Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Thực trạng vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội của doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh cà mau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (990.89 KB, 72 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

THÁI THỊ KIM THỦY

THỰC TRẠNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ
BẢO HIỂM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH CÀ MAU

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

THÁI THỊ KIM THỦY

THỰC TRẠNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ
BẢO HIỂM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH CÀ MAU

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. Võ Trí Hảo


TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên Thái Thị Kim Thủy mã số học viên: 7701251000A là học viên lớp
LOP_K25_MBL_CaMau; Khóa K25-2 chuyên ngành Luật kinh tế, Khoa Luật,
Trường Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh, là tác giả của Luận văn thạc sĩ luật học
với đề tài “Thực trạng vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội của doanh nghiệp
trên địa bàn tỉnh Cà Mau” (Sau đây gọi tắt là “Luận văn”).
Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung được trình bày trong Luận văn này là
kết quả nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn
khoa học. Trong Luận văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến, quan điểm khoa học
của một số tác giả. Các thông tin này đều được trích dẫn nguồn cụ thể, chính xác và
có thể kiểm chứng. Các số liệu, thông tin được sử dụng trong Luận văn là hoàn toàn
khách quan và trung thực.

Học viên thực hiện

Thái Thị Kim Thủy


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
PH N MỞ Đ U ........................................................................................................1
Chương 1: Cơ sở lý luận về bảo hiểm xã hội ..........................................................4
1.1. Khái niệm, đặc điểm của bảo hiểm xã hội .......................................................4
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội ........................................................................4

1.1.2. Đặc điểm bảo hiểm xã hội .........................................................................7
1.2. Vai trò của bảo hiểm xã hội ..............................................................................8
1.2.1. Đối với người lao động ..............................................................................8
1.2.2. Đối với người sử dụng lao động ..............................................................10
1.2.3. Đối với xã hội ..........................................................................................10
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng việc thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội .................11
1.3.1. Nhận thức và năng lực của người lao động .............................................11
1.3.2. Nội dung thu Bảo hiểm xã hội bắt buộc ..................................................12
1.3.2.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc ..................................12
1.3.2.2. Phương thức và mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc .......................13
1.3.3. Cơ chế giám sát và chế tài thu nộp bảo hiểm xã hội ...............................20
1.3.3.1. Cơ chế giám sát .................................................................................20
1.3.3.2. Chế tài thu nộp ..................................................................................21
Tiểu kết luận Chương 1 .........................................................................................28
Chương 2: Thực trạng và giải pháp thực thi pháp luật về bảo hiểm xã hội trên
địa bàn tỉnh Cà Mau ...............................................................................................29
2.1. Khái quát các loại hình vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội điển hình trên
phạm vi cả nước.....................................................................................................29
2.2. Ba dạng vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội phổ biến trên địa bàn tỉnh
Cà Mau, nguyên nhân và giải pháp tương ứng......................................................33
2.2.1. Vi phạm về trốn đóng bảo hiểm xã hội. ..................................................33
2.2.1.1. Vụ việc vi phạm ................................................................................35
2.2.1.2. Nguyên nhân .....................................................................................36
2.2.1.3. Giải pháp ...........................................................................................38


2.2.2. Vi phạm về nợ bảo hiểm xã hội ...............................................................43
2.2.2.1. Vụ việc vi phạm ................................................................................43
2.2.2.2. Nguyên nhân .....................................................................................45
2.2.2.3. Giải pháp ...........................................................................................51

2.2.3.Vi phạm về hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần ................................53
2.2.3.1. Vụ việc vi phạm ................................................................................54
2.2.3.2. Nguyên nhân .....................................................................................55
2.2.3.3. Giải pháp ...........................................................................................56
Tiểu kết luận chương 2 ..........................................................................................57
KẾT LUẬN ..............................................................................................................58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT

1.

BHXH

Bảo hiểm xã hội

2.

BHTN

Bảo hiểm thất nghiệp

3.
4.

BHYT
NSDLĐ


Bảo hiểm y tế
Người sử dụng lao động

5.
6.

NLĐ
SDLĐ

Người lao động
Sử dụng lao động


1

PH N MỞ Đ U
1. Lý do chọn đề tài
Để thực hiện được mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” thì không thể thiếu hệ thống chính sách an sinh xã hội mà đặc biệt là chính
sách BHXH đã phát huy vai trò trụ cột góp phần tích cực vào ổn định xã hội, giúp
người dân giảm bớt gánh nặng khi tuổi già, ốm đau, tai nạn, thất nghiệp. Thực hiện tốt
chính sách BHXH góp phần bảo đảm đời sống cho cán bộ, công chức, viên chức, lao
động (gọi tắt NLĐ), giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự
nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc. Chính sách BHXH đã được Đảng và Nhà
nước quan tâm từ ngay sau khi nước ta giành độc lập, góp phần làm nên những thành
công trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Năm 1994, tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa IX đã thông qua Bộ Luật Lao
động, trong đó có một chương quy định về chính sách BHXH bắt buộc, Chính phủ
ban hành Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 kèm theo Điều lệ BHXH đối với
NLĐ theo nguyên tắc có đóng có hưởng, cân đối thu - chi với 5 chế độ: ốm đau, thai

sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất. Đặc biệt, năm 2006,
Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật BHXH và hàng loạt các văn bản hướng dẫn thi
hành. Tuy nhiên, qua nhiều năm thực hiện, Luật BHXH năm 2006 cũng có những
vấn đề cần được điều chỉnh và hoàn thiện. Do đó, ngày 20/11/2014 tại kỳ họp Quốc
hội Khóa XIII kỳ họp thứ 8 thông qua Luật BHXH số 58/2014/QH13 có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/01/2016.
Có thể khẳng định pháp luật BHXH đã được xây dựng tương đối hoàn chỉnh,
đầy đủ và có cơ sở pháp lý cao nhất để triển khai thực hiện trong đời sống xã hội.
Song để pháp luật BHXH có thể phát huy được vai trò và ý nghĩa của nó, thì việc
thực hiện pháp luật về BHXH là khâu quan trọng, không thể thiếu trong giai đoạn
hiện nay.
Tuy nhiên, tình trạng vi phạm pháp luật về BHXH những năm gần đây xảy
ra rất phổ biến và ngày càng trở thành mối quan tâm lớn của xã hội. Thực tế hiện
nay, số lao động tham gia BHXH chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ so với lực lượng lao động
trong xã hội, số lao động chưa tham gia BHXH còn nhiều tập trung chủ yếu ở các
doanh nghiệp. Chủ doanh nghiệp dùng nhiều hình thức khác nhau lách luật để né,
tránh việc đóng BHXH cho NLĐ như: đóng không đủ số lao động, tiền công, tiền
lương tham gia BHXH thấp hơn nhiều so với tiền lương thực tế hoặc nợ BHXH thời


2

gian dài, thậm chí có những đơn vị SDLĐ lạm dụng quỹ BHXH, lạm dụng tiền
đóng BHXH của NLĐ để làm vốn sản xuất kinh doanh.
Tính đến hết năm 2016, hiện cả nước có gần 300.000 doanh nghiệp đang
hoạt động nhưng chỉ có 150.000 doanh nghiệp tham gia BHXH, số doanh nghiệp
trốn đóng là 150.000 doanh nghiệp với trên 5 triệu lao động. Nhiều doanh nghiệp
có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nhưng không tồn tại, hoặc có quy mô quá
nhỏ. Số nợ BHXH, BHYT, BHTN là 7.580 tỷ đồng chiếm 3,30% so với tổng số
phải thu1… Có thể thấy, việc tuân thủ pháp luật về BHXH của nhiều đơn vị SDLĐ

chưa nghiêm, mà biểu hiện là tình trạng trốn đóng BHXH, nợ đọng BHXH vẫn
đang xảy ra ở tất cả các địa phương.
Tại Cà Mau, tình hình này cũng không khá hơn, theo số liệu của Sở Kế
hoạch – Đầu tư, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội cung cấp năm 2016 tỉnh Cà
Mau có trên 4.000 doanh nghiệp đang hoạt động với khoảng 74.000 lao động nhưng
số doanh nghiệp tham gia BHXH chỉ có 502 doanh nghiệp, đóng BHXH, BHYT
cho 25.072 lao động. Tổng số tiền nợ BHXH của khối doanh nghiệp là 35,25 tỷ
đồng, chiếm tỷ lệ 11,16% so với số phải thu của khối doanh nghiệp, chiếm tỷ lệ
2,34% so với tổng số thu. Trong đó, loại hình doanh nghiệp ngoài nhà nước nợ
nhiều nhất, tập trung ở ngành chế biến thủy sản và xây dựng2
Từ những bất cập nêu trên, việc nghiên cứu đề tài “Thực trạng vi phạm
pháp luật về bảo hiểm xã hội của doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Cà Mau” là
một đòi hỏi cấp bách, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết thực, góp phần bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người tham gia và thụ hưởng chính sách
BHXH, thúc đẩy NLĐ tích cực làm việc, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và ổn
định chính trị của tỉnh.
2. Vấn đề cần nghiên cứu
Phân tích làm rõ việc vi phạm pháp luật về BHXH của doanh nghiệp trên
địa bàn tỉnh Cà Mau? Có những vướng mắc bất cập? Từ đó đề xuất giải pháp.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là việc tham gia BHXH của doanh nghiệp.
Nội dung cụ thể sẽ nghiên cứu bao gồm các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện
pháp luật BHXH, chế tài áp dụng đối với hành vi vi phạm pháp luật BHXH, nguyên
nhân các doanh nghiệp trốn đóng, nợ BHXH.
1
2

Báo cáo kết quả công tác năm 2016 và phương hướng nhiệm vụ năm 2017 của BHXH Việt Nam.
Báo cáo tình hình thu, chi và quản lý Quỹ BHXH năm 2016 của BHXH tỉnh Cà Mau.



3

4. Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng thực thi pháp luật về BHXH của doanh nghiệp trên địa bàn
tỉnh Cà Mau, chỉ ra những mặt tồn tại, yếu kém và nguyên nhân, từ đó đề xuất các giải
pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật BHXH trong thời gian tới.
5. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng tình hình thực thi pháp luật về
BHXH tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh từ năm 2012 đến năm 2016. Đồng
thời, rút ra những mặt tích cực và những mặt còn hạn chế, những vướng mắc trong
việc thực hiện pháp luật BHXH và đề xuất một số biện pháp hạn chế vi phạm của
doanh nghiệp đối với chính sách BHXH không để thất thoát, thiệt thòi cho NLĐ.
6. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu, Luận văn sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng
hợp, thống kê, so sánh để đánh giá và làm sáng tỏ nội dung của đề tài.
ngh a và khả n ng ứng dụng
Luận văn góp phần làm hoàn thiện thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn
thực thi pháp luật BHXH của doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay. Những quan
điểm, giải pháp của Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc thực thi pháp
luật BHXH của doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Cà Mau.
7.


4

Chương 1: Cơ sở lý luận về bảo hiểm xã hội
1.1. Khái niệm, đặc điểm của bảo hiểm xã hội
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội
Để phục vụ cho cuộc sống hàng ngày, con người phải lao động để tạo ra của

cải vật chất nhằm thỏa mãn các nhu cầu cơ bản, thiết yếu của bản thân. Tuy nhiên,
trong cuộc sống không phải lúc nào cũng thuận lợi, song song với đó đôi khi con
người cũng gặp không ít khó khăn, chẳng hạn như bất ngờ bị ốm đau, bị tai nạn…
từ đó sẽ ảnh hưởng đến việc không còn khả năng để phục vụ cho ăn, ở, đi, lại, học
hành. Mà còn có thể xuất hiện một số nhu cầu mới như ốm đau thì cần khám chữa
bệnh, tai nạn thì phải có người chăm sóc… Vì vậy, trước những khó khăn, rủi ro
trong cuộc sống, con người đã tự khắc phục, đồng thời, còn được sự san sẻ, đùm
bọc, cưu mang của cộng đồng. Sự tương trợ dần dần được mở rộng và phát triển
dưới nhiều hình thức khác nhau.
Trong quá trình phát triển xã hội, đặc biệt là từ sau cuộc cách mạng công
nghiệp hóa, đội ngũ người làm công ăn lương tăng lên, cuộc sống của họ phụ thuộc
chủ yếu vào thu nhập do lao động làm thuê đem lại. Sự hẫng hụt về tiền lương trong
các trường hợp bị ốm đau, tai nạn, rủi ro, bị mất việc làm hoặc khi về già… đã trở
thành mối đe dọa đối với cuộc sống bình thường của những người không có nguồn
thu nhập nào khác ngoài tiền lương.
Sự bắt buộc phải đối mặt với những nhu cầu thiết yếu hằng ngày đã buộc
những người làm công ăn lương tìm cách để khắc phục bằng những hành động
tương thân, tương ái (lập các quỹ tương tế, các hội đoàn…); đồng thời, đòi hỏi giới
chủ và Nhà nước phải có trợ giúp bảo đảm cuộc sống cho họ.
Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của NLĐ được
dàn trải, chia sẻ, phân tán, cuộc sống của NLĐ và gia đình họ được đảm bảo ổn
định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra
bình thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ
tập trung được thiết lập ngày càng lớn và nhanh chóng. Khả năng giải quyết các
phát sinh lớn của quỹ ngày càng đảm bảo. Đó chính là nguồn gốc sự ra đời của
BHXH.
Bảo hiểm xã hội ra đời nhằm ổn định cuộc sống của NLĐ, trợ giúp NLĐ khi
gặp rủi ro về sức khỏe, tai nạn lao động, mất việc làm… góp phần đảm bảo an toàn
xã hội. Khi NLĐ bị giảm thu nhập thì BHXH thực hiện bù đắp cho khoản thu nhập



5

bị thiếu hụt này. Tất nhiên, sự bù đắp này chỉ có tính tương đối và tùy điều kiện
kinh tế – xã hội của mỗi nước và khả năng của quỹ BHXH trong mỗi giai đoạn phát
triển. Khi NLĐ bị mất thu nhập do không thể lao động được hoặc sức lao động
không được sử dụng (trường hợp thất nghiệp), BHXH thực hiện trả trợ cấp BHXH
thay cho phần thu nhập bị mất này. Khoản thu nhập thay thế này cũng tùy theo điều
kiện kinh tế – xã hội và khả năng của quỹ BHXH mà có thể thay thế toàn bộ hoặc
một phần.
Vậy để đạt được mục đích trên, BHXH được tổ chức thực hiện như thế nào?
Lịch sử phát triển BHXH đã chỉ ra rằng, có một số cách thức tổ chức thực hiện để bù
đắp hoặc thay thể thu nhập cho NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập từ nghề nghiệp,
như: NLĐ cùng giúp nhau; Nhà nước thực hiện thông qua ngân sách và hình thành một
quỹ tài chính độc lập thông qua sự đóng góp của các bên tham gia BHXH (bao gồm
NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước)…Trong BHXH hiện đại, hình thức thực hiện chủ yếu là
hình thành quỹ BHXH do các bên đóng góp. Từ cách tiếp cận này, có thể hiểu BHXH
như sau:
Thực chất BHXH là sự tổ chức “đền bù” hậu quả của những “rủi ro xã hội”. Sự
đền bù này được thực hiện thông qua quá trình tổ chức và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung
hình thành do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH và các nguồn thu hợp pháp
khác của quỹ BHXH. Như vậy, BHXH cũng là quá trình phân phối lại thu nhập. Xét
trên phạm vi toàn xã hội, BHXH là một bộ phận của GDP, được xã hội phân phối lại
cho những thành viên khi phát sinh nhu cầu BHXH như ốm đau, sinh đẻ, tai nạn lao
động và bệnh nghề nghiệp, già yếu, chết… Xét trong nội tại BHXH, sự phân phối của
BHXH được thực hiện cả theo chiều dọc và chiều ngang. Phân phối theo chiều ngang
là sự phân phối của chính bản thân NLĐ theo thời gian (nghĩa là sự phân phối lại thu
nhập của quá trình làm việc và quá trình không làm việc). Phân phối theo chiều dọc là
sự phân phối giữa những người khỏe mạnh cho người ốm đau, bệnh tật; giữa những
người trẻ cho người già; giữa những người không sinh đẻ (nam giới) và người sinh đẻ

(nữ giới); giữa những người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp…
Qua đây có thể thấy, BHXH góp phần thực hiện mục tiêu bảo đảm an toàn kinh
tế cho NLĐ và gia đình họ. BHXH là quá trình tổ chức sử dụng thu nhập cá nhân và
tổng sản phẩm trong nước để thỏa mãn nhu cầu an toàn kinh tế của NLĐ và an toàn xã
hội. Vì vậy, BHXH mang cả bản chất kinh tế và cả bản chất xã hội. Về mặt kinh tế,
nhờ sự tổ chức phân phối lại thu nhập, đời sống của NLĐ và gia đình họ luôn được bảo
đảm trước những bất trắc, rủi ro xã hội. Về mặt xã hội, do có sự “san sẻ rủi ro” của


6

BHXH, NLĐ chỉ phải đóng góp một khoản nhỏ trong thu nhập của mình cho quỹ
BHXH, nhưng xã hội sẽ có một lượng vật chất đủ lớn trang trải những rủi ro xảy ra.Ở
đây, BHXH đã thực hiện nguyên tắc “lấy của số đông bù cho số ít”.
Tuy nhiên, tính kinh tế và tính xã hội của BHXH không tách rời mà đan xen lẫn
nhau. Khi nói đến sự bảo đảm kinh tế cho NLĐ và gia đình họ là đã nói đến tính xã hội
của BHXH, ngược lại, khi nói tới sự đóng góp ít nhưng lại đủ trang trải mọi rủi ro xã
hội thì cũng đã đề cập đến tính kinh tế của BHXH.
Mặc dù, đã có quá trình phát triển lâu dài, nhưng do tính chất phức tạp và đa
dạng của BHXH nên đến nay khái niệm BHXH được thể hiện ở các góc độ khác nhau,
cụ thể:
Dưới góc độ kinh tế, BHXH là sự bảo đảm thu nhập, bảo đảm cuộc sống cho
NLĐ khi họ bị giảm hay mất khả năng lao động. Có nghĩa là tạo ra một khoản thu nhập
thay thế cho NLĐ khi họ gặp phải các rủi ro thuộc phạm vi BHXH.
Dưới góc độ chính trị, BHXH góp phần liên kết giữa những NLĐ xuất phát từ
lợi ích chung của họ.
Dưới góc độ xã hội, BHXH được hiểu như là một chính sách xã hội nhằm đảm
bảo đời sống cho NLĐ khi thu nhập của họ bị giảm hay mất. Thông qua đó bảo vệ và
phát triển lực lượng lao động xã hội, lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, ổn
định trật tự xã hội.

Thật vậy, dù ở góc độ nào, bản chất của BHXH chính là sự đảm bảo bù đắp một
phần hoặc thay thế thu nhập của NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, hết tuổi lao động hoặc chết
trên cơ sở NLĐ và NSDLĐ đóng góp vào quỹ BHXH do Nhà nước tổ chức thực hiện.
Theo phương thức đó, NLĐ phải có đóng góp vào quỹ BHXH mới được quyền lợi
BHXH. Còn mối quan hệ giữa mức đóng và quyền lợi được hưởng lại chịu sự ràng
buộc của các nguyên tắc: nguyên tắc đoàn kết, tương trợ chia sẻ rủi ro (chế độ ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp...) nguyên tắc tương quan giữa đóng và
hưởng có sự can thiệp nhờ cách thức phân phối lại mang tính xã hội (chế độ hưu trí, tử
tuất).
Theo quy định của Luật BHXH thì BHXH được định nghĩa như sau: “BHXH là
sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất


7

thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi
lao động hoặc chết trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH”3
1.1.2. Đặc điểm bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội ra đời, tồn tại và phát triển như một nhu cầu khách quan. Nền
kinh tế hàng hóa càng phát triển, việc thuê mướn lao động trở nên phổ biến thì càng
đòi hỏi sự phát triển và đa dạng của BHXH. BHXH được hình thành trên cơ sở
quan hệ lao động, giữa các bên cùng tham gia và được hưởng BHXH. Nhà nước
ban hành các chế độ, chính sách BHXH, tổ chức ra cơ quan chuyên trách, thực hiện
nhiệm vụ quản lý hoạt động BHXH. Chủ SDLĐ và NLĐ có trách nhiệm đóng góp
để hình thành quỹ BHXH. NLĐ và gia đình của họ được cung cấp tài chính từ quỹ
BHXH khi họ có đủ điều kiện theo chế độ BHXH quy định. Đó chính là mối quan
hệ của bên tham gia BHXH.
Từ mối quan hệ về BHXH nếu xem xét một cách toàn diện thì BHXH có
những đặc điểm cơ bản sau:

- Thứ nhất, BHXH là hoạt động dịch vụ công, mang tính xã hội cao lấy hiệu
quả xã hội làm mục tiêu hoạt động. Hoạt động BHXH là quá trình tổ chức, triển
khai thực hiện các chế độ, chính sách BHXH của tổ chức quản lý BHXH đối với
NLĐ tham gia và hưởng các chế độ BHXH.
- Thứ hai, BHXH là một loại hàng hóa công cộng đặc biệt mang tính bắt buộc
do Nhà nước cung cấp, nên việc tham gia BHXH về nguyên tắc là bắt buộc đối với
mọi NLĐ do Nhà nước quản lý và cung cấp dịch vụ. Cơ chế hoạt động của BHXH
theo cơ chế 3 bên: cơ quan BHXH - NSDLĐ - NLĐ, cộng thêm cơ chế quản lý Nhà
nước. BHXH bắt buộc do Nhà nước đứng ra làm.
- Thứ ba, NLĐ được hưởng trợ cấp BHXH trên cơ sở mức đóng và thời gian
đóng BHXH, có chia sẻ rủi ro và thừa kế. Thông thường, mức đóng góp và mức
hưởng trợ cấp đều có mối liên hệ đến thu nhập (tiền lương, tiền công) của NLĐ.
Điều này thể hiện tính công bằng xã hội gắn liền giữa quyền lợi và nghĩa vụ của
NLĐ.
Tóm lại, BHXH là những chính sách, chế độ do Nhà nước quy định để đảm
bảo quyền lợi vật chất cho người tham gia BHXH dựa trên quan hệ cung - cầu trên
thị trường. BHXH là một loại hàng hóa công cộng đặc biệt mang tính bắt buộc do
3

Điều 3 Luật BHXH số 58/2014/QH3 ngày 20/11/2014 có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2016 (thay thế Luật
BHXH số 71/2006/QH11)


8

Nhà nước quản lý và cung cấp, hoạt động theo nguyên tắc lấy số đông bù số ít, chia
sẻ rủi ro, quỹ BHXH độc lập với ngân sách Nhà nước, quản lý tập trung thống nhất.

1.2. Vai trò của bảo hiểm xã hội
1.2.1. Đối với người lao động

Trước hết, thực hiện chính sách BHXH nhằm ổn định cuộc sống NLĐ, trợ
giúp NLĐ khi gặp rủi ro. Vì ở bất kỳ hoàn cảnh nào, thời điểm nào rủi ro cũng có
thể xảy ra. Rủi ro phát sinh hoàn toàn ngẫu nhiên bất ngờ và không lường trước
được. Để phòng ngừa và hạn chế những tác động tiêu cực của rủi ro, quỹ BHXH sẽ
góp phần trợ giúp NLĐ và gia đình họ bằng cách bù đắp hoặc thay thế một phần thu
nhập bị giảm hoặc mất do: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp,
thất nghiệp... sớm trở lại trạng thái sức khỏe ban đầu cũng như sớm có việc làm.
Theo phương thức đóng BHXH, NLĐ khi có việc làm sẽ đóng góp một phần
tiền lương, thu nhập vào quỹ dự phòng. Quỹ này hỗ trợ NLĐ khi ốm đau, tai nạn, lúc
sinh đẻ và chăm sóc con cái, khi không làm việc, lúc già cả để duy trì và ổn định cuộc
sống. Do vậy, hoạt động BHXH, một mặt, đòi hỏi tính trách nhiệm cao của từng NLĐ
đối với bản thân mình, với gia đình và đối với cộng đồng, xã hội theo phương châm
“mình vì mọi người, mọi người vì mình” thông qua quyền và nghĩa vụ; mặt khác, thể
hiện sự gắn kết trách nhiệm giữa các thành viên trong xã hội, giữa các thế hệ kế tiếp
nhau trong một quốc gia, tạo thành một khối đoàn kết thống nhất về quyền lợi trong
một thể chế chính trị - xã hội bền vững.
- Thứ hai, thực hiện tốt chính sách BHXH nhất là chế độ hưu trí, góp phần ổn
định cuộc sống của NLĐ khi hết tuổi lao động hoặc không còn khả năng lao động.
Theo quy định của Luật BHXH, NLĐ tham gia đóng BHXH từ 20 năm trở lên
khi hết tuổi lao động hoặc mất sức lao động thì được hưởng lương hưu hoặc trợ cấp
hằng tháng. Với nguồn lương hưu và trợ cấp BHXH, người cao tuổi có thu nhập ổn
định, bảo đảm cuộc sống sinh hoạt hằng ngày. Hiện nay, cả nước đã có gần 3 triệu
người hết tuổi lao động đang hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH hằng tháng với số
tiền chi trả từ quỹ BHXH hàng nghìn tỉ đồng mỗi tháng.
Trong nhiều năm qua, kể từ khi chính sách BHXH được thực hiện, cùng với sự
phát triển kinh tế, mức lương hưu cũng không ngừng được điều chỉnh cho phù hợp với
mức sống chung của toàn xã hội. Vào các thời điểm tăng mức lương cơ sở cũng như
việc xem xét chỉ số giả cả, Nhà nước đều có sự điều chỉnh lương hưu một cách hợp lý.
Mức lương hưu không ngừng được điều chỉnh cho phù hợp với mức sống chung toàn



9

xã hội tại thời điểm hưởng lương hưu đã bảo đảm cuộc sống của người nghỉ hưu, tạo
sự an tâm, tin tưởng của người về hưu sau cả cuộc đời lao động. Tương tự như vậy, các
quyền lợi về chế độ ốm đau, chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; mức trợ cấp
tuất một lần... cũng được cải thiện rõ rệt.
Sở dĩ có được điều kiện nâng cao và mở rộng các quyền lợi của BHXH là do
phương thức tài chính ở nước ta được hình thành theo cách lập quỹ và có sự tính
toán điều chỉnh quan hệ đóng - hưởng trong phạm vi toàn xã hội theo những dự báo
về các yếu tố kinh tế - xã hội trong tương lai. Theo phương thức lập quỹ, NLĐ,
trước hết phải có trách nhiệm với bản thân trong việc đóng góp lập quỹ BHXH,
dành dụm cho mai sau. Mặt khác, với việc lập quỹ BHXH đã gắn kết được trách
nhiệm của các thế hệ kế tiếp trong cùng chính sách BHXH. Vì vậy, nguồn quỹ
BHXH được Nhà nước bảo hộ và phát triển cân đối bền vững sẽ là cơ sở để cải
thiện không ngừng các chế độ BHXH nói chung và đời sống của người nghỉ hưu nói
riêng.
- Thứ ba, thực hiện chính sách BHXH góp phần ổn định và nâng cao chất
lượng lao động, bảo đảm sự bình đẳng về vị thế xã hội của NLĐ trong các thành
phần kinh tế khác nhau, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Chính sách BHXH, hoạt động dựa trên nguyên tắc cơ bản “đóng - hưởng” đã
tạo ra bước đột phá quan trọng về sự bình đẳng của NLĐ. Khi đó, mọi NLĐ làm
việc ở các thành phần kinh tế, các ngành nghề, địa bàn khác nhau, theo các hình
thức khác nhau đều được tham gia thực hiện các chính sách BHXH. Phạm vi đối
tượng tham gia BHXH, không ngừng được mở rộng đã thu hút hàng triệu NLĐ làm
việc trong các thành phần kinh tế khác nhau, khuyến khích họ tự giác thực hiện
nghĩa vụ và quyền lợi BHXH, tạo sự an tâm, tin tưởng và yên tâm lao động, sản
xuất, kinh doanh.
Người lao động tham gia BHXH, khi ốm đau sẽ được khám chữa bệnh và
được quỹ BHYT chi trả phần lớn chi phí; được nhận tiền trợ cấp khi ốm đau không

đi làm được, được nghỉ chăm con ốm; khi thai sản được nghỉ khám thai, được nghỉ
khi sinh đẻ và nuôi con, được nhận trợ cấp khi sinh con và trợ cấp thai sản; khi bị
tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp sẽ được nhận phần trợ cấp do giảm khả
năng lao động do tai nạn, bệnh nghề nghiệp gây ra. Ngoài ra, NLĐ còn được nghỉ
dưỡng sức và phục hồi sức khỏe sau khi ốm đau, sinh đẻ hay điều trị thương tật
nhằm nâng cao thể lực. Khi NLĐ mất việc làm sẽ được hưởng trợ cấp thất nghiệp


10

và được giới thiệu việc làm hoặc gửi đi học nghề để có cơ hội tìm kiếm việc làm
mới.
Với những quyền lợi của NLĐ khi tham gia BHXH, đã góp phần thu hút
nguồn lao động vào nền sản xuất xã hội, giữ gìn và nâng cao thể lực cho NLĐ trong
suốt quá trình lao động, sản xuất. Việc được tham gia BHXH, khi đang làm việc và
được hưởng lương hưu sau này đã tạo ra cho NLĐ sự phấn khởi, tâm lý ổn định, an
tâm vào việc làm mà họ đang thực hiện. Thực tế, nhiều doanh nghiệp, khi tuyên
truyền quảng cáo tuyển dụng lao động, thì tiêu thức được tham gia BHXH, cũng là
một quyền lợi quan trọng thu hút được nhiều lao động.
Sự an tâm của NLĐ cũng như việc bảo vệ sức lao động của họ thông qua
chính sách BHXH, đã trở thành một chính sách thu hút nguồn lao động vào nền sản
xuất xã hội, bảo đảm sự ổn định và thúc đẩy sản xuất phát triển.
1.2.2. Đối với người sử dụng lao động
Bảo hiểm xã hội ra đời góp phần quan trọng trong việc làm cho mối quan hệ
giữa NLĐ và NSDLĐ ngày càng gắn bó. Đây là điều kiện tiền đề để nâng cao năng
suất lao động, thúc đẩy sản xuất phát triển từ đó mang lại nhiều lợi nhuận cho chủ
SDLĐ. Nếu theo nhìn nhận ban đầu, việc đóng góp BHXH cho NLĐ có thể sẽ làm
tăng chi phí sản xuất, giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Nhưng thực chất, về lâu dài,
phương thức BHXH đã chuyển giao trách nhiệm bảo vệ NLĐ khi gặp rủi ro về phía xã
hội, rủi ro được điều tiết trên phạm vi toàn xã hội, giúp cho chủ SDLĐ bớt những khó

khăn, lo lắng về nguồn lao động của doanh nghiệp, yên tâm tổ chức sản xuất, kinh
doanh. Đối với nước ta, nguồn lao động với trình độ chuyên môn cao, NLĐ có mức thu
nhập ở mức bình quân chung toàn xã hội là chủ yếu thì biện pháp điều tiết thu nhập
mang tính cộng đồng là rất cần thiết. Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực chế biến thủy sản, hải sản; da giày; dệt may... sử dụng nhiều lao động,
nhất là doanh nghiệp có nhiều lao động nữ đều rất coi trọng chính sách BHXH để bảo
vệ và duy trì nguồn lao động của doanh nghiệp mình.
1.2.3. Đối với xã hội
Về mặt xã hội, BHXH thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao cả, truyền thống đoàn
kết, tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau, tạo cho những người gặp rủi ro, bất
hạnh, những người già cả, ốm đau có điều kiện cần thiết để khắc phục những khó
khăn gặp phải, để ổn định cuộc sống, hòa nhập cộng đồng, không phân biệt chính
kiến, tôn giáo, dân tộc, giới tính... Phân phối trong bảo hiểm là sự phân phối giữa
những người có thu nhập cao, với những người có thu nhập thấp; giữa những người


11

khỏe mạnh, có việc làm với những người không may khi ốm đau, thất nghiệp; giữa
những người được hưởng trợ cấp với những người chưa được hưởng trợ cấp... Do
có sự “chia sẻ rủi ro” giữa những người tham gia BHXH nên NLĐ chỉ phải đóng
góp một khoản nhỏ trong thu nhập của mình cho quỹ BHXH, nhưng xã hội lại có
một lượng vật chất đủ lớn để trang trải những rủi ro theo nguyên tắc “lấy số đông,
bù số ít”, tức là BHXH thực hiện một phần công bằng và an sinh xã hội.
Bảo hiểm xã hội góp phần nâng cao năng suất lao động xã hội. Nhờ có
BHXH, mối quan hệ giữa NLĐ với NSDLĐ và Nhà nước ngày càng gắn bó. Mối
quan hệ chặt chẽ, ràng buộc, chia sẻ trách nhiệm, chia sẻ rủi ro chỉ có được trong
quan hệ của BHXH. NLĐ tham gia BHXH với vai trò bảo vệ quyền lợi cho chính
mình đồng thời phải có trách nhiệm với cộng đồng và xã hội. NSDLĐ tham gia
BHXH là để chia sẻ rủi ro cho NLĐ nhưng đồng thời cũng bảo vệ, ổn định cuộc

sống cho các thành viên trong xã hội. Mối quan hệ này thể hiện tính nhân văn sâu
sắc của BHXH.

1.3. Các nhân tố ảnh hưởng việc thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội
1.3.1. Nhận thức và n ng lực của người lao động
- Sự thiếu hiểu biết về lợi ích của việc tham gia BHXH của NLĐ. Sự thiếu
hiểu biết này xuất phát từ chính bản thân NLĐ, nhiều lao động phổ thông, tay nghề
kém hoặc không có trình độ chuyên môn chưa được cung cấp đầy đủ thông tin về
quyền lợi của mình, chưa nhận thức được những chế độ chính sách do BHXH mang
lại. Hơn hết, đối với lực lượng lao động trẻ lại không quan tâm, thậm chí đồng tình
với chủ SDLĐ không tham gia BHXH. Điều này cũng đồng nghĩa với công tác
tuyên truyền về BHXH đến các đối tượng chưa được rộng rãi, chưa có được những
thông tin rõ ràng về lợi ích khi tham gia.
- Vẫn còn nhiều NLĐ có quan điểm: đóng BHXH thì dễ, nhưng lấy tiền lại
thì rất khó.
- Có không ít trường hợp thực sự không biết mình có quyền được hưởng
BHXH và tham gia BHXH. Mặt khác, cũng có một bộ phận NLĐ biết quyền và
nghĩa vụ BHXH nhưng lại chưa tin tưởng vào chính sách BHXH, sợ phải bị trích
lương, giảm thu nhập thực tế.
- Nhiều NLĐ còn muốn “tự bảo hiểm” mà không tin tưởng BHXH, nghĩa là
họ tích lũy để đề phòng rủi ro cho bản thân và gia đình mà chưa có tính cộng đồng.


12

- Do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, tình hình sản xuất kinh doanh gặp
khó khăn; thị trường lao động không cân bằng, cung luôn luôn lớn hơn cầu dẫn đến
tình trạng thiếu việc làm. NLĐ vì nhu cầu việc làm, thu nhập trước mắt nên không
thể bày tỏ thái độ phản ứng đối với hành vi vi phạm pháp luật BHXH của NSDLĐ.
Khả năng tìm kiếm việc làm của NLĐ càng hạn chế, càng dễ dàng cho NSDLĐ

không tuân thủ việc đóng BHXH.
1.3.2. Nội dung thu Bảo hiểm xã hội bắt buộc
Theo quy định của pháp luật BHXH, khi tham gia BHXH bắt buộc, các bên
tham gia đều có trách nhiệm đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ BHXH là quỹ tài chính
độc lập với Ngân sách nhà nước được hình thành từ đóng góp của NLĐ, NSDLĐ và
có sự hỗ trợ của Nhà nước, nhằm đảm bảo về tài chính để chi trả các chế độ BHXH
cho NLĐ. Đây là điều kiện đầu tiên để các đối tượng được hưởng chế độ BHXH,
đảm bảo nguyên tắc “có đóng, có hưởng”. Chính vì thế công tác thu BHXH bắt
buộc ngày càng trở thành một khâu quan trọng và quyết định đến sự tồn tại và phát
triển của việc thực hiện các chính sách BHXH. Cơ quan BHXH có trách nhiệm tổ
chức thu và quản lý tiền đóng BHXH bắt buộc của người tham gia theo quy định
của pháp luật.
Công tác thu BHXH bắt buộc là một hoạt động thường xuyên và đa dạng của
ngành BHXH nhằm đảm bảo nguồn quỹ tài chính BHXH đạt được một cách tập
trung thống nhất. Thu quỹ BHXH bắt buộc là hoạt động chính của các cơ quan
BHXH từ Trung ương đến địa phương cùng với sự phối hợp của các sở, ban, ngành,
các cơ quan chức năng trên cơ sở quy định của pháp luật về thực hiện chính sách
BHXH nhằm tạo ra nguồn tài chính tập trung từ việc đóng góp của các bên tham gia
đóng BHXH bắt buộc. Qua đó, tránh được tình trạng nợ BHXH từ các cơ qua, đơn
vị, đối tượng tham gia BHXH bắt buộc. Đồng thời, đảm bảo được sự công bằng
trong việc thực hiện các chính sách BHXH nói chung và những người tham gia
BHXH nói riêng.
1.3.2.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc
Căn cứ Luật bảo hiểm xã hội số 71/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006.
Căn cứ Nghị định số 152/2006/NĐ - CP ngày 22 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ
hướng dẫn một số điều của Luật bảo hiểm xã hội về BHXH bắt buộc; Nghị định số
68/2007/NĐ - CP ngày 19 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn một số điều của Luật bảo hiểm xã hội về BHXH bắt buộc, Quyết định số



13

902/QĐ - BHXH ngày 26/06/2007 của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam. Đối tượng
thu BHXH bắt buộc bao gồm :
* Người lao động
- Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.
- NLĐ làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên và hợp
đồng lao động không xác định thời hạn theo quy định của pháp luật về lao động;
- NLĐ, xã viên, kể cả cán bộ quản lý làm việc và hưởng tiền công theo hợp
đồng lao động từ đủ 3 tháng trở lên trong hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã thành lập,
hoạt động theo Luật Hợp tác xã.
- Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan
nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm
công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân;
- Hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân
dân phục vụ có thời hạn;
- Công nhân quốc phòng, công nhân công an làm việc trong các Doanh
nghiệp (DN) thuộc lực lượng vũ trang;
- NLĐ làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
* Người sử dụng lao động bao gồm các khối sau đây :
- Khối DN nhà nước;
- Khối Hành chính sự nghiệp (HCSN);
- Khối DN Ngoài quốc doanh bao gồm các DN tư nhân và các công ty
Trách nhiệm hữu hạn (TNHH);
- Khối ngoài công lập bao gồm các đơn vị, y tế, nhà văn hóa, trung tâm thể
dục thể thao… hoạt động không dưới sự quản lý của nhà nước;
- Khối phường xã : gồm các Uỷ ban nhân dân (UBND) các xã, phường;
- Khối hợp tác xã.
1.3.2.2. Phương thức và mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc
* Về phương thức thu BHXH bắt buộc

Hàng tháng, chậm nhất vào ngày cuối cùng của tháng, Người sử dụng lao
động (NSDLĐ) đóng BHXH bắt buộc trên quỹ tiền lương, tiền công của những
NLĐ tham gia BHXH; đồng thời trích từ tiền lương, tiền công tháng của từng NLĐ
theo mức quy định để đóng cùng vào tài khoản chuyên thu của cơ quan BHXH mở
tại Ngân hàng hoặc Kho bạc Nhà nước.


14

Hàng tháng, NSDLĐ được giữ lại 2% số phải nộp để chi trả kịp thời 2 chế độ
ốm đau, thai sản cho NLĐ. Hàng quý thực hiện quyết toán với cơ quan BHXH.
NSDLĐ tham gia BHXH bắt buộc đóng trụ sở chính ở địa bàn nào thì đăng ký tham
gia đóng BHXH bắt buộc tại địa bàn đó theo phân cấp của cơ quan BHXH.
NSDLĐ đóng BHXH bắt buộc bằng hình thức chuyển khoản. Trường hợp
NSDLĐ hoặc NLĐ đóng BHXH bắt buộc bằng tiền mặt thì cơ quan BHXH phải
hướng dẫn thủ tục nộp tiền vào tài khoản chuyên thu của cơ quan BHXH. Nếu
NSDLĐ hoặc NLĐ nộp tiền mặt trực tiếp tại cơ quan BHXH thì chậm nhất sau 3
ngày làm việc, cơ quan BHXH phải nộp tiền vào tài khoản chuyên thu mở tại Ngân
hàng hoặc Kho bạc Nhà nước.
NLĐ được cử đi học, thực tập, công tác, nghiên cứu, điều dưỡng ở trong và
ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc sinh hoạt phí ở đơn vị trước khi được cử đi
thì vẫn phải đóng BHXH bắt buộc; NLĐ hợp đồng ở nhiều đơn vị tại một thời điểm thì
chỉ đăng ký đóng BHXH bắt buộc, BHYT theo một hợp đồng lao động.
Số tiền đóng BHXH bắt buộc trong kỳ được tính đủ số tiền BHXH và tiền lãi
do đóng chậm, đóng thiếu (nếu có).
Cơ quan BHXH Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Ban Cơ yếu Chính phủ
đóng BHXH cho NLĐ trực tiếp vào tài khoản chuyên thu của cơ quan BHXH Việt
Nam mở tại Kho bạc Nhà nước trung ương.
Theo Quy định về quản lý thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế bắt buộc ban
hành kèm theo Quyết định số 902/QĐ-BHXH ngày 26/6/2007 của Tổng Giám đốc

Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Các trường hợp không bắt buộc đóng BHXH, BHYT
theo tháng bao gồm:
- NSDLĐ là các DN sản xuất (nuôi, cấy, trồng trọt) thuộc ngành nông
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp thực hiện trả tiền lương, tiền công
cho người lao động theo mùa vụ hoặc theo chu kỳ có thể đóng BHXH, BHYT
theo quý hoặc 6 tháng một lần nhưng phải xuất trình phương án sản xuất hoặc
phương thức trả lương cho NLĐ để cơ quan BHXH có căn cứ giải quyết.
- Hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, cá nhân có thuê mướn trả công cho NLĐ,
sử dụng dưới 10 lao động có thể đóng BHXH, BHYT theo quý nhưng phải đăng ký
và được sự chấp thuận của cơ quan BHXH.
- NLĐ đang tham gia BHXH bắt buộc mà chưa nhận trợ cấp BHXH một lần
trước khi đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo quy định của pháp luật về NLĐ


15

ở Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đóng BHXH theo quý, 6 tháng
hoặc 12 tháng một lần, hoặc có thể đóng trước một lần theo thời hạn hợp đồng.
* Về mức đóng:
Đối với NLĐ thuộc đối tượng thực hiện theo chế độ tiền lương do Nhà nước
quy định:
Tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH bắt buộc là tiền lương theo ngạch,
bậc, cấp bậc quân hàm và các khoản phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt
khung, phụ cấp thâm niên nghề (nếu có). Tiền lương, tiền công của NLĐ được tính
theo mức lương tối thiểu chung tại thời điểm đóng.
Đối với NLĐ đóng BHXH bắt buộc theo chế độ tiền lương do NSDLĐ quy
định thì tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH bắt buộc là mức tiền lương, tiền
công ghi trong hợp đồng lao động nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu
chung tại thời điểm đóng.
Tiền lương, tiền công để tính đóng BHXH của người quản lý DN là chủ sở

hữu, Giám đốc DN tư nhân, thành viên hợp danh công ty hợp danh, Chủ tịch hội
đồng thành viên, Chủ tịch công ty, thành viên hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc,
Phó Tổng giám đốc, Giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng và kiểm soát viên là
mức tiền lương do Điều lệ của Công ty quy định nhưng phải được đăng ký với cơ
quan quản lý nhà nước về lao động tỉnh, thành phố.
Tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của NLĐ trong hợp tác xã là mức
tiền lương, tiền công được Đại hội xã viên thông qua và phải đăng ký với cơ quan
quản lý nhà nước về lao động theo phân cấp quản lý.
Tiền lương, tiền công tháng để đóng BHXH của NLĐ thuộc các hộ kinh
doanh cá thể, tổ hợp tác và cá nhân là mức tiền lương, tiền công do Người sử dụng
lao động (NSDLĐ) quy định nhưng phải đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về
lao động theo phân cấp quản lý
Từ 01/01/2012, mức thu BHXH bắt buộc như sau:
Hằng tháng, NLĐ đóng BHXH với mức đóng bằng 7% mức tiền lương, tiền
công tháng đóng BHXH. NSDLĐ đóng bằng 17% trên quỹ tiền lương, tiền công
tháng đóng BHXH của những NLĐ với các mức cụ thể như sau:
- Đóng 3% vào quỹ ốm đau thai sản; trong đó NSDLĐ giữ lại 2% để chi trả
kịp thời cho NLĐ đủ điều kiện hưởng chế độ và thực hiện quyết toán với cơ quan
BHXH theo quy định.
- Đóng 1% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.


16

- Đóng 13% vào quỹ hưu trí và tử tuất.
Trường hợp mức tiền lương, tiền công tháng làm căn cứ đóng BHXH cao
hơn 20 tháng lương tối thiểu chung thì mức tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH
bằng 20 tháng lương tối thiểu chung.
Căn cứ theo Luật BHXH năm 2014, Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam ban
hành Quyết định 959/QĐ-BHXH quy định mức đóng các như sau:

– Mức đóng BHXH: 26% trong đó người lao động đóng 8% – người sử dụng
lao động đóng 18%
– Mức đóng BHYT: 4,5% trong đó người lao động đóng 1,5% – người sử
dụng lao động đóng 3%
– Mức đóng BHTN: 2% trong đó người lao động đóng 1% – người sử dụng
lao động đóng 1%
– Từ ngày 01/01/2016 mức lương tháng đóng BHXH bao gồm Lương và phụ
cấp lương (nếu có) theo quy định của Bộ luật Lao động.
– Từ ngày 01/01/2018 trở đi, tiền lương đóng BHXH là mức lương, phụ cấp
lương và các khoản bổ sung khác theo quy định của pháp luật lao động.
Quy trình nộp BHXH4 thực hiện như sau:
a. Đối với đơn vị SDLĐ: Trên cơ sở đối tượng phải tham gia BHXH bắt buộc
như:
- Người làm việc theo hợp đồng lao động (hoặc hợp đồng làm việc) không xác
định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ
hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng;
- Người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng
tiền lương;
- Đơn vị thuê mướn, SDLĐ theo hợp đồng lao động.
Lưu ý:
- Từ ngày 01/01/2018: những hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng
đến dưới 03 tháng cũng phải tham gia.
- Những NLĐ làm việc từ 02 nơi trở lên thì: đóng BHXH theo hợp đồng lao
động giao kết đầu tiên.

4

Quyết định 959/QĐ-BHXH ngày 9/9/2015 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam



17

- Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày giao kết hợp đồng lao động hoặc hợp
đồng làm việc hoặc ngày có hiệu lực của quyết định tuyển dụng doanh nghiệp
phải tham bảo hiểm.
Đơn vị SDLĐ lập danh sách đăng ký và các hồ sơ: Tờ khai cung cấp và thay
đổi thông tin người tham gia BHXH, BHYT (Mẫu TK1-TS) của NLĐ; tờ khai cung
cấp và thay đổi thông tin đơn vị tham gia BHXH, BHYT (Mẫu TK3-TS); Danh
sách lao động tham gia BHXH, BHYT, BHTN (Mẫu D02-TS) gửi lên cơ quan
BHXH để đăng ký tham gia BHXH bắt buộc cho lao động thuộc đơn vị mình theo
phương thức đóng do đơn vị đăng ký với cơ quan BHXH:
- Đóng hàng tháng: chậm nhất đến ngày cuối cùng của tháng, đơn vị trích
tiền đóng BHXH bắt buộc trên quỹ tiền lương tháng của những NLĐ tham gia
BHXH bắt buộc, đồng thời trích từ tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc
của từng NLĐ theo mức quy định, chuyển cùng một lúc vào tài khoản chuyên
thu của cơ quan BHXH mở tại ngân hàng hoặc Kho bạc Nhà nước.
- Đóng 3 tháng hoặc 6 tháng một lần: đơn vị là doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ
kinh doanh cá thể, tổ hợp tác hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm
nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp trả lương theo sản phẩm, theo khoán thì
đóng theo phương thức hằng tháng hoặc 03 tháng, 06 tháng một lần. Chậm
nhất đến ngày cuối cùng của kỳ đóng, đơn vị phải chuyển đủ tiền vào quỹ
BHXH.
Lưu ý: Nếu đăng ký phương thức đóng 03 tháng hoặc 06 tháng một lần cần bổ
sung: đơn đề nghị, phương án sản xuất, phương thức trả lương.
Theo phương thức đóng BHXH bắt buộc, đơn vị SDLĐ có trách nhiệm thu
9% tiền lương của NLĐ (bao gồm BHXH bắt buộc và BHTN) và trích 19% quỹ tiền
lương của đơn vị nộp cơ quan BHXH, nếu có biến động trong tháng, quý đơn vị
phải lập biểu mẫu điều chỉnh tăng giảm số tiền nộp BHXH gửi cơ quan BHXH trực
tiếp quản lý để kịp thời điều chỉnh.
Đơn vị đóng trụ sở chính ở địa bàn nào thì đăng ký tham gia đóng BHXH tại

địa bàn đó theo phân cấp của cơ quan BHXH tỉnh (đăng ký cơ quan BHXH quản lý
theo địa bàn đăng ký trên giấy phép đăng ký kinh doanh). Chi nhánh của doanh
nghiệp đóng BHXH tại địa bàn nơi cấp giấy phép kinh doanh cho chi nhánh.
b. Đối với cơ quan BHXH: cơ quan BHXH căn cứ vào danh sách lao động do
đơn vị SDLĐ lập thực hiện đối chiếu và xác định số tiền phải nộp của đơn vị trong
từng kỳ và triển khai thu BHXH bắt buộc. Hằng tháng, sau khi chốt dữ liệu trong


18

chương trình quản lý thu, thực hiện in: hai (02) bản Thông báo kết quả đóng
BHXH, BHYT, BHTN (Mẫu C12-TS) chuyển Bộ phận một cửa để gửi đơn vị 01
bản trước ngày 05; lưu 01 bản hoặc chuyển dữ liệu lên Cổng thông tin điện tử
BHXH để tra cứu. Đồng thời, cán bộ thu thực hiện đôn đốc đơn vị nộp tiền theo quy
định.
* Thuận lợi:
- Được sự quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo, giám sát kịp thời của Tỉnh ủy, Đoàn
đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh; sự phối hợp chặt chẽ
giữa BHXH với Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, Sở Kế hoạch và Đầu tư,
Cục Thuế, Liên đoàn Lao động.
- Các sở, ngành, tổ chức chính trị ở địa phương luôn quan tâm, phối hợp với
BHXH tỉnh trong hoạt động tuyên truyền.
- Cơ quan BHXH tích cực triển khai, tổ chức thực hiện chính sách BHXH,
luôn coi nhiệm vụ phát triển đối tượng tham gia, thu đúng, thu đủ, thu kịp thời là
nhiệm vụ hàng đầu của ngành.
- Bảo hiểm xã hội Việt Nam ban hành quy định, áp dụng thống nhất quy
trình quản lý thu, cấp sổ BHXH, thẻ BHYT; thủ tục tham gia BHXH đã rút từ 5 thủ
tục chỉ còn 2 thủ tục, rất đơn giản và phù hợp; thủ tục thanh toán chế độ BHXH
gọn, giảm thời gian thực hiện lập hồ sơ đối với NLĐ và chủ SDLĐ (kể cả thực hiện
hồ sơ điện tử). Bên cạnh đó, BHXH tỉnh đã phối hợp với hai nhà I-Van tại Cà Mau

là VNPT và Viettel thường xuyên tập huấn và cài đặt phần mềm giao dịch điện tử
cho đơn vị SDLĐ. Tính đến 31/12/2016 đã cài đặt phần mềm ứng dụng giao dịch
điện tử với 1.582/1.628 đơn vị đạt tỷ lệ 97% đơn vị SDLĐ.
- Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết thủ tục hành chính về
BHXH đã góp phần tiết kiệm chi phí và thời gian, giảm phiền hà cho đơn vị SDLĐ
và NLĐ.
* Khó khăn:
- Việc điều tra, khảo sát nắm doanh nghiệp, lao động đang hoạt động trên địa
bàn chưa chặt chẽ, còn nhiều bất cập. Sở Kế hoạch và Đầu tư, Cục Thuế chỉ cung
cấp cho cơ quan BHXH số doanh nghiệp đang hoạt động hoặc thành lập mới, không
có số lao động; Liên đoàn Lao động chỉ cung cấp một số doanh nghiệp có quy mô
lớn; Sở Lao động – Thương binh và Xã hội đã phân cấp việc quản lý lao động cho
huyện, thành phố nhưng thực hiện điều tra báo cáo chưa kịp thời; tỉnh chưa có phần
mềm quản lý lao động.


19

- Doanh nghiệp trên địa bàn chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, đa số
sử dụng lao động gia đình không giao kết hợp đồng lao động; luôn né tránh việc
đóng BHXH cho NLĐ. Một số doanh nghiệp chỉ đóng BHXH cho bộ phận quản lý,
công nhân có tay nghề cao, số còn lại chỉ thuê mướn lao động công nhật không ký
hợp đồng lao động. Tình hình sản xuất kinh doanh của một số doanh nghiệp còn
khó khăn, nhiều doanh nghiệp thu hẹp quy mô sản xuất, đóng cửa, ngừng hoạt động
hoặc hoạt động cầm chừng.
- Chính sách BHXH thường xuyên thay đổi, bổ sung về điều kiện hưởng, đối
tượng tham gia, mức tiền lương… Trong khi đó, công tác thông tin tuyên truyền của
cơ quan thông tin đại chúng nói chung và cơ quan BHXH nói riêng chưa đáp ứng
được yêu cầu đặt ra làm công tác triển khai thực hiện gặp nhiều khó khăn và bất
cập.

- Chế tài trong xử lý vi phạm về đóng BHXH chưa đủ sức răn đe; công tác
thanh tra, kiểm tra còn chưa mạnh, chưa sâu và chưa thường xuyên. Việc xử lý
thiếu triệt để bởi nhiều nguyên nhân như: quy định pháp luật chưa chặt chẽ, khó
thực hiện... dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật BHXH còn phổ biến. Sự phối hợp
giữa các cơ quan chức năng trong việc trong việc thanh tra, kiểm tra về BHXH còn
lỏng lẻo và mang tính hình thức. Đội ngũ công chức, viên chức ngành BHXH làm
công tác kiểm tra còn mỏng và thiếu ổn định, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ đặt ra. Chức năng thanh tra về BHXH thuộc Thanh tra Lao động - Thương
binh và Xã hội, nhưng do lực lượng còn mỏng nên công tác thanh tra, xử lý vi phạm
pháp luật về BHXH đối với các doanh nghiệp còn ít.
- Tuy đã thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin nhưng vẫn chưa đạt được
theo yêu cầu đặt ra, trong quản lý còn manh mún, chưa tập trung được cơ sở dữ liệu
toàn quốc, chưa kết nối được với dữ liệu về doanh nghiệp, lao động của các ngành
có liên quan.
- Việc chuyển đổi tác phong làm việc từ hành chính, cứng nhắc, thụ động
sang phục vụ còn chậm, hiệu quả chưa cao. Mặt khác, số viên chức làm công tác thu
BHXH bắt buộc hiện nay rất ít, trong khi phải hoàn thành số tiền thu lớn nên thiếu
viên chức bám sát cơ sở để giải thích, tuyên truyền vận động, giám sát tham gia
BHXH bắt buộc.
- Nhận thức của nhiều người đối với chính sách BHXH còn nhầm lẫn với
nhiều loại hình bảo hiểm khác, còn cho BHXH là loại hình kinh tế mục tiêu là lợi


×