướng từ trước bởi mục đích phát triển
nghề nghiệp giáo viên thì hiệu quả của các hoạt động đó sẽ cao hơn rất nhiều. Nói
cách khác, cần thiết phải quan tâm đến những cơ hội mà ở đó giáo viên có thể phát
triển nghề nghiệp của bản thân. Các cơ hội phát triển nghề nghiệp có thể được tạo ra
cùng lúc bởi các giáo viên và những người hỗ trợ, hoặc bởi cách lựa chọn tập trung
vào một nhiệm vụ mới mà giáo viên hứng thú với việc thực hiện nó (ví dụ, học tập
một lí thuyết dạy học mới hay thực hành một kĩ năng dạy học hoặc giáo dục mà giáo
viên muốn có sự thay đổi). Đây chính là những gợi ý trực tiếp cho sự hình thành các
mô hình phát triển nghề nghiệp giáo viên.
2. Mô hình hướng dẫn đồng nghiệp trong phát triển nghề nghiệp giáo viên
Mô hình phát triển nghề nghiệp giáo viên là cái thể hiện của phát triển nghề
nghiệp giáo viên (cái được thể hiện). Tuy nhiên, giữa cái thể hiện và cái được thể hiện
9
thưững có sự phản ánh không đầy đủ. Hơn nữa, do quan niệm về tiêu chí của chương
trình phát triển giáo viên tương đổi phong phú, vì thế có nhiều cách xác định mô hình
phát triển nghề nghiệp giáo viên. Bảng dưới đây hệ thống một số mô hình phát triển
nghề nghiệp giáo viên đã được tổng kết từ thực tiễn giáo dục của nhiều quốc gia.
Mô hình hợp tác các tổ chức
Mô hình nhóm nhỏ hoặc riêng lẻ (cá
nhân)
Phát triển nghề nghiệp giáo viên ở Giám sát
trường học
Quan hệ trường phổ thông với
Đánh giá công việc của học sinh
trường cao đẳng, đại học sư phạm
Hợp tác giữa các viện nghiên cứu Hội thảo,semine, cáckhoá học
Mạng trường học
Nghiên cứu trường hợp
Tụ phát triển (giáo viên nghiên cứu để
Mạng giáo viên
Giáo dục từ xa
phát triển)
Phát triển các quan hệ hợp tác
Giáo viên tham gia vào quá trình đổi
mới
Hồ sơ
Nghiên cứu hành vi
Dùng các bài nói của giáo viên
Tập huấn
Bảng tổng hợp trên cho thấy, các mô hình phát triển nghề nghiệp giáo viên
tương đối đa dạng, được phát triển và thực hiện ở nhiều quốc gia để phát huy và hỗ
trợ giáo viên phát triển nghề nghiệp từ khi họ bắt đầu khởi nghiệp đến khi nghỉ hưu.
Điểm chung nhất dễ nhận thấy của các mô hình là tính mục đích của nó.
Mô hình tập huấn
Giáo viên tham dự các lớp tập huấn theo:
(i) nhu cầu của bản thân;
(iì) yêu cầu của tố chức/người quân lí để phát triển năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu mói của hoạt động dạy học và giáo dục.
10
Hoạt động tập huấn cho giáo viên có thể được thực hiện theo những hình thức
khác nhau: tập huấn đại trà, tập huấn cho nhóm giáo viên; tập huấn tập trung hoặc tập
huấn tại cơ sở giáo dục.
Mô hình mạng lưới giáo viên trong hướng dẫn, tư vấn hỗ trợ đồng nghiệp phát
triển nghề nghiệp. Mạng lưới của các giáo viên tạo điều kiện cho các giáo viên xích
lại gần nhau để giải quyết các vấn đề mà họ gặp phải trong công việc, nhờ đó có thể
phát triển được sự nghiệp riêng của mỗi người với tư cách là các cá nhân hay với tư
cách là nhóm giáo viên. Các mạng lưới này có thể được tạo ra một cách tương đổi
không chính thúc thông qua các cuộc họp thường kì giữa các giáo viên; hoặc chính
thúc thông qua việc thiết lập các mổi quan hệ, giao tiếp và hội thoại.
Mặc dù các mô hình có tên gọi khác nhau, nhưng những nội dung cơ bản trong
mô hình phát triển nghề nghiệp liên tục cho giáo viên được xác định tương đổi thổng
nhất. Các nội dung này bao gồm:
(i) xác định nhu cầu phát triển nghề nghiệp liên tục của giáo viên: nhằm xác
định có xuất hiện khoảng cách giữa yêu cầu về vị trí mà giáo viên đang đảm nhận với
khả năng đáp ứng hiện có của giáo viên hay không? Kết quả này cho phép xác nhận
giáo viên đó cần mở rộng, phát triển hay đổi mới cái gì trong năng lực nghề nghiệp
của bản thân.
(ii) Thiết kế mục tiêu, từ đó dựng nội dung để phát triển nghề nghiệp liên tục
cho giáo viên.
(iii) Thực hiện các hoạt động phát triển nghề nghiệp liên tục cho giáo viên:
triển khai các hoạt động đã được hoạch định trong bước (ii).
(iv) Đánh giá và điều chỉnh: Đánh giá quá trình thực hiện các hoạt động theo
mục tiêu đã đề ra để có những điều chỉnh phù hợp.
* Chức năng của phát triển nghề nghiệp giáo viên
Chức năng của phát triển nghề nghiệp giáo viên là mở rộng, đổi mới và phát
triển năng lực nghề nghiệp cho giáo viên. Phát triển nghề nghiệp giáo viên mang lại
11
những thay đổi cho hệ thống giáo dục (ở cả cấp độ vi mô và vĩ mô) và cho cá nhân
mỗi giáo viên. Phát triển nghề nghiệp giáo viên có những đặc điểm chính sau:
Phát triển nghề nghiệp giáo viên dựa trên xu hướng tạo dựng thay vì dựa trên
mô hình chuyển giao.
Phát triển nghề nghiệp giáo viên là một quá trình lâu dài.
Phát triển nghề nghiệp giáo viên đuợc thực hiện với những nội dung cụ thể.
Phát triển nghề nghiệp giáo viên liên quan mật thiết với những thay đổi, cải
cách trường học.
Phát triển nghề nghiệp giáo viên có vai trò giúp giáo viên trong việc xây dụng
những lí thuyết và thực tiễn sư phạm, giúp họ phát triển sự thành thạo trong nghề.
Phát triển nghề nghiệp giáo viên là một quá trình cộng tác.
Phát triển nghề nghiệp giáo viên được thực hiện và thể hiện rất đa dạng và có
thể rất khác biệt ở những bổi cánh khác nhau.
Không một giáo viên nào có thể tự khẳng định mình là người đã hiểu biết tất cả
và luôn thành công trong hoạt động nghề nghiệp. Nói cách khác, ngay cả những giáo
viên giỏi, trong nhiều trường hợp, vẫn cần đến sự trợ giúp từ những người khác để
hoàn thành các nhiệm vụ đuợc phân công trong lao động nghề nghiệp tại cơ sở giáo
dục.
Mọi giáo viên đều phải đóng vai là một người hướng dẫn đối với đồng nghiệp,
đồng thời họ được trợ giúp từ chính vai trò mà họ đảm nhiệm để phát triển nghề
nghiệp của bản thân. Hướng dẫn có vai trò quan trọng trong phát triển nghề nghiệp
của mọi giáo viên, nhất là đổi với các giáo viên còn ít kinh nghiệm nghề nghiệp.
Cán bộ quản lí trường học, các giáo viên có kinh nghiệm thưởng là những
người đóng vai trò hướng dẫn đồng nghiệp. Ở đây, những vấn đề về giảng dạy cũng
như về chuyên môn đuợc thực hiện theo kĩ thuật chung của hoạt động hướng dẫn và
đem lại hiệu quả đáng kể cho sự phát triển nghề nghiệp của các đổi tượng được
hướng dẫn.
12
Hướng dẫn đồng nghiệp trong phát triển nghề nghiệp là một trong các mô hình
phát triển nghề nghiệp giáo viên ở trường học. Sự tham gia nhiệt tình của giáo viên
vào mô hình này là một trong những yếu tố đảm bảo sự thành công của mô hình tại
từng nhà trường. Căn cứ vào nội dung của phát triển nghề nghiệp giáo viên, có thể
khái quát những lĩnh vục hướng dẫn chính trong phát triển nghề nghiệp giáo viên như
sau:
Hướng dẫn đồng nghiệp về chuyên môn:
Mọi giáo viên, trong thời gian học nghề ở trường sư phạm, đều được đào tạo
theo một chuyên môn xác định. Đó là ngành học mà họ theo đuổi và sau đó thực hiện
lao động nghề nghiệp (dạy học) theo ngành học này ở cơ sở giáo dục. Ngành học của
người giáo viên ở trường sư phạm là khoa học mà dựa vào đó, người ta xây dựng nên
môn học trong chương trình giáo dục ở các cơ sở giáo dục phổ thông.
Một số giáo viên thụ hưởng và có trinh độ học vấn cao hơn so với chuẩn đào
tạo đã quy định. Các giáo viên này có trình độ thạc sĩ hoặc tiến sĩ. Ở trình độ này, họ
được đào tạo theo những chuyên ngành của ngành đào tạo mà họ đã có ở trình độ cử
nhân cao đẳng hoặc đại học.
Như vậy, ngành hoặc chuyên ngành được đào tạo của giáo viên ở trường sư
phạm thuộc phạm trù chuyên mòn đổi với nghề nghiệp giáo viên. Những gì còn lai,
liên quan đến việc đảm bảo kết quả hoạt động dạy học và giáo dục của giáo viên ở cơ
sở giáo dục được gọi là nghiệp vụ của nghề nghiệp giáo viên.
Xét về lĩnh vục chuyên môn, theo quan niệm thông thưởng học 10 dạy 1, các
trường sư phạm đảm bảo trang bị chuyên môn để người giáo viên có thể thực thi tốt
chương trình môn học tương ứng ở các cơ sở giáo dục phổ thông.
Chương trình giáo dục ở các cơ sở giáo dục bao gồm các môn học và các hoạt
động giáo dục nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục của từng cấp học cụ thể. Học sinh ở
các cơ sở giáo dục phổ thông tham gia các hoạt động giáo dục và nghiên cứu/học các
môn học (theo kĩ thuật thiết kế chương trình giáo dục hiện nay ở nước ta). Môn học
thuộc chương trình giáo dục ở cơ sở giáo dục phổ thông đuợc xây dựng trên cơ sở
13
của một khoa học tương ứng. Như vậy, học sinh học môn học chú không học khoa
học. Trong khi đó, trong quá trình đào tạo của giáo viên ở trường sư phạm, hoạt động
học tập của họ có tính chất nghiên cứu và tiếp cận với khoa học (ngành/chuyên ngành
khoa học họ đựợc đào tạo).
Hướng dẫn đồng nghiệp có thể được thực hiện trực tiếp, gián tiếp, hướng dẫn chung
hoặc hướng dẫn cá nhân. Mọi hình thức hướng dẫn đều có điểm mạnh và những hạn
chế nhất định. Việc lựa chọn hình thức hướng dẫn đôi khi không phụ thuộc vào người
hướng dẫn.
Để hướng dẫn đồng nghiệp thành công, bạn cần có thông tin về họ. Phương
tiện để bạn có được những thông tin này là các công cụ như: các trắc nghiệm, phiếu
điều tra, bảng kiểm, hướng dẫn phỏng vấn và sơ đồ quan sát... Các công cụ này phải
được phát triển và kiểm tra hiệu lực. Căn cứ mục đích thu thập thông tin về đối tương
cần hướng dẫn, bạn lựa chọn và sử dụng các công cụ để thu thập thông tin cần thiết
bằng các phương pháp như:
Phỏng vấn nhóm và phỏng vấn từng cá nhân; Quan sát theo nhóm và quan sát
cá nhân;Ghi chép.
Dữ liệu có đuợc bằng việc sử dụng công cụ bạn đã lựa chọn cần được xử lí.
Việc xử lí dữ liệu có thể thực hiện đơn giản bằng tính toán thú công nhưng cũng có
thể thực hiện trên máy vĩ tính đổi với những phân tích phức tạp hơn.
3. Yêu cầu đối với người hướng dẫn đồng nghiệp và phương pháp lập kế
hoạch hướng dẫn đồng nghiệp.
3.1. Yêu cầu đối với người hướng dẫn đồng nghiệp
Người hướng dẫn đồng nghiệp phát triển nghề nghiệp giáo viên phải là người
tôn trọng sở thích và tin tưởng vào khả năng của đồng nghiệp; có uy tín trong nghề
nghiệp và khả năng tạo đuợc sự tin tưởng của đồng nghiệp. Hiểu được nguyện vọng
của đồng nghiệp, mức độ thực hiện các hoạt động nghề nghiệp của đồng nghiệp (biết
đuợc đồng nghiệp làm gì, làm như thế nào trong dạy học và giáo dục học sinh); thực
hiện hướng dẫn đồng nghiệp dụa trên cái đồng nghiệp cần. có thái độ thông cảm, có
14
kĩ năng động viên, thúc đẩy đồng nghiệp; biết đưa ra nhiều lựa chọn để đồng nghiệp
quyết định và làm cho đồng nghiệp biết họ phải làm gì để hoạt động nghề nghiệp của
họ tốt hơn so với hiện tại.
Mặc dù là người có nhiều kinh nghiệm nghề nghiệp, tuy nhiên, người hướng
dẫn đồng nghiệp không phải là một nhà thông thái, vì vậy, bạn cần biết giới hạn của
mình trong hướng dẫn đồng nghiệp. Nếu giới hạn của bạn là hướng dẫn về chuyên
môn, nghiệp vụ cho đồng nghiệp thì hãy dùng lại ở phạm vi đó, đừng lan man sang
lĩnh vực khác mà bạn không quen.
3.2. Phương pháp lập kế hoạch hướng dẫn đồng nghiệp.
Lập kế hoạch hướng dẫn đồng nghiệp là quá trình chuẩn bị cho những thay đổi
trong hoạt động nghề nghiệp của đồng nghiệp bằng việc ấn định trước các phuơng án
hoạt động của đồng nghiệp hoặc của người hướng dẫn và đồng nghiệp trong tương
lai.
Lập kế hoạch hướng dẫn đồng nghiệp là một quá trình, bao gồm các giai đoạn
(lập kế hoạch, thực hiện, đánh giá và điều chỉnh kế hoạch) và những bước đi cụ thể
trong từng giai đoạn.
Giai đoạn lập kế hoạch tạo ra sản phẩm là những vân bản kế hoạch để người
hướng dẫn có thể triển khai trong thực tiễn. Văn bản kế hoạch hướng dẫn đồng
nghiệp giúp người hướng dẫn có được những thông tin cần thiết về:
Vấn đề cần ưu tiên trong hướng dẫn đồng nghiệp là gì?
Giải quyết vấn đề đó nhằm đạt đến mục tiêu gì? Khi nào thì đạt được?
Những hoạt động nào cần triển khai để có thể hướng dẫn được đồng nghiệp?
Những nguồn lực nào cần khai thác để thực hiện được các hoat động nói trên?
V. Tự đánh giá: Bản thân tiếp thu và vận dụng được 90% so với yêu cầu kế hoạch
đặt ra.
Câu 5: Theo bạn thế nào là học sinh cá biệt? Để giáo dục học sinh cá biệt tiến bộ,
người giáo viên cần phải làm gì?
Trước tiên, chúng ta hiểu học sinh cá biệt là gì?
15
Học sinh cá biệt (HSCB) chỉ những học sinh hoang nghịch thường gây gỗ đánh
nhau, bỏ giờ, trốn học, không chấp hành nội qui nhà trường … thêm vào đó là sự lôi
kéo của bạn bè về phía mình nhằm thỏa mãn cá tính hoặc thỏa mản nhu cầu giải tỏa
tâm lý bị ức chế về hoàn cảnh của bản thân mình. Đó là hiện tượng tâm lý ở lứa tuổi
thanh thiếu niên, nó dễ bị lôi cuốn làm cho học sinh dễ bị tiêm nhiễm những thói hư
tật xấu dẫn đến tình trạng bỏ học giữa chừng và có nguy cơ phạm tội là nỗi day dứt
của nhà trường, gia đình và xã hội.
Rất nhiều yếu tố làm cho HS trở thành HSCB, nhưng chúng ta chỉ đề cập đến một số
nguyên nhân tác động trực tiếp đến HS, làm nảy sinh những tư tưởng, tình cảm không
lành mạnh làm ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách và làm hạn chế đến năng lực
học tập của các em.
Xã hội phát triển theo cơ chế thị trường nó kéo theo một bộ phận không lành mạnh
khác như dịch vụ giải trí không lành mạnh, phim ảnh bạo lực, tình cảm lứa đôi quá
mức. Hiện nay, do sự quản lí không chặt chẽ của nhà nước, các dịch vụ bi a, internet,
karaoke … được tổ chức gần trường học, lôi cuốn, hấp dẫn các em vào các trò chơi
vô bổ. Các em lao vào các trò chơi đó dẫn đến bỏ giờ trốn học và những vi phạm
khác. Đồng thời các kênh truyền hình chiếu một số bộ phim có mang những hình ảnh
bạo lực làm cho các em dễ dàng bắt chước. Ngoài ra những tụ điểm ăn chơi hàng
ngày nhan nhản, làm cho các em không tự chủ, tham gia không có ý thức dần dần
tiêm nhiễm và trở thành HS hư.
Thời gian HS học tập, sinh hoạt ở trường đều có sự quản lí hướng dẫn của GVCN,
GVBM, cán bộ lớp, nhà trường, đó là điều kiện để các em học tập tốt và rèn luyện
nhân cách. Nhưng phần lớn thời gian các em sinh hoạt là ở gia đình: tự học, lao động,
vui chơi. Với thời gian đó đối với hầu hết HS đều có thời khóa biểu học tập ở nhà, ý
thức được việc học tập ở nhà là thời gian giúp các em ghi nhớ lại bài cũ, luyện tập và
nghiên cứu bài mới, chuẩn bị cho ngày học hôm sau, đồng thời tham gia giúp đỡ công
việc gia đình. Đó là những HS thực sự tự giác trong học tập và được sự quản lí giáo
dục của gia đình. Nếu các em chưa ý thức được việc học tập, đồng thời gia đình
không quan tâm và không tạo điều kiện thì việc học tập của các em không đến nơi
đến chốn, chất lượng bị ảnh hưởng, các em học tập yếu, thua bạn bè dẫn đến chán
học, bỏ học.
Một số biện pháp nhằm giáo dục HSCB
Giáo dục HS thông qua giờ sinh hoạt trường
Để cho HS nắm bắt được việc đánh giá xếp loại hạnh kiểm (HK) tức là những
chuẩn mực các em đạt được trong quá trình rèn luyện hạnh kiểm của mình, nhà
trường cần phải thông báo cho các em biết được các mức độ xếp loại HK (tốt, khá,
trung bình, yếu). Hiểu được thì các em sẽ tránh được vi phạm mà các em mắc phải,
để rồi các em khỏi phải bị xếp loại HK yếu, khỏi phải liệt vào danh sách HSCB.
Tổ chức cho HS thảo luận nội qui nhà trường và hướng dẫn cho các em thực
hiện nội qui, có chế độ khen chê công bằng, khách quan. Trong buổi chào cờ đầu
tuần, cần phải đánh giá nhận xét chu đáo, nêu gương người tốt, việc tốt để các em noi
theo, hạn chế những vi phạm nội qui lớp học, trường học .
Giáo dục HS thông qua giờ sinh hoạt lớp
Ngoài việc giáo dục HS thông qua giờ sinh hoạt trường, giờ sinh hoạt lớp
(SHL) cũng rất quan trọng trong vấn đề này. Bởi vì thông qua giờ SHL, GVCN, CB
lớp kịp thời uốn nắn những sai trái khuyết điểm của HS khi bị vi phạm, lấy tình cảm
16
bạn bè, lấy nghĩa thầy trò làm cho các em thấy được khuyết điểm của mình. Đồng
thời với sự chân thành của GVCN, HS trong lớp, HS khi vi phạm sẽ sớm nhận ra lỗi
lầm của mình mà sửa chữa.
Trong khi giáo dục các em, GVCN không nên nặng về kiểm điểm, phê bình, mà phải
tìm ra và xác định đúng nguyên nhân đã tác động đến các em làm cho các em mắc sai
lầm, vi phạm, vận dụng những điều khoản trong nội qui, trong qui định xếp loại làm
cho các em thấy được việc vi phạm ở mức độ nào và nêu ra hướng cho các em khắc
phục.
Kết hợp với Hội Phụ huynh (PH) HS
Hội PHHS là cầu nối giữa nhà trường, GVCN với gia đình HS. Tổ chức Hội
ngoài việc giúp nhà trường xây dựng cơ sở vật chất còn góp phần cùng nhà trường
giáo dục HSCB. Thường trực Hội PHHS giúp cho nhà trường, GVCN bằng cách tác
động với PH để giáo dục HS từ chỗ bỏ học, trốn học đến đi học chuyên cần và học
tập nghiêm túc. Mặt khác, TT Hội PHHS đã tác động đến gia đình các em để cha mẹ
các em quan tâm và có trách nhiệm đối với con cái của họ hơn, từ đó sẽ hạn chế được
HS hoang nghịch.
Phối hợp với các Đoàn thể và các lực lượng khác trong xã hội
Hiện nay ở nhiều địa phương đã hình thành các khu dân cư, thôn văn hóa. Đó
là điều kiện tốt để các Đoàn thể cùng với nhà trường, qua đó giáo dục HS. Các Đoàn
thể, chính quyền địa phương giúp cho các thành viên xây dựng gia đình văn hóa, hạn
chế tình trạng cha mẹ bỏ mặc con cái đi làm ăn, những mối bất hòa trong gia đình dần
dần chấm dứt, từ đó cha mẹ sẽ có điều kiện chăm sóc giáo dục con cái tốt hơn.
Phương pháp kết bạn
Thường lứa tuổi HS dễ bị ảnh hưởng những thói hư tật xấu nhưng cũng dễ tiếp
thu những điều hay lẽ phải, dễ hòa mình vào những trò chơi có tính tập thể, tính giáo
dục cao. Do đó GVCN nên phân công một nhóm bạn tốt, cùng hoàn cảnh, cùng sở
thích, uớc mơ để sinh hoạt, học tập với đối tượng này dần dần lôi kéo các em hòa
nhập vào các cuộc chơi bổ ích, từ đó xóa bỏ các mặc cảm là HS hư để rồi cùng với
các thành viên trong lớp xây dựng tập thể vững mạnh.
Mặt khác, thông qua nhóm bạn tốt, GVCN giao cho HSCB thực hiện một số
công việc, tạo những điều kiện để những HS này hoàn thành và động viên khích lệ
các em để các em xóa những tự ti, mặc cảm là HSCB để hòa mình với bạn bè. Ngoài
ra có thể vận động gia đình của nhóm bạn tốt tham gia vào việc giúp đỡ những HS
này bằng cách tạo cho các em tâm lý xem gia đình của bạn như gia đình mình, tạo
điều kiện cho các em cùng tham gia học tập với con em mình để tách dần ra khỏi
nhóm bạn chưa ngoan. Việc làm này cả là một cố gắng trong đó vai trò của GVCN rất
quan trọng và sự tham gia của Hội PHHS là rất cần thiết.
Phương pháp “lạt mềm buộc chặt”
Tuổi mới lớn thì nghịch phá là chuyện khó tránh khỏi. Những biện pháp mạnh
như kỷ luật hay lớn tiếng trách mắng, la rầy HS đôi khi sẽ không có tác dụng bằng sự
mềm mỏng, kiên nhẫn. Ai cũng muốn mình là học sinh ngoan, giỏi nhưng vì lý do về
gia đình, về tâm sinh lý và rất nhiều nguyên nhân khác dẫn đển những hành động tiêu
cực của một vài bạn học sinh. Trước hết, thầy cô nên tìm hiểu rõ nguyên nhân và
dùng sự mềm mỏng để cảm hóa học sinh của mình.
Kết hợp kỷ luật và tình thương
17
Đừng vì một vài biểu hiện nhất thời của học sinh mà gán ghép cho các em cái
tên “học sinh cá biệt”. Bên cạnh đó, thầy cô giáo cũng cần chú ý đến tâm lý lứa tuổi
của các em bởi “giai đoạn cấp 2, cấp 3 là giai đoạn khá nhạy cảm và có những rối
loạn của tuổi dậy thì. Đôi khi những phản ứng nổi loạn là do các em không kiềm chế,
kiểm soát được”.
Cố PGS-TS Văn Như Cương, hiệu trưởng Trường THPT Lương Thế Vinh - Hà
Nội đã từng nói rằng, thầy cô phải uốn nắn, định hướng ngay khi các em mắc những
lỗi nhỏ để tránh dẫn đến việc xảy ra chuyện lớn rồi buộc lòng phải dùng biện pháp kỷ
luật học sinh.
PGS Văn Như Cương chia sẻ: “Kỷ luật là một hình thức giáo dục, không chỉ giáo dục
học sinh vi phạm mà còn răn đe các em khác nữa. Tuy nhiên, kỷ luật là hình thức
giáo dục cuối cùng bắt buộc phải dùng đến”.
Giáo dục là một hoạt động đặc biệt bởi sản phẩm tạo ra là con người. Vì vậy vẫn nên
dùng đến kỷ luật nhưng là kỷ luật kết hợp với tình yêu thương. Có như vậy thì người
thầy mới không khắc những vết thương lên tinh thần của người học trò về sau này.
Đừng làm các em học sinh rơi vào trạng thái thấy mình là kẻ cá biệt và cô độc trong
lớp rồi nảy sinh những phản ứng tiêu cực như sợ hãi, tự ti. Mục đích của việc làm này
là“giơ cao đánh khẽ” và với mong muốn giúp học sinh có kỷ luật tốt hơn. Đây có
phải là cách tốt nhất để răn đe, giáo dục học sinh khi vi phạm, nhất là học sinh đang
trong độ tuổi hình thành phát triển tâm lý.
Phần lớn ngày nay, thời gian của các em học sinh ở trường nhiều hơn ở nhà. Trong
trường, có thầy cô giáo dạy dỗ còn về nhà thì cha mẹ lo đi làm nên sẽ không thể dành
thời gian nhiều để bảo ban các em.
Vậy liệu khi đuổi học, có phải là gián tiếp đưa học sinh ra ngoài xã hội
nhiều cạm bẫy, đẩy học sinh đến gần với những tệ nạn xã hội này không?Trong
khi có nhiều cách có thể xử lý được như cảnh cáo trước toàn trường, đưa học sinh đó
vào một nhóm giáo dục đặc biệt tại trường.
Thực tế, đây không phải là cách xử lý mới khi học sinh vi phạm. Cách này đã được
hình thành từ lâu trong hệ thống giáo dục của nước ta. Nhiều quan điểm ủng hộ cho
rằng đây là cách để đe dọa các học sinh này tái phạm, nhưng liệu nó có mang phản
ứng ngược. Cấp 2 và cấp 3 là độ tuổi nhạy cảm, việc đuổi học này thực tế chỉ răn đe
được một ít, số còn lại mang tâm lý bất cần sau khi bị đuổi học. Và khả năng các em
dễ tiếp cận với các thành phần xấu trong xã hội là rất cao.
Chắc hẳn chúng ta ai cũng nhớ hai câu thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Hiền
dữ phải đâu là tính sẵn / Phần nhiều do giáo dục mà nên”. Chính vì vậy, mỗi khi dùng
biện pháp mạnh với học sinh phạm khuyết điểm, những người có trách nhiệm nên cân
nhắc hết sức kỹ lưỡng.
Quan điểm của Bộ là không đuổi học học sinh
Ứng xử trước việc học sinh đánh nhau, mỗi trường có một cách. Trường thì
thẳng tay đuổi học học sinh trong khi đó có trường chỉ kỷ luật khiển trách, nhắc nhở.
Về vấn đề này, ông Trần Quang Quý, nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo đã nói, quan điểm của Bộ là nhà trường phải giáo dục các cháu nên người. Nhà
trường làm nhiệm vụ giáo dục mà lại quay lưng với học sinh thì sẽ đẩy các cháu ra
ngoài xã hội. Đó là việc làm phi giáo dục. Ở một chừng mực nhất định, nhà trường
nên giáo dục dạy bảo các cháu. Nhưng nếu các cháu đã có hành động đánh nhau dẫn
18
đến hành vi vi phạm pháp luật thì sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. Đến lúc ấy
không thuộc quyền quyết định của ngành giáo dục nữa.
Quan điểm của mỗi trường lại mỗi nơi một khác nên việc xử lý vấn đề này mới
khác nhau. Có những trường điểm, học sinh rất ngoan thì hành động học sinh đánh
nhau sẽ có thể bị đuổi học. Một số trường khác họ lại thấy chuyện học sinh đánh nhau
không quá nặng nên chỉ nhắc nhở cảnh cáo. Cũng có những trường, đuổi học học sinh
không phải chỉ vì học sinh đó đánh nhau mà còn bởi học sinh đó đã từng có nhiều
khuyết điểm trước đó. Tuy nhiên, Bộ vẫn luôn nhắc nhở các trường không nên đẩy
các cháu ra xã hội mà không được giáo dục. Hàng năm Bộ đều có văn bản chỉ đạo
xuống các trường.
Báo cáo kết quả công tác được giao năm học 2016 - 2017.
Trả lời:
- Ôn đội tuyển học sinh giỏi có giải: Nhì, ba, khuyến khích.
- Kết quả công tác giảng dạy môn toán lớp 12C2 và 12C4 cả năm:
Lớp
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
12C2
24.24%
66.67%
9.09%
0%
0%
12C4
3.23%
58.06%
38,71%
0%
0%
- Công tác chủ nhiệm lớp 12C2 năm học 2016- 2017:
*) Bảng kết quả học lực và hạnh kiểm của lớp 12C2 năm học 2016-2017:
*) Học lực:
Xếp loại
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu, Kém
12C2
1(3.03%)
30(90,91%)
2(6.06%)
0(0%)
*) Hạnh kiểm:
Xếp loại
Tốt
Khá
Trung bình
Yếu
12C2
30(90.91%)
3(9.09%)
0(0%)
0(0%)
- Tổng hợp lớp xếp thứ 11/22 toàn trường.
Đông Triều, ngày 20 tháng 5 năm 2018.
Người viết thu hoạch
Phạm Hoàng Bách
19