LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự hướng
dẫn khoa học của TS. Nguyễn Minh Thanh.
Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa công
bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây.
Những số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh
giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau, có ghi rõ trong phần tài liệu
tham khảo.
Hà Nội, ngày 15 tháng 5 năm 2017
Tác giả luận văn
Trần Đức Hùng
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp, Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
- Thầy giáo, Tiến sỹ Nguyễn Minh Thanh, người đã tận tình hướng dẫn, giúp
đỡ tôi suốt quá trình thực tập và hoàn thành luận văn.
- Tập thể các thầy cô giáo trường Đại học Lâm nghiệp đã truyền đạt cho tôi
những kiến thức và kinh nghiệm quý báu trong quá trình học tập.
- Cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của cán bộ UBND và bà con nông dân trong xã
Yên Khê
- Cảm ơn gia đình và những người thân đã động viên, tạo điều kiện cho tôi
hoàn thành khoá học.
Đây là một đề tài còn mới mẻ đối với bản thân, hơn nữa khả năng và trình độ
chuyên môn còn hạn chế, thời gian nghiên cứu có hạn, cho nên đề tài không tránh
khỏi những sai sót. Vậy rất mong nhận được sự giúp đỡ, đóng góp ý của thầy cô và
các bạn đồng nghiệp để đề tài hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cám ơn!
Hà nội, Ngày 15 tháng 5 năm 2017
Tác giả luận văn
Trần Đức Hùng
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt
BVTV
HTCT
FAO
IPM
KNKL
K2O
LUT
Max
MH
N
NLKH
NLN
NXB
P2O5
PRA
PTD
RRA
SALT 1
SALT 2
SALT 3
SALT 4
STG
SWOT
UBND
Viết đầy đủ
Bảo vệ thực vật
Hệ thống canh tác
Tổ chức nông lương thế giới (Food and Agriculture Organization)
Integrated Pest Management (Quản lý dịch hại tổng hợp)
Khuyến nông khuyến lâm
Kali oxit
Loại hình sử dụng đất (Land Use Type)
Giá trị lớn nhất (Maximum)
Mô hình
Nitơ
Nông lâm kết hợp
Nông lâm nghiệp
Nhà xuất bản
Điphotpho pentaoxit
Đánh giá nông thôn có sự tham gia (Participatory Rural Appraisal)
Phát triển công nghệ có sự tham gia (Participatory Technology
Development)
Đánh giá nhanh nông thôn (Rapid Rural Appraisal)
Slopping Agriculture Land Technology
Simple Agro – Livestock Technology
Sustainable Agroforest Land Technology
Small Agrofruit Livelihood Technology
Sự tham gia
Strengths (Điểm mạnh), Weaknesses (Điểm yếu), Opportunities (Cơ
hội), Threats (Nguy cơ)
Ủy ban nhân dân.
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá mà thiên nhiên đã ban tặng
cho con người. Đất đai là nền tảng để con người định cư và tổ chức các hoạt
động kinh tế xã hội, nó không chỉ là đối tượng lao động mà còn là tư liệu sản
xuất không thể thay thế được, đặc biệt là đối với ngành sản xuất nông nghiệp,
đất là yếu tố đầu vào có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả sản xuất đất nông
nghiệp, đồng thời cũng là môi trường duy nhất sản xuất ra những lương thực,
thực phẩm nuôi sống con người. Việc sử dụng đất có hiệu quả và bền vững
đang trở thành vấn đề cấp thiết với mỗi quốc gia, nhằm duy trì sức sản xuất
của đất đai cho hiện tại và cho tương lai.
Yên Khê là xã nghèo của huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An, có diện tích
tự nhiên: 5245,19 ha; dân số 5643 người. Trình độ dân trí thấp do đây là khu
vực miền núi tập trung nhiều người dân tộc, khó tiếp cận được với các nền
văn minh tiên tiến. Thu nhập của người chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp
là chính với tỉ lệ người sản xuất nông nghiệp trên 90%. Trước đây người dân
sản xuất chủ yếu dựa vào cây lúa, nhưng đem lại hiệu quả không cao. Hiện
nay người đang thực hiện dự án của địa phương chuyển đổi cây lúa sang mô
hình trồng cam, trồng keo và cây rau màu, bước đầu đem lai hiệu quả khá cao.
Nhiều hộ dân đã hưởng ứng và thay đổi mô hình canh tác truyền thống và đã
có được nguồn thu nhập ổn định từ các loại cây trồng mới. Tuy nhiên trong
quá trình phát triển cũng như xây dựng các mô hình sử dụng đất nông nghiệp
cho thu nhập cao của người dân ở xã Yên Khê vẫn còn gặp nhiều khó khăn và
bất cập. Yêu cầu đặt ra là phải có những đánh giá đầy đủ và củ thể về sự phát
triển của các mô hình sử dụng đất tại xã Yên khê nhằm thúc đẩy quá trình
phát triển. Vì vậy xuất phát từ ý nghĩa thực tiễn nhu cầu sử dụng đất của
người dân thì việc “Đánh giá hiệu quả một số mô hình sử dụng đất ở xã
Yên Khê, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An” là thực sự cần thiết.
Chương 1
1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Quan điểm về sử dụng đất nông nghiệp
Đất đai là nguồn tài nguyên có hạn trong khi nhu cầu của con người lấy
đi từ đất ngày càng tăng, mặt khác diện tích đất sản xuất nông nghiệp ngày
một thu hẹp do chuyển sang đất phi nông nghiệp. Với mục tiêu xây dựng nền
nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng
hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm
bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài [2]. Để thực
hiện mục tiêu trên, cần có các giải pháp và quan điểm cụ thể như sau:
- Áp dụng phương thức sản xuất nông nghiệp kết hợp, đa dạng hóa sản
phẩm, chống xói mòn, rửa trôi, thâm canh bền vững.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên cơ sở thực hiện đa
dạng hóa cây trồng vật nuôi, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi phù hợp
với sinh thái và bảo vệ môi trường.
- Phát triển nông nghiệp một cách toàn diện và có hệ thống trên cơ sở
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển theo chiều sâu, đáp ứng yêu cầu đa
dạng hóa nền kinh tế quốc dân.
- Phát triển nông nghiệp một cách toàn diện gắn với việc xóa đói giảm
nghèo, giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc phòng và phát huy nền văn
hóa truyền thống của dân tộc, không ngừng nâng cao nguồn lực của con
người.
- Phát triển kinh tế nông nghiệp trên cơ sở áp dụng khoa học công nghệ
vào sản xuất.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp của cơ sở phải gắn với
định hướng phát triển kinh tế xã hội của khu vực, vùng và của cả nước.
1.2. Khái quát về hiệu quả sử dụng đất
Đánh giá đất cho các vùng sinh thái hoặc các vùng lãnh thổ khác nhau là
nhằm tạo ra một sức sản xuất mới, ổn định, bền vững và hợp lý. Trong đó
đánh giá hiệu quả sử dụng đất là một nội dung hết sức quan trọng.
2
Theo các nhà khoa học kinh tế Smuel - Norhuas: “ Hiệu quả không có
nghĩa là lãng phí. Nghiên cứu hiệu quả sản xuất phải xét đến chi phí cơ hội.
Hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng số lượng một loại hàng
hóa này mà không cắt giảm số lượng một loại hàng hóa khác” (Dẫn theo Vũ
Thị Phương Thụy [18]).
Theo trung tâm từ điển ngôn ngữ, hiệu quả chính là kết quả cũng như yêu
cầu của việc làm mang lại. Theo khái niệm trên thì hiệu quả sử dụng đất phải
là kết quả của quá trình sử dụng đất. Trong đó ta quan tâm nhiều tới kết quả
hữu ích, một đại lượng vật chất tạo ra do mục đích của con người, được biểu
hiện bằng những chỉ tiêu cụ thể, xác định. Do tính chất mâu thuẫn giữa nguồn
tài nguyên đất đai là hữu hạn với nhu cầu ngày càng tăng của con người mà ta
phải xem xét kết quả sử dụng đất được tạo ra như thế nào? Chi phí bỏ ra để
tạo ra kết quả đó là bao nhiêu? Có đưa lại kết quả hữu ích không? Chính vì
thế khi đánh giá hoạt động sản xuất nông nghiệp không chỉ dừng lại ở việc
đánh giá kết quả mà còn phải đánh giá chất lượng các hoạt động sản xuất tạo
ra sản phẩm đó.
Sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả thông qua việc bố trí cơ cấu cây
trồng, vật nuôi phù hợp là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay của hầu
hết các nước trên thế giới [24]. Nó không chỉ thu hút sự quan tâm của các nhà
khoa học, các nhà hoạch định chính sách, các nhà kinh doanh nông nghiệp mà
còn là sự mong muốn của nông dân, những người trực tiếp tham gia vào quá
trình sản xuất nông nghiệp.
Căn cứ vào nhu cầu của thị trường, thực hiện đa dạng hóa cây trồng, vật
nuôi trên cơ sở lựa chọn các sản phẩm có tính cạnh tranh cao. Đó là một trong
những điều kiện quan trọng để phát triển nền nông nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hóa vừa mang tính ổn định vừa đảm bảo sự bền vững
Ngày nay nhiều nhà khoa học cho rằng: Xác định đúng khái niệm, bản
chất hiệu quả sử dụng đất phải xuất phát từ luận điểm triết học của Mác và
những nhận thức lí luận của lý thuyết, nghĩa là hiệu qủa phải được xem xét
trên 3 mặt: Hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, hiệu quả môi trường [18].
3
1.2.1. Hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh mặt chất lượng của
các hoạt động kinh tế. Mục đích sản xuất kinh tế - xã hội là đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao về vật chất tinh thần của toàn xã hội, khi nguồn lực sản xuất xã
hội ngày càng trở nên khan hiếm. Yêu cầu của công tác quản lý kinh tế đòi
hỏi phải nâng cao chất lượng các hoạt động kinh tế làm xuất hiện phạm trù
hiệu quả kinh tế.
Xuất phát từ góc độ nghiên cứu khác nhau các nhà kinh tế đã ra nhiều
quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh tế. Mục tiêu các nhà quản lý đặt ra là
với một khối lượng dự trữ tài nguyên nhất định tạo ra một khối lượng hàng
hóa lớn nhất. Hay nói cách khác là ở một mức sản xuất nhất định cần phải làm
thế nào để có chi phí tài nguyên và lao động thấp nhất. Điều đó cho thấy quan
hệ mật thiết giữa các yếu tố đầu vào và đầu ra là sự biểu hiện kết quả của mối
quan hệ thể hiện tính hiệu quả của sản xuất.
Hiệu quả kinh tế là phạm trù phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động
kinh tế bằng quá trình tăng cường lợi dụng các nguồn lực sẵn có phục vụ cho
lợi ích của con người. Do những nhu cầu vật chất của con người ngày càng
tăng, vì vậy nâng cao hiệu quả kinh tế là đòi hỏi khách quan của một nền sản
xuất xã hội.
1.2.2. Hiệu quả về mặt xã hội
- Được thể hiện ở mức độ thu hút lao động, giải quyết công ăn việc làm
với mức thu nhập mà người lao động chấp nhận, bền vững trong địa bàn và
các vùng lân cận.
- Trình độ dân trí của người dân được thể hiện ở nhận thức và mức độ
tiếp thu khoa học kỹ thuật mới trong sản xuất nông nghiệp và các ngành nghề
khác để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm . Mức độ phát triển cơ sở
hạ tầng phục vụ cho sản xuất và đáp ứng nhu cầu của người dân.
- Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc truyền thống.
- Đảm bảo an ninh quốc phòng, ổn định chính trị và an ninh lương thực.
4
1.2.3. Hiệu quả về môi trường sử dụng đất
Để đánh giá một phương thức sản xuất nào đó là tiến bộ, đi đôi với việc
xem xét hiệu quả kinh tế còn phải đánh giá chung về hiệu quả môi trường.
Hiệu quả môi trường của một hệ thống canh tác trước hết phải phục vụ mục
tiêu của sự phát triển một nền nông nghiệp bền vững, đó là:
- Bảo vệ và làm tăng độ phì nhiêu của đất, cải tạo và phục hồi những
loại đất nghèo dinh dưỡng, đất đã bị suy thoái do kỹ thuật canh tác gây nên,
duy trì và nâng cao tiềm năng sinh học của các loại đất còn chưa bị suy thoái.
Các tiêu thức dùng để đánh giá bao gồm:
+ Bón phân và giữ gìn đất: Việc cung cấp lại lượng mùn bị mất đi hàng
năm của đất là rất cần thiết để giữ độ phì cho đất.
+ Hạn chế dùng hóa chất trong nông nghiệp.
+ Trồng cây họ Đậu (Fabaceace) bao gồm các cây họ Đậu ngắn ngày,
dài ngày, cây phân xanh, cây đa tác dụng bằng nhiều hình thức: Trồng luân
canh, trồng xen, trồng dọc đường ranh giới.
+ Tăng vụ, tăng hệ số quay vòng của đất để tăng cường sự che phủ đất.
+ Tính đa dạng sinh học, bảo vệ nguồn gen của các động vật, thực vật
hoang dã dùng để lai tạo thành các giống chống chịu tốt với sâu bệnh và các
điều kiện ngoại cảnh bất thường.
+ Tính đa dạng giữa các hệ phụ trồng trọt, chăn nuôi, ngành nghề phụ,
bảo quản chế biến sau thu hoạch và tiêu thụ hàng hóa.
+ Phát triển phương thức nông lâm kết hợp, xây dựng các mô hình VAC.
+ Bảo vệ và duy trì nguồn tài nguyên nước bằng việc trồng rừng, xóa bỏ
đất trống đồi núi trọc, trồng cây lâu năm, kết hợp nông lâm với nuôi trồng
thủy sản…..
1.3. Quan điểm sử dụng đất bền vững
Hệ sinh thái nông nghiệp được tạo ra nhằm mục đích phục vụ con người
cho nên nó chịu những tác động mạnh mẽ nhất từ chính con người. Các tác
động của con người, nhiều khi đã làm cho hệ sinh thái biến đổi vượt quá khả
năng tự điều chỉnh của đất. Con người đã không chỉ tác động vào đất đai mà
còn tác động cả vào khí quyển, nguồn nước để tạo ngày một nhiều hơn lương
thực, thực phẩm và hậu quả là đất đai cũng như các nhân tố tự nhiên khác bị
5
thay đổi theo chiều hướng ngày một xấu đi. Ngày nay những vùng đất đai
màu mỡ đã giảm sức sản xuất một cách rõ rệt và có nguy cơ thoái hóa nghiêm
trọng. Không những thế sự suy thoái đất đai còn kéo theo sự suy giảm nguồn
nước, những hiện tượng thiên tai bất thường. Trước những biểu hiện trên,
nhằm đảm bảo cuộc sống cho con người hiện tại và tương lai, cần có những
chiến lược về sử dụng đất để duy trì những khả năng hiện có và khôi phục
những khả năng đã mất của đất đai. Thuật ngữ “Sử dụng đất bền vững” ra đời
trên cơ sở những mong muốn trên.
Việc tìm kiếm các giải pháp sử dụng đất một cách hiệu quả và bền vững
luôn là mong muốn của con người trong mọi thời đại. Nhiều nhà khoa học,
các tổ chức quốc tế đã đi sâu nghiên cứu vấn đề sử dụng đất bền vững trên
những vùng của thế giới, trong đó có Việt Nam. Việc sử dụng đất bền vững
nhằm đạt được các mục tiêu sau:
- Duy trì, nâng cao sản lượng (hiệu quả sản xuất);
- Giảm rủi ro sản xuất (an toàn);
- Bảo vệ tiềm năng nguồn lực tự nhiên và ngăn ngừa thoái hóa đất và nước
(bảo vệ);
- Có hiệu quả lâu dài (lâu bền);
- Được xã hội chấp nhận (tính chấp nhận) [9].
Như vậy sử dụng đất bền vững không những thuần túy về mặt tự nhiên
mà còn cả về mặt môi trường, lợi ích kinh tế và xã hội. Năm mục tiêu mang
tính nguyên tắc trên đây là trụ cột của việc sử dụng đất bền vững. Trong thực
tiễn việc sử dụng đất đạt được cả 5 mục tiêu trên thì sự bền vững sẽ thành
công, nếu không sẽ chỉ đạt được sự bền vững ở một vài bộ phận hay sự bền
vững có điều kiện. Tại Việt Nam, việc sử dụng đất bền vững cũng dựa trên
những nguyên tắc trên và được thể hiện trong 3 yêu cầu sau:
- Bền vững về mặt kinh tế: Cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao và được
thị trường chấp nhận. Hệ thống sử dụng đất phải có mức năng suất sinh học
cao trên mức bình quân vùng có cùng điều kiện đất đai. Năng suất sinh học
6
bao gồm các sản phẩm chính và phụ (đối với cây trồng là gỗ, hạt, củ, quả…và
tàn dư để lại). Một hệ thống sử dụng đất bền vững phải có năng suất trên mức
bình quân vùng, nếu không sẽ không cạnh tranh được trong cơ chế thị trường.
* Về chất lượng: Sản phẩm phải đạt tiêu chuẩn tiêu thụ tại địa phương,
trong nước và xuất khẩu, tùy mục tiêu của từng vùng.
* Tổng sản phẩm giá trị trên đơn vị diện tích là thước đo quan trọng nhất
của hiệu quả kinh tế đối với một hệ thống sử dụng đất. Tổng giá trị trong một
giai đoạn hay cả chu kỳ phải trên mức bình quân của vùng, nếu dưới mức đó
thì nguy cơ người sử dụng đất sẽ không có lãi, hiệu quả vốn đầu tư phải lớn
hơn lãi suất tiền vay vốn ngân hàng.
- Bền vững về mặt xã hội: Thu hút được nhiều lao động, đảm bảo đời sống
người dân, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Đáp ứng nhu cầu của nông hộ
là điều cần quan tâm trước nếu muốn họ quan tâm đến lợi ích lâu dài (bảo vệ
đất, môi trường…). Sản phẩm thu được cần thỏa mãn cái ăn, cái mặc và nhu
cầu sống hằng ngày của người nông dân.
* Nội lực và nguồn lực địa phương phải được phát huy. Hệ thống sử dụng
đất phải được tổ chức trên đất mà nông dân có quyền sử dụng lâu dài, đất
được giao và rừng được khoán với lợi ích các bên cụ thể. Sử dụng đất sẽ bền
vững nếu phù hợp với nền văn hóa dân tộc và tập quán địa phương, nếu
ngược lại sẽ không được cộng đồng ủng hộ.
- Bền vững về mặt môi trường: Loại hình sử dụng đất bảo vệ được độ màu
mỡ của đất, ngăn chặn sự thoái hóa đất và bảo vệ môi trường sinh thái. Giữ
đất được thể hiện bằng giảm thiểu lượng đất mất hằng năm dưới mức cho
phép.
* Độ phì nhiêu tầng đất là yêu cầu bắt buộc đối với quản lý sử dụng bền
vững
* Độ che phủ tối thiểu phải đạt ngưỡng an toàn sinh thái (>35%).
* Đa dạng sinh học biểu hiện qua thành phần loài (đa canh bền vững hơn
độc canh, cây lâu năm có khả năng bảo vệ đất tốt hơn cây hằng năm.
7
Ba yêu cầu bền vững trên là tiêu chuẩn để xem xét và đánh giá các loại
hình sử dụng đất hiện tại. Thông qua việc xem xét và đánh giá các yêu cầu
trên để giúp cho việc định hướng phát triển nông nghiệp ở vùng sinh thái
[3,20].
1.4. Loại hình sử sụng đất
Trong đánh giá đất, FAO đã đưa ra những khái niệm về loại hình sử dụng
đất, đưa việc xác định loại hình sử dụng đất vào nội dung các bước đánh giá
đất và coi loại hình sử dụng đất là 1 đối tượng của quá trình đánh giá đất.
Loại hình sử dụng đất (Land use type - LUT) là bức tranh mô tả thực
trạng sử dụng đất của mỗi vùng với những phương thức sản xuất và quản lý
sản xuất trong điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và kỹ thuật được xác định
[1].
Yêu cầu của các LUT là những đòi hỏi về đặc điểm và tính chất đất đai
để bảo vệ mỗi LUT phát triển bền vững. Đó là những yêu cầu sinh trưởng,
quản lý, chăm sóc, các yêu cầu bảo vệ đất và môi trường [1].
Có thể liệt kê một số LUT khá phổ biến trong nông nghiệp hiện nay như:
- Chuyên trồng lúa: Có thể canh tác nhờ nước mưa hay có tưới chủ động,
trồng 1 vụ, 2 vụ hay 3 vụ trong năm.
- Chuyên trồng màu: Thường được áp dụng cho những vùng đất cao
thiếu nước tưới, đất có thành phần cơ giới nhẹ.
- Kết hợp trồng lúa với cây trồng cạn, thực hiện những công tác luân
thức luân canh nhiều vụ trong năm nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm để
đáp ứng nhu cầu cuộc sống con người, đồng thời còn có tác dụng cải tạo độ
phì của đất. Cũng có thể nhằm khắc phục những hạn chế về điều kiện tưới
không chủ động 1 số tháng trong năm, nhất là mùa khô.
1.5. Tình hình sử dụng đất nông lâm nghiệp trên thế giới và ở Việt Nam
1.5.1. Trên thế giới
Hiện nay toàn bộ quỹ đất có khả năng sản xuất nông nghiệp trên thế
giới là 3,256 triệu ha, chiếm khoảng 22% tổng diện tích đất liền.
Những loại đất tốt thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp chỉ chiếm 12,6%.
Những loại đất quá xấu chiếm tới 40,5%. Diện tích đất trồng trọt trên toàn thế
8
giới mới chỉ chiếm 10,8% tổng diện tích đất tự nhiên (khoảng 1.500 triệu ha),
trong đó chỉ có 46% đất có khả năng sản xuất nông nghiệp, còn 54% đất có
khả năng sản xuất nhưng chưa được khai thác. Kết quả đánh giá đất nông
nghiệp cho thấy: Chỉ có 14% đất có năng suất cao, 28% đất có năng suất trung
bình, nhưng có tới 58% đất có năng suất thấp. [22.
Theo dự báo của tổ chức Liên hợp quốc (UN) và Ngân hàng thế giới
(WB) thì dân số thế giới năm 2025 sẽ đạt 10 tỷ USD. Hiện tại nhu cầu lương
thực cơ bản là tạm ổn, nếu như không có tác động xấu của thiên tại phá hoại,
song trong tương lai vấn đề lương thực sẽ đặt cho ngành sản xuất nông nghiệp
và khai thác nguồn tài nguyên đất đai vào tình trạng cạn kiệt quá mức, đặc
biệt đối với những nước đang phát triển. Theo cảnh báo của FAO [26], [27],
thì 117 nước đang phát triển, sẽ có không dưới 64 nước sẽ không có khả năng
cung cấp đủ lương thực trong tương lai vào những năm đầu của thế kỷ XXI,
nếu như các quốc gia này không áp dụng những biện pháp canh tác, sử dụng
và bảo vệ tốt nguồn tài nguyên đất đai.
Hiện nay nguồn dự trữ diện tích đất canh tác ở các nước đang phát triển
còn khá lớn, nhưng chỉ tập trung vào các nước ở Châu Phi và Châu Mỹ.
Nguồn canh tác ở Châu Á gần như đã cạn kiệt, trong khi đó dân số Châu Á
chiếm gần ½ thế giới. Vì vậy đất đai của Châu Á được xem như chịu áp lực
rất lớn của sự bùng nổ dân số trong tương lai.
Bảng 2.1. Dự báo diện tích canh tác và dân số thế giới
Năm
1980
1990
2000
2010
2025
Dân số
Diện tích
(Triệu người)
đất canh tác (triệu ha)
4.450
5.100
6.200
7.200
10.000
Bình quân DT
đất canh tác/người
(ha)
1.500
0,34
1.510
0,3
1.540
0,25
1.580
0,22
1.650
0,2
Nguồn: FAO 1989, 1993 [26], [27]
9
Kết quả dự báo ở bảng 2.1 cho thấy: Dân số thế giới tăng theo cấp số
nhân, song diện tích đất được cải tạo để đưa vào quỹ đất canh tác tăng không
đáng kể dẫn đến bình quân diện tích đất canh tác trên đầu người hàng năm
giảm mạnh.
Ước tính được rằng năm 2000 bình quân đầu người /ha đất canh tác ở
vùng Châu Á Thái Bình Dương là 9,7 người/ha. Năm 2010 sẽ là 12 người/ha
và đến 2020 sẽ là 17,7 người/ha.
Bình quân chung về diện tích đất canh tác ở Châu Á so với thế giới thì
thấp hơn rất nhiều. Điều đáng nói là chỉ tiêu này ở Việt Nam lại càng thấp,
điều này cũng nói lên rằng khả năng mở rộng diện tích đất nông lâm nghiệp ở
Việt Nam nói riêng và khu vực Châu Á nói chung là rất khó khăn. Trong
tương lai không thể trông chờ theo hướng mở rộng diện tích đất canh tác, mà
phải tập trung vào thâm canh, áp dụng các công nghệ sinh học tiên tiến vào
sản xuất nông nghiệp mới có thể đáp ứng được an ninh lương thực.
Khoảng 2/3 diện tích đất nông nghiệp trên thế giới đã bị suy thoái
nghiêm trọng trong 50 năm qua do xói mòn, rửa trôi, sa mạc hóa, chua hóa,
mặn hóa, ô nhiễm môi trường, khủng hoảng hệ sinh thái đất. Tốc độ đô thị
hóa nhanh dẫn đến sự hình thành các siêu đô thị, hiện nay trên thế giới có
khoảng 20 siêu đô thị với dân số trên 10 triệu người. Sự hình thành siêu đô thị
gây khó khăn cho giao thông vận tải, nhà ở, nguyên vật liệu, xử lý chất thải và
làm giảm bớt diện tích đất nông nghiệp [22].
Cho tới nay trên thế giới đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu, đề ra
nhiều phương pháp đánh giá, tìm giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp theo hướng phát triển hàng hóa.
Theo Lê Duy Thước thì việc bón phân hữu cơ có tác dụng chống xói
mòn rất tốt. Việc sử dụng phân bón là biện pháp chống xói mòn có hiệu quả,
bón phân thúc đẩy cây sinh trưởng tốt, tạo độ che phủ. Khi bón phân hữu cơ,
đất sẽ có cấu trúc tốt hơn, khả năng ngấm nước cao hơn, thúc đẩy vi sinh vật
hoạt động. Do đó, tính chất đất được cải thiện rõ rệt [21].
10
Một số phương thức sử dụng đất có hiệu quả cao lâu bền trên đất dốc là
mô hình SALT (Sloping Agriculture Land Technology) được Trung tâm phát
triển đời sống nông thôn Bastptit Mindanao Philippines tổng kết, hoàn thiện
và phát triển từ giữa năm 1997 đến nay [4]. Các mô hình đó không chỉ được
ứng dụng và phát triển rộng rãi ở Philippines mà còn được các nhóm cộng tác
quốc tế và khu vực tiếp cận và ứng dụng.
- Mô hình SALT1: Đây là mô hình tổng hợp dựa trên cơ sở phối hợp tốt
các biện pháp bảo vệ đất đối với sản xuất lương thực. Kỹ thuật canh tác nông
nghiệp trên đất dốc với cơ cấu cây được sử dụng để đảm bảo SALT1: 75%
diện tích đất nông nghiệp (50% là cây hàng năm và 25% cây lâu năm) ổn
định, có hiệu quả và 25% cây lâm nghiệp.
- Mô hình SALT2: Là mô hình kinh tế nông súc kết hợp đơn giản với cơ
cấu 40% cho nông nghiệp + 20% lâm nghiệp + 20% chăn nuôi + 20% làm
nhà ở và chuồng trại [4].
- Mô hình SALT3: Kỹ thuật canh tác lâm nghiệp bền vững. Đây là mô
hình sử dụng đất tổng hợp dựa trên cơ sở kết hợp trồng rừng quy mô nhỏ với
việc sản xuất lương thực thực phẩm. Cơ cấu sử dụng đất thích hợp ở đây là
40% đất dành cho nông nghiệp, 60% dành cho lâm nghiệp. [4].
- Mô hình SALT4: Mô hình kỹ thuật sản xuất nông nghiệp với cây ăn
quả quy mô nhỏ. Trong mô hình này, ngoài đất đai dành cho nông nghiệp –
lâm nghiệp, cây hàng rào xanh còn dành ra 1 phần để trồng cây ăn quả. Cơ
cấu sử dụng đất dành cho lâm nghiệp 60%, nông nghiệp 15% và cây ăn quả
25%. Đây là mô hình đòi hỏi đầu tư cao cả về nguồn lực, vốn và kỹ thuật
canh tác. [4]
Viện Lúa quốc tế IRRI đã có những thành tựu về lĩnh vực giống lúa và
hệ thống cây trồng trên đất canh tác. Tác chí “ Farming Japan” của Nhật Bản
ra hàng tháng đã giới thiệu nhiều công trình ở các nước trên thế giới về các
hình thức sử dụng đất, điển hình là của Nhật. Nhà khoa học Nhật Bản Otak
Tanakad đã nêu lên những vấn đề cơ bản về sự hình thành của sinh thái đồng
11
ruộng, từ đó cho rằng yếu tố quyết định của hệ thống nông nghiệp là sự thay
đổi về kỹ thuật, kinh tế - xã hội. Các nhà khoa học Nhật Bản đã hệ thống hóa
tiêu chuẩn hiệu quả sử dụng đất thông qua hệ thống cây trồng trên đất canh
tác là sự phối hợp giữa cây trồng và gia súc, các phương pháp trồng trọt và
chăn nuôi, cường độ lao động, vốn đầu tư, tổ chức sản xuất, sản phẩm làm ra,
tính chất hàng hóa của sản phẩm [5].
Theo kinh nghiệm của Trung Quốc thì việc khai thác và sử dụng đất là
yếu tố quyết định để phát triển kinh tế - xã hội nông thôn toàn diện. Chính
phủ Trung Quốc đã đưa ra các chính sách quản lý sử dụng đất đai ổn định, chế
độ sở hữu, giao đất cho nông dân sử dụng, thiết lập hệ thống trách nhiệm và
tính chủ động sáng tạo của nông dân trong sản xuất đã thúc đẩy kinh tế - xã
hội nông thôn phát triển toàn diện về mọi mặt và nâng cao được hiệu quả sử
dụng đất nông nghiệp [5].
Ở Thái Lan, Ủy ban chính sách Quốc gia đã có nhiều quy chế mới
ngoài hợp đồng cho tư nhân thuê đất dài hạn, cấm trồng những cây không
thích hợp với đất nhằm quản lý và bảo vệ đất tốt hơn [5].
Một trong những chính sách tập trung vào hỗ trợ phát triển nông nghiệp
quan trọng nhất là chính sách đầu tư vào sản xuất nông nghiệp. Ở Mỹ tổng số
tiền trợ cấp là 66,2 tỉ USD ( chiếm 28,3% trong tổng thu nhập nông nghiệp).
Canada tương ứng là 5.7 tỉ USD (chiếm 39,1%), Oxtraylia là 1.7 tỉ USD
(chiếm 14,5%), Nhật Bản là 42,3 tỉ USD (chiếm 68,9%), Cộng đồng Châu Âu
là 67,2 tỉ USD (chiếm 40,1%), Áo là 1,6 tỉ USD ( chiếm 35,3%) [5].
Trên đây là những thông tin liên quan đến vấn đề sử dụng đất, các hệ
thống canh tác và các phương pháp tiếp cận nông thôn mới trên thế giới đã
được các tác giả nghiên cứu và được áp dụng trên nhiều quốc gia. Có thể coi
các thông tin nói trên làm cơ sở để các nước áp dụng trong công tác quy
hoạch sử dụng đất.
1.5.2. Ở Việt Nam
Trong những năm qua, ở Việt Nam nhiều tác giả đã có những công trình
nghiên cứu về sử dụng đất, vì đây là một vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan
12
trọng trong phát triển sản xuất nông nghiệp. Các công trình nghiên cứu đánh
giá tài nguyên đất đai Việt Nam của Nguyễn Khang và Phạm Dương Ứng
(1995) [10]; Đánh giá hiện trạng sử dụng đất theo quan điểm sinh thái và phát
triển lâu bền [18]; Phân vùng sinh thái nông nghiệp vùng đồng bằng Sông
Hồng [12]; Lê Hồng Sơn (1995) [15] nghiên cứu “ Ứng dụng kết quả đánh giá
đất vào đa dạng hóa cây trồng đồng bằng Sông Hồng”; Quyền Đình Hà
(1993) [9] với “Đánh giá kinh tế đất lúa vùng đồng bằng Sông Hồng”.
Ở nước ta, đất dốc chiếm khoảng 70% tổng diện tích đất tự nhiên, nghiên
cứu và tổng hợp các kết quả nghiên cứu việc sử dụng đất trung du và miền núi
Việt Nam, Nguyễn Thị Linh (1991) đã nêu ra 3 khó khăn lớn nhất cho việc
phát triển hệ thống canh tác trên đất dốc là: Xói mòn - rửa trôi, khô hạn đất và
cỏ dại [11]. Vương Văn Quỳnh (2002) và nhiều tác giả khác cũng cho rằng,
trong điều kiện của Việt Nam biện pháp chống xói mòn hữu hiệu và rẻ tiền
nhất là biện pháp phủ xanh. Họ cho rằng: ‘‘Việc bố trí cây trồng thành băng
giữa cây hằng năm và cây lâu năm luân phiên giữa các băng và trồng xen,
trồng gối… sẽ tạo một tán che tối đa, nhiều tầng, hạn chế được sức công phá
trực tiếp của hạt mưa”. Đó là cơ sở lý luận vững chắc nhất của hệ thống Nông
- Lâm kết hợp trên đất dốc [13].
Theo Trương Đình Trọng - trường Đại học Khoa học - Đại học Huế, đã
nghiên cứu thực trạng thoái hoá đất ở Quảng Trị và đã đưa ra một số giải pháp
tổng thể để bảo vệ môi trường đất Bazan ở Quảng Trị trên cơ sở thoái hoá đất:
- Sử dụng tổng hợp đất Bazan theo điều kiện cụ thể của từng vùng.
- Đối với những diện tích đất bazan có tiềm năng thoái hoá mạnh và rất
mạnh, cần chú ý bảo vệ, khôi phục và phát triển rừng phòng hộ, hạn chế tối đa
các hoạt động khai thác đất.
- Đầu tư theo chiều sâu vào đất Bazan và vào vốn hiện có.
- Áp dụng giải pháp nông lâm kết hợp ngay từ đầu với phương thức vườn
rừng gia đình thông qua việc giao quyền sử dụng đất lâu dài và ổn định cho
người dân.
13
Trong giai đoạn 2001 – 2005 từ các đề tài cấp bộ, các đề tài hợp tác quốc
tế, Viện Nông Hoá - Thỗ nhưỡng đã tập trung nghiên cứu ứng dụng và đạt các
kết quả nổi bật trong các lĩnh vực: Phát sinh học và phân loại đất; bảo vệ nâng
cao độ phì nhiêu; nâng cao hiệu quả sử dụng đất, phân bón, cũng như bảo vệ
môi trường đất nói riêng và môi trường nông nghiệp nói chung.
Qua nhiều năm nghiên cứu, Thái Phiên và Nguyễn Tử Siêm cũng đưa
ra nhiều kết quả nghiên cứu về các quá trình thoái hoá đất và các biện pháp để
phục hồi đất vùng đồi núi Việt Nam [14].
Bùi Huy Đáp trên cơ sở tổng kết các nghiên cứu về vùng miền núi phía
Bắc đã đưa ra chế độ canh tác thích hợp, theo tác giả ở các ruộng thung lũng
và bậc thang hệ thống cây trồng là Lúa mùa - Khoai tây (hoặc Đậu đỗ - Cây
phân xanh). Trên đất dốc cao trước đây làm một vụ Ngô xuân hay xuân hè có
thể đưa thêm cây Đậu trắng, Đậu hà lan vào hệ thống cây trồng như Ngô màu vụ đông [11].
Nguyễn Văn Chinh - Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam đã
tiến hành điều tra phân tích một số hệ thống trồng trọt cây công nghiệp lâu
năm trên đất đồi vùng Tây Nguyên và đã đưa ra được các biện pháp để phát
triển hệ thống cây công nghiệp lâu năm trên đất đồi, làm cơ sở để khai thác
hiệu quả đất trống đồi núi trọc, đó là việc áp dụng tổng hợp các biện pháp:
Biện pháp đầu tư, biện pháp sinh học, biện pháp kỹ thuật và các biện pháp về
cơ chế chính sách [10].
Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm canh tác truyền thống của đồng bào
dân tộc thiểu số ở vùng Tây Bắc, tác giả Ngô Đình Quế cùng cộng sự đã đề
xuất PTCT luân canh nương rẫy cải tiến:
Canh tác 3 năm - Trồng cây họ đậu phủ đất 2 -3 năm - canh tác 3 - 4
năm - trồng cây họ đậu phủ đất 3 - 4 năm.
Canh tác 3 năm -Trồng băng + canh tác 2 - 4 năm- Trồng băng mới 3 4 năm + canh tác 2 -5 năm - Trồng cây họ đậu phủ đất 3 - 4 năm.
14
Nghiên cứu về HTCT nương rẫy, Trần Đức Viên và cộng sự (1999)
nhận định rằng: Hiện nay canh tác du canh vẫn còn là một hình thức canh tác
chủ yếu của một bộ phận nông dân miền núi. Dưới sức ép của gia tăng dân số
cùng với việc khai thác rừng và đất đai một cách ồ ạt nhằm mục tiêu sản xuất
nương thực đã làm thay đổi hình thức sản xuất nương rẫy truyền thống. Mất
rừng thời gian bỏ hoá rút ngắn tỏ ra không còn bền vững và thích hợp với
đièu kiện hiện nay ở miền núi nước ta, Vì vậy cần có các biện pháp canh tác
trên đất dốc thích hợp để kéo dài thời gian canh tác và quản lý đất trong thời
gian bỏ hoá một cách tích cựu giúp đất phục hồi dinh dưỡng nhanh chóng cho
các chu kỳ kinh doanh tiếp theo [23].
Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Đậu và các cộng sự về hệ thống
canh tác nông lâm nghiệp ở vùng trung du miền núi phía Bắc Việt Nam cho
thấy hiệu quả của các mô hình canh tác trên đất dốc như sau: Mô hình canh
tác cây lương thực sắn xen đậu đỗ, lạc với các cây phân xanh chống xói mòn
trên các loại đất phát triển trên sa thạch, phiến thạch sét và phù sa cổ là biện
pháp giải quyết phân bón tại chỗ có hiệu quả cao để thâm canh tăng năng suất
trên đất dốc.
Theo Nguyễn Tử Siêm và Thái Phiên (1999) [14] đối với vùng cao, dân
cư ít, trình độ dân trí thấp, sản xuất còn ở mức thô sơ, cơ sở hạ tầng thấp, an
toàn lương thực là vấn đề cấp bách vì vậy các mô hình canh tác có triển vọng là
trồng cây đặc sản, cây ăn quả, cây dược liệu phối hợp với bảo vệ đầu nguồn,
cây trồng dưới tán rừng lâu năm, hạn chế du canh, chuyển đổi du canh thành
nương định canh với các loại cây họ đậu cải tạo đất.
Nhóm tác giả Nguyễn Hữu Đông, Phạm Chí Thành, Phạm Tiến Dũng
(1996) [23] khảo sát một số mô hình chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên hệ
thống canh tác ruộng chờ mưa tại Tràng Định - Lạng Sơn đã chỉ ra: Các loại
hình sử dụng đất ruộng chờ mưa phổ biến (gồm ruộng bậc thang canh tác 1 vụ
lúa và 1 vụ cây trồng cạn đất thung lũng và đất phiến bãi) các hạn chế khi canh
tác trên hệ thống canh tác này là hệ số quay vòng sử dụng đất và tỷ trọng của
15
hệ canh tác cải tiến thấp, các tác giả cũng đưa ra một số mô hình chuyển dịch
cơ cấu cây trồng.
Nhóm tác giả Trần Đức Hạnh, Văn Tất Tuyên, Phạm Văn Phê (1996)
[17] đã có những kiến nghị về tập đoàn cây trồng nông lâm nghiệp cho xã Thái
Thịnh và vùng ven hồ Hòa Bình bao gồm: Cây nông nghiệp (lúa, sắn, đậu,
ngô), cây ăn quả (chuối, mơ, mận, dứa), cây lâm nghiệp (luồng, nứa, vầu,
bương, keo).
Đặng Thịnh Triều và cộng sự (2004) [19] nghiên cứu một số hệ thống
canh tác ở miền núi và vùng cao tại Việt Nam cho thấy, hiện nay ở nước ta
đang tồn tại các hệ thống canh tác sau: nương rẫy du canh du cư, lúa nước, hoa
màu định canh định cư, cây lâu năm tập trung, chăn nuôi đại gia súc, nông lâm
kết hợp.
Theo Võ Đại Hải (2003) [8] việc cải tiến các hệ thống canh tác nương
rẫy, theo hướng sử dụng đất bền vững chính là việc thiết lập các hệ thống nông
lâm kết hợp và hiệu quả do nó mang lại là cơ cấu thu nhập của người dân thay
đổi, thời hạn sử dụng đất kéo dài, năng suất cây trồng ổn định.
Vương Văn Quỳnh (2002) [13], nghiên cứu luận cứ phát triển kinh tế xã hội vùng xung yếu hồ thủy điện Hòa Bình đã chỉ ra được các chính sách
kinh tế xã hội đã được triển khai tại khu vực và tác động của chính sách đó đến
đời sống người dân và sự phát triển của khu vực. Nghiên cứu sự tác động của
từng hệ thống canh tác đến các yếu tố chính của môi trường vật lý và kinh tế xã hội cho thấy mô hình canh tác ruộng nước, nông lâm kết hợp, rừng trồng có
hiệu quả tác động dương đến môi trường vật lý. Mô hình nương rẫy có biểu
hiện tiêu cực đến môi trường nhưng ở mức độ thấp. Những phương thức canh
tác vườn, canh tác màu, canh tác rừng trồng có hiệu quả tổng hợp chưa cao nên
cần được cải tạo phát triển theo hướng chuyển dần thành canh tác nông lâm kết
hợp.
Nhóm tác giả Trần Đức Viên, Phạm Chí Thành và tập thể tác giả (1996)
[23] đã lựa chọn mô hình phù hợp với 3 cấp dốc khác nhau: cấp 1 (00 – 50): Lúa
16
rẫy xen cây phân xanh, cấp 2 (60 – 150): lúa rẫy xen đậu đỏ và cấp 3 (> 15 0)
canh tác nông lâm kết hợp; đồng thời cũng phân tích được ảnh hưởng của các
mô hình canh tác môi trường và kinh tế hộ, trong nghiên cứu về hệ thống canh
tác trên đất dốc bạc màu góp phần định canh cho đồng bào dân tộc ở Đaklak.
Nguyễn Minh Thanh, Trần Thị Nhâm (2015) đã đánh giá và lựa chọn 3
loại hình sử dụng đất chính với các cây trồng hàng năm, cây ăn quả và cây lâm
nghiệp, phân tích đánh giá hiệu quả tổng hợp cho từng loại cây trồng, làm cơ
sở đề xuất giải pháp quản lí sử dụng đất theo hướng sản xuất hàng hóa: mở
rộng diện tích trồng các loại cây có giá trị kinh tế như Na dai, cây Keo tai
tượng, Xoan ta tại xã Cao Kỳ, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Cạn.[16].
Nguyễn Minh Thanh (2016), đã nghiên cứu đánh giá và lựa chọn các mô
hình canh tác ở huyện Chư Pưh theo hướng phát triển sản xuất hàng hóa:
(i) Nhóm 1 gồm cây công nghiệp ngắn ngày và sắn, bắp, đậu đỗ, cỏ chăn
nuôi, hoa màu và lúa nước;
(ii) Nhóm 2 gồm cây công nghiệp ngắn ngày, dài ngày (cà phê, hồ tiêu) và
cây lương thực (cỏ chăn nuôi, đậu đỗ, hòa màu và lúa nước);
(iii) Nhóm 3 gồm cây công nghiệp dài ngày (cao su, hồ tiêu, cà phê).
Nhóm mô hình 2 có hiệu quả kinh tế cao nhất, tiếp theo là nhóm mô hình 3 và
thấp nhất là nhóm mô hình 1. Hiệu quả xã hội việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng
đã thu hút được rất nhiều lao động tham gia là mô hình 2, tiếp đến là mô hình 1
và 3. Nhóm mô hình 2 cũng có khả năng bảo vệ môi trường cao nhất. Một
trong những giải pháp được đề xuất để nâng cao hiệu quả sử dụng đất là cần
tăng cường sự liên kết trong sản xuất và thực hiện tốt chuỗi giá trị nông sản.
[17].
Từ tổng quan vấn đề nghiên cứu trên thế giới và Việt nam cho thấy vấn
đề sử dụng đất đã được quan tâm và nghiên cứu từ rất sớm. Tuy nhiên, các
nghiên cứu về cơ sở khoa học cho vấn đề sử dụng đất bền vững vẫn chưa
nhiều. Hiện tại trên địa bàn thực hiện của đề tài vẫn chưa có nghiên cứu sâu
nào về các cơ sở khoa học, cũng như đề xuất giải pháp sử dụng đất nông lâm
17
nghiệp nói chung và phương hướng sử dụng đất nông lâm nghiệp bền vững
nói riêng. Mặt khác xã Yên Khê có vị thế địa lý và mô hình canh tác khá đa
dạng do đó không thể áp dụng mô hình phát triển nông nghiệp nông thôn
đồng nhất mà cần tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển các mô hình
canh tác để đưa ra những đề xuất phù hợp. Vì vậy vấn đề nghiên cứu đặt ra
thực sự là cần thiết.
Chương 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá được hiện trạng các loại hình sử dụng đất nông lâm nghiệp
phổ biến tại địa phương.
- Đề xuất một số giải pháp quản lý sử dụng đất theo hướng bền vững tại
địa bàn xã Yên Khê, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An.
2.2. Nội dung nghiên cứu
Với các mục tiêu đề ra, khóa luận thực hiện các nôi dung sau:
- Đánh giá hiện trạng sử dụng đất và lựa chọn một số loại hình sử dụng
đất phổ biến ở địa phương.
- So sánh, đánh giá hiệu quả sử dụng đất của một số loại hình sử dụng
đất nông lâm nghiệp phổ biến trên địa bàn nghiên cứu.
- Đề xuất một số giải pháp phát triển các loại hình sử dụng đất nông lâm
nghiệp theo hướng hợp lý và bền vững.
2.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
2.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những loại hình canh tác nông lâm
nghiệp phổ biến tại xã Yên Khê, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An.
2.3.2. Phạm vi nghiên cứu
18
Đề tài tập trung nghiên cứu trên địa bàn xã Yên Khê, huyện Con Cuông,
tỉnh Nghệ An với các số liệu thu thập được từ năm 2010 đến năn 2016
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Quan điểm phương pháp luận
Phương pháp nghiên cứu của đề tài có sự kết hợp giữa phương pháp điều
tra quan sát đối tượng trên hiện trường, thu thập số liệu thứ cấp tại các cơ
quan liên quan, kết hợp phỏng vấn, điều tra đánh giá có sự tham gia của
người dân. Các kết quả được tổng hợp theo từng nội dung nghiên cứu, trên cơ
sở đó đưa ra các kết luận, giải pháp cụ thể, thích hợp.
2.4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Ứng với từng nội dung nghiên cứu, đề tài áp dụng một số phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau:
Nội dung 1. Đánh giá hiện trạng sử dụng đất và lựa chọn một số mô hình sử dụng
đất phổ biến
* Thu thập số liệu thứ cấp
Điều tra trực tiếp thông qua hệ thống số liệu, hồ sơ, tài liệu đã được công
bố:
- Thu thập dữ liệu, số liệu về điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế xã hội.
- Tài liệu, báo cáo, bản đồ liên quan đến chính sách đất đai, tình hình sử
dụng đất, hiện trạng cũng như biến động sử dụng đất nông lâm nghiệp thời kỳ
2011 - 2016.
* Thu thập số liệu sơ cấp
Để thu thập được số liệu này, đề tài sử dụng các phương pháp phỏng vấn
nông hộ. Cụ thể:
- Điều tra theo tuyến và xây dựng sơ đồ lát cắt. Lựa chọn hướng đi qua
tất cả cả các mô hình sử dụng đất trên địa bàn xã.
- Trên cơ sở lát cắt, xác định các mô hình sử dụng đất phổ biến nhất tại
địa phương.
- Sử dụng công cụ PRA phỏng vấn nông hộ theo câu hỏi trong bảng biểu.
19
Nội dung 2. Phân tích hiệu quả sử dụng đất của một số mô hình sử dụng đất
nông lâm nghiệp
* Điều tra phỏng vấn nông hộ
Phương pháp này sử dụng bộ câu hỏi để điều tra nông hộ, phỏng vấn bán
cấu trúc với các câu hỏi mở. Bộ câu hỏi điều tra bao gồm các thông tin về tình
hình cơ bản của hộ nông dân, qui mô, cơ cấu đất đai, thu nhập kinh tế, các
hoạt động sản xuất nông lâm nghiệp, những khó khăn, kiến nghị….Các thông
tin thể hiện bằng những câu hỏi ngắn gọn, dễ trả lời, phù hợp với trình độ
chung của nông dân (chi tiết ở phần phụ lục). Số hộ tham gia phỏng vấn là 30
hộ (10 hộ/thôn x 3 thôn/xã).
* Đánh giá hiệu quả sử dụng đất
(i) Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế sử dụng đất
+ Đối với mô hình canh tác với cây hàng năm:
Coi các yếu tố chi phí và kết quả là độc lập tương đối và không chịu tác
động của yếu tố thời gian, mục tiêu đầu tư và biến động giá trị đồng tiền.
Phương pháp này áp dụng tính toán cho các mô hình canh tác cây ngắn ngày:
P = TN - CP [2.1]
Trong đó: P: Lợi nhuận; TN: Thu nhập; CP: Chi phí
Đối với phương pháp này, nếu giá trị tính toán P > 0 thì mô hình canh tác
đó có hiệu quả kinh tế và ngược lại.
+ Đối với mô hình canh tác trồng cây lâu năm
- Xem xét chi phí và thu nhập trong mối quan hệ với mục tiêu đầu tư,
thời gian, giá trị đồng tiền.
- Các chỉ tiêu kinh tế được tập hợp và tính toán bằng các hàm: NPV,
BCR, BPV, CPV, IRR . Các chỉ tiêu được tính toán như sau:
* Giá trị hiện tại lợi nhuận ròng NPV:
NPV là hiệu số giữa giá trị thu nhập và chi phí thực hiện các hoạt động
sản xuất trong các mô hình khi đã tính chiết khấu để quy về thời điểm hiện
tại.
20
n
NPV = ∑
r =0
Trong đó:
Bt − Ct
(1 + r )
[2.2]
NPV là giá trị hiện tại thu nhập ròng (đồng).
Bt là giá trị thu nhập ở năm t (đồng).
Ct là giá trị chi phí ở năm t (đồng).
r là tỉ lệ chiết khấu hay lãi suất (%).
T là thời gian thực hiện các hoạt động sản xuất (năm).
NPV dùng để đánh giá hiệu quả kinh tế của các mô hình kinh tế hay các
phương thức canh tác. NPV càng lớn thì hiệu quả càng cao.
NPV > 0 : Sản xuất có lãi
NPV < 0 : Sản xuất bị lỗ
NPV = 0 : Sản xuất hòa vốn
*Tỷ lệ thu hồi nội bộ IRR:
IRR là chỉ tiêu đánh giá khả năng thu hồi vốn đầu tư có kể đến yếu tố
thời gian thông qua tính chiết khấu.
IRR chính là tỷ lệ chiết khấu, tỷ lệ này làm cho NPV = 0 tức là khi
n
Bt − Ct
∑ (1 + r )
t =0
t
= 0 thì r = IRR [2.3]
IRR càng lớn thì hiệu quả càng cao, khả năng thu hồi vốn càng sớm.
IRR > r có lãi; IRR < r hòa vốn;
* Tỷ lệ thu nhập so với chi phí BCR:
BCR là hệ số sinh lãi thực tế phản ánh chất lượng đầu tư và cho biết mức
thu nhập trên một đơn vị chi phí sản xuất.
n
BCR =
Bt
∑ (1 + r )
t =1
n
Ct
∑ (1 + r )
t =1
t
t
=
BPV
CPV
[2.4]
Trong đó: BCR là tỷ suất thu nhập và chi phí (đồng/đồng).
BPV là giá trị hiện tại củ thu nhập (đồng).
21
CPV là giá trị hiện tại của chi phí (đồng).
Nếu mô hình nào hoặc phương thức canh tác nào đó BCR > 1 thì có hiệu
quả kinh tế.
BCR càng lớn thì hiệu quả kinh tế càng cao, ngược lại BCR < 1 thì kinh
doanh không có hiệu quả. Theo thực tế, BCR ≤ 1,5 thì phương án chắc chắn
sẽ an toàn.
(ii) Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xã hội
Các tiêu chí đánh giá hiệu quả xã hội được thảo luận cùng người dân và
đánh giá các tiêu chí và cho điểm đúng (1 điểm), không đúng (0 điểm). Một
số tiêu chí đánh giá được sử dụng như sau:
- Đảm bảo an toàn lương thực, gia tăng lợi ích của người nông dân.
- Đáp ứng được mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế của vùng.
- Thu hút nhiều lao động giải quyết công ăn việc làm cho nông dân.
- Góp phần chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật.
- Tăng cường sản phẩm hàng hóa, đặc biệt là hàng xuất khẩu.
(iii) Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả môi trường
Phương pháp xác định hiệu quả về mặt môi trường của quá trình sử
dụng đất canh tác nông nghiệp là rất phức tạp, rất khó định lượng, đòi hỏi
phải được nghiên cứu, phân tích trong thời gian dài. Vì vậy, đề tài nghiên cứu
chỉ dừng lại ở việc đánh giá hiệu quả môi trường thông qua việc đánh giá tính
thích hợp của các loài cây trồng đối với điều kiện đất đai hiện tại, thông qua
kết quả điều tra về đầu tư phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và kết quả phỏng
vấn hộ nông dân về nhận xét của họ đối với các loại hình sử dụng đất hiện tại
thông qua một số chỉ tiêu.
- Màu đất sẫm hơn (màu đất được cải thiện);
- Kết cấu đất được cải thiện;
- Lớp đất mặt dày hơn;
- Độ màu mỡ của đất;
22