Mục lục
1. Mở đầu.
1.1. Lí do chọn đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lí luận
2.2. Thực trang vấn đề
2.3. Các sáng kiến đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.4. Hiệu quả.
3. Kết luận, kiến nghị.
- Kết luận.
- Kiến nghị.
Tài liệu tham khảo.
Trang
2
2
2
2
2
3
3
3
4
10
12
12
12
14
1
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Trong quá trình lĩnh hội và truyền đạt tri thức thức chương trình Ngữ văn
nói chung và bậc THCS nói riêng, phân môn tập làm văn đóng vai trò rất quan
trọng trong việc cung cấp tri thức cơ bản về các kiểu văn bản, hình thành các kĩ
năng nghe, nói, đọc, viết,… để hiểu khái quát về các loại văn bản và bố cục
chung của nó. Bản thân hoạt động tập làm văn là một hoạt động tích hợp tri thức:
văn bản, tiếng Việt vào việc tạo lập văn bản mới.
Chương trình tập làm văn đặt trọng tâm ở thực hành: Xây dựng bài qua
thực hành, thực hành nhận biết và thực hành qua văn bản. Do đó điểm mới và
khó trong chương trình Ngữ văn là phương pháp dạy thực hành. Cụ thể và quan
trọng nhất là rèn luyện kĩ năng viết một bài văn đúng, đủ, hay và có sức thuyết
phục.
Thực trạng học sinh hiện nay, cho thấy kĩ năng viết còn hạn chế nhất là
việc trình bày lại những suy nghĩ của mình trước một vấn đề nào đó. Để giúp các
em tiếp thu đỡ khó khăn, tạo điều kiện cho các em có sự hứng thú trong học tập
gặt hái được những kết quả nhất định bản thân tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Một sô
biện pháp giúp học sinh làm tôt bài làm văn trong chương trình Ngữ văn lớp 8
ở trường THCS Thượng Ninh”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Khi chọn hướng nghiên cứu với mục đích cung cấp cho học sinh một con
đường nhanh và dễ để tạo lập văn bản trong khi làm bài viết. Đồng thời giúp cho
bản thân tìm hiểu sâu hơn về các vấn đề: Tìm hiểu đề, viết đoạn văn trong văn
bản tự sự, liên kết đoạn văn trong văn bản tự sự từ đó hình thành cho mình kĩ
năng để góp phần làm tốt bài văn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tương nghiên cứu : Là học sinh Lớp 8 trường THCS Thượng Ninh.
Phạm vi nghiên cứu : gồm 4 vấn đề cơ bản:
- Rèn kĩ năng cảm thụ văn học.
- xây dựng lập luận cho một đoạn văn
- Xây dựng dàn ý và cách viết đoạn ở mỗi kiểu bài
- Liên kết đoạn văn trong văn bản tự sự.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Để giải quyết yêu cầu, nhiệm vụ đã đặt ra của đề tài, tôi đã sử dụng một
số phương pháp như sau:
+ Nghiên cứu lý thuyết về đổi mới phương pháp dạy học để áp dụng vào
tiết dạy.
+ Khảo sát kết quả đạt được .
+ Phân tích rút kinh nghiệm .
+ Tích hợp với phần Tiếng Việt, Văn bản để viết bài làm văn.
+ Đọc –hiểu một một số bài văn mẫu để áp dụng vào bài viết.
+ Giao tiếp- trình bày suy nghĩ ý tưởng, phản hồi, lắng nghe tích cực về
việc tạo lập đoạn văn, văn bản.
+ Suy nghĩ sáng tạo - phân tích, bình luận về tính thuyết phục trong thuyết
minh, tính hợp lí trong kiến nghị của văn bản.
2
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận
Việc học sinh học tốt môn ngữ văn nói chung và viết tốt bài tập làm văn
nói riêng sẽ giúp các em rất nhiều trong việc hình thành tính cách, bồi dưỡng
tinh thần đoàn kết, lòng nhân ái … Nó giúp các em có tư duy lôgic hơn cũng
đồng thời giúp các em cảm thụ văn chương sâu hơn. Việc giúp học sinh viết tốt
bài tập làm văn đòi hỏi người giáo viêm phải có kiến thức sâu rộng ở nhiều mặt,
cả những kiến thức trong sách và thực tế ở ngoài đời. Nó cũng đòi hỏi sự tâm
huyết ở người thầy, người thầy cần phải kiên trì, tận tâm và cần có các phương
pháp linh hoạt cho các cách hướng dẫn cho từng bài cụ thể.
Do đặc trưng phân môn Tập làm văn với mục tiêu cụ thể là: hình thành và
rèn luyện cho học sinh khả năng trình bày văn bản (nói và viết) ở nhiều thể loại
khác nhau như: miêu tả, kể chuyện, biểu cảm, nghị luận, ... Trong quá trình tham
gia vào các hoạt động học tập này, học sinh với vốn kiến thức còn hạn chế nên
thường ngại nói, ngại viết. Bởi vậy, người giáo viên cần chú trọng tìm tòi giải
pháp cải thiện tình trạng nêu trên trong quá trình dạy-học.
2.2. Thực trạng của vấn đề
Về phía người giáo viên, trước đây khi dạy văn tự sự cho các em, tôi mới
chỉ giúp các em nắm bắt được những nội dung cơ bản trong sách giáo khoa.
Trong quá trình dạy chỉ dạy tập làm văn ở những tiết học về tập làm văn, chưa
tận dụng được thời gian ở các phân môn khác để tích hợp với phần tập làm văn.
Đặc biệt chưa chú trọng luyện tập và ra bài tập về nhà cho các em để từ đó hình
thành kĩ năng làm bài.
Về phía học sinh, do đời sống còn nhiều khó khăn, đa số các em phải lao
động hàng ngày ở ngoài ruộng nương nên ít có thời gian để đọc các tài liệu tham
khảo, mở rộng hiểu biết.
Xa trung tâm, nhà trường lại chưa đủ cơ sở vật chất để phục vụ việc dạy
học nên các em không có đủ tài liệu để tham khảo. Vì vậy chỉ có thể nắm bắt
được những gì SGK cung cấp.
Học văn đòi hỏi viết nhiều (đọc nhiều) nhưng học sinh ở Thượng Ninh lại
ít có điều kiện cũng như thời gian để luyện tập. Bên cạnh đó học sinh chủ yếu là
người ở nông thôn (vốn từ không phong phú do ít giao tiếp bằng tiếng phổ
thông) kết hợp với những điều kiện trên làm cho các em nghèo nàn về vốn từ
nên khi viết cũng thêm phần khó khăn.
Thêm vào đó, nhiều học sinh chưa chú ý đến việc học, ý thức chưa cao, về
nhà không làm bài nên khi làm bài thường vụng về, lúng túng … khi viết văn,
dẫn tới chất lượng giáo dục thấp. Số liệu thống kê chất lượng bài làm văn của
HS Trường THCS Thượng Ninh năm học 2016-2017 khi chưa áp dụng SKKN:
Tổng
số
85
Giỏi
SL
%
0
0
Khá
SL
%
10
11,8
Trung bình
SL
%
Yếu
SL
55
14
64,7
16,5
Kém
SL %
6
7,0
3
2.3. Các giải pháp để giải quyết vấn đề
2.3.1. Rèn kĩ năng cảm thụ văn học :
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên tích hợp giữa tiết dạy Văn bản với
tiết dạy Tập làm văn một cách có hiệu quả bằng việc rèn luyện cảm thụ văn học
cho học sinh trong dạy đọc hiểu văn bản, cụ thể:
- Đọc diễn cảm: Đọc diễn cảm là thể hiện sáng tạo tác phẩm văn học
trong giọng đọc nhằm tác động đến những người nghe. Nếu giáo viên đọc diễn
cảm tốt thì sẽ tạo nên bầu không khí tươi mát trong giờ học. Học sinh có thể
thưởng thức giọng đọc và dễ sản sinh những ấn tượng, xúc động tự nhiên về văn
bản. Diễn cảm ở đây hoàn toàn không phải là ở sự uốn éo đầu lưỡi mà thể hiện
những cảm xúc nội tại của tâm hồn. Những cảm xúc này không phải giả tạo mà
phải là cảm xúc chân thành, sâu sắc về văn bản. Nói đọc diễn cảm thuộc nghệ
thuật trình diễn trước hết không phải là “khoe giọng” mà là sự thể hiện xúc động
của trái tim. Chính vì thế, giáo viên sử dụng thích đáng biện pháp này sẽ tạo cho
học sinh những ấn tượng tươi mới, những xúc động mạnh mẽ về văn bản; đồng
thời nó có khả năng kích thích liên tưởng, tưởng tượng tạo sự thâm nhập thuận
lợi vào thế giới nghệ thuật của văn bản.
- Đưa các câu hỏi gợi cảm xúc, liên tưởng, tưởng tượng: Trước hết là
những câu hỏi gợi cảm xúc, ở dạng đơn giản nhất chúng là những câu hỏi trắc
nghiệm tình cảm. Những câu hỏi này có thể kiểm tra phản ứng tình cảm của học
sinh; mặt khác nó thúc đẩy sự đồng cảm, khuyến khích các em lắng nghe tiếng
nói của trái tim. Chẳng hạn, sau khi đọc diễn cảm, giáo viên có thể hỏi: Em ấn
tượng thế nào về đoạn thơ ( khổ thơ, câu thơ…trong bài thơ; hay hành động,
ngôn ngữ, tích cách nhân vật… trong truyện)?. Ngoài ra, giáo viên có thể dùng
những câu hỏi khơi gợi tưởng tượng của học sinh.
- Dùng lời bình: Dùng những lời bình hấp dẫn và đúng chỗ có tác dụng rất
lớn trong việc rèn luyện cảm thụ cho học sinh. Trước hết, nó khiến học sinh có
những ấn tượng sâu sắc khó phai mờ về vẻ đẹp của văn chương. Biện pháp này
cho phép giáo viên phát huy phẩm chất nghệ sĩ của mình; và cũng vì thế kích
thích mầm sáng tạo của học sinh, tạo nên sự giao lưu về tình cảm trong giờ văn.
Nhưng tuyệt nhiên giáo viên không được lạm dụng biện pháp này, bởi nhiệm vụ
chính của giáo viên là tổ chức để học sinh cảm thụ và lĩnh hội giá trị của văn bản
chứ không phải là trổ tài trình diễn để thôi miên học sinh. Do đó, giáo viên chỉ
tung ra lời bình khi học sinh cảm nhận chưa tới, đánh giá chưa xác đáng và
những lời bình lúc đó có tác dụng hỗ trợ, tiến tới khắc sâu ấn tượng cho học
sinh, tạo nên những khoái cảm thẩm mỹ. Lời bình vì thế, trước hết phải giàu
cảm xúc, là sản phẩm của sự xúc động sâu sắc trước vẻ đẹp của văn bản. Mặt
khác, nó phải độc đáo, giáo viên phải chọn cách nói ấn tượng, ưu tiên tiên những
lối diễn đạt giàu hình ảnh nhằm tác động mạnh đến học sinh. Hơn nữa, giáo viên
chọn bình những chi tiết nào là điểm sáng nghệ thuật của tác phẩm và việc bình
giá nó giúp học sinh nắm được thần thái, linh hồn của văn bản. ở đây, tôi muốn
nói đến những lời bình có khả năng đánh thức liên tưởng của học sinh, nó tựa
con đường dẫn học sinh thâm nhập tự nhiên vào thế giới nghệ thuật văn bản.
4
2.3.2. Luyện tập xây dựng lập luận cho một đoạn văn
- Từ các nội dung đã được chuẩn bị trước, HS biết cách tổ chức thành một
lập luận hoàn chỉnh theo các thao tác lôgíc. Cụ thể là:
+ Xây dựng được lập luận trong đoạn văn theo cách phân tích.
+ Xây dựng được một lập luận trong đoạn văn theo cách tổng hợp.
+ Xây dựng được một lập luận trong đoạn văn theo cách tổng hợp - phân
tích - tổng hợp (tổng phân hợp)
+ Biết cách chuyển đổi từ kiểu lập luận này sang kiểu lập luận khác theo
các thao tác lôgíc.
- Từ nội dung đã được chuẩn bị trước, HS biết cách tổ chức thành môt lập
luận hoàn chỉnh theo các thao tác trình bày. Cụ thể là:
+ Xây dựng được lập luận trong đoạn văntheo cách giải thích.
+ Xây dựng được lập luận trong đoạn văn theo cách chứng minh.
+ Xây dựng được lập luận trong đoạn văn theo các bình luận.
+ Xây dựng được lập luận trong đoạn văn theo cách so sánh.
+ Xây dựng được lập luận trong đoạn văntheo cách nhân quả.
+ Biết cách chuyển đổi từ kiểu lập luận này sang kiểu lập luận khác theo
các thao tác trình bày.
- Giáo viên cần lưu ya cho học sinh chuẩn bị tốt các nội dung kiến thức
cần nắm vững trước khi luyên tập
+ Các thao tác lôgíc
phân tích: Đó là sự phân chia đối tượng thành những bộ phận nhỏ, những
khía cạnh nhỏ để lần lượt khảo sát xem xét.
Tổng hợp: Đó là việc hợp các bộ phận nhỏ lại thành cái chung, cái toàn
thể.
Tổng phân hợp: Lập luận theo cách tổng phân hợp được hiểu là cách
thức trình bày lập luận theo kiểu tổng hợp, phân tích rồi lại tổng hợp và được
hiểu đơn giản là quy nạp và diễn dịch.
+ Các thao tác trình bày
Giải thích: Là làm sáng rõ một vấn đề nào đó để giúp người khác hiểu
một cách rõ ràng hơn, sâu sắc hơn.
Chứng minh: Là làm sáng tỏ vấn đề bằng các dẫn chứng và lí lẽ để người
đọc, người nghe tin vào vấn đề trình bày.
Bình luận: Là bày tỏ ý kiến về một vấn đề, đánh giá bản chất, ý nghĩa của
vấn đề, khẳng định tính đúng sai, mở rộng vấn đề giải quyết vấn đề một cách
triệt để và toàn diện.
So sánh:
+ Lập luận so sánh bằng cách tương đồng.
+ Lập luận so sánh bằng cách tương phản.
Nhân quả: Nhân quả là cách thức lập luận đi từ nguyên nhân đến kết
quả, hoặc đi từ kết quả rồi chỉ ra nguyên nhân hoặc chỉ ra mối quan hệ nhân quả
theo cách liên hoàn.
5
2.3.3. Xây dựng dàn ý và cách viết đoạn ở mỗi kiểu bài
Ở mỗi kiểu bài Tập làm văn, giáo viên cần xây dựng cho học sinh nắm
vững yêu cầu - nội dung của mỗi kiểu bài. Học sinh phải nhớ thật cụ thể bố cục
dàn ý đại cương của mỗi kiểu bài, nhiệm vụ của mỗi phần trong dàn ý là gì, cách
làm như thế nào, dẫn dắt ra làm sao…Có như vậy, khi đứng trước một đề bài
Tập làm văn các em có thể xác định được ngay kiểu bài, yêu cầu, dàn ý để làm
tốt bài văn.
Việc xây dựng dàn ý cũng như tìm hiểu yêu cầu của bài Tập làm văn cũng
cần phải được thực hiện đầy đủ, rõ ràng ở các tiết Trả bài viết Tập làm văn, các
tiết Ôn tập Tập làm văn.
Việc xây dựng dàn ý cũng như tìm hiểu yêu cầu của bài Tập làm văn cũng
cần phải được thực hiện đầy đủ, rõ ràng ở các tiết Trả bài viết Tập làm văn, các
tiết Ôn tập Tập làm văn.
Chẳng hạn như đối với thể loại văn Thuyết minh, Giáo viên nhất thiết cần
phải giúp học sinh thực hiện các yêu cầu sau:
1/ Tìm hiểu đề bài ( Phân tích đề)
- Yêu cầu ( thể loại):? ( Thuyết minh là gì ? Phương pháp nào cần được
vận dụng ?)
- Nội dung: Đề bài yêu cầu thuyết minh về cái gì ?
- Phương hướng, phạm vi tư liệu: Lựa chọn phương pháp thuyết minh,
chuẩn bị tri thức về đối tượng ở những phạm vi nào ...)
2/ Lập dàn ý:
a/ Mở bài: Giới thiệu đối tượng thuyết minh( Xuất xứ, tầm quan trọng, lợi
ích…)
b/ Thân bài : Lần lượt trình bày, giới thiệu, giải thích từng bộ phận, khía
cạnh, đặc điểm … của đối tượng.
- Lưu ý vận dụng các yếu tố, cách liên kết đoạn, chuyển đoạn.
c/ Kết bài: Ý nghĩa của đối tượng hoặc bài học thực tế, xã hội, văn hoá…
3/ Nhận xét về cách trình bày: Giáo viên nhận xét về cách viết đoạn văn, liên
kết đoạn văn, cách dùng từ của học sinh.
Thực hiện được những điều này trước khi viết bài Tập làm văn sẽ giúp
học sinh tránh được việc làm lạc đề, lệch đề, thể hiện được đầy đủ nội dung bài
viết một cách đầy đủ, trọn vẹn, súc tích về nội dung và chặt chẽ, mạch lạc về
hình thức. Rèn luyện được kĩ năng viết cũng như thói quen tốt trước khi làm bài
viết. Bởi vì có nhiều em sau khi đọc xong đề bài là ào ào viết chẳng cần phải suy
nghĩ gì, rồi nhiều em học sinh yếu thì lúng túng, không biết phải bắt đầu từ đâu
cho nên kết quả chắc chắn sẽ không cao..vv.
Bên cạnh việc xây dựng bố cục dàn ý các kiều bài Tập làm văn, giáo viên
cũng cần hướng dẫn cho học sinh cách viết đoạn văn, cách triển khai vấn đề,
luận điểm.
- Viết phần đặt vấn đề : Đây phần đến với người đọc đầu tiên, do đó,
phần này gây cho người đọc cảm giác, ấn tượng ban đầu rất quan trọng. Vì vậy,
cần đặt vấn đề gọn gàng, hấp dẫn sẽ tạo ra hứng thú ở người đọc, gây không khí
tâm lí thuận lợi cho việc tiếp xúc các phần sau. Thông thường, phần đặt vấn đề
6
có các bộ phận sau: Gợi mở vào đề: nều xuất xứ, lí do dẫn đến bài viết. Giới
thiệu nội dung vấn đề và trích dẫn vấn đề.
Giáo viên cần lưu ý cho học sinh nắm vững một số cách mở bài cơ bản và
đơn giản nhất để học sinh trung bình, yếu kém có thể làm được, như :
+ Bằng cách giới thiệu tác giả, tác phẩm, sự nghiệp sáng tác rồi đưa vào
tác phẩm định phân tích, chứng minh, giải thích…
+ Đi từ hoàn cảnh sáng tác.
+ Từ đề tài, chủ đề của tác phẩm…
- Viết phần giải quyết vấn đề : Giáo viên hướng dẫn cho các em đến hai
cách viết thông dụng: phân tích và tổng hợp ( Diễn dịch và Quy nạp). Học sinh
cần phải chú ý yêu cầu mỗi đề bài, đặc điểm, nội dung của đề bài mà thực hiện.
Tức là phải bám sát đề, chú ý gợi ý của đề, nắm vững nội dung kiến thức, ngữ
liệu mà đề bài yêu cầu thực hiện…Vận dụng các kĩ năng khái quát, phân tích,
tổng hợp (Văn tự sự thì phân tích dựa vào cốt truyện, tình huống, nhân vật và
bút pháp nghệ thuật như thế nào; thơ trữ tình thì phân tích ngôn ngữ, hình ảnh,
biện pháp nghệ thuật ra sao…). Giáo viên lưu ý cho các em về cách chuyển
đoạn, dùng câu nối hoặc dùng từ để liên kết đoạn.
- Viết phần kết thúc vấn đề: Yêu cầu của phần này là :
+ Ngắn gọn, súc tích, nghĩa là diễn đạt ý một cách khái quát, cô đọng, gợi
cảm xúc sâu lắng.
+ Sát đề: đã mở ra vấn đề gì thì khi kết thúc phải trở lại vấn đề ấy bằng
cách nêu lời giải đáp rõ ràng , dứt khoát.
+ Sinh động, hấp dẫn bằng cách làm tăng thêm tính văn chương, ngôn
ngữ nhiều hình ảnh và các biện pháp tu từ.
Có thể viết các loại kết thúc vấn đề: Tóm tắt, khẳng định vấn đề, có thể
mở rộng, nâng cao. Rút ra bài học hay phát biểu cảm nghĩ…
2.3.4. Luyện kỹ năng liên kết đoạn văn trong văn bản:
Một bài văn được tạo thành bởi nhiều đoạn văn liên kết lại với nhau. Bài
văn là một chỉnh thể hoàn chỉnh nên giữa các đoạn văn cần có sự liên kết với
nhau. Liên kết đoạn văn nhằm mục đích làm cho ý của cả đoạn vừa phân biệt
nhau vừa liền mạch với nhau một cách hợp lí, tạo tính chỉnh thể cho văn bản.
Muốn vậy, phải tạo mối quan hệ ngữ nghĩa chặt chẽ, hợp lí giữa các đoạn văn
với nhau và sử dụng các phương tiện liên kết phù hợp.
Trong chương trình ngữ văn 8 học sinh đã được học “Liên kết các đoạn
văn trong văn bản” ở tiết 17, bài 4.
Trên cơ sơ bài học này giáo viên hướng dẫn học sinh thực hành việc liên
kết đoạn văn do các em tạo ra.
Trước hết giáo viên cho học sinh làm bài tập nhận diện các phương tiện
liên kết đoạn văn.
Ví dụ 1:
Khi dạy xong bài Liên kết các đoạn văn trong văn bản - tiết 17, bài 4,
giáo viên yêu cầu: về nhà các em đọc văn bản Cô bé bán diêm (An - đéc - xen) ở
trang 64. Sau đó xác định các từ ngữ và câu có tác dụng nối giữa các đoạn văn
trong văn bản đó.
7
Tới tiết 19, bài 5 - Tóm tắt văn bản tự sự, trong phần kiểm tra bài cũ,
giáo viên mời học sinh trình bày (giáo viên kết luận) những từ ngữ, câu có tác
dụng nối như:
- Em quẹt que diêm thứ hai,…
- Em quẹt que diêm thứ ba.
- Em quẹt que diêm nữa vào tường, …
- Thế là …
- Sáng hôm sau,
- Trong buổi sáng lạnh lẽo ấy …
Ví dụ 2:
Cũng như ở ví dụ 1, nhưng có thể cho học sinh tìm phương tiện liên kết
trong văn bản “ Đánh nhau với côi xay gió” ( Xéc - van - téc), ở văn bản này thì
dễ nhận biết hơn.
Học sinh có thể tìm được các phương tiện liên kết:
Vừa bàn tán về cuộc phiêu lưu mới xảy ra, …
Đêm hôm ấy, …
Trên cơ sở bài tập này, giáo viên đã giúp học sinh khắc sâu kiến thức phần
lí thuyết, từ đây có thể cho học sinh thực hành việc liên kết đoạn văn.
Việc viết các đoạn văn có sự liên kết với nhau đối với học sinh trung bình
và yếu là tương đối khó. Cho nên trong quá trình dạy tôi luôn có những đoạn
văn mẫu cho các em. Bên cạnh đó là bài của các em học sinh khá giỏi. Đồng
thời luôn khích lệ tinh thần cho các em.
Ở dạng bài này, giáo viên vừa cho học sinh luyện tập ở trên lớp vừa cho
các em về nhà làm (giáo viên phải thu vở bài tập rồi chấm và sửa cho học sinh).
Ví dụ 1:
Ở bài Miêu tả và biểu cảm trong văn bản tự sư (tiết 25, bài 6), khi dạy
đến phần luyện tập, giáo viện cho học sinh làm bài tập 1 và đọc phần đọc thêm ở
trên lớp. Còn bài tập 2 - “viết một đoạn văn kể về những giây phút đầu tiên khi
em gặp lại một người thân” thì giáo viên cho học sinh về nhà làm. Giáo viên
yêu cầu học sinh viết thành 2 đoạn văn đoạn trong đó có các phương tiện liên
kết.
Đến tiết 29, bài 7 - Luyện tập viết đoạn văn tự sự kết hợp với miêu tả và
biểu cảm, giáo viên mời 2 học sinh trình bày bài của mình rồi giáo viên nhận
xét. Sau đó thu bài về nhà chấm và sửa cho học sinh.
Ví dụ 2:
Văn bản Đánh nhau với cối xay gió (Xéc - van - téc) có hai nhân vật Đôn
- ki - hô - tê và Xan - chô - Pan - xa tương phản nhau về mọi mặt. Vậy sau bài
học đó giáo viên yêu cấu học sinh viết 2 đoạn văn nói về hai nhân vật (hai đoạn
có quan hệ đối lập).
Ví dụ 3:
Học xong văn bản Lão Hạc của Nam Cao (tiết 14 -15, bài 4), học sinh biết
rằng chị Dậu và lão Hạc là những con người tiêu biểu cho tầng lớp nông dân
Việt Nam trước cách mạng tháng 8. Giáo viên có thể cho học sinh viết hai đoạn
văn nói về số phận và tính cách của người nông dân (thông qua lão Hạc và chị
Dậu).
8
Có thể nói rằng để viết được một bài văn đúng và hay là rất khó, bởi ngoài việc
có kiến thức vững vàng nó còn đòi hỏi người viết phải vận dụng nhiều kĩ năng
khác nhau. Nhìn chung các kĩ năng đó các em đã được học nhưng do đặc điểm
lứa tuổi, cũng như thời gian thực hành còn hạn chế nên người giáo viên phải có
biện pháp giúp các em thành thạo những kĩ năng đó mới mong các em vận dụng
tốt được.
2.3.5. Giải pháp pháp hỗ trợ
Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc giảng dạy phần Văn bản và Tập
làm văn cũng là một phương pháp quan trọng, đặc biệt là giúp học sinh cảm thụ,
thể hiện cảm xúc và viết tốt các kiểu bài Thuyết minh, Nghị luận văn học (Nghị
luận về một đoạn thơ, bài thơ) và Nghị luận xã hội (Nghị luận về một sự việc,
hiện tượng đời sống). Đối với những văn bản được chuyển thể thành phim như :
Lão Hạc, Chị Dậu, giáo viên hoàn toàn có thể cho học sinh thưởng thức những
ca khúc này, chúng sẽ có tác dụng rất lớn trong việc tạo nên những xúc động
mạnh mẽ của học sinh về văn bản. Công việc này cùng với đọc diễn cảm có khả
năng đánh thức cảm giác về nhịp điệu, giai điệu cho học sinh và cũng từ đó cảm
nhận những cung bậc của tâm hồn đang hát lên trong những giai điệu đó.
Thực tế cho thấy việc vận dụng CNTT sẽ giúp học sinh có được đầy đủ
những tri thức khách quan, những đặc điểm tiêu biểu của đối tượng thuyết minh
hoặc một vấn đề nóng bỏng của xã hội mà các em chưa có dịp quan sát, tìm
hiểu. Qua hình ảnh các em sẽ có nhiều cơ hội để khắc ghi những nội dung đã tìm
hiểu, khơi dậy được hứng thú tìm hiểu bài học. Giáo viên thực hiện giờ dạy Tập
làm văn không khô khan mà tạo được sự thu hút, hấp dẫn; truyền đạt được đầy
đủ, trọn vẹn kiến cũng như mở rộng thêm kiến thức cho học sinh và đảm bảo
thời lượng lên lớp. Học sinh có cơ hội hiểu rộng hơn nữa và khắc sâu được nội
dung kiến thức.
Hướng dẫn học sinh tham quan, quan sát tìm hiểu một số vấn đề có liên
quan đến kiến thức và kĩ năng bài học. Chẳng hạn tìm hiểu về vấn đề xả rác bừa
bãi hay tệ nạn cờ bạc, ma tuý tại địa phương, các em tìm hiểu, ghi chép lại và
làm thành một bài thuyết minh hoặc bài nghị luận để trình bày thái độ, quan
điểm của bản thân trước lớp, từ đó mà các em vừa ý thức được bản thân vừa thể
hiện được trách nhiệm của mỗi công dân trước một vấn đề nóng bỏng của xã
hội.
Ở các tiết Luyện nói, giáo viên tổ chức cho học sinh thi đua giữa các tổ,
các nhóm với nhau, giữa các cá nhân học sinh với nhau có hiệu quả, giáo viên
cũng có thể hướng dẫn cho các em tự chọn chủ đề mà các em yêu thích để nói,
thảo luận, trao đổi với nhau. Như vậy sẽ lôi kéo được những học sinh yếu tham
gia, các bạn khá giỏi sẽ trao đổi giúp các bạn yếu rèn luyện kĩ năng nói, viết.
Qua đó cũng kích thích được việc đưa văn học vào cuộc sống, các em sẽ mạnh
dạn trình bày vấn đề mà mình quan tâm, yêu thích; sẽ cảm thấy yêu đời hơn khi
bộc lộ được những tâm tư, tình cảm cảm xúc của mình.
Bên cạnh đó, giáo viên cũng nên thu thập tư liệu trên báo chí về một chủ
đề nghị luận xã hội rồi đưa ra cho các em bàn bạc tại lớp học. Chẳng hạn những
bài báo viết về những tấm gương. Những bạn có giọng đọc diễn cảm sẽ thể hiện
lại bài báo, các bạn khác tìm ra cốt lõi vấn đề để thảo luận, liên hệ về quan điểm
9
sống của bản thân. Đọc những bài báo viết về những tấm gương vượt khó học
giỏi, tật nguyền vẫn quyết không bỏ học, câu chuyện về những nghề khốn khó,
những mảnh đời bất hạnh, tấm gương về sự sẻ chia, đồng cảm hay một quan
điểm sống đẹp. Qua đó giúp các em động não suy nghĩ và phát biểu quan điểm
về cuộc sống xung quanh.
Dựa vào việc đa số học sinh rất thích viết lưu bút hay tự bạch để lưu giữ
lại những kỷ niệm về bạn bè mình, giáo viên có thể hướng dẫn và khuyến khích
các em viết nhật ký, đây chính là thời gian các em suy nghĩ, nắn nót viết lại
những gì xảy ra với chính mình, từ đó hình thành dần kỹ năng viết văn (mặc dù
các em rất ngại viết nhật ký vì sợ người khác đọc được nhật ký của mình). Trong
qua trình dạy học tôi đã động viên và cho các em viết : Nhật ký lớp học. Có rất
nhiều em khi viết lần đầu rất ngắn và ngại bộc lộ tâm trang, suy nghĩ. Nhưng sau
đó nhiều em đã viết rất hay và thể hiện rõ tinh thần yêu thương, đoàn kết, sự sẻ
chia trong lớp học. Thực sự nhật ký giúp các em viết văn tốt hơn rất nhiều.
Qua các hoạt động trên tôi đã đọc các bài văn hay, các trang nhật ký của
các em cho các bạn nghe. Học sinh trong lớp thực sự xúc động qua các trang
viết đó. Tôi đã biểu dương, tuyên truyền kịp thời đối với các em.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Sau gần 2 năm học vận dụng những giải pháp trên trong việc giảng dạy
cho thấy những giải pháp trên đã phần nào giúp các em viết bài Tập làm văn
trọn vẹn về nội dung và hoàn chỉnh về hình thức hơn, kiến thức và kĩ năng làm
bài của học sinh dần dần được phát triển và nâng cao hơn. Đối với các em học
sinh, các em đã ý thức được tầm quan trọng của môn văn, biết cách diễn đạt một
bài Tập làm văn hoàn chỉnh, chặt chẽ, mạch lạc và bộc lộ tình cảm, suy nghĩ,
cảm xúc của mình đúng cách, đúng nơi, đúng lúc. Số lượng học sinh có kĩ năng
viết bài văn tốt khá nhiều. Học sinh hiểu rộng hơn nữa về kiến thức mà từ đó có
thể cải thiện chất lượng học tập của học sinh yếu kém và nâng cao kết quả học
sinh khá giỏi một cách rõ rệt.
Đa số bài làm của các em đều đáp ứng được yêu cầu của đề; khai thác được
ý hay, ý sâu sắc; phân tích lập luận tinh tế, có cảm xúc, biết tìm tòi và sáng tạo
mang phong cách riêng, không còn gượng ép, máy móc hay khuôn sáo.
Rất ít bài làm sơ lược, ý nghèo nàn hoặc không tìm được ý. Theo dõi tỷ lệ
HS viết bài tập làm văn qua 2 năm học ( 2016 - 2017; 2017 – 2018), tôi đã thống
kê được chất lượng như sau:
Năm học 2016-2017:
Tổng Giỏi
Khá
số
SL
%
SL
85
0
0
10
%
Trung bình
SL
%
Yếu
SL
11,8
55
14
64,7
16,
5
Kém
SL
%
6
7,0
10
Năm học 2017-2018
Tổng
Giỏi
số
SL
%
Khá
SL
85
19
0
0
%
Trung bình
SL
%
Yếu
SL
%
22.4
62
4
4.7
72.9
Hầu hết các em đều có thể tự mình viết một bài nghị luận, nắm vững cách
làm bài nghị luận. Hàng năm nhà trường đều có học sinh giỏi bộ môn Văn cấp
Huyện.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
11
3.1. Kết luận:
Trên đây là một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài làm văn trong
chương trình Ngữ văn 8. Đó cũng là những gì tôi tích luỹ được trong quá trình
dạy văn tự sự trong thời gian qua.
Qua quá trình giảng dạy, tìm hiểu, trao đổi với đồng nghiệp, thông qua tiết
dự giờ, tham khảo tài liệu … tôi đã tích luỹ được cho mình một số kinh nghiệm,
nó được tôi áp dụng vào bài dạy khi khi lên lớp tại trường THCS Thiệu Hợp.
Khi áp dụng những kinh nghiệm trên vào bài dạy, sau một thời gian chất
lượng bài viết của học sinh đã được nâng lên rõ rệt, giảm được số bài không đạt
yêu cầu, và số bài tốt cũng tăng lên.
Những biện pháp trên được tôi rút ra từ thực tế cũng như thông qua trao
đổi với đồng nghiệp, có thể vẫn còn hạn chế. Vậy tôi mong được tiếp thu ý kiến
đóng góp của BGH, Hội đồng khoa học nhà trường và Hội đồng khoa học của
Phòng giáo dục - đào tạo để từ đó có thể trao đổi, rút kinh nghiệm giúp tôi nâng
cao chất lượng giảng dạy ở bộ môn.
3.2. Kiến nghị:
Để trở thành người thợ giỏi ở bất cứ một ngành nghề nào người thợ cũng
phải trải qua quá trình học tập và rèn luyện lâu dài. Để viết tốt một bài văn cũng
vậy, học sinh phải trải qua quá trình rèn luyện nghiêm túc có sự hướng dẫn của
giáo viên.
- Về giáo viên
+ Trong quá trình dạy, giáo viên giúp học sinh nhớ lại những kiến thức cũ
về văn tự sự đã học ở lớp 6 bằng các tình huống có vấn đề trong các tiết lí
thuyết.
+ Để áp dụng có hiệu quả những biện pháp này, người giáo viên thực sự
tâm huyết, có tinh thần trách nhiệm, dành thời gian nhiều. Do học sinh phải thực
hiện phần bài tập ở nhà nhiều nên giáo viên phải thu vở bài tập về nhà để chấm,
sửa cho các em.
+ Giáo viên thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra, theo dõi quá trình học
sinh làm bài. Điều quan trọng là giáo viên biết động viên, khuyến khích, tuyên
dương học sinh đúng lúc, kịp thời. Bên cạnh đó, với học sinh điểm số rất quan
trọng nên khi chấm bài tập hoặc khi các em trình bày thì giáo viên nên cho học
sinh điểm số và có điểm cho tinh thần tự giác.
- Về phía nhà trường: Thư viện nhà trường nên có thêm tranh ảnh phục
vụ tốt cho quá trình dạy học bài giảng Ngữ văn 8. Bổ sung các tác phẩm có đoạn
trích được học. Đặc biệt là các tác phẩm nước ngoài, chân dung của một số nhà
thơ lớn, các tài liệu tham khảo, sách nâng cao cho giáo viên học sinh.
Với phạm vi nghiên cứu của đề tài này, Tôi xin được mạnh dạn đóng góp một số
ý kiến nhỏ bé của mình về đề tài “Một sô biện pháp giúp học sinh làm tôt bài
làm văn trong chương trình Ngữ văn lớp 8 ở trường THCS ” với mong muốn
sẽ góp phần vào quá trình đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn và nâng
cao chất lượng giảng dạy bộ môn ở trường Trung học cơ sở hiện nay. Chắc chắn
trong quá trình nghiên cứu vẫn còn sự thiếu sót rất mong sự góp ý của các bạn
đồng nghiệp để đề tài này được hoàn thiện tốt hơn, có hiệu quả cao hơn khi áp
dụng vào thực tế giảng dạy .
12
Xác nhận của Hiệu trưởng
Đỗ Văn Thắng
Thượng Ninh, ngày 30 tháng 3 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm do mình viết, không sao chép của
người khác.
Người viết SKKN.
Mai Thị Chung
TÀI LIỆU THAM KHẢO
13
1.
Phan Trọng luận, Phương pháp dạy văn, Nxb Đại học Quốc gia 1996,
Tr. 381).
2.
Hà Minh Đức (chủ biên – 1996), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà
3.
Nội.
G.N.Pospelov (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học (tập 2), Nxb
4.
5.
Giáo dục, Hà Nội.
Nguyễn Trí, Dạy học tập làm văn ở trung học cơ sở, NXB Giáo dục.
Nguyễn Trọng, Hoàn Rèn luyện tư duy sáng tạo trong dạy học tác
phẩm văn chương, Nxb Giáo dục, 2001
14