Nhóm 3
VĂN HÓA
I.Khái niệm và định nghĩa:
1. Khái niệm:
- Văn hóa là công cụ để hiểu ứng xử của con người với tư cách là người
chuyển tải các yếu tố truyền thống của xã hội.
- Trong mỗi nhóm, xã hội đều có những đặc trưng văn hóa của mình.
- Không có nhận định văn hóa của xã hội này cao hơn văn hóa của xã
hội khác.
- Là sản phẩm của con người bao gồm các giá trị vật chất và phi vật
chất.
- Là hệ thống di sản chung của xã hội.
- Là cách con người quan niệm về cuộc sống, tổ chức cuộc sống và sống
cuộc sống ấy.
- Mỗi nhóm, xã hội nhất định có nền văn hóa riêng, đặc trưng -> chính
văn hóa đem lại diện mạo, bản sắc riêng cho xã hội.
2. Định nghĩa:
Trong xã hội học, văn hóa có thể được xem xét như hệ thống “các giá trị
vật chất và phi vật chất, các chuẩn mực và mục tiêu mà con người cùng
thống nhất với nhau trong quá trình tương tác và trải qua thời
gian”.
Ví dụ: văn hóa ẩm thực, văn hóa nông nghiệp…
II. Đặc điểm
1. Tính chất học hỏi của văn hóa:
- Văn hóa là cái học được từ những người xung quanh.
- Vốn văn hóa được tích lũy trong quá trình tồn tại và phát triển của con
người trong mối quan hệ, tương tác với những người khác.
=> Quá trình XÃ HỘI HÓA.
Vd: 1 người miền nam quen bạn mình là người miền bắc. thường thì người
bắc ăn cơm là ngồi vào mâm, chờ hết các thành viên ngồi lại bàn rồi bắt đầu
mời ăn cơm. Người bạn miền nam về nhà người bắc chơi, thấy vậy cũng làm
theo => cũng là dạng học hỏi văn hóa người xung quanh.
2. Tính luân chuyển của văn hóa:
Các giá trị của văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua
ứng xử của con người.
Ví dụ: trong xã hội hiện đại, một số phong tục vốn được hình thành trong bối
cảnh sống trước kia vẫn được thực hiện trong hoạt động hàng ngày của con người:
lễ trong ngày giỗ tổ, cúng ngày rằm, tổ chức các ngày lễ hội nông nghiệp…
3. Tính xã hội của văn hóa:
- Văn hóa luôn tồn tại đồng thời với xã hội
- Khi những quy tắc hay những hành động được mọi người chấp nhận thì
văn hóa xuất hiện
Vd: Trong giao tiếp truyền thống của người Nhật có những quy tắc, lễ nghi mà mọi
người đều phải tuân theo tuỳ thuộc vào địa vị xã hội, mối quan hệ xã hội của từng
người tham gia giao tiếp. Từ những quy tắc, quy định trong cách chào hỏi, xưng hô
đến những cách ứng xử cụ thể trong gia đình thể hiện những nghi thức chào hỏi. Tất
cả các lời chào của người Nhật bao giờ cũng phải cúi mình và kiểu cúi chào như thế
nào phụ thuộc vào địa vị xã hội, từng mối quan hệ xã hội của mỗi người khi tham gia
giao tiếp. Một quy tắc bất thành văn là “người dưới” bao giờ cũng phải chào “người
trên” trước và theo quy định đó thì người lớn tuổi là người trên của người ít tuổi, nam
là người trên đối với nữ, thầy là người trên (không phụ thuộc vào tuổi tác, hoàn cảnh),
khách là người trên… => trở thành văn hóa giao tiếp của người Nhật.
4. Tính lý tưởng của văn hóa:
Những quan niệm của chúng ta về cái gì nên làm và không nên làm
thường mang hình thức lý tưởng hơn là những gì xảy ra trong hiện thực ứng
xử.
Thông thường các thành viên trong xã hội đều cho rằng sống là phải
trung thực nhưng trong một số tình huống cụ thể nào đó, một số người nào
đó vẫn làm khác đi so với số đông.
Ví dụ: một vài người sẽ lý giải rằng “đúng là cần trung thực nhưng lấy đồ
của người giàu thì cũng không sao”
Con người có những nhu cầu và luôn mong muốn thỏa mãn được các
nhu cầu đó, văn hóa quy định những cách thức thỏa mãn nhu cầu khác nhau.
Chẳng hạn, muốn thỏa mãn nhu cầu về ăn uống, cần phải thực hiện một loạt
các hành động có liên quan, cách thức gieo trồng, chăn nuôi (ở nông thôn),
học nghề để có việc làm kiếm tiền mua thức ăn (ở xã hội công nghiệp), hoặc
học cách thức nấu nướng… Muốn thỏa mãn nhu cầu tình dục mà không bị
phê phán, cần phải kết hôn. Muốn thỏa mãn nhu cầu kết hôn, những người
tham gia kết hôn sẽ phải thực hiện những quy định về các giai đoạn của hôn
lễ. Tuy nhiên, trước khi kết hôn, họ cũng tự biết rằng mình phải thận trọng
trong việc chọn người hôn phối để không rơi vào trường hợp có họ hàng gần
với nhau. Trong sự tính toán này của họ, có thể nhận ra sự hiểu biết nhất
định về quy định trong hôn phối của các thành viên cộng đồng. Như vậy, văn
hóa bao gồm các giá trị, các chuẩn mực và những quy tắc…những biểu hiện
này của văn hóa được phổ biến trong xã hội và được truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác.
5. Tính chất thích ứng của văn hóa:
Các giá trị, chuẩn mực của nền văn hóa có thể thay đổi tùy theo những đòi
hỏi của bối cảnh xã hội nhưng vẫn gắn liền chặt chẽ với toàn bộ cấu trúc xã hội.
Ví dụ: nạn hạn hán hoặc những thiên tai khác. Người ta tính toan cách thức
thực hiện dựa trên kinh nghiệm sẵn có và phát triển thêm những ứng xử trong tình
huống mới. Người nông dân vùng châu thổ sông Hồng chống chọi lũ lụt bằng cách
đắp đê ngăn lũ, còn nông dân đồng bằng sông Cửu Long lại tìm cách để “sống
chung với lũ”. Những sự thích ứng như thế được thực hiện thông qua việc sửa đổi
các chuẩn mực nhưng vẫn gắn liền chặt chẽ với toàn bộ cấu trúc giá trị.
6. Tính thống nhất của văn hóa:
Có một sự cố kết chặt chẽ giữa các khía cạnh khác nhau về văn hóa, nhằm
hình thành nên một thể thống nhất. Tức là văn hóa được coi như tổng hòa những
yếu tố như hành động, tư tưởng, vật chất, tình cảm.
Nói đến sự thay đổi văn hóa là nói đến sự thay đổi của các thành tố cơ bản
liên quan nói trên. Những người lao động trong môi trường đô thị ở các nước công
nghiệp hóa thường làm việc với thời gian ít hơn, có nghĩa là các hoạt động trong
thời gian rảnh rỗi của họ sẽ nhiều hơn những người lao động trong môi trường
nông thôn. Mô hình ứng xử của họ cũng sẽ bao gồm cả hoạt động trong thời gian
rảnh rỗi, các dụng cụ, quần áo thể thao, cả khối lượng kiến thức vốn chứa đựng
những năng lực và những giá trị cần phải có, chẳng hạn như lối chơi trung thực.
Hoạt động sống của người dân đô thị phong phú hơn so với những người sống ở
nông thôn.
III. Các thành phần của văn hoá:
1. Giá trị:
- Trong đời sống xã hội, giá trị nằm trong ý thức cá nhân và cộng đồng, có tác
động tới hành vi ứng xử của con người.
- Xã hội nào cũng tồn tại nhiều giá trị khác nhau. Có thể xếp giá trị vào hai
khu vực lớn:
+
+
Giá trị vật chất
Giá trị tinh thần
- Giá trị là một phạm trù lịch sử, luôn biến đổi cùng với sự biến đổi của đời
sống xã hội.
Vd: Ở nước ta trong các thời kì kháng chiến chống xâm lược, trước vận
mệnh sống còn của tổ quốc, các giá trị cộng đồng bao giờ cũng nổi lên giữ vị
trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của toàn thể dân tộc. Khi ấy, những tình
cảm riêng tư, những quan hệ cục bộ đều được đặt dưới lợi ích chung của Tổ
quốc và Dân tộc. Nhưng liền sau đó, khi chiến tranh qua đi, người ta lại có
xu hướng quay trở lại với các giá trị kinh tế, giá trị gia đình hơn là vươn tới
các lý tưởng chung của xã hội.
- Quan hệ giữa các giá trị còn thể hiện ở chỗ: Trong cùng một không gian xã
hội và ở cùng một thời điểm, bên cạnh các giá trị đương đại còn có những
giá trị của một thời rất xa xưa, những giá trị mới du nhập và cả những giá trị
đang hình thành.
- Giá trị trung tâm: là giá trị cần thiết và quan trọng nhất đối với lợi ích của cá
nhân cũng như của cộng đồng.
Vd: Giáo sư Trần Văn Giầu đã nêu 7 giá trị mang tính tổng quát nhất của
dân tộc Việt Nam, đó là: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan,
thương người, vì nghĩa.
- Giá trị phụ thuộc, cục bộ: chỉ đại diện cho lợi ích của một vùng lãnh thổ,
một tộc người, một tôn giáo, một giai cấp hay một nhóm nghề nghiệp nào
đó.
Vd: “Nước, phân, cần, giống” là hệ giá trị trong canh tác nông nghiệp truyền
thống của người nông dân đồng bằng Bắc Bộ hay hệ canh tác “Luân canh,
hưu canh, xen canh, gối canh” của cư dân canh tác nương rẫy ở miền núi.
“Lấy nhu thắng cương, lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh, lấy chí nhân
thắng cường bạo” là hệ giá trị của sự nghiệp chống ngoại xâm của dân tộc ta.
2. Chuẩn mực:
Chuẩn mực được hiểu là những quy ước chung của cả cộng đồng hay
một nhóm hạn hẹp, có thể công khai hoặc ngầm ẩn, song được mọi người
chia sẻ về mặ hành vi.
Với chức năng là điểm tựa cho hành vi, chuẩn mực xã hội điều chỉnh
toàn bộ lĩnh vực quan hệ của con người, chỉ ra và quy định mỗi người cần
phải xử sự như thế nào trong những tình huống cụ thể.
Có thể chia chuẩn mực làm hai loại:
+
Chuẩn mực nhân văn: có chức năng điều tiết quan hệ giữa các
cá nhân với nhau.
VD: các chuẩn mực đạo đức trong gia đình: thảo hiếu cha mẹ, kính
nhớ tổ tiên; trong xã hội: yêu thương đồng loại, đùm bọc lẫn nhau…
+
Chuẩn mực chính trị và pháp lý nhằm điều tiết quan hệ giữa các
nhóm người, kể cả quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc.
Con người thực hiện các chuẩn mực xã hội tụa như công việc của diễn
viên ra sân khấu.
Chuẩn mực mang tính phổ biến: có khả năng chi phối hành vi của đại
đa số thành viên xã hội.
Chuẩn mực cục bộ (bộ phận): chỉ được tuân thủ trong một nhóm
người nào đó.
3. Biểu tượng:
Một cách ngắn gọn, có thể nói biểu tượng chính là cách dùng hình này
để tỏ ra nghĩa nọ, là mượn một cái gì đó để tượng trung cho một cái gì khác.
Đầy đủ hơn, biểu tượng là một cái, ngoài ý nghĩa vốn có của nó, còn
hàm chứa một ý nghĩa khác, tức là ngoài nghĩa đen còn có nghĩa bóng.
Mỗi thời đại cũng như mỗi nhóm người đều có biểu tượng riêng của
mình.
Nhiều khi trong đời sống cộng đồng đã có những biến đổi cơ bản và
sâu sắc, song các biểu tượng cũ vẫn còn và chúng vẫn gây ra những ảnh
hưởng nhất định đến sự phát triển xã hội.
Vd: Trong các câu cửa miệng: “lực lượng cảnh sát là tai, là mắt của nhân
dân”, “đó là cái bắt tay của tình hữu nghị” hay “chặn đường tiếp tế tức là đã
đánh vào cái dạ dày của kẻ địch” thì đấy đã là sự vận dụng biểu tượng một
cách rất phổ biến trong đời sống của mỗi người.
4. Ngôn ngữ:
Ngôn ngữ là thành tố quan trọng bậc nhất tạo thành bản sắc văn hóa.
Ngôn ngữ mang tính phổ biến: cho phép chúng ta học và dịch từ một
ngôn ngữ này sang một ngôn ngữ khác.
Ngôn ngữ mang tính đặc thù: ngôn ngữ không đơn thuần chỉ là sự
khác nhau của cách mã hóa bằng biểu tượng âm thanh hay con chữ, đó còn
là sự khác nhau của văn hóa.
Trong nghiên cứu xã hội học, người ta cho rằng các mối liên hệ của
con người sở dĩ diễn ra được là thông qua sự tương tác. Ngôn ngữ cũng là
tương tác và là cơ sở của sự tương tác xã hội. Việc phân tích ngôn ngữ
không chỉ giúp cho nhà khoa học có thêm cơ sở để phán đoán về các hành vi
xã hội, mà qua đó còn hiểu được sự liên kết giữa các cấu trúc và các mối
quan hệ khác nhau trong đời sống xã hội.
IV. Tiểu văn hoá:
- Các nhà xã hội học nói rằng chừng nào sự khác biệt về văn hóa được biểu
hiện cụ thể trong lối sống thành những đặc trưng rõ rệt và những đặc trưng
này có thể tái tạo trong đời sống xã hội để có thể phân biệt giữa nhóm này và
nhóm kia, giai tầng này và giai tầng khác, chừng đó có thể nói đến sự tồn tại
của một tiểu văn hóa.
- Nhìn một cách khái quát, người ta có thể chia văn hóa thành hai loại chính:
+
Tiểu văn hóa địa lý: là một loại tiểu văn hóa, chúng được hình thành
trên cơ sở của các vùng lãnh thổ hay địa vực.
Vd: Ở Việt Nam theo một nhà nghiên cứu, có thể chia không
gian văn hóa của cả nước làm sáu vùng với tư cách là các tiểu văn
hóa: Tây Bắc, Việt Bắc, châu thổ Bắc Bộ, Trung Bộ, Trường Sơn –
Tây Nguyên, và Nam Bộ.
+
Tiểu văn hóa xã hội: xuất phát từ đặc trưng của chúng trong cơ cấu xã
hội, hay cụ thể hơn là trong hệ thống phân tầng xã hội.
Vd:
.
Tiểu văn hóa tôn giáo được hình thành trên cơ sở có sự đồng
nhất về các niềm tin nơi thiên đàng cũng như dưới trần thế. Trên quy
mô toàn thế giới, các tôn giáo lớn như Phật giáo, Thiên Chúa giáo,
Hồi giáo đều tồn tại với tư cách là các tiểu văn hóa tôn giáo.
.
Tiểu văn hóa nghề nghiệp được ra đời trên cơ sở tương đồng
của những người có chung chung một nghề nghiệp. Quan sát đời sống
hàng ngày, người ta nhận thấy người trí thức sau giờ làm việc thường
thích đi dạo, tập thể thao, du lịch trong khi người nông dân hay công
nhân lại thích đọc báo, đánh cờ hay xem kịch. Nghiên cứu đã chỉ ra
mỗi hoạt động nghề nghiệp khác nhau, lâu dần, đã tạo ra những thói
quen, tập quán, sở thích không giống nhau cho chủ thể.
- Khi một tiểu văn hóa nào đó ảnh hưởng đến những tiểu văn hóa khác, thì
chúng có thể tạo thành một trào lưu văn hóa và gây ảnh hưởng đến toàn xã
hội.
Vd: Vốn là một hiện tượng xã hội bình thường của những người đồng tính
luyến ái và những người quý phái ở New York có cách sống độc đáo khoảng
đầu những năm 1960, disco đã bùng nổ thành một trào lưu văn hóa vào
những năm 1970. Đến năm 1977 đã có khoảng 10000 người nhảy disco ở
Hoa Kỳ.
- Văn hóa: niềm tin, giá trị, hành vi và đối tượng vật chất của một dân tộc cụ
thể.
Tiểu văn hóa: mẫu văn hóa khác với văn hóa thống trị trong một cách
đặc biệt.
V. Phản văn hoá:
Ngược với Văn hóa là Phản văn hóa, theo đó, những gì được gọi là Phản văn
hóa, bao gồm mọi sáng tạo ra của cải vật chất – tinh thần - ứng xử của con người,
mà các của cải đó làm ảnh hưởng trực tiếp hay lâu dài đến đời sống của con
người hay làm chậm, ngừng trệ sự phát triển của xã hội thậm chí huỷ hoại - huỷ
diệt đời sống và môi trường sống của con người.
Trong trường kỳ lịch sử của nhân loại khi con người sáng tạo ra văn hóa cũng
chính là khi xuất hiện phản văn hóa một cách ngẫu hứng.
Một vài hệ quả lịch sử: Khi con người ra sinh sống khỏi hang động mái đá, sống
ven các cánh rừng, họ chặt cây, làm nhà, khai khẩn đất đai rừng làm nương rẫy,
một mặt sáng tạo ra nhà ở làm nơi cư trú, có lương thực để nuôi sống mình một
cách chủ động, đó là hai loại sáng tạo ra giá trị văn hóa, đồng thời họ cũng đồng
tác giả tạo ra các giá trị phản văn hóa là chặt cây rừng và nương làm xói lở rừng
gây nạn lũ lụt, lũ quét nghiêm trọng.