Tải bản đầy đủ (.pptx) (28 trang)

Lịch sử các Học thyết kinh tế Sự trỗi dậy của học thuyết tự do từ Keynes

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 28 trang )

Thuyết trình - vấn đề 7

SỰ TRỖI DẬY CỦA

HỌC THUYẾT TỰ DO
SVTH:

- Ngô Thị Mỹ Linh

- Lưu Tống Khánh Linh


TÓM TẮT NỘI DUNG

Thắng lợi của học thuyết Keynes có thể đã gây ảo tưởng là học thuyết
này chiếm lĩnh mọi trận địa, rằng Lí thuyết tổng quát đã thật sự hạ gục lí
thuyết cổ điển.

 Học thuyết tự do cổ điển bị Keynes và nhiều tác giả tấn công trong thập
niên 20 và 30, bề ngoài chịu thất bại trong thập niên 40 và 50 nhưng
chưa hoàn toàn biến mất.


Maurrice Allais

Gary Becker

KEYNESIAN

Milton Friedman



TÓM TẮT NỘI DUNG

Sự xuất hiện trở lại của học thuyết tự do và dấu hiệu mà ta có thể dễ dàng nhận thấy được là nỗi hồ
hởi gắn với tăng trưởng kinh tế bắt đầu giảm xuống.

 Kể từ đầu thập niên 70 chủ thuyết Keynes của sự tổng hợp bị đặt thành vấn đề, sự tồn tại đồng thời
của những tỉ suất lạm phát và thất nghiệp ngày càng cao.

Học thuyết trọng tiền nhanh chóng tự khẳng định mình như một cực chủ yếu của sự đối lập chống
học thuyết Keynes trên phương diện chính trị cũng như lí thuyết.


Phần 1: MILTON FRIEDMAN
VÀ HỌC THUYẾT
TRỌNG TIỀN


1 . Hoàn cảnh ra đời:

– Thuật ngữ học thuyết trọng tiền được Karl Brunner sáng chế năm 1968, chính ông gọi đây là cuộc “cách mạng
trọng tiền “.

2. Đại biểu của học thuyết trọng tiền

 Karl Brunner ( 1916-1989 )
 Milton Friedman (1912-2006)
 Harry Johnson , David Hume
 -Jean Bodin
 Meiselman

 Schwartz....


3. Những quan điểm, lý luận của học thuyết trọng tiền
- Trong học thuyết trọng tiền, tầm nhìn tổng quát là niềm tin vào tính ổn định cố hữu của các nền
kinh tế thị trường và cảnh giác đối với chủ nghĩa can thiệp được gọi là lý thuyết định lượng tiền tệ.

-Sau đó được triết gia David Hume (TK XVIII), phát biểu lại: “Một thay đổi của cung tiền tệ thể hiện
trong dài hạn bằng một thay đổi cùng chiều và trong cùng tỉ lệ mức giá chung” . Lý thuyết định lượng
tiền tệ cũng như lý thuyết cổ điển là một thành phần chủ yếu sẽ có giá trị khi ta đạt đến toàn dụng lao
động .


Lý luận của Friedman :
1) Lý thuyết định lượng về tiền tệ:



Tổng cầu tiền tệ được gộp từ cầu của các tác nhân cho những số lượng tiền thực tế, tiền tệ là một trong
những dạng được các tác nhân lựa chọn để nắm giữ của cải.



Số lượng tiền tệ thực tế bằng với số lượng tiền tệ danh nghĩa nhân với chỉ số giá cả.



Cầu tiền tệ là một hàm tương đối ổn định của một vài biến then chốt, trong biến này có lãi suất.





Cuối thập niên 40, Friedman và Schwartz bắt đầu nghiên cứu những quan hệ giữa chu kì kinh tế và biến thiên của
cung tiền và đã chứng minh một cách thực nghiệm là biến thiên của số lượng tiền tệ có một vai trò quyết định
trong việc giải thích những biến động kinh tế.



Đối với Friedman và những nhà bảo vệ học thuyết trọng tiền , các nền kinh tế hiện đại là ổn định. Nhà nước phải
tự giới hạn ở việc đảm bảo một khuôn khổ ổn định cho những giao dịch của thị trường.



Năm 1960, Friedman thêm vào quy tắc tiền tệ nổi tiếng- biểu trưng của học thuyết trọng tiền: là để cho biến thiên
của cung tiền thoát khỏi những quyết định tùy tiện của các giới chức chính trị, tỉ suất tăng trưởng của cung tiền
phải được ổn định tùy theo tỉ suất tăng trưởng dài hạn của tổng sản phẩm quốc gia.


Phần 2:

KINH TẾ HỌC TRỌNG CUNG
VÀ CÁC TRÀO LƯU TỰ DO KHÁC


1) Hoàn cảnh ra đời
- Kinh tế học trọng cung là một trào lưu tư tưởng giới hạn hơn, gắn với những thay đổi trong chính sách kinh
tế Mĩ dưới nhiệm kì của tổng thống Ronald Reagan, nó còn được gọi là “reaganomics”.

- Sự phản đối của người đóng thuế đã lan rộng ra cả nước Mĩ .


- Thuế khóa áp bức quá cao đánh vào thu nhập và vào lợi nhuận -> mưu toan trốn thuế.


2 )Các đại biểu của trường phái kinh tế học trọng cung và các trường phái
khác:

David Friedman (2/1945)

George Gilder (29/11/1939)


3) Những quan điểm, lý luận của thuyết kinh tế học trọng cung và các trào
lưu tự do khác
- Các nhà trọng cung đề nghị giảm mạnh thuế trực tiếp và giảm đáng kể tính lũy tiến của thuế này.

- Các nhà kinh tế học trọng cung nhấn mạnh đến việc sản sinh ra một cầu tiền tệ bằng cách sản xuất
ra sản phẩm, dựa trên niềm tin vào tính ổn định vốn có của các nền kinh tế thị trường, kinh tế học trọng
cung tin vào sự tồn tại của hiệu ứng lấn thế.


- Theo George Gilder việc giảm tất cả những chỉ tiêu xã hội của nhà nước là cần
thiết:
+ Các chính sách xã hội là chướng ngại chính, không chỉ cho tăng trưởng kinh tế mà còn cản trở
sự sống còn của nền văn minh.
+ Trợ giúp người thất nghiệp, người li dị, người lệch lạc tâm trí, người hoang phí chỉ khuyến khích
họ sinh sôi nảy nở là một đe dọa làm tan rã xã hội: “Bảo hiểm xã hội ngày nay làm xói mòn lao động và
gia đình, duy trì người nghèo trong nghèo khổ”


* CÁC TRÀO LƯU TỰ DO KHÁC

Tái khẳng định những giá trị của thị trường và cạnh tranh, chống lại sự can thiệp của Nhà nước và
mọi hình thức quy định xã hội:
-Những nhà tự do vô chính phủ - những người đi xa nhất trong việc xét lại vai trò của nhà nước,
đại diện là David Friedman.

-Các nhà tự do cực đoan đặt tin tưởng vào thị trường, đối với họ chủ nghĩa vô chính phủ là hình
thức tột cùng của chủ nghĩa tư bản tự do.


PHẦN 3: CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC CỦA KINH TẾ HỌC TÂN CỔ
ĐIỂN


1) HOÀN CẢNH RA ĐỜI:
-Xuất hiện từ nửa cuối thế kỉ XIX

- Kinh tế học tân cổ điển được phát triển bằng các lí luận về cạnh tranh không hoàn hảo

- Nếu bây lâu nay, lí thuyết tân cổ điển bị phê phán do tính quy giản, không hiện thực thì các nhà lí
thuyết gia tân cổ điển lại đẩy mạnh tính quy giản này và cho rằng đây là chìa khóa mở đường việc hiểu
biết các hiện tượng xã hội


2) ĐẠI DIỆN TIÊU BIỂU:

GARY BECKER ( 1930 - 2014)


3) NHỮNG QUAN ĐIỂM LÍ LUẬN TRONG CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC CỦA KINH TẾ
HỌC TÂN CỔ ĐIỂN

- Không nên nhầm lần giữa học thuyết trọng tiền và lí thuyết tân cổ điển vì lí thuyết tân cổ điển không phải là
cở sở lí luận bắt buộc của chủ nghĩa tự do.

- Một giả thiết đã thành cốt lõi của cách đặt vấn đề tân cổ điển rằng lí thiết này coi xã hội là những tác nhân
( cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp,…) là độc lập và mỗi tác nhân đều có tự do ý chí. Sự tương tác của các
tác nhân là nguồn gốc của cuộc sống kinh tế, xã hội và chính trị.


- LÍ THUYẾT CON NGƯỜI là một trong những hình thức quan trọng nhất của việc khái quát hóa cách tiếp cận tân cổ điển
- ngoài những sản phẩm vật chất được dùng vào việc sản xuất ra những sản phẩm khác , từ nay nguồn lực con người
được xem như tư bản cũng như được quản lí như những nguyên lí của nguồn lực vật chất khác.

- Điểm khác lạ của hình thức này là tầm quan trọng không nằm ở những khả năng của con người mà ở cách đầu tư và
con người => tuy nhiên các đặt vấn đề này chỉ áp dụng ở mức cá nhân.

- Để đặc trưng cho các phát triển mới của lí thuyết tân cổ điển này, người ta sử dụng từ “đế quốc” vì nếu không áp dụng
những phương pháp của Becker và các đồng nghiệp của ông, thì không còn là điều tra của nhân học, tâm lí học, chính trị
- xã hội học…


PHẦN 4:
NHỮNG CHÍNH SÁCH TỰ DO VÀ SỰ ĐÁP TRẢ CỦA
KEYNESIA


1) HOÀN CẢNH RA ĐỜI:
-Trong những thập niên 60 và 70, trước những cuộc cách mạng của các Keynesian nhằm
xây dựng những chính sách kinh tế để đẩy lùi thất nghiệp, nhấn mạnh vai trò chiến lược
của họ


- Sau đó là sự xuất hiện các trường phái mới mang những biểu hiện của một cuộc phản
công cách mạng này - cuộc phản công của CHỦ NGHĨA TỰ DO


2) CÁC ĐẠI DIỆN TIÊU BIỂU:

Margaret Thatcher ( 1925 - 2013)

Ronald Reagan
(1911 - 2004)

Don Patinkin
( 1922 - 1995)


3) NHỮNG QUAN ĐIỂM LÍ LUẬN CỦA NHỮNG CHÍNH SÁCH TỰ DO VÀ SỰ ĐÁP TRẢ CỦA
KEYNESIAN
- Cuộc phản công của các nhà kinh tế của chủ nghĩa tự do không chỉ diễn ra trên lí thuyết, thực tiễn là
họ đã đổi hướng sâu sắc những chính sách kinh tế ở các nước công nghiệp lớn suốt thập niên 70 và
80

- Trong 1 bài diễn thuyết, Friedman đã đề nghị cho nước Anh một biện pháp để nước này thoát khỏi
những căn bệnh kinh tế : chủ trương một loạt tư nhân hóa, phi quy định hóa rộng rãi và xem xét lại các
đặc quyền của các nghiệp đoàn.


- Chính quyền Reagan đã có những cắt giảm quan trọng trong các chi tiêu xã hội mà có thể nói
rằng đây là chương trình nhằm tước đoạt của người nghèo để cho người giàu

- Khi những trách nhiệm về nền kinh tế Mĩ bị quy về mình, ông Reagan đã khẳng định rằng nhiệm

vụ của chính phủ chỉ nắm gọn trọng vài vấn đề .
=> “ Mục tiêu đầu tiên và chính yếu của tôi là cải thiện thành tích kinh tế bằng cách giảm bớt đi
nhiều chiều kích của vai trò chính phủ liên bang”


×