Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

tiểu luận QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSXcủa đảng ta trong công cuộc đổi mới hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.55 KB, 21 trang )

Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển
lực lợng sản xuất của đảng ta trong công cuộc đổi mới
hiện nay
mở đầu
CNDVLS là một trong hai cống hiến vĩ đại của C. Mác cho
lịch sử t tởng nhân loại. Học thuyết về hình thái kinh tế - xã
hội là nền tảng của CNDVLS. Trong học thuyết hình thái kinh
tế - xã hội, C. Mác đã làm nổi bật mối quan hệ biện chứng
giữa LLSX và QHSX. Mâu thuẫn biện chứng giữa LLSX và
QHSX là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển xã
hội.
ở nc ta vào những năm 1975 đến 1985 do chúng ta cha
nhận thức và vận dụng đầy đủ mối quan hệ biện chứng
giữa LLSX và QHSX, duy trì lâu cơ chế tập trung bao cấp
trong quản lý kinh tế trong khi nó đã tỏ ra lạc hậu trong tình
hình mới, nên đã dẫn đến nhiều sai lầm cả về mặt lý luận
cũng nh thực tiễn. Vì vậy đất nớc đã lâm vào tình trạng
khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài trong nhiều năm.
Năm 1986 Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đại hội của sự
nghiệp đổi mới đã đa cả nớc bớc vào thời kỳ mới với những
chuyển biến tích cực trên tất cả các lĩnh vực. Chúng ta từng
bớc sửa chữa những sai lầm cả trong nhận thức, cũng nh
trong thực tiễn vận dụng qui luật QHSX phù hợp với trình độ
phát triển LLSX. Trong những năm đổi mới, nền kinh tế - xã
hội nớc ta đã đạt đợc những thành tựu cực kỳ to lớn. Một trong
những nguyên nhân cơ bản của những thành tựu đó là Đảng


ta đã nhận thức một cách đúng đắn và sâu sắc hơn về
mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX


Chơng 1
thực chất và một số vấn đề nguyên tắc phơng pháp luận
trong vận dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển lực lợng sản xuất

1.1. Thực chất quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lợng sản xuất.
Với quan điểm lập trờng duy vật biện chứng về lịch sử,
C. Mác là ngời đầu tiên phát hiện sự tồn tại và phát triển của
xã hội loài ngời là sản xuất vật chất. Sản xuất vật chất là nhu
cầu khách quan của lịch sử, bởi vì bất cứ chế độ xã hội nào
cũng không thể tồn tại và phát triển, nếu không có quá trình
thờng xuyên sản xuất và tái sản xuất xã hội.
Sản xuất vật chất là quá trình hoạt động của con ngời,
trong quá trình đó, con ngời sử dụng các phơng tiện, công
cụ thích hợp, thực hiện việc cải tạo giới tự nhiên nhằm tạo ra
của cải vật chất thoả mãn nhu cầu của mình.
Trong quá trình sản xuất, con ngời không chỉ tạo ra của
cải vật chất cho sự tồn tại của mình, mà còn thực hiện quá
trình sản xuất và tái sản xuất những quan hệ xã hội của
chính con ngời, những QHSX, những quan hệ này tạo thành
cơ sở kinh tế của xã hội, cơ sở hiện thực của toàn bộ những
t tởng, tinh thần cùng những thiết chế tơng ứng trong xã hội.
Để tiến hành sản xuất vật chất, con ngời vừa phải quan
hệ với giới tự nhiên nhằm biến đổi giới tự nhiên (quan hệ đó


đợc biểu hiện ở LLSX), vừa phải quan hệ với nhau trong quá
trình sản xuất (biểu hiện ở QHSX). LLSX và QHSX là hai mặt
thống nhất trong một PTSX.

1.1.1. Phơng thức sản xuất
PTSX là cách thức con ngời thực hiện quá trình sản xuất
vật chất ở một giai đoạn lịch sử nhất định. Là sự thống nhất
giữa LLSX và QHSX.
Qua mỗi giai đoạn lịch sử, con ngời luôn vơn tới những
mức độ ( trình độ) sản xuất khác nhau theo qui luật tiến
hoá của lịch sử xã hội, mức độ, trình độ sản xuất ngày càng
tiến bộ, cách thức sản xuất của con ngời ở giai đoạn sau bao
giờ cũng tiến bộ, văn minh hơn giai đoạn trớc, sự kế thừa một
cách biện chứng trong quá trình phát triển của xã hội, của
quá trình sản xuất vật chất và tinh thần của con ngời. v khi
con ngời sản xuất ở những giai đoạn ( thời đại) khác nhau đó
thì có những cách thức sản xuất cũng khác nhau và mỗi cách
thức sản xuất ở thời đại ấy gọi là PTSX. Sự thay thế nối tiếp
nhau của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch
sử tự nhiên và tơng ứng với mỗi hình thái kinh tế - xã hội
đều có một PTSX riêng.
1.1.2. Lực lợng sản xuất
LLSX chỉ mối quan hệ giữa con ngời với tự nhiên, biểu
hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con ngời trong từng
giai đoạn lịch sử nhất định.
LLSX là sự kết hợp giữa ngời lao động và kỹ năng lao
động của họ và TLSX. Trong TLSX gồm t liệu lao động (mà


trớc hết là công cụ lao động và các phơng tiện vật chất
khác) và đối tợng lao động. Công cụ lao động đợc xem là
yếu tố quan trọng nhất trong TLSX. Công cụ lao động là
toàn bộ máy móc, thiết bị và các phơng tiện phục vụ cho
quá trình sản xuất vật chất. Công cụ lao động chính là

chiếc cầu nối giữa con ngời với tự nhiên - là khí quan vật
chất nhân sức mạnh của con ngời trong quá trình biến
đổi tự nhiên. Trong LLSX, công cụ lao động là yếu tố
động nhất, nó có vị trí quyết định trong TLSX.
Trình độ phát triển công cụ lao động vừa là thớc đo
trình độ chinh phục tự nhiên của con ngời, vừa là tiêu chuẩn
để phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế. Theo
C.Mác: Trong những thời đại kinh tế khác nhau, không phải ở
chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất
bằng cách nào và với những t liệu lao động nào.
Trình độ của LLSX là chỉ năng lực chinh phục tự nhiên
của con ngời đợc biểu hiện trớc hết là ở trình độ phát triển
công cụ lao động, trình độ tổ chức và phân công lao
động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học công nghệ vào
sản xuất, trình độ kinh nghiệm và kỹ năng lao động của
con ngời.
Trong LLSX, ngời lao động giữ vị trí hàng đầu, đóng
vai trò quyết định. Vì con ngời chế tạo ra công cụ lao
động, luôn cải tiến và sử dụng nó để tiến hành sản xuất.
Ngày nay, giá trị sản phẩm làm ra cho xã hội có chất lợng hay
không, sản phẩm làm ra nhiều hay ít, nó phụ thuộc vào


trình độ năng lực của con ngời. Trong quá trình sản xuất vật
chất, con ngời càng đợc nâng cao tay nghề, tri thức trí tuệ
kết tinh trong sản phẩm của mình làm ra ngày một lớn.
Chẳng hạn: ở cuộc cách mạng công nghệ lần 1 và lần 2 tỷ
trọng tri thức chỉ chiếm trong giá thành sản phẩm 20 đến
25%, thì trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3 tỷ
trọng đó đã lên tới 75 ữ 80%. Khi bàn về vai trò của ngời lao

động theo Lênin : LLSX hàng đầu của toàn nhân loại là công
nhân, ngời lao động.
Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật hiện đại
đã tạo ra bớc nhảy vọt lớn trong LLSX, khoa học trở thành LLSX
trực tiếp, tri thức khoa học đợc vật hoá, kết tinh, thâm nhập
vào các yếu tố của LLSX và cả QHSX nhanh và có hiệu quả.
Tri thức khoa học trở thành một tất yếu trong hoạt động sản
xuất của ngời sản xuất, thay thế cho thói quen và kinh nghiệm
thông thờng trớc đây.
Nh vậy, các yếu tố cấu thành LLSX không tồn tại độc lập
tách rời nhau mà luôn có tác động biện chứng với nhau trong
quá trình hoạt động sản xuất vật chất. LLSX do con ngời tạo
ra song nó vẫn là yếu tố khách quan, là nền tảng vật chất
của toàn bộ lịch sử nhân loại, con ngời dù muốn hay không
muốn nó vẫn tồn tại khách quan cùng với phát triển của con ngời, xã hội loài ngời. Trong quá trình sản xuất con ngời không
chỉ quan hệ với tự nhiên mà còn quan hệ với nhau ( quan hệ
ngời - ngòi ).
1.1.3. Quan hệ sản xuất


Trong quá trình sản xuất, con ngời chẳng những quan
hệ với tự nhiên mà còn có những quan hệ với nhau để cùng
tiến hành sản xuất. QHSX là những quan hệ cơ bản giữa ngời với ngời trong quá trình sản xuất xã hội, là quan hệ vật
chất của xã hội tồn tại khách quan, độc lập với ý thức.
QHSX hình thành một cách tất yếu, khách quan trong
sản xuất vật chất. QHSX bao giờ cũng đợc cấu thành bởi 3
yếu tố: Quan hệ giữa ngời với ngời trong việc sở hữu TLSX;
quan hệ giữa ngời với ngời trong việc tổ chức quản lý sản
xuất và trao đổi hoạt động cho nhau; quan hệ giữa ngời với
ngời về phân phối sản phẩm xã hội.

Trong ba mối quan hệ đó thì quan hệ sở hữu về TLSX
có ý nghĩa quyết định đối với các quan hệ khác, quyết
định vị trí của các tập đoàn ngời trong sản xuất, trong tổ
chức quản lý và trao đổi hoạt động phân phối sản phẩm xã
hội . Các quan hệ tổ chức quản lý, điều hành sản xuất và
quan hệ phân phối sản phẩm xã hội tuỳ thuộc vào quan hệ
sở hữu, nhng có tác động trở lại đối với quan hệ sở hữu.
Điều này chúng ta cũng mắc phải sai lầm trong cải tạo
XHCN thời kỳ trớc đổi mới. Chúng ta đã tuyệt đối hoá quan
hệ sở hữu, coi nhẹ các quan hệ khác dẫn đến việc cải tạo
QHSX không đồng bộ, nên QHSX mới chỉ là hình thức. Đây
cũng là lý do giải thích cho sự điều chỉnh, thích nghi của
CNTB hiện nay, khi nó đã biết điều chỉnh lại các yếu tố
trong QHSX, lý giải cho sự tồn tại, của CNTB hiện đại hiện nay
và trong một thời gian nữa.


Nh vậy,
Ba yếu tố cấu thành QHSX luôn gắn bó với nhau tạo
thành bản chất của QHSX. Vì vậy, khi xem xét QHSX
không đợc tuyệt đối hoá yếu tố nào. Sự gắn kết chặt chẽ
ba yếu tố của QHSX mới tạo ra đợc động lực mạnh mẽ, thúc
đẩy sự phát triển LLSX nói riêng và xã hội nói chung. Vì
vậy, khi nói về mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, đa nớc
ta cơ bản trở thành một nớc công nghiệp. Đại hội VIII khẳng
định: Về mặt QHSX Chế độ sở hữu, cơ chế quản lý và
chế độ phân phối gắn kết với nhau, phát huy đợc các
nguồn lực, tạo ra động lực mạnh mẽ, thúc đẩy tăng tr ởng
kinh tế, thực hiện công bằng xã hội( 8,Tr 45 ).
1.1.5. Thực chất quy luật

Quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển LLSX là
quy luật chung, phổ biến, tác động trong toàn bộ lịch sử
nhân loại, làm cho lịch sử chuyển từ hình thái kinh tế - xã
hội này, lên hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn.
LLSX và QHSX là hai mặt của một PTSX có tác động biện
chứng. LLSX là nội dung, QHSX là hình thức xã hội quá trình
sản xuất. Theo quy luật tác động giữa nội dung và hình
thức thì bao giờ nội dung cũng quyết định hình thức. Với t
cách là nội dung LLSX quyết định QHSX, QHSX tác động trở
lại to lớn đối với LLSX. Nếu QHSX phù hợp với trình độ của LLSX
thì thúc đẩy LLSX phát triển, ngợc lại nếu không phù hợp sẽ kìm
hãm sự phát triển của LLSX.


Trong thực tế tính chất và trình độ phát triển của LLSX
là không tách rời nhau. Sự phát triển của LLSX là phát triển cả
tính chất và trình độ.
Vai trò quyết định của LLSX đối với QHSX
LLSX và QHSX là hai mặt đối lập biện chứng cấu thành
PTSX, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn
nhau. Trong đó LLSX là nội dung, QHSX là hình thức xã hội của
sản xuất. LLSX quyết định QHSX, quyết định nội dung, tính
chất, xu hớng vận động của QHSX. Theo C.Mác: thích ứng với
mỗi trình độ sản xuất, chỉ có một kiểu QHSX đặc trng. Tức
là trình độ phát triển của LLSX nh thế nào thì nó sẽ quyết
định, quy định hình thức nh thế ấy.
Khuynh hớng của sản xuất vật chất là phát triển không
ngừng để tăng năng xuất lao động, sản xuất vật chất đợc
biểu hiện ra từng giai đoạn cụ thể là PTSX, mà PTSX là sự
thống nhất giữa hai mặt LLSX và QHSX. Trong mối quan hệ

biện chứng giữa LLSX và QHSX thì LLSX là yếu tố động và
cách mạng (nội dung), QHSX là hình thức của LLSX mang
tính chất ổn định tơng đối. Trong xã hội có giai cấp mâu
thuẫn giữa LLSX và QHSX đợc biểu hiện về mặt xã hội là
mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn giai cấp dẫn đến đấu
tranh giai cấp, đỉnh cao của đấu tranh giai cấp là cách
mạng xã hội. Cách mạng xã hội diễn ra dẫn đến sự thay đổi
của QHSX cũ thành QHSX mới, tiên tiến phù hợp với LLSX đã
phát triển,


Nh vậy, QHSX từ chỗ phù hợp, không phù hợp, rồi lại phù hợp
với LLSX...quá trình ấy là biểu hiện mâu thuẫn biện chứng
khách quan giữa QHSX và LLSX trong PTSX. Quá trình đó
lặp đi lặp lại mang tính chất quy luật trong quá trình phát
triển sản xuất vật chất. Thực tế sự phát triển nối tiếp nhau
của các PTSX từ thấp đến cao đã chứng minh tính quy luật
đó.
Sự thay đổi hình thái kinh tế - xã hội này lên hình thái
xã hội khác cao hơn suy cho cùng là do trình độ phát triển
của LLSX quy định.
Tóm lại LLSX có tác dụng quyết định đối với sự biến đổi
phát triển của QHSX, cùng với sự phát triển của LLSX thì QHSX
cũng phải thay đổi theo cho phù hợp. Sự phù hợp đó là điều
kiện tất yếu để cho sản xuất xã hội phát triển.
QHSX tác động trở lại LLSX
QHSX sau khi bị trình độ và tính chất của LLSX quy
định thì nó cũng có sự tác động trở lại đối với LLSX. Hay nói
cách khác, nội dung bao giờ cũng có tính chất quyết định
hình thức, song hình thức có sự tác động trở lại đối với nội

dung. QHSX có tính độc lập tơng đối tác động trở lại đối với
LLSX.
Khi phù hợp thì nền sản xuất phát triển đúng hớng, quy
mô sản xuất đợc mở rộng, những thành tựu khoa học công
nghệ đợc áp dụng nhanh chóng, ngời lao động nhiệt tình
hăng hái sản xuất (vì lợi ích của ngời lao động đợc bảo


đảm). Vì vậy, sẽ thúc đẩy LLSX phát triển, nếu không phù
hợp sẽ ngợc lại.
Trớc Đại hội VI (trớc năm 1986) nền kinh tế nớc ta rơi vào
khủng hoảng do chúng ta xây dựng QHSX không phù hợp với
LLSX (xây dựng QHSX cao hơn LLSX, vợt trớc LLSX). Đến Đại
hội VI Đảng ta nhận định: LLSX bị kìm hãm không chỉ
trong trờng hợp lạc hậu, mà cả khi QHSX phát triển không
đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ của
LLSX ( 10, Tr 24 ).
Sự tác động, thúc đẩy hoặc kìm hãm của QHSX
đối với LLSX chỉ là tơng đối. Với sự vận động biến đổi
của LLSX, dù QHSX lỗi thời nào có kéo dài sự tồn tại đến mấy,
thì cuối cùng cũng sẽ bị thay thế bằng kiểu QHSX mới phù hợp
với trình độ phát triển của LLSX.
Tuy nhiên, sự thay thế của QHSX mới đối với QHSX cũ
không có nghĩa là phủ định sạch trơn của QHSX cũ, mà phủ
định có kế thừa những yếu tố phù hợp để phát triển trong
điều kiện mới.
1.2. Một số vấn đề phơng pháp luận trong nhận
thức và vận dụng quy luật.
Việc nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất có ý

nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng trong sự nghiệp đổi
mới ở nớc ta hiện nay. Trong nhận thức và vận dụng quy luật
này phải nhận thức, vận dụng toàn diện trú trọng cả hai mặt
LLSX và QHSX, nhng để cải tạo sự vật trớc hết phải đi từ nội


dung, nghĩa là phải xuất phát từ LLSX, phải phát triển LLSX,
làm cho LLSX phát triển. Trong điều kiện quá độ lên CNXH ở
nớc ta hiện nay là phải khuyến khích phát triển các thành
phần kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả các thành
phần kinh tế phát triển, mở rộng phát triển sản xuất, giao lu
hợp tác quốc tế, quan tâm thúc đẩy toàn diện các yếu tố của
LLSX, đặc biệt là phát huy nhân tố con ngời và cải tiến
công cụ nhằm tăng sức sản xuất, tăng năng xuất lao động tạo
ra nhiều sản phẩm hàng hóa đa dạng... Đồng thời với việc
thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển phải xác định rõ QHSX
phù hợp với nó , tạo sự công bằng trong cạnh tranh, điều chỉnh
các chính sách, tổ chức, sắp xếp bố trí một cách hợp lý các
yếu tố của QHSX từ vấn đề sở hữu TLSX đến tổ chức sản
xuất và phân phối sản phẩm lao động phải thực sự công
bằng phù hợp với trình độ phát triển của LLSX hiện nay. Đẩy
mạnh cải cách hành chính nhà nớc, từ bộ máy tổ chức đến
cơ chế, thể chế, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có đủ
năng lực phẩm chất đáp ứng đợc các yêu cầu, nhiệm vụ trong
tình hình mới.
Trong nhận thức vận dụng quy luật này phải đấu tranh
chống các quan điểm quá coi trọng hình thức, nghĩa là quá
coi trọng QHSX nh trớc đây. Song cũng đấu tranh chống các
khuynh hớng coi nhẹ QHSX mà quá chú trọng đến phát triển
LLSX. Cả hai khuynh hớng này đều phiến diện, sai lầm do

vậy trong nhận thức vận dụng quy luật này phải đồng thời
quan tâm đến hai mặt LLSX và QHSX. Phải chú trọng đồng
bộ toàn diện trong đó trớc hết phải u tiên phát triển LLSX.


Chơng 2
Nhận thức và vận dụng quy luật của đảng ta trong
công cuộc đổi mới hiện nay

2.1. Tính tất yếu của công cuộc đổi mới
Thực tiễn Việt Nam cuối những năm 1980, đất nớc lâm
vào khủng hoảng kinh tế - xã hội, nó làm cho năng xuất, chất
lợng, hiệu quả của sản xuất giảm sút, đời sống nhân dân rất
khó khăn trong khi đó dân số lại tăng nhanh. Thu nhập quốc
dân cha đảm bảo đợc tiêu dùng xã hội. ....
Trong khi đó, tận dụng đợc thành quả của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ, CNTB lại có những điều chỉnh,
thích nghi và phát triển, thực hiện chiến lợc Diễn biến hoà
bình quyết liệt chống phá các nớc XHCN...
Do vậy, từ thực tiễn của Việt Nam, thế giới đã đặt ra cho
chúng ta vấn đề là phải đổi mới và nó là tất yếu. Đổi mới ở
Việt Nam nó đã trở thành vấn đề có ý nghĩa sống còn đối
với Đảng ta, đối với cách mạng nớc ta.
Từ thực trạng kinh tế - xã hội đó, Đảng ta đã nhìn nhận lại
vấn đề, tìm thấy những sai lầm trong nhận thức và vận
dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ LLSX. Khi LLSX còn ở
tình trạng thấp thì không thể xây dựng đợc QHSX cao hơn
những điều kiện vật chất hiện có. Trên thực tế theo quy luật
QHSX phù hợp trình độ LLSX thì các yếu tố của QHSX không
thể vợt trớc đi quá xa so với trình độ phát triển của LLSX vì

LLSX luôn có một hình thức xã hội nhất định là QHSX và


QHSX cũng luôn có một cơ sở vật chất nhất định của mình
là LLSX.
2.2. Một số quan điểm cơ bản của Đảng ta vận
dụng quy luật trong công cuộc đổi mới hiện nay
Tháng 12.1986, tại Đại hội VI của Đảng với tinh thần nhìn
thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, đã
nghiêm khắc tự phê bình những chủ trơng, chính sách sai
lầm trong cải tạo và xây dựng CNXH trớc đó. Đại hội đã đề ra
đờng lối đổi mới toàn diện nhằm đa đất nớc thoát khỏi
khủng hoảng, đa đất nớc đi vào thế ổn định và phát triển.
Đờng lối đổi mới của chúng ta dựa trên cơ sở tổng kết
những kinh nghiệm thực tiễn, những sáng tạo của nhân
dân. Trên cơ sở lý luận, từ bỏ những ảo tởng chủ quan, duy ý
chí, xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy
luật khách quan, lấy dân làm gốc đã đợc tiến hành từng bớc phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nớc. Thời kỳ này đợc
đánh dấu bằng Đại hội lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam
vào tháng 6.1991 Nhờ kết quả tích cực của các biện pháp cải
cách đó, cũng nh những áp lực cải cách vẫn tiếp tục tăng lên,
Đảng Cộng sản Việt Nam, đề ra đờng lối xây dựng nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trờng, có sự quản lý của Nhà nớc. Đây chính là quá trình tiếp
tục nhận thức của Đảng về vận dụng các quy luật kinh tế, trong
đó có quy luật LLSX và QHSX, để phát triển sản xuất xã hội.
Đại hội VIII, IX, X tiếp tục khẳng định phát triển nền kinh
tế thị trờng định hớng XHCN nhằm phát huy tối đa mọi tiềm


năng của các thành phần kinh tế, trên cơ sở hoạt động theo

pháp luật. Khuyến khích mọi ngời làm giàu chính đáng, đời
sống của các tầng lớp nhân dân so với trớc đổi mới đã có
những bớc tiến dài.
ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội giữ vững,
ổn định chính trị nh một tiền đề quan trọng của đổi mới.
Chúng ta biết rằng, LLSX là yếu tố động luôn luôn vận
động phát triển không ngừng: sản xuất vật chất của lịch sử
xã hội loài ngời ngày càng tiên tiến, dẫn đến văn minh ở nấc
thang mới cao hơn, do vậy không thể khẳng định sự vận
dụng phù hợp quy luật trong giai đoạn đổi mới hiện nay là
mang tính chất hoàn chỉnh, tuyệt đối. Điều này có cơ sở cả
về lý luận cũng nh thực tiễn rất sâu sắc. Nhìn lại quá trình
đổi mới và sự vận dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ
LLSX trong những năm đổi mới và nhất là những năm từ 2001
đến nay, chúng ta còn thấy một số vấn đề lớn đang nổi lên
hiện nay (đó là những mâu thuẫn) khách quan buộc phải
giải quyết, dù muốn hay không muốn đã đang đặt ra cho
Đảng và nhân dân ta tiếp tục nhận thức và giải quyết.
Một là, mâu thuẫn giữ mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội đến năm 2020 và mục tiêu cả thời kỳ quá độ với tình
trạng nền kinh tế hiện nay còn kém hiệu quả, đầu t thiếu
tính kế hoạch lâu dài, tính chiến lợc lâu dài, kết quả so với
đồng vốn bỏ ra rất thấp, thậm chí còn thâm hụt, lãng phí
nhiều, cha có cơ chế cụ thể để quản lý tốt từ cấp vĩ mô
đến các cấp, các ngành, các vùng. Sức cạnh tranh hàng hoá
còn yếu trong khi nhu cầu hội nhập, dỡ bỏ hàng rào thuế


quan là tất yếu, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế và sức mua
trong nhân dân còn ở mức thấp. Cơ cấu kinh tế chuyển

dịch còn quá chậm.
Hai là, QHSX (nhất là về cơ chế, chính sách, quy định
cả tổng thể và cụ thể mang tính chiến lợc vừa lâu dài, vừa
trớc mắt) có mặt còn cha phù hợp, đã hạn chế đến việc giải
phóng và phát triển của LLSX.
Ba là, nền kinh tế vĩ mô còn có những yếu tố thiếu
vững chắc, phát triển không cân đối.
Bốn là, chất lợng đào tạo nguồn nhân lực, bồi dỡng u đãi
và sử dụng nhân tài, cơ cấu đào tạo còn nhiều bất cập,
thiếu sự thống nhất chung, quy định chung của Nhà nớc.
Tình trạng thừa thầy, thiếu thợ, thiếu công nhân kỹ thuật
phục vụ cho quá trình CNH, HĐH, quá thừa lao động phổ
thông, song lại quá thiếu lao động kỹ thuật, bất cập trong tất
cả các khâu và còn rất nhiều vấn đề bất hợp lý về giáo dục
đào tạo.
Năm là, đời sống của một bộ phận nhân dân còn khó
khăn (nhất là nhân dân các vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ
cách mạng).Khoảng cách đời sống của các tầng lớp nhân dân
trong các vùng, miền, các thành phần, còn quá chênh lệch, sự
phân hoá giàu, nghèo còn khá sâu sắc, khoảng cách lớn.
Nguyên nhân nảy sinh những vấn đề đó có cả những
nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Song về
nguyên nhân chủ quan là do công tác lãnh đạo, chỉ đạo,
điều hành, tổ chức thực hiện của Đảng, Nhà nớc bên cạnh
những mặt làm đợc thì còn không ít hạn chế và non kém.


Quá trình đổi mới và vận dụng quy luật Đảng ta đã
đúc rút đợc những vấn đề có tính chiến lợc, tiếp tục
chỉ đạo đồng bộ công cuộc đổi mới trên lĩnh vực kinh

tế, những vấn đề lớn đó là:
Một là: Nâng cao năng lực của Đảng
Thắng lợi của đờng lối đổi mới, thực hiện CNH, HĐH đất
nớc một lần nữa khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là một tất
yếu khách quan, là nhân tố hàng đầu quyết định sự thành
công của cách mạng Việt Nam.
Trong bối cảnh quốc tế hiện thời, với thắng lợi của 20 năm
đổi mới, giờ đây tiếp tục thực hiện đờng lối đổi mới, đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nớc, chúng ta càng phải giữ vững và tăng
cờng sự lãnh đạo của Đảng, thể hiện ở việc xác định đúng
đắn, phơng hớng, mục tiêu, con đờng, giải pháp đi lên của
đất nớc; lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị và toàn xã hội,
trớc hết là lãnh đạo tổ chức, thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ
đã đề ra. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, công tác xây dựng
Đảng phải đợc coi là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và
cấp bách, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp
cách mạng của dân tộc ta. Đảng phải thực sự trong sạch,
vững mạnh, phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân, xốc lại
mình, đổi mới t duy trong công tác đào tạo, bố trí, sử dụng
cán bộ và tăng cờng giáo dục, rèn luyện, kiểm soát, kiểm tra
chặt chẽ đảng viên, mạnh dạn tin tởng giao những trọng trách
lớn về quản lý kinh tế cho lớp trẻ. Đảng phải thờng xuyên tự
đổi mới, tự chỉnh đốn, kiên định mục tiêu lý tởng, trung


thành thực sự với lợi ích của giai cấp và toàn dân tộc, không
ngừng nâng cao trí tuệ, phẩm chất chính trị, đạo đức của
cán bộ, đảng viên, tạo ra sự thống nhất về quan điểm, ý chí
và hành động trong toàn Đảng; lãnh đạo tổ chức thực hiện,
xây dựng và kiện toàn bộ máy Nhà nớc thc sự trong sạch,

vững mạnh.
Hai là: Xác định rõ vai trò của Nhà nớc.
Chuyển sang nền kinh tế thị trờng luôn gắn với xây
dựng Nhà nớc pháp quyền.... Nhà nớc pháp quyền không chỉ
có ý nghĩa kinh tế là giải phóng mọi LLSX, thúc đẩy kinh tế
thị trờng phát triển và tăng trởng kinh tế, mà nó còn có ý
nghĩa chính trị to lớn ổn định chính trị, ổn định xã hội,
nhờ khả năng thích ứng linh hoạt và tự điều chỉnh lẫn nhau
của các thành viên xã hội trong một khung khổ pháp luật có
hiệu lực.
Song việc ban hành các quy định pháp luật tạo luật
chơi cho kinh tế thị trờng là rất cần thiết, nhng cha đủ để
cho nền kinh tế phát triển. Theo đó cần phải có một bộ máy
hành chính Nhà nớc có hiệu quả.. Tơng tự, xây dựng khung
khổ pháp luật là một quá trình lâu dài, không thể có ngay
qua một đêm đầy đủ các quy định pháp luật. Trong
quá trình hoàn thiện khung khổ pháp luật và bộ máy hành
chính Nhà nớc đó, điều quan trọng là tạo đợc sự tin cậy của
dân và các nhà đầu t một cách bền vững, tạo ra một sự hợp tác
và mối quan hệ tốt đẹp giữa Nhà nớc và nhân dân với t cách là
một mối quan hệ xã hội cơ bản bảo đảm cho sự phát triển.


Ba là,

phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,

theo cơ chế thị tròng định hớng XHCN.
Xuất phát từ đặc điểm trình độ phát triển của LLSX
trong thời kỳ quá độ ở nớc ta còn ở trình độ thấp và phát

triển không đồng đều giữa các ngành, vùng, các thành
phần. Đây chính là đòi hỏi của quy luật kinh tế khách quan.
Xuất phát từ yêu cầu của việc giải phóng và khai thác mọi
tiềm năng của toàn bộ nền kinh tế, nhằm phát triển nhanh
và có hiệu quả nền kinh tế hàng hoá theo định hớng XHCN
và đồng thời nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH
xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH. Vì chúng ta phải khai
thác mọi tiềm năng của toàn bộ nền kinh tế, kinh tế nhà nớc
còn yếu, xuất phát thấp, cốt thực hiện thành công sự nghiệp
CNH, HĐH. Do vậy, ngoài kinh tế nhà nớc, trong các lực lợng xã
hội còn rất nhiều tiềm năng, để huy động

kinh nghiệm,

vốn nếu biết khơi dậy những tiềm năng đó thì nó sẽ tạo
sự phát triển chung của nền kinh tế.
Bản thân phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, nó
còn là điều kiện thực hiện dân chủ hoá về kinh

tế một

cách thực sự, nó là cơ sở để thực hiện dân chủ về các quan
hệ khác.
Thực hiện cơ chế thị trờng nhằm kích thích phát triển
LLSX, và định hớng XHCN, trong đó kinh tế nhà nớc phải
thực sự tự mình lớn mạnh, trởng thành và đóng vai trò định
hớng chung cho nền kinh tế.
Bên cạnh đó phải quan tâm đúng mức, có những giải
pháp cụ thể, chặt chẽ đối với thị trờng bất động sản và đất
đai.



Bốn là: Thúc đẩy công nghiệp hoá và hội nhập toàn cầu.
Sự can thiệp của Nhà nớc đối với quá trình CNH, HĐH là
rất cần thiết, nhng không đợc lấn sân và càng không thể
thay thế đợc thị trờng. Theo đó thị trờng giữ vai trò chủ
yếu trong phân bổ và sử dụng các nguồn lực. Bài học của
quá khứ về kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã làm sáng tỏ
luận điểm này. Nhà nớc cần đóng vai trò đòn bẩy, chất xúc
tác hỗ trợ cho quá trình phát triển công nghiệp. Vì vậy, lý do
quan trọng nhất cho sự can thiệp này chính là cạnh tranh
quốc tế và hội nhập quốc tế về kinh tế, không thể phó mặc
cho thị trờng.
Nhà nớc phải tạo ra môi trờng đầu t thuận lợi, mang tính
cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng cho tất cả các ngành
công nghiệp, đòi hỏi tài năng và nghệ thuật lãnh đạo của
Nhà nớc đối với quá trình phát triển. Chính sách Nhà nớc là
vấn đề rất quan trọng có ý nghĩa quyết định trong quá
trình phát triển đúng định hớng.
Khuyến khích phát triển các giá trị phi thị trờng, đầu t
lớn vào con ngời, hoàn thiện hệ thống an ninh xã hội và phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, quan hệ thị trờng
thông qua tiền tệ còn có mặt tiêu cực nh là mặt trái của nó.
Đó là lẽ tự nhiên, vì chắc chắn không thể có quan hệ trao
đổi ngang giá bình đẳng tuyệt đối. Hơn nữa do bản chất
xã hội của chính con ngời, kết hợp với động lực lợi nhuận,
những mục tiêu ngắn hạn cục bộ, những nhận thức còn có
giới hạn về tự nhiên, xã hội, quan hệ thị trờng có thể huỷ hoại



trở lại, không những mặt tích cực của nó, mà còn cả những
giá trị nhân bản phi thị trờng.
Nhng không phải vì mặt trái đó của kinh tế thị trờng,
để đi đến quyết định cấm đoán, kìm hãm các quan hệ
thị trờng, vì đó là điều không tởng. Mà nếu có ý định
cấm, kìm nó thì mặt tích cực kia của nó tự nhiên sẽ cũng
tiêu vong. Có thể ví giá trị nhân bản phi thị trờng nh là đất
đai. Đất đai đối với con ngời sẽ không có ý nghĩa nữa khi
không trồng đợc cây cối, không thực hiện đợc các hoạt động
sinh sống của ngời. Ngợc lại, phải nhận thức mặt trái đó nh
một tất yếu, nh cái phái sinh, phải chấp nhận và khống chế
nó, chúng là hai mặt đối lập nhau trong một sự thống nhất.
Nh vậy, quan hệ thị trờng là một quan hệ mang tính
biện chứng, nội sinh trong nó, hai mặt đối lập và nhờ hai
mặt đối lập đó mà nó tiến hoá, phát triển. Tuy nhiên, sự đối
lập giữa hai mặt đó, xét trong toàn bộ lịch sử, có xu hớng tới
một sự tối u động làm cho quan hệ thị trờng phát triển từ
những trình độ thấp hơn lên những trình độ cao hơn, cả
về lợng và chất. Khi đó mâu thuẫn cũ đợc giải quyết, đồng
thời sinh thành mâu thuẫn mới, cứ nh vậy, liên tục tiến triển.
Trong bất cứ một cộng đồng nào dù nhỏ, dù lớn, trong bất cứ
một quốc gia, dân tộc nào và trong toàn bộ thế giới, từ cá
nhân con ngời đến cộng đồng ngời lớn hơn đều có những
phản ứng hợp lý để cân bằng chính mình, vợt lên chính
mình để phát triển.

kết luận



Học thuyết hình thái kinh tế xã hội nói chung và quy
luật QHSX phù hợp với trình độ LLSX nói riêng là một trong
những nội dung cơ bản và quan trọng của CNDVLS, nó luôn
là cơ sở, nền tảng để cách mạng vô sản và các đảng cộng
sản vận dụng vào việc xác định con đờng bớc đi của sự
nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội nhất là trong
thời kỳ quá độ từ CNTB nên CNXH.
Đảng cộng sản Việt Nam, Đảng Macxit chân chính ngay
từ khi ra đời đã xác định con đờng của cách mạng Việt Nam
là tiến lên CNXH thông qua giai đoạn TBCN. Mục tiêu chiến lợc
đó hoàn toàn phù hợp với xu thế thời đại và nguyện vọng của
toàn đảng, toàn quân, toàn dân ta. Tuy nhiên để đạt đợc
phải trải qua muôn vàn khó khăn phức tạo cả trong nhận thức
và tổ chức thực tiễn.
Giữa LLSX và QHSX có quan hệ biện chứng thống nhất
với nhau. Nhận thức đầy đủ về sự phù hợp của QHSX với trình
độ LLSX góp phần giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh
của các yếu tố LLSX và QHSX. Chống chủ quan nóng vội,
tuyệt đối hoá vai trò mở đờng của QHSX đối với LLSX, sẽ dẫn
đến những sai lầm nghiêm trọng.
Đổi mới đất nớc toàn diện, trong đó đổi mới t duy lý luận
là một bớc ngoặt đánh dấu sự trởng thành của Đảng ta trong
lãnh đạo cách mạng XHCN. Chúng ta đã khắc phục đợc những
sai lầm trong nhận thức và vận dụng, đã xác định đợc những
hình thức bớc đi phù hợp, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ tích cực
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trong 20 năm đổi mới.




×