LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành khóa luận. Em xin gửi lời
biết ơn sâu sắc đến Th.S Nguyễn Thị Vân Anh, người đã dành nhiều thời
gian, tâm huyết tận tình hướng dẫn nghiên cứu và giúp đỡ em trong suốt quá
trình hoàn thành khóa luận.
Tham vọng thì nhiều nhưng do thời gian và tri thức có hạn nên trong
khóa luận của em chắc chắn có những điều còn hạn chế. Em mong muốn sẽ
nhận được sự góp ý chân thành của thầy cô để khóa luận này được hoàn chỉnh
hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày ... tháng 5 năm 2014
Sinh viên
Bùi Thị Thu
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung đã trình bày trong khóa luận này là
kết quả nghiên cứu của bản thân tôi dưới sự hướng dẫn trực tiếp của cô giáo
Nguyễn Thị Vân Anh. Những nội dung này không trùng với sự nghiên cứu
của tác giả khác. Nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Sinh viên
Bùi Thị Thu
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 6
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 6
6. Đóng góp của khóa luận ............................................................................. 6
7. Cấu trúc của khóa luận ............................................................................... 6
CHƯƠNG 1. KỊCH HÓA CÁC SÁNG TÁC DÂN GIAN – MỘT
KHUYNH HƯỚNG SÁNG TẠO TRONG KỊCH VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
....................................................................................................................... 7
1.1. Kịch hóa các sáng tác dân gian và ý nghĩa của chúng .............................. 7
1.2. Lưu Quang Vũ - tài năng và lao động nghệ thuật................................... 13
1.3. Nghệ thuật xây dựng kịch bản của Lưu Quang Vũ ................................ 17
CHƯƠNG 2. NHỮNG KẾ THỪA VÀ SÁNG TẠO VỀ PHƯƠNG DIỆN
NỘI DUNG CỦA LƯU QUANG VŨ TRONG KỊCH BẢN HỒN
TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT (SO SÁNH VỚI TRUYỆN CỔ TÍCH
DÂN GIAN) ................................................................................................ 19
2.1. Về phương diện đề tài............................................................................ 19
2.1.1. Khái niệm đề tài ................................................................................. 19
2.1.2. Đề tài trong kịch bản “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”....................... 20
2.2. Về phương diện chủ đề .......................................................................... 26
2.2.1. Khái niệm chủ đề ................................................................................ 26
2.2.2. Sự kế thừa và mở rộng phạm vi chủ đề trong kịch bản “Hồn Trương
Ba, da hàng thịt” .......................................................................................... 27
CHƯƠNG 3. NHỮNG SÁNG TẠO VỀ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
CỦA LƯU QUANG VŨ TRONG KỊCH BẢN HỒN TRƯƠNG BA, DA
HÀNG THỊT (SO SÁNH VỚI TRUYỆN CỔ TÍCH DÂN GIAN) ........... 34
3.1. Cốt truyện.............................................................................................. 34
3.2. Nhân vật ................................................................................................ 37
3.3. Ngôn ngữ............................................................................................... 46
3.4. Xung đột................................................................................................ 48
KẾT LUẬN .................................................................................................. 53
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 56
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ở Việt Nam, kịch nói là một thể loại mới hình thành đầu thế kỷ XX.
Sau cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống Pháp, kịch nói đặc biệt phát
triển với các đoàn kịch và các diễn viên kịch chuyên nghiệp. Trong vẻ sầm
uất nói chung của hoạt động sân khấu hồi đầu kháng chiến, kịch nói ngày
càng lớn mạnh vượt bậc, đánh dấu sự tìm tòi, tự thể nghiệm của các nhà viết
kịch.
Lưu Quang Vũ xuất hiện đúng vào lúc sân khấu Việt Nam đang có
những đòi hỏi khẩn thiết. Đó là nhiệm vụ phản ánh những vấn đề nóng bỏng,
quan thiết, nổi cộm trong đời sống xã hội và bối cảnh đổi mới của đất nước
sau chiến tranh. Mẫn cảm nghệ sĩ và ý thức công dân đã thôi thúc ông viết
nên những vở kịch đáp ứng được nhu cầu bức thiết đó. Không những thế,
kịch bản trong nước thiếu, bộ phận viết kịch không thường xuyên cung cấp
cho bộ máy sân khấu chạy đều, là một nhà viết kịch mới xuất hiện nhưng
sung sức và tài năng, Lưu Quang Vũ đã sáng tạo không ngừng nghỉ để đem
đến cho sân khấu dân tộc những đêm diễn xúc động, đầy say mê. Tên tuổi
của ông gắn liền với những vở kịch giàu ý nghĩa, và cùng với một số tác giả
khác, ông đã làm nên một giai đoạn sân khấu cực kỳ sôi động, khó có thể lặp
lại trong một quãng thời gian dài, chí ít là cho đến tận hôm nay.
Trước đây, người ta mới chỉ biết đến Lưu Quang Vũ - thơ; Lưu
Quang Vũ - truyện và Lưu Quang Vũ - ký giả kịch trường. Từ 1980 đến nay,
người ta biết đến Lưu Quang Vũ chủ yếu như một nhà viết kịch. Tên tuổi
của ông gắn liền với những vở làm xôn xao dư luận như: Nàng Si-Ta;
Nguồn sáng trong đời; Tôi và Chúng ta; Hồn Trương Ba, da hàng thịt…
Trong vòng 5 năm (1980 – 1985), Lưu Quang Vũ đã viết 30 vở kịch dài,
trong đó 25 vở đã được các đoàn nghệ thuật Trung ương và địa phương
1
trong cả nước dàn dựng và biểu diễn.
Lưu Quang Vũ là một tác giả có sức viết dồi dào và thành công ở
nhiều thể loại. Nhất là trong giai đoạn những năm 80 của thế kỷ XX, ông
được biết đến như một hiện tượng của nền sân khấu nước nhà. Có một điều
chắc chắn rằng, từ khi mới ra đời cho đến ngày hôm nay, và cả mai sau nữa,
kịch Lưu Quang Vũ vẫn là mảnh đất cần khai phá đối với nhiều nhà nghiên
cứu văn học nghệ thuật.
Hồn Trương Ba, da hàng thịt (viết năm 1981 nhưng đến năm 1984 mới
ra mắt công chúng) là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang
Vũ. Từ một cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng thành một vở
kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng, triết lý và
nhân văn sâu sắc.
Là một nghệ sĩ với năng khiếu bẩm sinh và khả năng cảm thụ nghệ
thuật, bên cạnh những vở kịch lấy từ đề tài lịch sử hay hiện đại thì sự xuất hiện
của những vở kịch lấy đề tài từ tích truyện dân gian của Lưu Quang Vũ. Tìm
hiểu về mảng kịch này, đặc biệt là vở Hồn Trương Ba, da hàng thịt chúng tôi
được hiểu hơn về tầm vóc, suy nghĩ, hành trình “hồi hương”, say mê “vốn cổ”
của một kịch tác gia biết trân trọng, làm mới cái cũ, đã dẫn dắt độc giả đi từ
bất ngờ này đến bất ngờ khác. Nhìn vào khối lượng tác phẩm đồ sộ mà tác giả
để lại trong một thời gian ngắn, chúng ta càng cảm nhận hết sự cảm kích trong
lời nhận xét của nhà nghiên cứu Phan Ngọc: “Lưu Quang Vũ là nhà viết kịch
lớn nhất thế kỷ này của Việt Nam, là một nhà văn hóa” [13;149]. Là ngọn cờ
tiên phong “ khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”.
Lưu Quang Vũ đã tìm thấy trong vốn cổ “những ý tưởng” để xây dựng lên
những vở kịch tỏa sáng cho đến tận hôm nay và mai sau.
Từ năm 2005 - 2006, trích đoạn vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt
được đưa vào dạy ở lớp 12 chương trình phân ban thí điểm, nay đã được giảng
2
dạy chính thức ở THPT. Việc tuyển chọn các văn bản kịch của Lưu Quang Vũ
đưa vào giảng dạy trong nhà trường phổ thông và đại học như một sự khẳng
định giá trị nghệ thuật và ý nghĩa nhân sinh của các vở kịch trong quá trình
hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ.
Nhìn lại lịch sử nghiên cứu, phê bình kịch của Lưu Quang Vũ, có rất
nhiều bài viết đăng trên báo, tạp chí và cả những bài nghiên cứu được tập
hợp thành sách. Gần đây PGS.TS Lưu Khánh Thơ, PGS.TS Lý Hoài Thu cho ra
mắt công chúng cuốn Lưu Quang Vũ về tác gia và tác phẩm, công trình này đã
lược tổng toàn bộ những giá trị nghiên cứu về Lưu Quang Vũ từ trước tới nay.
Học tập và kế thừa ý kiến đánh giá xác đáng của những nhà nghiên
cứu đi trước, khóa luận tập trung tìm hiểu vấn đề chuyển thể đặc biệt là
chuyển thể kịch bao gồm những vấn đề về cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ…
2. Lịch sử vấn đề
Có nhiều ý kiến cho rằng: sân khấu Việt Nam những năm 80 của thế kỷ
XX là sân khấu của riêng Lưu Quang Vũ. Kèm theo đó là hàng trăm bài báo
và công trình nghiên cứu viết về những đóng góp tích cực của ông trong việc
“làm mới” nền kịch nói nước nhà. Để tránh “dẫm lên bước chân của người đi
trước”, việc hệ thống lại những kết quả nghiên cứu về Lưu Quang Vũ từ
trước tới nay là thao tác cần thiết đối với người viết.
Sau khi ông mất đi, hiện tượng Lưu Quang Vũ đã trở thành đề tài nóng
hổi, thu hút được sự chú ý của giới phê bình, nghiên cứu trên phạm vi cả
nước. Đã 20 năm trôi qua, chúng ta có đủ căn cứ và độ lùi thời gian cần thiết
để khẳng định giá trị bền vững của kịch Lưu Quang Vũ.
Dưới đây chúng tôi xin điểm qua một vài công trình nghiên cứu có giá
trị về mảng kịch dựa trên tích truyện dân gian nói chung và vở Hồn Trương
Ba, da hàng thịt nói riêng. Bởi lẽ, hầu hết các nhà nghiên cứu đều có một cái
nhìn lạc quan, tin tưởng vào sự thành công của mảng kịch.
3
Ngô Thảo trong Con đường sáng tạo của một tài năng đã chia kịch
Lưu Quang Vũ ra làm ba loại, bên cạnh mảng kịch dựa trên cốt truyện văn
học và mảng sáng tạo mới thì mảng kịch dựa trên tích truyện dân gian tuy số
lượng ít nhưng đóng góp không nhỏ vào sự thành công của Lưu Quang Vũ.
“Riêng tôi cứ tin là rồi cái vở kịch mượn tích xưa, nay (có nhiều thay đổi - tất
nhiên) rồi sẽ còn trên sân khấu một thời gian dài hơn”[4;65] - là suy ngẫm
của Ngô Thảo về vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt.
Phan Trọng Thưởng đã chỉ ra Phép ứng xử với cái chết trong kich Lưu
Quang Vũ, đặc biệt là vở Hồn Trương Ba, da hàng thịt, vấn đề sống chết còn
được Lưu Quang Vũ nâng lên bình diện triết học - dựa trên nền cốt truyện dân
gian.
Cao Minh trong bài viết Kịch Lưu Quang Vũ và những vấn đề của đời
sống đã nêu “Từ một truyện cổ dân gian mang tính triết lý cao, Lưu QuangVũ
sáng tác vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Vở kịch đi thẳng vào người
xem với vấn đề muôn thuở của con người, cũng là vấn đề cấp bách của cuộc
sống hiện tại” [13;174-175]
Phạm Vĩnh Cư gọi Hồn Trương Ba, da hàng thịt là bi hùng kịch khi
tác giả của nó đã: “Đổ rượu mới vào bình cũ kể lại chuyện hài cổ như một bi
kịch triết lý thời nay với hai chiều kích đan thoa: chiều kích nhân sinh - xã hội
và chiều kích bản thể - siêu hình” [2;118].
Các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm đến vấn đề nhân sinh của vở
kịch. Về vấn đề này, Phan Trọng Thưởng đưa ra nhận xét rất xác đáng: “Theo
tôi khai thác triết lý nhân sinh trong truyện cổ tích Hồn Trương Ba, da hàng
thịt vào lúc này, Lưu Quang Vũ và những nghệ sĩ thực hiện vở diễn đã làm
cái việc không phải là “Ôn cố tri tân” như ta thường nói mà là “Tri cố, tri
tân” [20;277].
Tác giả Đặng Hiển dành thời gian triển khai cụ thể hơn đặc điểm nổi
4
bật của kịch Lưu Quang Vũ từ những gì mà người đi trước thấy được qua bài
viết “Hồn Trương Ba, da hàng thịt từ truyện cổ tích dân gian đến kịch Lưu
Quang Vũ - xét về mặt tư tưởng triết học”. Điều còn mãi trong lòng tác giả
và trí nhớ của bạn đọc là: “Tư tưởng triết lý của Lưu Quang Vũ về con người
vừa biện chứng vừa lạc quan và cao thượng. Điều này cùng với tài năng sáng
tạo nghệ thuật của tác giả đã làm cho vở kịch có giá trị nhân văn cao, vươn
tới tầm nhân loại. Và đó cũng là những yếu tố làm cho vở kịch trở thành cổ
điển” [6;423].
Trên đây là những tư liệu, bài viết mà chúng tôi đã sưu tầm và tìm
hiểu.Về mặt số lượng có thể nói là đảm bảo được tính liên tục của quá trình
nghiên cứu từ khi Lưu Quang Vũ còn sống đến nay. Khai thác hết vẻ đẹp của
kịch Lưu Quang Vũ là thử thách lớn cho bất kỳ nhà nghiên cứu nào. Những
nguồn tư liệu trên vô cùng quý giá và cần thiết để người nghiên cứu có cơ hội
thực hiện được tham vọng của mình trong việc đi sâu khám phá một cách toàn
diện hơn về kịch Lưu Quang Vũ.
Nghiên cứu Hồn Trương Ba, da hàng thịt nhằm hiểu bản chất của quá
trình chuyển thể từ truyện cổ tích dân gian đến kịch bản văn học. Đặc biệt
thấy được sự kế thừa sáng tạo của Lưu Quang Vũ trên cả hai phương diện nội
dung và nghệ thuật.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Tìm hiểu những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Lưu
Quang Vũ khi chuyển thể “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” từ truyện
dân gian sang kịch bản văn học.
Phạm vi: Khóa luận tập trung khảo sát truyện cổ tích “Hồn Trương
Ba, da hàng thịt” và kịch bản cùng tên của Lưu Quang Vũ.
5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Qua việc khảo sát, phân tích, so sánh vở kịch “Hồn Trương Ba, da
hàng thịt” dựa trên tích truyện dân gian, chúng tôi sẽ cố gắng làm sáng tỏ
những đặc điểm riêng của vở kịch này và lấy đó làm cơ sở để hiểu rõ hơn
vềnhững cách tân độc đáo trong kịch Lưu Quang Vũ.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp hệ thống
Phương pháp so sánh, đối chiếu
Phương pháp phân tích tổng hợp
6. Đóng góp của khóa luận
Nghiên cứu vấn đề chuyển thể “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”từ
truyện cổ tích dân gian sang kịch bản văn học. Từ đó chỉ ra những sáng tạo
trên nhiều bình diện thuộc cả nội dung tư tưởng lẫn hình thức nghệ thuật của
Lưu Quang Vũ trong kịch bản kể trên.
7. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận
gồm 3 chương:
Chương 1: Kịch hóa các sáng tác dân gian - một khuynh hướng sáng
tạo trong kịch Việt Nam hiện đại
Chương 2: Những kế thừa và sáng tạo về phương diện nội dungcủa
Lưu Quang Vũ trong kịch bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt (so sánh
với truyện cổ tích dân gian)
Chương 3: Những sáng tạo về phương diện nghệ thuật của Lưu
Quang Vũ trong kịch bản Hồn Trương Ba da hàng thịt (so sánh với
truyện cổ tích dân gian)
6
CHƯƠNG 1
KỊCH HÓA CÁC SÁNG TÁC DÂN GIAN – MỘT KHUYNH HƯỚNG
SÁNG TẠO TRONG KỊCH VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
1.1 . Kịch hóa các sáng tác dân gian và ý nghĩa của chúng
Văn học nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội thường nhạy cảm với
những biến đổi của đời sống. Từ đầu những năm 80 của thế kỉ XX, văn học
có những trăn trở, chuyển mình, từng bước đổi mới để đáp ứng nhu cầu và thị
hiếu thẩm mỹ mới của công chúng. Nhà văn với ý thức trách nhiệm về ngòi
bút của mình, không ngần ngại đi vào những mặt còn khuất lấp, những vấn đề
đạo đức - thế sự của xã hội thời kỳ đó. Thời kỳ này một số tác phẩm đã gây
được tiếng vang lớn như truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, thơ
của Nguyễn Duy, tiểu thuyết của Nguyễn Mạnh Tuấn…. Đặt các vở kịch
trong truyền thống khi thời điểm đó văn học đang có nhu cầu nhận thức lại
lịch sử và quá khứ đề tìm ra đường hướng đúng đắn và hợp lý của mình thì
mảng truyện dựa trên tích truyện dân gian của Lưu Quang Vũ có một giá trị
không nhỏ. Nối tiếp và gắn kết quá khứ với hiện tại là yêu cầu cần kíp của bất
kỳ một thời đại nào, điều này càng có ý nghĩa hơn khi xã hội đang ở thời điểm
giao thời để tìm ra hướng đi đúng đắn và phù hợp nhất. Tuy nhiên việc định
hướng và phát hiện cái đúng trong thời điểm này là điều cực kỳ khó khăn đòi
hỏi một nhãn quan tinh tường và khả năng dự báo, dự cảm chính xác của
những người đi tiên phong. Bên cạnh đó việc tuyên truyền và định hướng và
đông đảo công chúng và cả một thời đại là thử thách không phải ai cũng làm
được, chỉ có những nghệ sĩ tài năng như Lưu Quang Vũ mới đảm đương được
trách nhiệm lớn lao này. Và, Lưu Quang Vũ đã làm tròn bổn phận của mình
trước sứ mệnh lịch sử cao cả ấy. Bằng chứng là, cho đến nay, những định
7
hướng về việc khơi nguồn, giữ gìn và tiếp thu tinh hoa từ vốn cổ dân gian của
ông vẫn là triết lý đúng đắn để chúng ta học hỏi.
Có thể nói thái độ trân trọng và tiếp thu vốn cổ của cha ông đã giúp
Lưu Quang Vũ tiếp cận sâu hơn đến miền cổ tích dân gian, tôn vinh những
giá trị vĩnh hằng của kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Với số lượng
khiêm tốn (7/53) kịch bản khai thác từ đề tài dân gian, sự trường tồn của các
vở kịch Hồn Trương ba, da hàng thịt (1981), Nàng Sita (1982), Lời nói dối
cuối cùng (1985), Ông vua hóa hổ (1985), Đam San (1987), Đôi đũa kim
giao (1988), Linh hồn của đá (1988) đã khẳng định tên tuổi của Lưu Quang
Vũ như một nhà viết kịch luôn trân trọng và phát huy những gì cha ông để lại.
Ra đời trong hoàn cảnh cái mới đang sôi sục và lan tràn trong cuộc
sống, mảng kịch khai thác từ chất liệu dân gian của Lưu Quang Vũ đã mang
lại một hơi thở mới, luồng gió mới cho cuộc sống lúc giao thời. Những năm
80 của thế kỷ trước, Lưu Quang Vũ đã gặt hái nhiều thành công và được đánh
giá cao với những vở kịch của đề tài hiện đại, nhưng không vì thế mà giới
nghiên cứu và công chúng bỏ qua những vở kịch lấy chất liệu từ dân gian vốn
“lạ miệng” này. Vốn là nhà viết kịch nhạy cảm với thời cuộc, Lưu Quang Vũ
biết rằng cái mới luôn được xây dựng trên nền tảng của cái cũ, điều quan
trọng là biết tiếp nối và phát huy nó để đảm bảo quá trình ấy được liên tục và
xuyên suốt. Chúng ta luôn tự hào là những con người được sinh ra và lớn lên
trên mảnh đất văn hiến với các giá trị đạo đức đã tồn tại và ăn sâu vào tâm trí,
lối sống của người dân hàng nghìn năm nay. Tuy nhiên, trong thời điểm mà
cái mới lan tràn vào ngõ ngách của đời sống thì các giá trị văn hóa vĩnh hằng
ấy đang bị lãng quên. Hơn nữa, hơn ai hết tác giả hiểu rằng, một dân tộc
muốn khẳng định vị thế của mình phải là một dân tộc giữ được bản sắc văn
hóa riêng có ấy. Sự phát triển phải đảm bảo được quá trình kế thừa và phát
huy các hạt nhân tích cực vốn có. Do vậy, dù trong bất cứ thời điểm nào,
8
chúng ta đều phải có ý thức trau dồi, bồi đắp và giữ gìn giá trị truyền thống tốt
đẹp đó.
Là một người được sinh ra và lớn lên trong một gia đình nề nếp, lấy
chữ đức làm trọng, Lưu Quang Vũ luôn giữ trong mình lối sống, nếp nghĩ của
một con người đất Việt. Vì vậy, ông thấm nhuần lối sống, chuẩn mực của cha
ông ta về quan điểm làm người, lối sống đạo đức, quan điểm về tình anh em,
nghĩa vợ chồng… Những bài học đạo đức ấy được Lưu Quang Vũ lồng ghép
khéo léo và chuyển tải một cách sinh động, tha thiết trong mảng kịch này. Đó
là sự mâu thuẫn trong quan điểm về gia phong, đạo lí làm người của những
người lớp trước như Trương Ba, Trưởng Hoạt với thế hệ trẻ - mà anh con trai
Trương Ba làm đại diện. Đó là sự suy đồi về hành vi, đạo đức trong mỗi cá
nhân, trong từng gia đình và rộng hơn là một bộ phận không nhỏ đang tồn tại
trong xã hội. Đó là sự tha hóa, biến chất, vô trách nhiệm của những con người
trên ngôi cao quyền lực, là thói làm ăn vô lối, quan liêu, cửa quyền của một
bộ phận quan chức. Những vi phạm và xuống cấp trầm trọng của các giá trị
đạo đức mà cha ông ta dày công vun trồng, giữ gìn và truyền lại cho hậu thế
đang bị một bộ phận không nhỏ những cá nhân chạy theo quyền lực của đồng
tiền, danh vị làm cho tha hóa. Nỗi đau của con người còn đứng nhìn sự đổ vỡ
của các giá trị đạo đức luân thường đã thôi thúc Lưu Quang Vũ mạnh dạn sử
dụng chất liệu dân gian và biến nó thành lời cảnh báo đối với toàn xã hội. Do
vậy không dừng lại ở việc phơi bày những vấn đề quan thiết, nóng hổi của xã
hội trong các vở kịch có đề tài hiện đại, kịch tác gia không bỏ qua đề tài vô
giá từ văn học dân gian để phục vụ cho chính yêu cầu đổi mới sân khấu nước
nhà. Tuy nhiên ông không làm nhiệm vụ “sao nguyên bản chính” mà dụng
công làm mới cái cũ, bồi đắp thêm tư tưởng cần thiết, đưa những vấn đề cấp
bách của cuộc sống hiện tại vào văn học dân gian để khơi gợi những suy nghĩ
và cách nhìn mới. Cuộc sống mới làm nảy sinh những mặt trái mà con người
9
bị cuốn vào đó lúc nào không hay. Sự xác lập của nền kinh tế thị trường giống
như lực hút vô hình, cuốn con người ta vào vòng xoáy của tiền tài, danh vọng,
địa vị, quyền chức mà xem nhẹ tình người, coi thường luân lí, sẵn sàng dẫm
đạp và bẻ cong luật pháp, nghĩa tình hòng đạt được mục đích của mình. Cuộc
sống thay đổi như vũ bão cũng tạo đà cho những luồng văn hóa mới xâm nhập
một cách ồ ạt vào nước ta mà không có sự chọn lọc, loại bỏ. Sự giao thoa,
tranh giành giữa hai luồng tư tưởng mới - cũ ấy đã được Lưu Quang Vũ dụng
công và truyền tải một cách khéo léo trong mảng kịch này. Đồng thời, tác giả
cũng bổ sung thêm nhưng quan niệm mới về bản thể, sống - chết, về quan hệ
anh em, làng xã của đời sống mới. Theo Lưu Quang Vũ, đổi mới là tất yếu
phù hợp, là phù hợp với xu hướng và sự vận động của lịch sử xã hội nhưng
đổi mới không có nghĩa là cào bằng, phá bỏ cái cũ để thiết lập nên xã hội
hoàn toàn mới. Đổi mới trên nền tảng của văn hóa, truyền thống, tinh hoa dân
tộc mới là phương hướng, mục tiêu mà xã hội thời kỳ ấy cũng như mọi thời
đại sau này phải hướng đến. Để khẳng định chân lý ấy thì còn gì phù hợp hơn
khi tác giả lấy văn học dân gian với những hình tượng “xưa cũ” để lên tiếng
cảnh tỉnh và nhắc nhở mỗi cá nhân cũng như toàn xã hội.
Việc khai vốn văn hóa dân gian là công việc sáng tạo thường gặp ở các
nhà văn, nhà viết kịch xưa nay. Lịch sử văn học nghệ thuật của nhân loại đã
ghi nhận nhiều vở kịch có giá trị thuộc loại sáng tạo này: “Pauxtơ” của Gớt,
“Rô-mê-ô và Ji-lu-ét”, “Hămlét” của Seechxpia… Kho tàng văn học dân gian
bao giờ cũng chứa đựng những chân lý giản dị và sâu sắc. Nhiều tác phẩm
vẫn còn là những câu hỏi mà mỗi thời đại đều thấy ở đó những nhận thức lý
giải mới mẻ. Khai thác đề tài dã sử, cổ tích, Lưu Quang Vũ một mặt vẫn giữ
cái hạt nhân vốn có của cốt truyện, nhưng mặt khác ông đã thổi vào đó những
tầng nghĩa mới mang hơi thở thời đại. Từ những vấn đề quen thuộc của câu
chuyện dân gian, nhà viết kịch đã khơi mở những vấn đề nóng hổi, đem đến
10
cho người xem những suy tư, trăn trở. Nảy sinh từ việc đi sâu, đi sát vào
những vấn đề đạo đức, nhân sinh trong xã hội, những vấn đề mảng kịch này
đặt ra giúp cho chúng ta giám nhìn thẳng, nhìn thật vào thực tế cuộc sống để
tìm cách giải quyết. Tuy không phải là những vấn đề lớn lao nhưng nó ảnh
hưởng trực tiếp đến ý thức, trách nhiệm của người dân trong việc bảo tồn và
phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc. Đó là sự xóa bỏ không thương
tiếc những con người chạy theo lối “tân tiến” mà coi thường, xem nhẹ cách
hành sử với anh em, bạn bè, với đồng loại. Bên cạnh những vấn đề nóng hổi
đang nảy sinh trong nền kinh tế mới thì sự “thay da đổi thịt” một cách bất
ngờ, chóng vánh của những giá trị làm nên nền tảng đạo đức xã hội đang là
bài học và thách thức lớn đối với thời đại. Chính vì vậy, sự tiên phong của
Lưu Quang Vũ không chỉ ở việc phát hiện ra những mâu thuẫn trong lối sống,
cung cách làm ăn của xã hội thời kỳ đầu đổi mới, chính sự dự báo, dự cảm
của những thói xấu, sự xa đọa đang nảy sinh trong mặt trái của nền kinh tế thị
trường khiến toàn xã hội phải “giật mình”. Đồng thời việc làm này của Lưu
Quang Vũ đã nhắc nhở giới văn nghệ sĩ nói riêng và tất cả chúng ta nói chung
phải biết trân trọng và bảo tồn các tác phẩm dân gian và những giá trị mà
chúng ta đang cho nó là lỗi thời, lạc hậu. Thậm chí có một bộ phận giới trẻ
ngày nay đã lãng quên nguồn gốc và bản sắc văn hóa dân tộc để chạy theo xu
hướng tân tiến, kệch cỡm và phản cảm. Bởi lẽ, sự phát triển phải xuất phát từ
sự kế thừa, có như thế chúng ta mới xây dựng được một nền văn hóa, kinh tế,
chính trị vững chắc và lâu bền.
Sở dĩ mảng kịch dựa trên tích truyện dân gian của Lưu Quang Vũ gây
được tiếng vang và tạo được vị thế nhất định bởi trong tác phẩm ấy ông
không phủ định sạch trơn hay lợi dụng tích truyện dân gian để quay lưng lại
với cuộc sống như nhiều người từng làm. Kịch của ông là sự dung hòa, tiếp
thu và bổ sung theo cảm nhận của người viết đang sống giữa thế kỷ XX. Lưu
11
Quang Vũ đã thành công trong việc xích lại thời gian, kéo gần không gian của
mấy nghìn năm để đặt ra những vấn đề, đưa ra lời giải đáp bất ngờ, hấp dẫn
và đầy chất trí tuệ. Xem các vở kịch của ông, dù ở bất cứ thời điểm nào,
người xem vẫn nhận ra đó là xã hội đương thời. Bởi đó là xã hội với dòng
chảy trôi liên tục của những mối quan hệ, của vấn đề tình người, của niềm tin
và đức hi sinh vì người khác. Những vấn đề ấy không chỉ được coi trọng
trong lịch sử mà hiện tại nó càng cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết để
dung hòa cái mới - cái cũ, tạo ra sợi dây kết nối truyền thống và hiện đại.
Điều đó có nghĩa, bài học về sự sáng tạo, khơi nguồn trong nghệ thuật để
phục vụ cho cuộc sống hiện tại và tương lai là không có giới hạn và điểm
dừng. Với những bước đi táo bạo của mình, Lưu Quang Vũ đã góp phần tạo
nên diện mạo mới cho sân khấu nước nhà.
Sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữa cái mới và cái
cũ, giữa nghệ thuật dân gian và nghệ thuật đương đại trong ngòi bút Lưu
Quang Vũ đã xóa bỏ được “thành kiến” của những người đang ra sức đổi mới
nền sân khấu đối với những vở kịch có đề tài từ tích truyện dân gian. Không
chỉ có vậy, Lưu Quang Vũ còn góp phần thay đổi tư duy, cách nhìn của người
phê bình, người xem, người diễn của cả một thời kỳ. Nếu như trước đây, công
chúng khá quen thuộc với những tác phẩm ca ngợi truyền thống yêu nước,
lịch sử mà lãng quên đi bản thể con người thì sự tiên phong của Lưu Quang
Vũ khiến mọi người phải thay đổi cách nghĩ và đánh giá đúng giá trị của “con
người”. Từ đó, giúp cho giới phê bình được phát huy hết cái tôi, mạnh dạn
đưa ra những ý kiến, kiến nghị để góp sức mình nhằm định hướng cho đường
lối phát triển của kịch nói riêng và văn học nghệ thuật nói chung trong thời kỳ
mới. Chính sự quan tâm đúng mức, đào sâu khai phá những tâm tư, suy nghĩ,
tình cảm của mỗi cá nhân trong từng cảnh ngộ khác nhau trong mảng kịch
này đã góp phần định hướng cho văn nghệ sĩ tìm ra một hướng đi mới với
12
công cuộc chinh phục và khai phá “con người”. Với tư cách của người mở
đường, Lưu Quang Vũ đã làm cuộc cách mạng để cải thiện văn hóa “xem” và
“nhìn” của đại bộ phận công chúng yêu sân khấu, nhất là sân khấu kịch thành
phố Hồ Chí Minh. Sự có mặt của những vở diễn trong mảng kịch này đã thu
hút một lực lượng đông đảo người xem đến rạp. Hơn nữa, những vấn đề mới
mẻ mà Lưu Quang Vũ đặt ra trong Hồn Trương Ba, da hàng thịt đã trở
thành đề tài nóng hổi khiến giới phê bình cả nước phải vào cuộc để tranh
luận, bàn tán. Không những vậy, đây còn được coi là vở diễn xuất sắc nhất tại
Liên hoan Sân khấu các nước Xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô cũ năm 1990 và ở
Mỹ năm 1998.
Có thể khẳng định, Lưu Quang Vũ là một trong những “người đi trước”
trong phong trào đổi mới văn hóa, văn nghệ, dùng ngòi bút của mình để góp
phần đem lại những điều tốt đẹp cho con người và xã hội. Việc khai thác các
mô típ dân gian, dựa vào đó để viết kịch bản mang đậm dấu ấn cá nhân và
phong cách của mình đã tạo cho kịch Lưu Quang Vũ một chiều sâu đáng kể.
Nó tạo cho kịch của ông sự phong phú về đề tài, hấp dẫn ở cốt truyện, lôi
cuốn ở nghệ thuật xây dựng nhân vật.
1.2. Lưu Quang Vũ - tài năng và lao động nghệ thuật
Trong khuôn khổ của phạm vi nghiên cứu, với mong muốn tìm hiểu vấn
đề ở cả chiều rộng lẫn bề sâu, chúng tôi sẽ làm sáng tỏ “tài năng” và đóng góp
to lớn của Lưu Quang Vũ với nền kịch nói nước nhà. Văn học nghệ thuật trong
mỗi thời kì thường xuất hiện những gương mặt và tên tuổi và tác phẩm của họ
đã thu hút được sự chú ý của người đọc, người xem trong một khoảng thời
gian nhất định. Sự nhạy cảm, nhận thức kịp thời khiến họ trở thành gương mặt
tiêu biểu cho cả một giai đoạn. Trong quy luật tồn tại của tự nhiên và xã hội,
những sự vật, hiện tượng mới luôn nảy sinh và làm mới chính cuộc sống này.
Đối với văn học nghệ thuật nói riêng, sự thăng hoa và dấu ấn của người nghệ
13
sĩ ở mỗi giai đoạn lịch sử cũng có thể được coi như một hiện tượng. Tuy
nhiên, xét về mặt bản chất của các hiện tượng là khác nhau, bởi vậy sự tồn tại
của các hiện tượng trong lòng công chúng không giống nhau. Nói đến hiện
tượng là phải tính đến yếu tố thời gian, nghĩa là không thể phủ nhận quá trình
khai sinh, phát triển, khẳng định vị trí của mình theo cách riêng hoặc có thể là
biến mất không để lại dấu vết. Muốn khẳng định giá trị bền vững của “hiện
tượng” nhất thiết phải được kiểm nghiệm bằng một phép thử “thời gian” cũng đồng nghĩa với cuộc sống, thời gian được duy trì, kéo dài.
Chúng ta có thể thấy, Lưu Quang Vũ là một hiện tượng đích thực của
Sân khấu Việt Nam những năm 80 của thế kỷ XX. Nếu không ra đi quá vội
vàng khi tài năng còn đang nở rộ thì sự nghiệp và tên tuổi của kịch tác gia này
còn tiến xa hơn nữa. Nói đến “hiện tượng Lưu Quang Vũ” chúng ta cần chú ý:
sự bộc lộ bản chất của một tài năng ở nghệ sĩ là rất sớm, và vì vậy, cho dù có
gọi là “hiện tượng Lưu Quang Vũ” thì người đọc cần phải hiểu ngay, hiện
tượng ở đây không còn mang ý nghĩa bề nổi mà nó thống nhất với tài năng,
sức sống lâu bền của một cây bút. Sự đặc biệt là ở chỗ: thông thường một
hiện tượng “đến” và “đi” cũng rất nhanh. Còn Lưu Quang Vũ trong suốt thời
gian sáng tác khá dài (gần 10 năm), nhưng ấn tượng mới mẻ, lôi cuốn của cái
buổi đầu đã tạo nên dấu ấn trong lòng độc giả thì vẫn mãi vẹn nguyên. Nhà
nghiên cứu Ngô Thảo nhận xét: “Sự phát lộ tài năng ở Vũ không theo quy luật
của sự hội tụ mà như lan tỏa trên một mặt bằng rộng rãi” [3;62]. Bằng chứng
là trong suốt 10 năm sáng tác với 53 vở kịch ở hầu khắp các đề tài, chủ đề,
Lưu Qung Vũ đã dẫn dắt người xem đi hết bất ngờ này tới bất ngờ khác. Hiện
tượng Lưu Quang Vũ ngày càng thu hút được sự chú ý của mọi giới, mọi
nghành trên phạm vi cả nước với nhịp độ nhanh và cường độ mạnh khi tần
suất các vở diễn của ông khi dàn dựng trên sân khấu ngày càng lớn. Thực tế
đã chứng minh: “sân khấu thủ đô Hà Nội, sân khấu thành phố Hồ Chí Minh
14
nhiều dịp chứng kiến sự chiếm lĩnh hầu hết vở diễn của Vũ trên sàn diễn”.
[1;383]. Sau 1985, người ta nghi ngờ ở Lưu Quang Vũ “tinh hoa đã phát tiết
hết”, nhưng trên thực tế, khả năng sáng tạo của ông vẫn dồi dào như mới ngày
đầu. Đơn giản một lẽ, Lưu Quang Vũ là tài năng đích thực, một tài năng đi
theo con đường riêng của mình và không bao giờ lặp lại.
Mỗi tác phẩm của ông, dù ít hay nhiều đều mang trong đó tầm tư
tưởng, triết luận sâu sắc về cuộc sống, con người trong thời đại mới. Mỗi
nhân vật đều được Lưu Quang Vũ nhào nặn với cá tính riêng biệt nhưng vẫn
chân thực, gần gũi đến khó tin. Kịch Lưu Quang Vũ “không rẻ tiền” vì tính
cách, nội tâm phong phú, sự đan xen giữa chính nghĩa - gian tà, cái tốt - cái
xấu, giữa cái thiện - cái ác trong mỗi nhân vật mà không dễ gì nhận ra, định
giá ngay được. Thông qua mỗi vở kịch, ông gửi vào đó tiếng nói đồng cảm
thiết tha của lương tri, trái tim chân chính. Từ đó, người xem soi vào để nhìn
nhận lại chính mình. Những thông điệp mà Lưu Quang Vũ gửi gắm đã đánh
thức lương tâm, tình thương, trách nhiệm và vẻ đẹp chân chính, bản thiện vốn
có trong mỗi con người.
“Đến hẹn lại lên” cứ 5 năm một lần, anh em nghệ sĩ của sân khấu nước
nhà lại tụ họp để đua tài, đọ sức. Càng gần đến hẹn các đoàn càng ráo riết săn
lùng kịch bản.Và Lưu Quang Vũ là cây bút được nhiều đơn vị trông chờ nhất.
Cũng nhờ đó mà cái tên Lưu Quang Vũ đã gây xôn xao dư luận qua hai kỳ Hội
diễn 1980, 1985, để vinh dự trở thành “hiện tượng lạ của sân khấu” một thời.
Mỗi bước đi trong hành trình sáng tạo của Lưu Quang Vũ đã đạt tới cái
đích lớn lao nhất của mọi sự sáng tạo, đó chính là tấm lòng, sự ngưỡng mộ
của biết bao khán giả đối với ông. Con đường trước mắt ông hoàn toàn rộng
mở. Công thức rút ra từ thành công của Lưu Quang Vũ là sự kết hợp giữa một
tài năng đến độ “chín muồi” và tinh thần lao động nghệ thuật phi thường.
Khiêm nhường và lặng lẽ, thành công dưới ánh đèn sân khấu không làm
15
người nghệ sĩ ấy thăng bằng. Càng xem kịch của ông người ta càng vững tin
hơn ở sự đốn ngộ, thức tỉnh lương tri ở mỗi con người. Chính sự nhạy bén,
khả năng nhào nặn cuộc đời và định hướng đấu tranh cho các giá trị Chân Thiện - Mĩ trong mỗi vở kịch của ông, đã khẳng định chỗ đứng xứng đáng
của kịch tác giả Lưu Quang Vũ trong lòng công chúng.
Viết nhanh, viết nhiều nên chất lượng các vở kịch không đồng đều
cũng là lẽ đương nhiên. Có những vở mà dư âm của nó còn mãi với thời gian
nhưng có những vở rồi sẽ bị lãng quên. Đó cũng là lẽ tất nhiên vì sứ mệnh
lịch sử rồi sẽ được chuyển lên vai người khác. Tuy nhiên với những gì Lưu
Quang Vũ đã làm được, chúng ta có quyền công nhận, trân trọng và giữ gìn.
Yếu tố góp phần làm nên phong cách của Lưu Quang Vũ chính là tính
hiện đại trong chủ đề, tư tưởng mà kịch của ông đã truyền tải được. Giữa lúc,
có nhiều vở của tác giả vẫn không thoát khỏi được lối mòn của sự đơn điệu,
thoát ly cuộc sống hiện tại tìm về quá khứ đã qua nhưng kịch Lưu Quang Vũ
vẫn trụ vững được trong thời điểm cụ thể ấy.
Làm nên tính hiện đại trong chủ đề, tư tưởng của kịch Lưu Quang Vũ,
một phần là do sự nhạy cảm của ông với thời cuộc, khả năng chế biến sự kiện
“thô” để biến nó thành tình huống nghệ thuật mang tính phổ biến. Mối quan
hệ giữa nghệ thuật - cuộc sống, cá biệt - phổ biến được tác giả xử lý khéo léo,
khiến chúng xích lại gần nhau hơn trong sự hài hòa, gắn kết. Lưu Quang Vũ
biết khai thác những xung đột, mâu thuẫn để tạo thành tình thế kịch. Tình
huống kịch bất ngờ không cần viện đến mâu thuẫn gay gắt nhưng vẫn đảm
bảo kịch tính trong từng vở của ông.
Để lý giải về “hiện tượng” Lưu Quang Vũ, trước tiên phải tính đến tố
chất của người nghệ sĩ được sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền
thống nghệ thuật. Sự ảnh hưởng tích cực từ người cha - nhà thơ - nhà viết
kịch Lưu Quang Thuận đã gieo vào tâm hồn Lưu Quang Vũ niềm đam mê
16
cháy bỏng: “Nghệ thuật thật là một con đường gian lao, nhưng như bố nói tối
nay: Người nghệ sĩ phải tìm ra cái đẹp trong mỗi sự việc của cuộc đời”
[15;71-72]. Chính phẩm chất nghệ sĩ đã tạo nên những tác phẩm nghệ thuật
đích thực trong một thời gian hạn hẹp của đời ông. Tuy nhiên sự rèn giũa, tích
lũy kinh nghiệm từ những năm tháng gắn bó với môi trường sân khấu sau khi
rời xa quân ngũ chính là giai đoạn sửa soạn, chuẩn bị cho ông nhập cuộc với
sân khấu Việt Nam, và trở thành nhà viết kịch “có một không hai” trong lịch
sử sân khấu đương đại. Ngoài ra lợi thế của người viết văn, làm thơ đã giúp
Lưu Quang Vũ nhanh nhạy trong việc khám phá các giá trị thẩm mỹ tươi mới
đang lẩn khuất trong ngổn ngang cuộc sống. Đó là chất thơ toát lên từ hành
động, xung đột kịch, được chắt lọc từ hoàn cảnh khó khăn, từ những điều kỳ
diệu của cuộc sống. Phát hiện chất thơ của cuộc sống gần như là bản năng
nghệ thuật của Lưu Quang Vũ. Hơn nữa thực tiễn cuộc sống thời kỳ đó đang
bộc lộ những mâu thuẫn, đòi hỏi phải phê phán, thay đổi những gì đã lạc hậu.
Bắt đúng mạch của cuộc sống, Lưu Quang Vũ đến gắn bó với kịch trong sự
hài hòa của cả 3 yếu tố “thiên thời - địa lợi - nhân hòa”.
Trên hành trình của sự sáng tạo, Lưu Quang Vũ đã làm tốt vai trò của
một sứ giả hòa bình, đấu tranh để chống lại sự bảo thủ, lạc hậu, giả dối. Thành
công có, thất bại có nhưng rốt cuộc Lưu Quang Vũ đã đạt đến được đích cuối
cùng để trở thành tác gia hàng đầu làm nên diện mạo cho sân khấu nước nhà
trong thập kỉ 80 của thế kỉ XX.
1.3 . Nghệ thuật xây dựng kịch bản của Lưu Quang Vũ
Nghệ thuật xây dựng kịch bản Lưu Quang Vũ cũng là một hiện tượng
nổi bật trong những tác giả kịch Việt Nam. Ngoài tư duy nghệ thuật độc đáo
đối với chất liệu sáng tác khi ông viết một kịch bản về một đề tài hoặc một
chủ đề nào đó, người ta còn nhìn thấy sự tính toán trong nghệ thuật xây dựng
kịch bản. Với mỗi kịch bản cụ thể, ông có sự lựa chọn khác nhau, thí dụ ông
17
lựa chọn cấu trúc mở cho phù hợp như:Hồn Trương Ba, da hàng thịt, hay
cấu trúc khép kín cho Lời thề thứ 9, xử lý không gian hành động, lúc không
gian thực, lúc không gian ảo, thời gian nhiều chiều, lúc là quá khứ, lúc là hiện
tại, thậm chí có cả tương lai, ông cũng rất kỹ lưỡng trong lựa chọn đề tài,
chọn cách đặt vấn đề cho từng vở kịch. Sự lựa chọn nhân vật cũng được cân
nhắc, lúc là nhân vật đời thường, lúc là nhân vật huyền thoại…Tất cả những
sự lựa chọn ấy được đặt đúng chỗ, đúng lúc, đúng hoàn cảnh thích hợp và phù
hợp hiện thực, đã thể hiện sự suy nghĩ kỹ lưỡng của ông khi xây dựng kịch.
Sự không bó buộc và phụ thuộc vào bất kỳ hình thức nào hay bất kỳ
chất liệu nào là thể hiện tài năng nghệ sỹ của Lưu Quang Vũ trong nghệ thuật
xây dựng kịch. Theo chúng tôi nghĩ hình thức xây dựng kịch bản của Lưu
Quang Vũ là sự kết hợp giữa chắt lọc chất liệu từ hiện thực và phép biên kịch
đầy suy tính với xu hướng tiến tới thống nhất nội tại của vở kịch.
18
CHƯƠNG 2
NHỮNG KẾ THỪA VÀ SÁNG TẠO VỀ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG
CỦA LƯU QUANG VŨ TRONG KỊCH BẢN HỒN TRƯƠNG BA, DA
HÀNG THỊT (SO SÁNH VỚI TRUYỆN CỔ TÍCH DÂN GIAN)
2.1. Về phương diện đề tài
2.1.1. Khái niệm đề tài
“Đề tài là khái niệm chỉ loại các hiện tượng đời sống được miêu tả,
phán ánh trực tiếp trong sáng tác văn học. Đề tài là phương diện khách quan
của nội dung tác phẩm” [5;110].
Các hiện tượng đời sống có thể liên kết với nhau thành loại theo mối
liên hệ bề ngoài giữa chúng. Cho nên có thể xác định đề tài văn học theo giới
hạn bề ngoài của phạm vi hiện thực được phản ánh trong tác phẩm: đề tài
thiên nhiên, đề tài loài vật, đề tài cải cách ruộng đất, đề tài sản xuất, đề tài
chiến đấu, đề tài kháng chiến chống Mỹ… Ở giới hạn bề ngoài của đề tài, các
phạm trù xã hội, lịch sử giữ vai trò quan trọng. Cho nên người ta có thể nói
tới đề tài nông thôn, đề tài thành thị, đề tài công nhân, đề tài bộ đội, đề tài tiểu
tư sản trí thức, đề tài lịch sử…[5;110].
Tầm quan trọng của khái niệm đề tài là ở chỗ, nếu chưa nhận ra đề tài
thì chưa bước vào tiếp nhận hình tượng. Thật vậy, đề tài là cho hiện tượng đời
sống trong tác phẩm không còn là hiện tượng đời sống nữa, mà trở thành
tượng trưng, kí hiệu, trở thành hình tượng. Tuy nhiên từ hiện tượng sinh động
mà nhận ra loài người và hình thái cuộc sống được phản ánh trong tác phẩm,
tức là đề tài, không phải là một việc đơn giản.
Đề tài của tác phẩm là một phương diện nội dung của tác phẩm, là đối
tượng đã được nhận thức, kết quả lựa chọn và tư duy của nhà văn. Đó là sự
khái quát phạm vi xã hội, lịch sử của đời sống được phản ánh trong tác
19
phẩm. Cũng có thể hiểu đề tài như một quan hệ ý nghĩa, một loại trọng tâm
chi phối ý nghĩa của ngôn từ. Lẫn lộn hai mặt này sẽ dẫn đến biến việc phân
tích tác phẩm thành phân tích đối tượng được miêu tả trong tác phẩm.
Tóm lại, đề tài là cơ sở để nhà văn khái quát thành những chủ đề và xây
dựng những hình tượng, những tính cách điển hình. Tuy nhiên, có nhiều trường
hợp đề tài, chủ đề hòa quyện với nhau không tách được, như một số tác phẩm
ngụ ngôn, truyện đồng thoại, một số thơ trữ tình…Người tiếp nhận có thể đi
thẳng từ đề tài bên ngoài vào chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. [11;195].
2.1.2. Đề tài trong kịch bản “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
Cùng với một số tác giả khác như: Xuân Trình, Tất Đạt, Võ Khắc
Nghiêm… Lưu Quang Vũ đã góp phần đem đến cho sân khấu những năm 80
của thế kỷ XX một sức sống mới. Lưu Quang Vũ đã kết hợp và phát huy được
thế mạnh của mình khi đến với loại hình nghệ thuật có tính chất tổng hợp như
sân khấu. Kịch của Lưu Quang Vũ khai thác nhiều đề tài, đi vào khám phá
muôn mặt của đời sống xã hội và con người.
Lưu Quang Vũ thì có vẻ nhẹ nhàng khi viết các đề tài khác nhau.
Trong các tác phẩm kịch của Lưu Quang Vũ ông sử dụng đề tài theo một
cách khác: Đề tài một phần theo tính chủ quan của tác giả chi phối. Đề tài tác
phẩm của Lưu Quang Vũ không chỉ gắn với hiện thực khách quan và còn bị
chi phối bởi lập trường tư tưởng và vốn sống của tác giả. Bắt nguồn từ thực
tại khách quan - đó là thuộc tính tất yếu của nghệ thuật nhưng đã thông qua
cảm quan của tác giả.
Hướng ngòi bút của mình về cuộc sống, kịch Lưu Quang Vũ đã góp
một tiếng nói thiết thực vào công cuộc đổi mới đất nước. Ông không hạn chế
mình trong bất cứ loại đề tài nào bởi ở đâu ông cũng phất hiện ra những vấn
đề cần bàn luận, trao đổi. Trong kịch của ông có nhiều nghành nghề, nhiều
20
lĩnh vực đời sống khác nhau. Từ đề tài công nghiệp (Tôi và chúng ta, khoảnh
khắc vô tận…) đến đề tài nông nghiệp (Bệnh sĩ)… tất cả đều hiện lên trong
kịch Lưu Quang Vũ với một ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Lưu Quang Vũ chỉ muốn thông qua những đề tài để nói lên những vấn
đề tinh thần, những trăn trở, băn khoăn của người nghệ sĩ về triết lý, lẽ sống
và những vấn đề nóng bỏng trong đời sống thực tại và tinh thần của xã hội
Việt Nam hiện đại. Có lẽ cái hay cái tài của Lưu Quang Vũ là ở chỗ, khi sáng
tác ông đã đưa những suy nghĩ, tư tưởng của mình vào trong các đề tài một
cách nhẹ nhàng, nhuần nhuyễn, không to tát, không khiên cưỡng nhưng lại có
sức thuyết phục cao là ở chỗ ông chỉ ra những vấn đề cốt lõi mà hiện thực
cuộc sống đang đòi hỏi cấp bách.
Mọi đề tài của Lưu Quang Vũ đều là nơi để ông truyền đạt tình yêu
thương con người, khát vọng sống, chiến đấu hướng tới lý tưởng chân - thiện
- mỹ để con người và xã hội ngày được hoàn thiện hơn. Đồng thời là câu trả
lời ở mỗi vở kịch của ông.
Trong số kịch bản của Lưu Quang Vũ, số lượng những vở khai thác
trực tiếp từ cốt truyện dan gian không nhiều lắm, nhưng hầu hết đều đạt hiệu
quả tương đối cao. Tiêu biểu nhất là vở Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Cũng
từ chất liệu dân gian, cũng đề tài trong dân gian Lưu Quang Vũ đã nhìn nó với
con mắt khác, cũng trong cốt truyện đó và theo cảm quan riêng, ông đã tìm
thấy một tiềm ý còn sâu sắc hơn. Một cốt truyện dân gian quen thuộc chẳng
mấy ai tranh luận về ý nghĩa, vậy mà khi Lưu Quang Vũ đưa lên sân khấu vở
kịch không chỉ dừng lại ở những giá trị ban đầu mà nó còn đặt ra nhiều vấn đề
mới mẻ. Việc lấy hồn một nhà nho nhét vào một kẻ phàm phu tục tử theo con
mắt thông thường thì đó là một chuyện nực cười. Nhưng theo ông, kết quả
còn nghiêm trọng và đau đớn hơn thế và ông đã tìm thấy trong cốt truyện một
hiệu quả bi đát, dẫu có cười cũng là cười trong nước mắt.
21