Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

2.2. Bao tuyet. Bình 2..17

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.36 KB, 8 trang )

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG THUỐC Y HỌC CỔ TRUYỀN CỦA NGƯỜI
THÁI TẠI XÃ TAM THÁI, HUYỆN TƯƠNG DƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN
Nguyễn Thị Lê Hoa, Lê Thị Tuyết và Phạm Quốc Bình
TÓM TẮT
Kết quả điều tra 250 đại diện hộ gia đình dân tộc Thái ở xã Tam Thái, huyện Tương
Dương, Nghệ An, năm 2014, với nghiên cứu mô tả cắt ngang nhằm tìm hiểu tình hình sử dụng
thuốc YHCT cho thấy:
- Đối với nhóm người dân có sử dụng thuốc YHCT, lý do chính được đưa ra là do
thuốc rẻ tiền (36,6%), tiếp đến thuốc YHCT sẵn có, dễ kiếm 31,7%; dùng khi bị bệnh mãn
tính 25,2%.
- Ngược lại, lý do không sử dụng : Lý do cao nhất là do người dân thiếu kiến thức về
thuốc YHCT 78,6%; tiếp đến thuốc YHHĐ sẵn có, dễ kiếm 61,6% và không có thầy thuốc
YHCT 54,5%
Từ khóa: thuốc y học cổ truyền (YHCT)
SUMMARY
The results of a survey of 250 representatives of Thai ethnic households in Tam
Thai commune, Tuong Duong district, Nghe An province, in 2014, with a cross-sectional
descriptive study aimed at understanding the situation of using traditional drugs showed
that:
- For the group of people using traditional drugs, the main reason was given by the
cheap drugs (36.6%), followed by traditional drugs available, easy to find 31.7%; Used for
chronic illness 25.2%
On the contrary, the reasons not used: The reason is the lack of knowledge about
traditional medicine 78.6%; Next to the available medicine, easy to find 61.6% and no
traditional medicine physician 54.5%

1. Đặt vấn đề
Tầm quan trọng của thuốc YHCT ngày càng được khẳng định mặc dù nó có sự
thay đổi phụ thuộc vào lịch sử văn hoá của dân tộc, các học thuyết y học và đặc điểm
dân tộc của mỗi quốc gia. Ngày nay, việc sử dụng thuốc YHCT đã trở lên phổ biến hơn
ở nhiều quốc gia trên thế giới, cho dù ở mỗi nước có những nét đặc thù riêng, nhưng


giá trị trong phòng chữa bệnh và giá trị kinh tế của thuốc YHCT ngày càng được thừa
nhận. Tổ chức Y tế Thế giới ước tính rằng có khoảng 60% dân số thế giới sử dụng các
loại thuốc thảo dược để điều trị bệnh. Ở Nhật Bản, trong khoảng 15 năm trở lại đây
người dân sử dụng các loại thuốc YHCT để điều trị bệnh đã tăng 15 lần trong khi các
loại tân dược chỉ tăng 2,6 lần [10].
Y học cổ truyền Việt Nam có từ lâu đời, cội nguồn là những kinh nghiệm dân
gian hình thành qua quá trình đấu tranh sinh tồn với bệnh tật, được lưu truyền và liên
tục được bổ sung bởi kinh nghiệm của các thế hệ, đang ngày càng hoàn thiện và khoa
học hơn, khẳng định được vị trí và vai trò trong chăm sóc sức khoẻ, song hành cùng
với sự phát triển của y học hiện đại. Tuy nhiên, theo một số nghiên cứu gần đây cho
thấy, việc sử dụng y học cổ truyền trong điều trị còn thấp. Trên thực tế việc triển khai
1


những chủ trương của Đảng, Nhà nước và ngành y tế về phát triển y học cổ truyền vẫn
gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là ở các trạm y tế xã, nơi vùng sâu, vùng xa, nông thôn
hẻo lánh [8].
Nghiên cứu “Thực trạng sử dụng thuốc YHCT của người Thái tại xã Tam
Thái, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An” được thực hiện với mục tiêu tìm hiểu tình
hình sử dụng YHCT bao gồm cả lý do tại sao người dân lại sử dụng hoặc không sử
dụng, qua đó giúp cho những nhà quản lý có những kế hoạch phát triển YHCT một
cách tổng thể, phù hợp với hoàn cảnh của địa phương.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu
Đối tượng: Chủ hộ gia đình hoặc người đại diện hộ gia đình (là người từ 18
tuổi trở lên nắm vững thông tin về tình trạng sức khỏe và chăm sóc sức khỏe của các
thành viên HGĐ), là người dân tộc Thái sinh sống tại địa bàn nghiên cứu.
Địa điểm: Nghiên cứu được thực hiện tại xã Tam Thái thuộc huyện Tương
Dương, tỉnh Nghệ An. Địa điểm nghiên cứu là tại TYT xã và HGĐ.
Thời gian: năm 2014.

2.2. Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang sử dụng kết hợp phương pháp nghiên
cứu định lượng thông qua phỏng vấn chủ hộ gia đình hoặc người đại diện hộ gia đình
bằng bộ phiếu cấu trúc được thiết kế sẵn.
Cỡ mẫu: Áp dụng công thức tính
n
=

Z
2

p.(1x

(1-α/2)

p)
d2

Trong đó, n là cỡ mẫu nghiên cứu, Z(1- α/2)=1,96, p=30% (hay p=0,3) là tỷ lệ
người dân điều trị bệnh bằng thuốc YHCT theo nghiên cứu tại huyện Như Xuân tỉnh
Thanh Hóa [4], d=0,06 là sai số mong muốn. Từ đó, tính được n=224 hộ gia đình. Trên
thực tế chúng tôi phỏng vấn được 250 hộ gia đình.
Chọn mẫu
Chọn huyện: Chọn chủ định huyện Tương Dương tỉnh Nghệ An
Chọn xã: Chọn chủ định xã Tam Thái thuộc huyện Tương Dương.

2


Chọn thôn: Chọn ngẫu nhiên 5 thôn ở xã Tam Thái để điều tra. Mỗi thôn điều

tra 50 hộ gia đình.
Chọn HGĐ: Tại mỗi thôn được chọn, lập danh sách, đánh số thứ tự toàn bộ các
HGĐ dân tộc Thái trong thôn. Rút ngẫu nhiên một đồng tiền mang theo và sử dụng hai
số cuối trong đồng tiền đó để xác định hộ đầu tiên. Hộ đầu tiên được chọn là hộ có số
thứ tự trong danh sách trùng với 2 số cuối của đồng tiền đã chọn. Các hộ tiếp theo
được chọn theo phương pháp “cổng liền cổng”.
Chọn đối tượng phỏng vấn: Tại mỗi HGĐ được chọn, tiến hành phỏng vấn bằng
bộ phiếu định lượng chủ hộ gia đình hoặc người đại diện hộ gia đình.
Xử lý số liệu: Số liệu nhập vào máy tính 2 lần bằng chương trình Epidata 3.1.
Sử dụng chương trình SPSS 17.0 để phân tích số liệu. Các thông số được tính toán và
trình bày bằng các bảng, biểu đồ bao gồm: số lượng (SL), giá trị %, giá trị p.
Đạo đức nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu được điều tra viên giải thích cụ thể
về mục đích, nội dung nghiên cứu và có quyền từ chối tham gia nghiên cứu bất cứ khi
nào. Các thông tin thu được đảm bảo giữ bí mật và chỉ phục vụ cho mục đích nghiên
cứu.
3. Kết quả và bàn luận
Bảng 1. Một số đặc điểm của đối tượng được phỏng vấn tại hộ gia đình
Số

Đặc điểm
Độ tuổi

Giới tính

Nghề nghiệp chính

lượng

Tỷ lệ %


< 20 tuổi

0

0,0

20-29 tuổi

30

12,0

30-39 tuổi

27

10,8

40-49 tuổi

44

17,6

50-59 tuổi

54

21,6


≥ 60 tuổi

95

38,0

Nam

55

22,0

Nữ

195

78,0

Làm ruộng

230

92,0

Buôn bán

0

0,0


3


Trình độ học vấn

Cán bộ

4

1,6

Hưu trí

16

6,4

Không biết chữ

37

14,8

Tiểu học

90

36,0

Trung học cơ sở


111

44,4

PTTH

7

2,8

THCN trở lên

5

2,0

250

100,0

Tổng

Kết quả điều tra cho thấy, đối tượng được phỏng vấn ở độ tuổi khá cao với tỷ lệ
59,6% từ 50 tuổi trở lên, trong đó có 38,0% từ 60 trở lên. Về giới tính, tỷ lệ đối tượng
là nữ chiếm khoảng 3/4 trong tổng số (78,0%). Về nghề nghiệp, với đặc điểm địa bàn
nghiên cứu là một xã thuần nông, có nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp nên đa số đối
tượng được phỏng vấn có nghề nghiệp chính là làm ruộng (92,0%). Cũng chính vì vậy
mà có tới trên một nửa (50,8%) đối tượng chỉ có trình độ học vấn từ tiểu học trở
xuống. Từ các kết quả phân tích trên đây có thể thấy đời sống của người dân xã Tam

Thái còn gặp nhiều khó khăn, điều đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hành vi sử dụng thuốc
YHCT trong điều trị bệnh của người dân.

Biểu đồ 1. Tỷ lệ HGĐ có sử dụng thuốc YHCT trong 6 tháng qua (n=250)
Kết quả điều tra cho thấy có 235 trong tổng số 250 HGĐ điều tra có ít nhất 1
người bị ốm trong vòng 6 tháng qua (chiếm 94,0%), trong đó tỷ lệ có sử dụng thuốc
YHCT là 52,3%. Tỷ lệ này thấp hơn nhiều so với một số nghiên cứu trước đó như tại 9
4


xã thuộc 3 huyện/thành phố tỉnh Hải Dương (67,7%) [2], tại huyện Can Lộc tỉnh Hà
Tĩnh (81,4%) [3] với đối tượng là người Kinh, tại huyện Lang Chánh tỉnh Thanh Hoá
(80,4%) với đối tượng nghiên cứu đa phần là người Thái và Mường (99% mẫu nghiên
cứu) [9], tại xã Sa Pả, tỉnh Lào Cai (90,24%) với đối tượng là người H’Mông [6].
Bảng 2. Lý do các HGĐ không dùng thuốc y học cổ truyền
Lý do

Số lượng (n=112)

Tỷ lệ %

Thiếu kiến thức về thuốc YHCT

88

78,6

Thuốc YHHĐ sẵn có, dễ kiếm

69


61,6

Không có thầy thuốc YHCT

61

54,5

Bất tiện khi sử dụng

36

32,1

Thầy thuốc ít dùng

8

7,1

Không tin tưởng

4

3,6

Lâu khỏi, không tác dụng

4


3,6

Do bệnh nặng

3

2,7

Thuốc YHCT đắt

2

1,8

Kết quả bảng 2 cho thấy các lý do khiến người dân tại địa bàn điều tra sử dụng
thuốc YHCT chưa cao như mong đợi, trong đó lý do được nhiều người dân đưa ra nhất
là do thiếu kiến thức về thuốc YHCT là 75,8% ; tiếp đến thuốc YHHĐ sẵn có, dễ kiếm
61,6% và không có thầy thuốc YHCT 54,5%
Điều này có thể do địa bàn nghiên cứu là ở các xã thuộc một huyện vùng cao,
vùng sâu vùng xa của tỉnh Nghệ An nói riêng và nước ta nói chung, tỷ lệ người dân tộc
thiểu số chiếm đa số (trong nghiên cứu này chỉ có duy nhất một chủ HGĐ được phỏng
vấn là người Kinh còn lại là người Thái), trình độ học vấn hạn chế, nghề nghiệp chủ
yếu làm nông nghiệp, v.v… do vậy có thể việc tiếp cận với các thông tin về YHCT còn
nhiều hạn chế so với các khu vực khác. Kết quả này cho thấy để gia tăng hơn nữa tỷ lệ
người dân sử dụng thuốc YHCT thì cần đẩy mạnh các hoạt động truyền thông để
người dân hiểu rõ tác dụng của phương pháp điều trị bằng thuốc y học cổ truyền.
Một lý do khác khiến người dân chưa sử dụng là do không có thầy thuốc y học
cổ truyền (54,5%). Mặc dù hiện nay TYT vẫn đang triển khai hoạt động khám chữa
bệnh bằng YHCT nhưng chủ yếu là sử dụng kết hợp với phương pháp YHHĐ do chưa

5


có nhân lực chuyên ngành YHCT. Nguồn nhân lực y tế được coi là một trong những
thành phần cơ bản và quan trọng nhất của hệ thống, tác động trực tiếp đến hiệu quả
của hoạt động KCB bởi người thầy thuốc có tác động rất lớn đến hành vi của người
bệnh thông qua quá trình điều trị [1]. Do vậy, tình trạng thiếu nhân lực YHCT cả về số
lượng và chất lượng chắc chắn có ảnh hưởng rất lớn đến việc sử dụng dịch vụ của
người dân. Từ đây cho thấy, giải pháp bổ sung nguồn nhân lực y học cổ truyền TYT
cần phải được ưu tiên hàng đầu trong các giải pháp tăng tỷ lệ người dân sử dụng
YHCT để điều trị bệnh trong thời gian tới.
Bảng 3. Lý do các HGĐ lựa chọn thuốc y học cổ truyền
Số lượng

Lý do

(n=123)

Tỷ lệ %

Rẻ tiền

45

36,6

Sẵn có, dễ kiếm

39


31,7

Bệnh mãn tính

31

25,2

Bổ

8

6,5

Không tác dụng phụ

8

6,5

Theo lệnh của YT

1

0,8

Kết quả bảng 3 cho thấy: Ngược lại đối với nhóm người dân có sử dụng thuốc
YHCT, Lý do các HGĐ lựa chọn thuốc y học cổ truyền chính được đưa ra là do thuốc
YHCT rẻ tiền 36,6%, tiếp đến thuốc Sẵn có, dễ kiếm 31,7% và do dùng khi mắc bệnh
mãn tính 25,2%. Lợi ích này cũng đã được thể hiện ở nhiều nghiên cứu trong và ngoài

nước trước đó cũng như trong các báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới [5]. Do đời sống
của người dân tại địa bàn điều tra còn nhiều khó khăn nên việc sử dụng thuốc YHCT
để điều trị bệnh do vậy sẽ giúp giảm gánh nặng chi phí do chăm sóc sức khỏe.
Ngoài lý do rẻ tiền thì lý do sẵn có, dễ kiếm cũng được 31,7% người dân được
phỏng vấn đưa ra. Nghiên cứu của tác giả Đặng Kim Thanh đã cho thấy đồng bào dân
tộc Thái có khá nhiều kinh nghiệm trong việc sử dụng bài thuốc dân gian từ các loài
cây thuốc sẵn có tại địa phương. Trong thời gian gần đây, ngành y tế địa phương đã
phối hợp với Hội Đông y tổ chức tuyên truyền, giới thiệu cây thuốc và tác dụng chữa
bệnh của mỗi loại cây bằng nhiều biện pháp như hướng dẫn về cây thuốc nam cho
người bệnh đến khám, chữa bệnh tại TYT, tuyên truyền qua đội ngũ cộng tác viên, qua
những người bệnh đã được chữa khỏi bằng phương pháp YHCT, đồng thời viết bài
6


tuyên truyền các bài thuốc quý, bài thuốc đơn giản để điều trị các bệnh thông thường,
v.v… tuy nhiên hoạt động này chưa được triển khai một cách thường xuyên. Điều này
cho thấy cần phải tăng cường hơn nữa các hoạt động truyền thông tư vấn, dần dần
người dân sẽ tin tưởng vào phương pháp điều trị YHCT, đồng thời việc tìm hiểu, trồng
và bảo tồn cây thuốc được nhân rộng trên địa bàn.
Lý do bệnh mãn tính cũng được khoảng 1/4 hộ gia đình lựa chọn (25,2%).
Nghiên cứu về tình hình sử dụng thuốc YHCT của người Cao Lan ở Tuyên Quang
cũng cho kết quả tương tự: đồng bào ưa dùng thuốc YHCT để chữa các bệnh mạn tính
như bệnh gan phù, gan vàng, trĩ, đẹn vàng trẻ em, bệnh đậu lào, bệnh não giật, bệnh
não mãn tính, v.v… [7]. Nghiên cứu của Phạm Vũ Khánh tại Hải Dương cũng chỉ ra
rằng các bệnh mạn tính được người dân lựa chọn sử dụng YHCT với tỷ lệ 61%, trong
đó hầu hết người dân cho rằng hiệu quả điều trị của thuốc YHHĐ hạn chế trong điều
trị bệnh mạn tính, hơn nữa nếu dùng lâu ngày sẽ có nhiều tác dụng phụ do đó người
dân thường chọn thuốc YHHĐ điều trị bệnh cấp tính, hoặc giai đoạn cấp của bệnh sau
đó họ sử dụng các phương pháp điều trị của YHCT [2]. Các nghiên cứu lâm sàng gần
đây cũng đã chứng minh rằng sử dụng phương pháp điều trị bằng y học cổ truyền (bao

gồm cả đơn thuần và kết hợp) không chỉ có tác dụng trong việc điều trị những chứng
bệnh thông thường mà còn điều trị những bệnh phức tạp, mãn tính và cả những bệnh
hiểm nghèo như như ung thư, HIV/AIDS (điều trị hỗ trợ). Một nghiên cứu tại Mỹ cho
thấy tỷ lệ những bệnh nhân có HIV/AIDS sử dụng YHCT làm thuốc điều trị hỗ trợ lên
tới 78% [8].
Kết luận
Kết quả điều tra 250 đại diện hộ gia đình cho thấy:
- Đối tượng được phỏng vấn có nghề nghiệp chính là làm ruộng (92,0%);
- Trong 6 tháng qua có 235 trong tổng số 250 HGĐ điều tra có ít nhất 1 người
bị ốm (chiếm 94,0%), trong số người bị ốm đó, tỷ lệ có sử dụng thuốc YHCT là
52,3%.
- Lý do khiến người dân tại địa bàn điều tra chua sử dụng thuốc YHCT cao
nhất: người dân thiếu kiến thức về thuốc YHCT 78,6%; tiếp đến thuốc YHHĐ sẵn có,
dễ kiếm 61,6% và không có thầy thuốc YHCT 54,5%

7


- Ngược lại đối với nhóm người dân có sử dụng thuốc YHCT, lý do chính được
đưa ra là do thuốc YHCT rẻ tiền (36,6%), tiếp đến thuốc YHCT sẵn có, dễ kiếm
31,7%; dùng khi bị bệnh mãn tính 25,2%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Phạm Việt Hoàng (2013), Thực trạng y học cổ truyền tỉnh Hưng Yên và

hiệu quả can thiệp tăng cường hoạt động khám chữa bệnh của bệnh viện y học cổ
truyền tỉnh, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Y học cổ truyền, trường Đại học Y Hà Nội.
2.


Phạm Vũ Khánh và cộng sự (2013), “Thực trạng sử dụng y học cổ

truyền tại tuyến xã ở tỉnh Hải Dương”, Tạp chí y học thực hành, 865(4), tr.14-17.
3.

Nguyễn Trung Kiên (2014), Thực trạng y học cổ truyền tại tuyến xã

huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh năm 2014, Luận văn thạc sĩ y học, Học viện Y dược học
Cổ truyền Việt Nam.
4.

Nguyễn Thị Quỳnh Nga (2014), Tình hình bệnh tật và thực trạng khám

chữa bệnh bằng y học cổ truyền của huyện Như Xuân tỉnh Thanh Hóa năm 2014, Luận
văn thạc sĩ y học, Học viện Y dược học Cổ truyền Việt Nam.
5.

Trần Thủy Sóng (2013), Thực trạng nguồn nhân lực, sử dụng thuốc và

nhận thức thực hành của người dân về y học cổ truyền ở tuyến cơ sở tại thành phố Hà
Nội năm 2013, luận văn thạc sĩ y học cổ truyền, Học viện Y Dược học cổ truyền Việt
Nam.
6.

Đặng Kim Thanh và CS (2008), “Đánh giá thực trạng sử dụng thuốc y

học cổ truyền của người H’Mông tại xã Sa Pả, tỉnh Lào Cai”, Tạp chí Y học Việt Nam,
số 1, tr.20-24.
7.


Đặng Kim Thanh, Ty Thị Hoàn (2008), “Nghiên cứu tình hình sử dụng

thuốc y học cổ truyền của người Cao Lan tại xã Đội Cấn, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên
Quang”, Tạp chí Y học Việt Nam, số 1, tr.48-52.
8.

Nguyễn Thị Phương Thảo (2011), Đánh giá thực trạng sử dụng dịch vụ y

học cổ truyền tại các trạm y tế, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc năm 2011, Đề tài
nghiên cứu khoa học, Viện Y học Cổ truyền Trung ương.
9.

Nguyễn Thị Thu Trang (2014), Thực trạng khám chữa bệnh bằng

YHCT tại huyện Lang Chánh tỉnh Thanh Hóa năm 2014, Luận văn thạc sĩ y học, Học
viện Y dược học Cổ truyền Việt Nam.
10.

Unnikrishnan Payyappallimana (2010), “Role of Traditional Medicine

in Primary Health Care: An Overview of Perspectives and Challenges”, Yokohama
Journal of Social Sciences, 14(6), pp.58-77.
8



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×