Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Nghiên cứu tình hình quản lý sức khoẻ người khuyết tật tại cộng đồng ở thành phố tam kỳ tỉnh quảng nam la CKII khuong minh dao 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC

BỘ Y TẾ

KHƯƠNG MINH ĐẠO

NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH QUẢN LÝ SỨC KHỎE
NGƯỜI KHUYẾT TẬT TẠI CỘNG ĐỒNG
Ở THÀNH PHỐ TAM KỲ TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN ÁN CHUYÊN KHOA CẤP II

HUẾ - 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC

KHƯƠNG MINH ĐẠO

NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH QUẢN LÝ SỨC KHỎE
NGƯỜI KHUYẾT TẬT TẠI CỘNG ĐỒNG
Ở THÀNH PHỐ TAM KỲ TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN ÁN CHUYÊN KHOA CẤP II


Chuyên ngành: QUẢN LÝ Y TẾ
Mã số: CK 62 72 76 05

Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. NGUYỄN VIẾT NHÂN

HUẾ - 2015


MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................. 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ............................................................ 3
1.1. Tình hình người khuyết tật trên thế giới .................................................... 3
1.2. Tình hình người khuyết tật ở Việt Nam ..................................................... 4
1.3. Các khái niệm liên quan đến khuyết tật ..................................................... 5
1.4. Nguyên nhân khuyết tật ............................................................................. 7
1.5. Phân loại, phân nhóm và mức độ khuyết tật .............................................. 7
1.6. Hậu quả của khuyết tật ............................................................................... 9
1.7. Phòng ngừa khuyết tật và phục hồi chức năng ........................................ 11
1.8. Nhu cầu của người khuyết tật và trách nhiệm của xã hội ........................ 13
1.9. Tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe của người khuyết tật ...................... 18
1.10. Tình hình nghiên cứu về người khuyết tật và tiếp cận dịch vụ CSSK... 22
1.11. Giới thiệu địa bàn nghiên cứu ................................................................ 27
CHƢƠNG 2: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU......... 30
2.1. Đối tượng nghiên cứu............................................................................... 30
2.2. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 30
2.3. Nội dung nghiên cứu ................................................................................ 31
2.4. Các biến số và phương pháp đo lường biến số ..................................... 32
2.5. Phương pháp thu thập số liệu ................................................................... 41

2.6. Phương pháp xử lý số liệu........................................................................ 42
2.7. Đạo đức trong nghiên cứu ........................................................................ 43
2.8. Hạn chế của nghiên cứu ........................................................................... 43
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................ 44
3.1. Đặc điểm chung của người khuyết tật...................................................... 44
3.2. Tỷ lệ người khuyết tật tiếp cận dịch vụ CSSK ........................................ 49
3.3. Một số yếu tố liên quan đến tiếp cận dịch vụ CSSK ............................... 55


Chƣơng 4: BÀN LUẬN ................................................................................. 62
4.1. Đặc điểm chung của người khuyết tật...................................................... 62
4.2. Tỷ lệ người khuyết tật tiếp cận dịch vụ CSSK ........................................ 68
4.3. Một số yếu tố liên quan đến tiếp cận dịch vụ CSSK ............................... 76
KẾT LUẬN .................................................................................................... 82
KIẾN NGHỊ ................................................................................................... 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, người khuyết tật trên thế giới chiếm khoảng 10% dân số.
Việt Nam, theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, cả nước
hiện có khoảng 6,7 triệu người khuyết tật, chiếm khoảng 7,5% dân số. Đa số
người khuyết tật sống ở nông thôn gặp nhiều khó khăn, cần đến sự trợ giúp,
hỗ trợ của nhà nước và xã hội nên ngoài việc thực hiện và bảo vệ quyền,
nghĩa vụ như mọi công dân khác thì họ cần được bảo vệ các quyền và những
ưu tiên dành riêng cho người khuyết tật [32].
Người khuyết tật thường nghèo, phụ thuộc và dễ bị tổn thương [90]. Đời
sống vật chất, tinh thần của người khuyết tật còn nhiều khó khăn. Có tới 80%

người khuyết tật ở thành thị và 70% người khuyết tật ở nông thôn sống dựa
vào gia đình, người thân và trợ cấp xã hội [81]. Có 32,5% người khuyết tật
thuộc diện nghèo (cao gấp hai lần so với tỷ lệ nghèo chung cùng thời điểm),
24% ở nhà tạm. Những khó khăn này cản trở người khuyết tật tiếp cận dịch
vụ y tế, giáo dục, học nghề, tìm kiếm việc làm, tham gia giao thông, dẫn đến
khó khăn trong cuộc sống và hoà nhập với cộng đồng [1].
Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ khuyết tật cao, có nhiều
yếu tố tác động tới khuyết tật, như ảnh hưởng của thương tật, chất độc màu da
cam sau chiến tranh; hậu quả của các vấn đề sức khỏe cộng đồng trong giai
đoạn phát triển như tai nạn thương tích, các bệnh không truyền nhiễm, sức
khỏe tâm thần... Đã có nhiều nghiên cứu về người khuyết tật nhưng đa số đều
tập trung vào lĩnh vực phục hồi chức năng như: Nghiên cứu Kiều Phượng
Liên và cộng sự về nguyên nhân và mức độ khuyết tật vận động trẻ em tại
quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ năm 2012 [44]; nghiên cứu của Nguyễn
Thị Minh về mô hình chăm sóc sức khỏe và phục hồi chức năng cho người
tàn tật tại quận Hoàng Mai, Hà Nội năm 2012 [48]. Một số nghiên cứu mang
tính chiến lược như: Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009 của


2
Tổng cục Thống kê [87]; nghiên cứu của USAID/Vietnam về đánh giá và báo
cáo phân tích dự án khuyết tật tại Việt Nam, năm 2013 [88]...
Tại thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, chương trình quản lý sức
khỏe người khuyết tật tại cộng đồng đã được triển khai nhưng các hoạt động
chủ yếu là tuyên truyền, lồng ghép với hoạt động của một số chương trình y tế
khác nên kết quả còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khỏe
của người khuyết tật và chưa đáp ứng được các chỉ tiêu quản lý sức khỏe
người khuyết tật theo tiêu chí quốc gia về y tế xã giai đoạn 2011 - 2020 [16].
Vì vậy, việc nghiên cứu tình hình quản lý sức khỏe người khuyết tật, tìm kiếm
một mô hình quản lý phù hợp nhằm tạo cơ hội để người khuyết tật có điều

kiện tiếp cận được với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe gắn với phục hồi chức
năng một cách thuận lợi và hiệu quả hơn nhằm cải thiện chất lượng sống cho
người khuyết tật là một vấn đề hết sức cần thiết.
Để góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho người khuyết tật tại
thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam nói riêng cho người khuyết tật nói
chung, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu tình hình quản lý
sức khoẻ người khuyết tật tại cộng đồng ở thành phố Tam Kỳ tỉnh Quảng
Nam”
Mục tiêu nghiên cứu:
1. Mô tả đặc điểm về người khuyết tật tại thành phố Tam Kỳ tỉnh Quảng
Nam.
2. Xác định tỷ lệ người khuyết tật được tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức
khỏe tại địa bàn nghiên cứu.
3. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức
khỏe ở đối tượng nghiên cứu.


3

Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. TÌNH HÌNH NGƢỜI KHUYẾT TẬT TRÊN THẾ GIỚI
Về tỷ lệ người khuyết tật trên thế giới, các con số đưa ra rất khác nhau
và đa dạng, nguyên nhân là vì có khá nhiều các tổ chức đánh giá, của chính
phủ cũng như phi chính phủ...Quan trọng hơn, các tiêu chí đo lường khác
nhau đã ảnh hưởng quyết định đến kết quả [64]. Báo cáo của thế giới (WHO,
2011) qua cuộc khảo sát trực tiếp hộ gia đình của 59 quốc gia, chiếm 64 phần
trăm dân số thế giới, đã tập hợp dữ liệu được sử dụng để ước lượng tỷ lệ
khuyết tật của dân số trưởng thành trên thế giới từ 18 tuổi trở lên. Qua tất cả

59 quốc gia, tỷ lệ khuyết tật trung bình trong dân số 18 tuổi trở lên từ cuộc
điều tra này là 15,6% [88]. Thống kê khác (khảo sát năm 2007), trên thế giới
có khoảng 10% người khuyết tật tương đương với 650 triệu người [64]. Ước
tính toàn cầu đối với người khuyết tật ngày càng gia tăng do sự lão hóa dân số
và sự gia tăng toàn cầu các bệnh mạn tính như đái đường, tim mạch, các rối
loạn tâm thần, sẽ làm ảnh hưởng đến bản chất và tỷ lệ khuyết tật [93].
Theo Tổ chức
Nam

tế thế giới ( HO), tỷ lệ hiện mắc khuyết tật tại Đông

dao động trong khoảng 6% đến 7% và ở hầu hết các nước cứ 10 người

thì ít nhất có 1 người bị thiểu năng về tinh thần, thể hình, hoặc giác quan [48].
Điều tra về khuyết tật một số nước trên thế giới có tỷ lệ như sau [15],
[64].


4
Bảng 1.1. Tỷ lệ khuyết tật tại một số nước
Quốc gia

Tỷ lệ dân số khuyết tật

Năm thống kê

New Zealand

20,0%


1996

Australia

20,0%

2000

Zambia

13,1%

2006

Switzerland

12,1%

1988

Nicaragua

10,3%

2003

USA

19,4%


2000

India

2,1%

2001

China

5,0%

1987

Kenya

0,7%

1987

1.2. TÌNH HÌNH NGƢỜI KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM
Kết quả cuộc điều tra mức sống dân cư Việt Nam năm 2006 cho thấy, tỷ
lệ khuyết tật của dân số từ 5 tuổi trở lên chiếm đến 15,3% trong tổng dân số [71].
Mới đây nhất, kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009 cho
thấy, trong tổng số 78,5 triệu người Việt Nam từ 5 tuổi trở lên có 6,1 triệu người,
tương đương 7,8% dân số từ 5 tuổi trở lên có khó khăn trong việc thực hiện một
trong bốn chức năng nhìn, nghe, vận động, tập trung hoặc ghi nhớ, trong 6,1
triệu người khuyết tật đó có 385 nghìn người khuyết tật nặng [87].
Mặc dù, những số liệu trên có thể còn chưa phản ánh đầy đủ và chính
xác quy mô, cơ cấu người khuyết tật ở Việt Nam, nhưng ở một chừng mực

nào đó đã cho thấy vấn đề khuyết tật và người khuyết tật là phổ biến ở Việt
Nam và là vấn đề cần quan tâm trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội
quốc gia. Trong những năm tới, số lượng người khuyết tật có xu hướng gia
tăng do tai nạn giao thông, tai nạn lao động, ô nhiễm môi trường ngày càng
nghiêm trọng, đồng thời những nguyên nhân dẫn tới khuyết tật cũng sẽ có sự


5
biến động và khác hơn so với giai đoạn trước đây. Các nguyên nhân dẫn đến
khuyết tật do bẩm sinh, bệnh tật, chiến tranh giảm đi thì các nguyên nhân do
tai nạn có xu hướng tăng do quá trình phát triển của công nghiệp hoá và đô thị
hoá đang diễn ra mạnh mẽ ở Việt Nam [83]. Tai nạn thương tích xảy ra nhiều
ở lứa tuổi thanh niên, theo báo cáo quốc gia về thanh niên Việt Nam, ước tính
tỷ lệ bị tàn tật vĩnh viễn sau tất cả các loại tai nạn thương tích của thanh niên
lên đến 6,0%, gây ra gánh nặng về kinh tế, xã hội, sức khỏe cho thanh niên và
gia đình của họ. Việt Nam cần có các mô hình can thiệp giảm tai nạn thương
tích hiệu quả hơn cũng như cung cấp các hoạt động phục hồi chức năng và hỗ
trợ sau điều trị để giảm tỷ lệ tàn tật ở thanh niên [61].
Theo báo cáo thường niên năm 2010 của Ban Điều phối các hoạt động hỗ
trợ người khuyết tật Việt Nam (NCCD), một số điều tra mẫu cho thấy gần 8%
hộ gia đình ở Việt Nam có người khuyết tật, bình quân một hộ gia đình có
1,12 người khuyết tật. Kết quả điều tra mẫu cho thấy, trên 80% hộ gia đình có
người khuyết tật đang gặp phải khó khăn trong việc khám chữa bệnh, chăm
sóc sức khoẻ cho người khuyết tật, hơn một nửa hộ gia đình (51,2%) gặp khó
khăn trong việc chăm sóc, hỗ trợ người khuyết tật trong sinh hoạt hàng ngày
và gần 55% hộ gia đình gặp khó khăn về việc làm và vốn sản xuất kinh doanh
tạo việc làm cho người khuyết tật [83].
Qua nghiên cứu của một số tác giả về khuyết tật tại cộng đồng, tỷ lệ
khuyết tật ở một số địa phương như sau: Tại huyện Hương Thủy, Thừa Thiên
Huế (2005) là 2,19% [43]; tại thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa (2011) là

1,9% [38]; tại thành phố Đà Nẵng (2011) là 20,3% [68]; tại Quảng Nam
(2013) là 9,68% [88].
1.3. CÁC KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN KHUYẾT TẬT
1.3.1. Định nghĩa khuyết tật
Theo Luật Người khuyết tật Việt Nam quy định: Người khuyết tật là
người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức
năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp
khó khăn [58].


6
Như vậy, theo định nghĩa khuyết tật phải đảm bảo cả hai điều kiện là có
khiếm khuyết và khiếm khuyết đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống.
Nói về khiếm khuyết, đó là vấn đề rất thông thường và bất kỳ ai cũng đều có
thể bị khiếm khuyết trong một giai đoạn nào đó của cuộc sống. Vậy vấn đề
chỉ còn nằm ở chỗ khiếm khuyết đó nghiêm trọng đến mức nào. Tuy nhiên
khái niệm nghiêm trọng ở đây không hoàn toàn được xác định bởi khuyết tật,
vì nó không những phụ thuộc vào bản thân khiếm khuyết mà còn phụ thuộc
vào bối cảnh văn hóa, xã hội, khoa học người khuyết tật đang sinh sống.
1.3.2. Một số khái niệm khác về khuyết tật
Người khuyết tật là người có một hoặc nhiều khiếm khuyết về thể chất
hoặc tinh thần mà vì thế gây ra suy giảm đáng kể và lâu dài đến khả năng thực
hiện các hoạt động, sinh hoạt hàng ngày. Theo DDA (Disability Discrimination
Act - Đạo luật chống phân biệt đối xử với người khuyết tật do Quốc hội Anh
ban hành), khi xét về mặt thời gian tác động thì khiếm khuyết kéo dài hoặc sẽ
có thể kéo dài mà ít hơn 12 tháng thì không được coi là khuyết tật, trừ phi là
bị tái đi tái lại, một số người có khiếm khuyết kéo dài hơn một năm thì vẫn ở
trong diện của DDA, cả khi họ sẽ được phục hồi hoàn toàn. Còn Đạo luật về
người khuyết tật của Hoa Kỳ năm 1990 (ADA - Americans with Disabilities
Act of 1990) định nghĩa người khuyết tật là người có sự suy yếu về thể chất

hay tinh thần gây ảnh hưởng đáng kể đến một hay nhiều hoạt động quan trọng
trong cuộc sống. Cũng theo ADA những ví dụ cụ thể về khuyết tật bao gồm:
khiếm khuyết về vận động, thị giác, nói và nghe, chậm phát triển tinh thần,
bệnh cảm xúc và những khiếm khuyết cụ thể về học tập, bại não, động kinh,
teo cơ, ung thư, bệnh tim, tiểu đường, các bệnh lây và không lây như bệnh lao
và bệnh do HIV (có triệu chứng hoặc không có triệu chứng) [48].
1.3.3. Khiếm khuyết, khuyết tật và tàn tật
Khiếm khuyết là tình trạng mất mát, thiếu hụt hoặc bất thường về cấu
trúc, chức năng, giải phẫu, sinh lý do bệnh tật hoặc do các nguyên nhân khác
gây nên [15].


7
Giảm khả năng là sự hạn chế hay mất chức năng thực hiện một hoạt
động do khiếm khuyết gây nên [15].
Khuyết tật là hậu quả của khiếm khuyết và giảm khả năng làm cho
người đó không thực hiện được vai trò của mình trong gia đình, xã hội, mà
người cùng tuổi, cùng giới, cùng hoàn cảnh thực hiện được [15].
Đối với đa số người Việt Nam, khuyết tật và tàn tật là hai từ để chỉ
cùng một khái niệm. Từ năm 2009 trở về trước người ta vẫn dùng song song
chúng trên cả phương tiện truyền thông đại chúng và văn bản pháp quy.
Trong Pháp lệnh người tàn tật trước đây của nhà nước Việt Nam, tàn tật là
cụm từ được chính thức sử dụng [77]. Nhưng từ năm 2010, Quốc hội Việt
Nam đã chính thức sử dụng cụm từ khuyết tật thay cho tàn tật trong các bộ
luật ban hành có liên quan [58].
1.4. NGUYÊN NHÂN KHUYẾT TẬT
Có nhiều nguyên nhân làm gia tăng số người khuyết tật và đẩy họ ra
ngoài lề xã hội. Các nguyên nhân đó rất đa dạng, không chỉ do các vấn đề sức
khỏe mà còn là các nguyên nhân xuất phát từ các yếu tố chính trị, văn hóa, xã
hội, kinh tế và môi trường [15].

Nguyên nhân gây nên khuyết tật có tới 36% bẩm sinh, 32% do bệnh tật,
26% do hậu quả chiến tranh và 6% do tai nạn lao động. Dự báo trong nhiều
năm tới số lượng người khuyết tật ở Việt Nam chưa giảm do tác động của ô
nhiễm môi trường, ảnh hưởng của chất độc hoá học do Mỹ sử dụng trong
chiến tranh Việt Nam, tai nạn giao thông và tai nạn lao động, hậu quả thiên
tai…[1]. Như vậy, nguyên nhân cơ bản của khuyết tật là bẩm sinh và mắc
phải. Do vậy để giải quyết vấn đề về khuyết tật phải quan tâm đến cả 2
nguyên nhân gây khuyết tật nêu trên.
1.5. PHÂN LOẠI, PHÂN NHÓM VÀ MỨC ĐỘ KHUYẾT TẬT
Có nhiều cách phân loại khuyết tật, nhưng nhìn chung những cách phân
chia này chỉ là tương đối.


8
1.5.1. Theo Tổ chức Y tế Thế giới
Theo phân loại quốc tế về khiếm khuyết, giảm khả năng và tàn tật của
Tổ chức

tế thế giới 1980, có ba mức độ suy giảm là: khiếm khuyết

(impairment), khuyết tật (disability) và tàn tật (handicap) [48].
+ Khiếm khuyết chỉ đến sự mất mát hoặc không bình thường của cấu
trúc cơ thể liên quan đến tâm lý hoặc/và sinh lý.
+ Khuyết tật chỉ đến sự giảm thiểu chức năng hoạt động, là hậu quả của
sự khiếm khuyết.
+ Còn tàn tật đề cập đến tình thế bất lợi hoặc thiệt thòi của người mang
khiếm khuyết do tác động của môi trường xung quanh lên tình trạng khuyết
tật của họ.
Theo quan điểm mới (2001) của ICF, phân loại khuyết tật bao gồm 2
phần [91]:

- Phần 1: Chức năng và khuyết tật, bao gồm các chức năng và cấu trúc
cơ thể, các hoạt động và sự tham gia.
- Phần 2: Các yếu tố ngữ cảnh, bao gồm các yếu tố môi trường và các
yếu tố cá nhân.
Với ý tưởng khái niệm mới, việc sử dụng từ ngữ cũng thay đổi theo cho
phù hợp, do đó một biểu đồ mới cũng có thể được xây dựng với những hiểu
biết hoàn toàn khác nhau về khuyết tật: Tài liệu này thay thế thuật ngữ như
khiếm khuyết, khuyết tật và tàn tật, bằng những thuật ngữ chỉ ra sự mất
mát , cản trở chức năng đầy đủ của cơ thể, với các thuật ngữ bao gồm các yếu
tố có sự tham gia và hoạt động, các yếu tố môi trường. Khuyết tật không còn
là một cái gì đó có liên quan duy nhất đến người khuyết tật hoặc đến ngành y
tế, mà nó liên quan đến và bao gồm toàn bộ xã hội, về mặt thái độ, mối quan
hệ và sự hỗ trợ.


9
1.5.2. Theo Việt Nam
1.5.2.1. Phân nhóm khuyết tật
Theo Luật Người khuyết tật, khuyết tật được phân thành 6 nhóm:
khuyết tật vận động, khuyết tật nghe - nói, khuyết tật nhìn, khuyết tật thần
kinh - tâm thần, khuyết tật trí tuệ và khuyết tật khác [58].
Theo Quyết định số 370/2002/QĐ-B T về việc ban hành chuẩn Quốc
gia về y tế xã giai đoạn 2001-2010 [11], Quyết định số 3447/2011/QĐ-BYT
về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã giai đoạn 2011 - 2020 [16],
Quyết định số 4667/2014/QĐ-B T về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về
y tế xã giai đoạn đến 2020 [18] đều chia khuyết tật thành 8 nhóm: vận động,
nghe - nói, nhìn, thiểu năng trí tuệ, tâm thần, động kinh, mất cảm giác, khuyết
tật khác.
Ngay trong văn bản pháp quy, tại cùng trong thời gian hiệu lực, việc
phân nhóm khuyết tật đã khác nhau, việc này đã gây khó khăn cho công tác

quản lý sức khỏe người khuyết tật ở các cấp khác nhau.
1.5.2.2. Phân mức độ khuyết tật
Theo Luật người khuyết tật [58], Nghị định 28/2012/NĐ-CP [29], phân
độ như sau: Người khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết tật nặng và người
khuyết tật nhẹ.
1.6. HẬU QUẢ CỦA KHUYẾT TẬT
Khuyết tật gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng về mặt vật chất, tinh thần
và xã hội. Người khuyết tật thường bị phân biệt đối xử, không tự tiếp cận
được các dịch vụ xã hội như y tế, giáo dục, dạy nghề; vì vậy người khuyết tật
không thể khẳng định và phát huy các tiềm năng và khó có khả năng hòa nhập
với xã hội như người bình thường. Bên cạnh đó, người khuyết tật luôn có tâm
lý mặc cảm, tự ti và không tin tưởng vào khả năng của chính mình. So với
người bình thường, người khuyết tật thường có nhiều bệnh tật hơn và khả
năng thích nghi với cuộc sống thấp hơn. Tỷ lệ tử vong và tần suất mắc bệnh
của người khuyết tật lớn hơn nhiều so với người không khuyết tật. Thường là


10
do thiếu sự quan tâm của xã hội về yếu tố môi trường và tinh thần gây nên
hoặc do biến chứng của khuyết tật. Đại đa số gia đình có người khuyết tật
thường là gia đình nghèo tại cộng đồng do họ phải chi phí nhiều trong quá
trình khám, chữa bệnh (KCB) cho người khuyết tật. Các thành viên trong gia
đình thường mặc cảm về người khuyết tật và không nhận được sự cảm thông
chia sẻ của mọi người trong cộng đồng. Ngoài ra, khuyết tật làm tăng chi phí
trong y tế, giáo dục do triển khai các dịch vụ đáp ứng các nhu cầu của người
khuyết tật [48].
Trước những khó khăn người khuyết tật phải gánh chịu, về phía quốc
tế, Đại hội đồng Liên hiệp quốc đã thông qua Công ước về quyền của người
khuyết tật ngày 13 tháng 3 năm 2007 [33] và chính Liên hiệp quốc cũng đề
xướng chọn ngày 03 tháng 12 hàng năm làm ngày Quốc tế Người khuyết tật

[2]. Hiện nay có 155 quốc gia tham gia ký kết Công ước quốc tế về
quyền của người khuyết tật (CRPD), 90 quốc gia tham gia ký kết Nghị
định thư không bắt buộc, 127 quốc gia phê chuẩn Công ước, 76 quốc
gia phê chuẩn và tham gia Nghị định thư không bắt buộc. Về phía Việt
Nam, Chính phủ Việt Nam đã ký Công ước về Quyền của người khuyết tật
năm 2007 và đang trong lộ trình phê chuẩn công ước [3]. Nhà nước đã có
nhiều văn bản về chính sách hỗ trợ cho các đối tượng bảo trợ xã hội trong đó
có người khuyết tật nhằm nâng cao quyền lợi của người khuyết tật như: Nghị
định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ về chính
sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội [26]; Nghị định số 13/2010/NĐ-CP
ngày 27 tháng 2 năm 2010 Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ về
chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội [28]; Luật Người khuyết tật,
năm 2010 [58]; Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày 10 tháng 4 năm 2012 của
Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật người
khuyết tật [29]... Qua hệ thống các văn bản pháp quy đã trình bày, cho thấy
Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm đến người khuyết tật. Các văn bản quy


11
định việc thực hiện chế độ bảo trợ cho người khuyết tật và luôn thay đổi cho
phù hợp với tình hình thực tế của từng giai đoạn.
Đối với người khuyết tật các chính sách này đã góp phần đáng kể nâng
cao chất lượng cuộc sống, tạo điều kiện cho người khuyết tật tham gia bình
đẳng vào các hoạt động xã hội, xây dựng môi trường xã hội tốt hơn và ngày
càng nâng cao quyền lợi cho người khuyết tật.
1.7. PHÒNG NGỪA KHUYẾT TẬT VÀ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG
1.7.1. Phòng ngừa khuyết tật
Trong xã hội phát triển, quan niệm về chăm sóc sức khoẻ con người
toàn diện phải bao gồm 4 yếu tố: nâng cao sức khoẻ (Promotion), phòng bệnh

(Prevention), điều trị (Treatment) và phục hồi chức năng (Rehabilitation)
[48].
Có ba bước phòng ngừa tác động vào ba giai đoạn của quá trình khuyết
tật nhằm góp phần làm giảm bớt tỷ lệ người khuyết tật và tăng cường phục
hồi chức năng:
Phòng ngừa bước I: Gồm các biện pháp để ngăn ngừa không để xảy ra
khiếm khuyết.
Phòng ngừa bước II: Gồm các biện pháp để ngăn ngừa tình trạng khiếm
khuyết không trở thành giảm khả năng.
Phòng ngừa bước III: Gồm các biện pháp để ngăn ngừa giảm khả năng
trở thành khuyết tật và gây nên hậu quả của khuyết tật [10], [13], [15].
1.7.2. Phục hồi chức năng cho ngƣời khuyết tật
Định nghĩa phục hồi chức năng: Phục hồi chức năng (PHCN) bao
gồm các biện pháp y học, kinh tế xã hội học, giáo dục và kỹ thuật phục hồi
làm giảm tối đa tác động của giảm chức năng và tàn tật giúp người tàn tật
hội nhập hoặc tái hội nhập xã hội, có những cơ hội bình đẳng tham gia vào
các hoạt động xã hội [10], [49].
Như vậy mục đích của PHCN chính là nhằm tăng cường khả năng còn
lại của cá thể để giảm hậu quả của tàn tật. PHCN bao gồm các biện pháp y


12
học như: Dụng cụ trợ giúp, phẫu thuật, chỉnh hình, vật lý trị liệu, vận động trị
liệu; giáo dục học như giáo dục đặc biệt; xã hội học như tâm lý xã hội, việc
làm cho người khuyết tật... [17], [21]. Tác động của PHCN làm thay đổi một
cách tích cực suy nghĩ và thái độ của xã hội tạo nên sự chấp nhận của xã hội
đối với người khuyết tật như một thành viên bình đẳng của xã hội. Đây là một
phương pháp tác động tích cực đối với người khuyết tật giúp họ các phương
tiện, kỹ năng hoà nhập và tái hoà nhập xã hội.
Ngày nay ở Việt Nam cũng như nhiều nước đang phát triển, PHCN vẫn

tồn tại dưới 3 hình thức:
- PHCN tại trung tâm: Đây là hình thức PHCN đã có trên 150 năm nay,
người khuyết tật đến các trung tâm có cán bộ chuyên khoa và phương tiện
phục hồi chức năng đầy đủ. Hình thức này có ưu điểm: Kỹ thuật PHCN tốt,
cán bộ được đào tạo chuyên khoa sâu. Nhược điểm: Bệnh nhân phải đi xa, giá
thành cao, số lượng người khuyết tật được PHCN ít, không đạt được mục tiêu
hòa nhập xã hội [13], [51].
Vì vậy, ở các trung tâm chỉ phục hồi đối với người khuyết tật nặng và là
nơi đào tạo, nghiên cứu, chỉ đạo ngành, là cơ sở có trang bị kỹ thuật cao để
chẩn đoán và khi phục hồi chức năng tuyến dưới chưa đủ điều kiện.
- PHCN ngoài trung tâm: Là hình thức phục hồi chức năng mà các cán
bộ chuyên khoa cùng với phương tiện phục hồi chức năng đến địa phương
người khuyết tật sinh sống để PHCN cho người khuyết tật. Phương pháp này
có ưu điểm: Giúp cho người khuyết tật không phải đi xa, số lượng người
khuyết tật được phục hồi có tăng lên, giá thành chấp nhận được. Người
khuyết tật được phục hồi chức năng tại môi trường họ sinh sống [13], [51].
- Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng (PHCN DVCĐ): Đã được
giới thiệu cách đây 25 năm. Tổ chức

tế thế giới đã phát triển và xuất bản

bộ hướng dẫn PHCN DVCĐ Đào tạo trong cộng đồng cho người khuyết
tật vào năm 1989 [92]. PHCN DVCĐ là chiến lược phát triển cộng đồng
về PHCN, bình đẳng phúc lợi và hội nhập xã hội của mọi người khuyết tật.


13
PHCN DVCĐ được triển khai qua sự cố gắng hợp tác của người khuyết tật,
gia đình họ cũng như cộng đồng với dịch vụ xã hội, nghề nghiệp, giáo dục
và sức khỏe một cách thích ứng [13], [51].

1.8. NHU CẦU CỦA NGƢỜI KHUYẾT TẬT VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA
XÃ HỘI
1.8.1. Nhu cầu về dịch vụ chăm sóc sức khỏe và PHCN của ngƣời khuyết
tật
- Nhu cầu chăm sóc sức khỏe ban đầu:
Đây là nhu cầu đầu tiên để bảo tồn được cuộc sống của người khuyết
tật. Điều này đòi hỏi cán bộ y tế phải phát hiện được nhu cầu sức khoẻ của
mỗi người khuyết tật trong cộng đồng của mình để lập kế hoạch và thực hiện
các đáp ứng điều trị. Mặc dù hầu hết các quyết định xuất phát từ phía y tế,
nhưng rất cần sự hỗ trợ của thành viên gia đình và các cá nhân liên quan khác
để cho sự hỗ trợ chăm sóc sức khỏe (CSSK) cho người khuyết tật được thực
hiện có hiệu quả tối đa. Chăm sóc sức khỏe ban đầu bao gồm cả phát hiện
sớm, điều trị sớm, chăm sóc phục hồi sức khỏe và phòng ngừa bệnh tật [48].
- Nhu cầu chăm sóc các vấn đề sức khỏe cấp tính:
Co giật và các chấn thương khác do người bệnh tự gây ra cũng như các
cấp cứu khác cũng cần được tính đến trong chăm sóc cho người khuyết tật.
Thành viên gia đình cần được huấn luyện để phát hiện sớm các biến chứng
của bệnh hoặc các trường hợp nguy kịch của bệnh để báo cho cán bộ hoặc cơ
sở y tế. Gia đình cũng được tư vấn về các dịch vụ cấp cứu để chuyển người
khuyết tật điều trị [48].
- Nhu cầu được phục hồi chức năng:
Người khuyết tật có thể mắc một hoặc nhiều tật (đa khuyết tật) và
khoảng 40% trong số họ có nhu cầu về PHCN. Hầu hết các nhu cầu PHCN
đều có thể thực hiện tại gia đình với sự hỗ trợ và giám sát của cán bộ y tế.
Nhu cầu cần được phục hồi có thể là vận động và di chuyển, lời nói và giao
tiếp, kỹ năng tự chăm sóc, kỹ năng sống độc lập, học tập và lao động [48].


14
- Nhu cầu dịch vụ tư vấn:

Các rối loạn về da, bệnh tim, rối loạn hô hấp, chỉnh hình và các rối loạn
khác rất phổ biến ở người khuyết tật. Để chất lượng chăm sóc được duy trì ở
mức cao nhất, người khuyết tật và gia đình cần được tư vấn thường xuyên,
liên tục và trong bất cứ lúc nào họ cần. Các nhà tư vấn cũng phải là những
chuyên gia có trình độ về bệnh và về PHCN [48].
1.8.2. Trách nhiệm của xã hội trong quản lý sức khỏe ngƣời khuyết tật
Ngoài hệ thống nhà nước, nhiều tổ chức về người khuyết tật ra đời nhằm đáp
ứng nhu cầu của người khuyết tật, trên bình diện quốc gia có Ban Điều phối các
hoạt động hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam (NCCD) ra đời năm 2001, phía
Nam Việt Nam có Trung tâm Khuyết tật và phát triển ra đời năm 2005 [73]
cùng nhiều tổ chức hỗ trợ người khuyết tật khác tại các địa phương trên toàn
quốc.
Theo báo cáo thường niên năm 2010 của Ban Điều phối các hoạt động
hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam, để thực hiện các Công ước, Nghị quyết của
Liên hiệp quốc và các cuộc vận động, chương trình hành động khu vực châu
Á - Thái Bình Dương về vấn đề người khuyết tật mà Việt Nam tham gia;
đồng thời thực hiện trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, xã hội đối với người
khuyết tật, nhiều chính sách, văn bản pháp luật về người khuyết tật đã được
ban hành, các chương trình, đề án hỗ trợ người khuyết tật được triển khai với
sự tham gia tích cực của hệ thống các tổ chức, cá nhân trong toàn xã hội. Vấn
đề người khuyết tật được thể hiện trong văn bản luật pháp cao nhất, Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua
năm 1992 và sửa đổi năm 2001 ghi rõ: Người già, người tàn tật, trẻ em mồ
côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ. Nhà nước và xã
hội tạo mọi điều kiện cho trẻ em tàn tật được học văn hoá và học nghề phù
hợp . Việc bảo vệ người khuyết tật được nêu tại Điều 59 và Điều 67 của Hiến
pháp [83]. Sau Hiến pháp, một số chính sách xã hội quan trọng như: Pháp
lệnh về người tàn tật, năm 1998 [77]; Luật Người khuyết tật, năm 2010 [58];



15
Nghị định 28/2012/NĐ-CP ngày 10 tháng 4 năm 2012 của Chính phủ về quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật người khuyết tật [29];
Thông tư số 26/2012/TT-BLĐTBXH ngày 12 tháng 11 năm 2012 của Bộ Lao
đông - Thương Binh - Xã hội, hướng dẫn một số điều của Nghị định số
28/2012/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Người khuyết tật [7]; Thông tư liên tịch số 37/2012/TTLT-BLĐTBXH-BYTBTC-BGDĐT ngày 28 tháng 12 năm 2012 của Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội - Bộ tài chính - Bộ

tế - Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, quy

định việc xác định mức độ khuyết tật nhằm xếp loại người khuyết tật hưởng
bảo trợ xã hội [6]; Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm 2007
của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội [26]; Nghị
định số 13/2010/NĐ-CP ngày 27 tháng 2 năm 2010 của Chính phủ về sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm
2007 của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội [28];
Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ,
quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội [30]; sau
Nghị định 136/2013/NĐ-CP, Liên bộ Lao động - Thương binh và Xã hội - Bộ
tài chính ban hành Thông tư liên tịch số 29/2014/TTLT-BLĐTBXHBTC ngày 24 tháng 10 năm 2014, hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị
định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy
định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội [8]. Quyết
định số 1019/2012/QĐ-TTg ngày 05 tháng 8 năm 2012 của Thủ tướng Chính
phủ, phê duyệt Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 - 2020
[67]. Đi sau Quyết định số 1019/2012/QĐ-TTg là Thông tư số 8/2013/TTLTBTC-BLĐTBXH ngày 26 tháng 4 năm 2013 của liên bộ Bộ Tài chính, Bộ
Lao động - Thương binh - Xã hội, quy định quản lý và sử dụng kinh phí thực
hiện Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 - 2020 [9]...Đi đôi với
các chính sách xã hội, nhiều chính sách y tế quan trọng cũng được ra đời:
Luật Khám bệnh, chữa bệnh được Quốc hội thông qua năm 2009, làm cơ sở

pháp lý để thực hiện công tác CSSK cho nhân dân trong đó có người khuyết


16
tật [57]; Thông tư liên tịch số 08/2007/TTLT-BYT-BNV ngày 05 tháng 6
năm 2007 của liên bộ Bộ

tế, Bộ Nội vụ, hướng dẫn định mức biên chế

trong các đơn vị sự nghiệp y tế nhà nước, đã giải quyết những vấn đề cơ bản
về nhân lực cho CSSK người khuyết tật nói riêng, cho nhân dân nói chung
[12]; Luật Bảo hiểm y tế số 25/2008/QH12, trong đó có nội dung nhằm giải
quyết tốt quyền lợi bảo hiểm y tế (BH T) cho người khuyết tật thuộc diện
hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng [56]. Sau Luật Bảo hiểm y tế là các văn bản
hướng dẫn thi hành Luật, Nghị định số 62/2009/NĐ-CP ngày 27 tháng 7 năm
2009 của Chính phủ, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Bảo hiểm y tế [27]; Thông tư số 10/2009/TT-B T ngày 14 tháng 8 năm
2009 của Bộ

tế, hướng dẫn đăng ký khám bệnh, chữa bệnh ban đầu và

chuyển tuyến khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế [14]; sau đó là Thông tư số
14/2014/TT-B T ngày 14 tháng 4 năm 2014 của Bộ

tế, quy định về chuyển

tuyến giữa các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh [19].
Kinh tế xã hội phát triển, nhu cầu khám, chữa bệnh BH T ngày càng
tăng, chính sách BH T cũng thay đổi cho phù hợp. Năm 2014, Quốc hội ban
hành Luật số 46/2014/QH13, Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Bảo

hiểm y tế. Nội dung chính của Luật số 46/2014/QH13 là mở rộng quyền lợi
của bệnh nhân có BH T, nâng mức hưởng BH T cho người khuyết tật thuộc
diện hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng từ 95% lên 100% [27] [60]. Sau Luật
Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế, một số văn bản chính
sách BH T ra đời để hướng dẫn thực hiện luật: Nghị định số 105/2014/NĐCP ngày 15 tháng 11 năm 2014 của Chính phủ, quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều Luật Bảo hiểm y tế [31]; Công văn số 4996/BHXHCS T ngày 17 tháng 12 năm 2014 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, hướng dẫn
một số nội dung theo quy định của Luật BH T sửa đổi, bổ sung [5]; Ngành Y
tế có Thông tư số 37/TT-B T ngày 17 tháng 11 năm 2014 của Bộ

tế,

hướng dẫn đăng ký khám, bệnh, chữa bệnh ban đầu và chuyển tuyến khám
bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế [20].


17
Đối với y tế xã, phường, thị trấn, nơi thực hiện chính của các hoạt động
PHCN DVCĐ, một số tiêu chí quốc gia về y tế xã do Bộ

tế ban hành cũng

quy định về vấn đề người khuyết tật, qua từng giai đoạn như: Bộ chuẩn quốc
gia về y tế xã giai đoạn 2001 - 2010 [11], Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã giai
đoạn 2011 - 2020 [16], Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã giai đoạn đến 2020
[18]. Nhưng thực sự có giải quyết được các vấn đề cơ bản để cho người
khuyết tật hòa nhập cộng đồng được hay chưa, đây là câu hỏi chung, để trả lời
nó phải có sự vào cuộc của cả một hệ thống chính trị, xã hội.
Về y tế, công tác quản lý sức khỏe, phục hồi chức năng cho người
khuyết tật, trên bình diện chung vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của người
khuyết tật. Công tác phát hiện và dự phòng sớm khuyết tật từ bào thai và sơ

sinh đã được triển khai khá tốt nhưng độ bao phủ còn hạn chế do y tế nhiều
địa phương còn khó khăn về nhân lực, trang thiết bị và hầu như mới chỉ thực
hiện ở một số bệnh lý và mức độ hạn hẹp.
Về BH T, cho đến nay các địa phương đã cấp thẻ BH T cho 100%
người khuyết tật thuộc hộ gia đình nghèo [60], cấp thẻ BH T và trợ cấp hàng
tháng cho các đối tượng khuyết tật không còn khả năng tự phục vụ và không
còn khả năng lao động theo Nghị định 67/2007/NĐ-CP [26], Nghị định
13/2010/NĐ-CP, sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định 67/2007/NĐ-CP và
mới đây nhất là Nghị định số 136/2015/NĐ-CP, quy định chính sách trợ giúp
xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội [30]. Các đối tượng khuyết tật còn lại,
chưa được cấp thẻ BH T.
Về giáo dục, chỉ có một số địa phương thuộc các tỉnh, thành phố có
kinh tế phát triển tốt mới đầu tư các cơ sở giáo dục đặc biệt cho trẻ khuyết
tật. Hầu hết các địa phương, trong đó có thành phố Tam Kỳ chưa có cơ sở
giáo dục đặc biệt, chưa có trường riêng, lớp riêng dành cho trẻ khuyết tật.
Trẻ khuyết tật vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong học tập và cơ hội hòa
nhập cộng đồng.


18
1.9. TIẾP CẬN DỊCH VỤ CHĂM SÓC SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI
KHUYẾT TẬT
1.9.1. Một số khái niệm và thuật ngữ liên quan đến tiếp cận dịch vụ chăm
sóc sức khỏe
- Khám bệnh: Là việc hỏi bệnh, khai thác tiền sử bệnh, thăm khám thực
thể, khi cần thiết thì chỉ định làm xét nghiệm cận lâm sàng để chẩn đoán và
chỉ định phương pháp điều trị cho phù hợp đã được công nhận [57].
- Chữa bệnh: Là việc sử dụng phương pháp chuyên môn kỹ thuật
đã được công nhận và thuốc đã được phép lưu hành để cấp cứu, điều trị, chăm
sóc, PHCN [57].

- PHCN: Là bao gồm các biện pháp y học, kinh tế xã hội học, giáo
dục và kỹ thuật phục hồi làm giảm tối đa tác động của giảm chức năng và
tàn tật giúp người tàn tật hội nhập hoặc tái hội nhập xã hội, có những cơ
hội bình đẳng tham gia vào các hoạt động xã hội [10], [49].
- Cơ sở khám, chữa bệnh: Là cơ sở cố định hoặc lưu động đã được cấp
phép hoạt động và cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh [57].
- Cơ sở y, dược tư nhân: Là cơ sở do cá nhân, hộ gia đình, doanh
nghiệp đăng ký kinh doanh và quản lý, điều hành [41].
- Người ốm: là những người có tình trạng bất thường về sức khoẻ kéo
dài từ một ngày trở lên (ví dụ như ho, sốt, tiêu chảy, đau viêm, chửa đẻ, tai
nạn chấn thương, bệnh mạn tính…), tình trạng bất thường này do người được
hỏi nhận thức trả lời hoặc do xác định của nhân viên y tế [41].
- Tiếp cận với dịch vụ CSSK:
Sức khỏe là yếu tố nền tảng đồng thời cũng là mục tiêu hướng tới trong
quá trình phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Tiếp cận các dịch vụ y tế
cơ bản là quyền cơ bản của con người (Tuyên bố Alma Ata, 1978) [22].
Tiếp cận, theo Viện

học Mỹ là việc sử dụng kịp thời các dịch vụ

chăm sóc sức khỏe cá nhân để có được tình trạng sức khỏe tốt nhất có thể .
Tiếp cận có thể nhìn theo hai cách: Có khả năng tiếp cận và thực sự được tiếp


19
cận. Việc có khả năng hay không liên quan đến năng lực và cấu trúc của hệ
thống cung ứng dịch vụ cho thấy hệ thống đó có đủ số lượng và các loại hình
nhân lực y tế và chương trình y tế để đáp ứng nhu cầu KCB của người dân
hay không. Tuy nhiên đó mới chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ để đảm bảo sự
tiếp cận thực sự. Việc người dân có thực sự sử dụng dịch vụ hay không mới

biết khả năng tiếp cận trở thành hiện thực [22].
Tiếp cận, theo Việt Nam tiếp cận là khả năng mà người sử dụng dịch
vụ CSSK khi cần có thể đến sử dụng dịch vụ tại nơi cung cấp dịch vụ [41].
1.9.2. Tổng quan về hệ thống y tế và cung cấp dịch vụ khám, chữa bệnh
Có nhiều cách phân loại hệ thống y tế nhưng cách thường được dùng
đó là dựa trên tiếp cận kinh tế học. Ở góc độ này thì một hệ thống y tế thường
được xem xét dựa trên việc trả lời 2 câu hỏi cơ bản: Ai cung cấp dịch vụ?
và Ai chi? . Người cung cấp dịch vụ có thể là nhà nước hoặc tư nhân hoặc
hỗn hợp. Nếu nhà nước và tư nhân cùng cung cấp thì hệ thống này gọi là hệ
thống CSSK hai thành phần và tùy theo mỗi nước thì mức độ cung cấp dịch
vụ của mỗi thành phần có khác nhau. Nếu chỉ có thành phần nhà nước cung
cấp hoặc chiếm phần chủ yếu (như Canada) thì gọi là hệ thống CSSK một
thành phần. Về cơ cấu hệ thống cung cấp dịch vụ CSSK đặc biệt là dịch vụ
KCB thì mỗi nước có một cơ cấu khác nhau. Ở nhiều nước, ngoài các bệnh
viện, dưỡng đường, trung tâm chuyên khoa thì có mạng lưới các bác sĩ đa
khoa chịu trách nhiệm KCB ban đầu cho những người dân đăng ký. Các cơ sở
y tế này có thể là công hoàn toàn, tư nhân hoàn toàn hoặc hỗn hợp [41].
Việc mô tả hệ thống cung cấp dịch vụ CSSK là không đơn giản tuy
nhiên việc trả lời cho câu hỏi Ai chi? còn phức tạp hơn nhiều. Thông
thường người ta đề cập đến 3 nguồn chi: Nhà nước, tập thể và cá nhân. Dựa
vào đây người ta chia làm 3 nhóm: Nhóm nhà nước bao cấp toàn bộ, nhà
nước chịu toàn bộ chi phí, đây là mô hình hệ thống y tế của các nước xã hội
chủ nghĩa trước đây và hiện nay ở một số nước như Anh, Canada; nhóm nhà
nước chỉ đóng vai trò quản lý và điều hòa thị trường CSSK; nhóm trung gian


20
với nhiều mức độ chi trả khác nhau của nhà nước và đây là mô hình phổ biến
của các nước hiện nay [41].
Qua hơn 20 năm đổi mới, công tác bảo vệ và CSSK nhân dân ở nước ta

đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, mạng lưới y tế, đặc biệt là y tế cơ sở
ngày càng được củng cố và phát triển; nhiều dịch bệnh nguy hiểm được
khống chế và đẩy lùi; các dịch vụ y tế ngày càng đa dạng; nhiều công nghệ
mới được nghiên cứu và ứng dụng. Nhân dân hầu hết ở các vùng miền đã
được chăm sóc sức khỏe tốt hơn; nhiều chỉ số về sức khỏe của nhân dân ta đã
vượt qua các nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người [42].
1.9.3. Phân tuyến trong hệ thống khám, chữa bệnh
Thực tế hiện nay Việt Nam, mạng lưới KCB nhìn nhận theo cấp độ
quản lý hành chính nhà nước gồm có 4 cấp [20]:
- Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tuyến xã và tương đương;
- Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tuyến huyện và tương đương;
- Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tuyến tỉnh và tương đương;
- Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tuyến trung ương và tương đương.
1.9.4. Tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe của ngƣời khuyết tật
Chăm sóc sức khỏe cho người khuyết tật là một mục tiêu cần đạt được
của chính sách y tế quốc gia. Phấn đấu đạt đến sự công bằng hơn trong tiếp
cận và sử dụng dịch vụ CSSK là vấn đề cốt yếu trong hoạch định các
chính sách, các kế hoạch đầu tư trong y tế. Về cơ bản người khuyết tật
gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận các dịch vụ CSSK hơn là người bình
thường.
Ở Việt Nam công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân nói chung và chăm
sóc sức khỏe cho người khuyết tật nói riêng được Chính phủ đặc biệt quan
tâm và giao cho Bộ

tế chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành có liên quan xây

dựng và thực hiện. Đối với công tác chăm sóc sức khỏe người khuyết tật,
nhiều năm qua Bộ

tế cùng với các bộ, ngành liên quan xây dựng và từng


bước hoàn thiện hệ thống chính sách ưu tiên trợ giúp chăm sóc y tế cho người


21
khuyết tật; phát triển hạ tầng cơ sở y tế xã hội, phát triển và nâng cao năng lực
chuyên môn của đội ngũ cán bộ y tế, đặc biệt là cán bộ y tế tuyến cơ sở; xây
dựng và phát triển chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng cho
người khuyết tật. Từ khi Luật Người khuyết tật có hiệu lực, Bộ

tế đã chủ

động xây dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe người khuyết
tật được quy định trong Luật Người khuyết tật, Bộ trưởng Bộ

tế đã ban

hành Văn bản số1736/BYT-KCB ngày 04 tháng 4 năm 2011 về việc triển
khai Luật Người khuyết tật gửi Ủy ban nhân dân các tỉnh/thành phố trực
thuộc Trung ương, đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh/thành phố trực thuộc
Trung ương phối hợp với Bộ

tế chỉ đạo Sở

tế và các Ban, ngành có liên

quan triển khai Luật Người khuyết tật tập trung vào 6 nội dung trọng tâm về
chăm sóc sức khỏe người khuyết tật, phòng ngừa, phát hiện và can thiệp sớm
khuyết tật [2]. Theo báo cáo thường niên năm 2010 của Ban Điều phối các
hoạt động hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam, khung chính sách CSSK cho

người khuyết tật hiện tương đối đầy đủ cả về phát triển hạ tầng cơ sở y tế xã
hội cho đến những ưu tiên trợ giúp chăm sóc y tế đối với người khuyết tật.
Một số chính sách quan trọng như: Chiến lược phục hồi chức năng tại cộng
đồng; Luật Bảo hiểm y tế; Luật Khám bệnh, chữa bệnh được Quốc hội thông
qua đã cơ bản đảm bảo cơ sở pháp lý để thực hiện công tác CSSK cho người
khuyết tật [83].
Một số khó khăn, thách thức trong công tác CSSK người khuyết tật:
- Các mô hình PHCN DVCĐ mặc dù được triển khai ở Việt Nam từ năm
1987, nhưng cho đến nay chủ yếu thực hiện các hoạt động trong phạm vi của
lĩnh vực y tế, sự tham gia của các ngành thuộc các lĩnh vực khác còn hạn chế.
Nguồn kinh phí chi cho chương trình này còn rất hạn chế, chủ yếu dựa vào các
tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ nên kết quả thực hiện chưa cao [83].
- Chất lượng của mạng lưới y tế tuyến cơ sở còn thấp, các trạm y tế xã
thiếu trang thiết bị, trang thiết bị lạc hậu, không đảm bảo cơ số thuốc, thiếu bác


×