Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

BÀI GIẢNG TÌNH HÌNH tội PHẠM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 49 trang )

CHƯƠNG 3
TÌNH HÌNH TỘI PHẠM
1. KHÁI NIỆM TÌNH HÌNH TỘI PHẠM
“Tình hình tội phạm” là một thuật ngữ đặc thù của tội phạm học. Trong các tài liệu
tội phạm học, chúng ta thường nhìn thấy các thuật ngữ: tình hình tội phạm, tình hình
tội phạm về ma túy, tình hình tội phạm về tham nhũng, tình hình tội phạm giết
người...Nghiên cứu về tình hình tội phạm giúp ta hiểu được “bức tranh” toàn cảnh về
tội phạm (hoặc nhóm tội phạm hoặc một tội nào đó trong một không gian, thời gian
nhất định).
Theo cuốn Từ điển tiếng Việt, “tình hình” được hiểu là: “Tổng thể nói chung
những sự kiện, hiện tượng có quan hệ với nhau, diễn ra trong một không gian, thời
gian nào đó cho thấy một tình trạng hoặc xu thế phát triển của sự vật”.1
Nếu xem xét tình hình tội phạm trong xã hội, ta sẽ thấy nó không phải là luôn luôn
ở trạng thái tĩnh mà ngược lại, tùy từng giai đoạn lịch sử, nó có thể ở trạng thái tăng
hoặc giảm với các mức độ khác nhau nghĩa là nó luôn ở xu thế động; Mặt khác, khi
tìm hiểu về tình hình tội phạm, ta sẽ thấy trong đó có nhiều sự kiện có quan hệ với
nhau, ảnh hưởng với nhau ở mức độ nhất định. Ví dụ như: thực trạng của tình hình tội
phạm có liên quan đến việc phản ánh diễn biến của tình hình tội phạm, cơ cấu của tình
hình tội phạm có liên quan mật thiết đến tính chất của tình hình tội phạm. Đồng thời,
nói đến tình hình tội phạm thì bao giờ cũng gắn nó với một không gian cụ thể (địa bàn
cụ thể) và một khoảng thời gian cụ thể vì tội phạm luôn luôn xảy ra trên một địa bàn
cụ thể với khoảng thời gian cụ thể, xác định. Khi xây dựng khái niệm tình hình tội
phạm thì vấn đề quan trọng nhất là phải nêu bật được cốt lõi của nó - đó là xu thế vận
động của tội phạm (mức độ tăng, giảm của nó) trong một không gian, thời gian nhất
định, bên cạnh đó, khái niệm tình hình tội phạm cũng phải thể hiện được các nội dung
hợp thành bao gồm cả những đặc điểm về lượng và chất của tình hình tội phạm (Đặc
điểm về lượng của tình hình tội phạm bao gồm: thực trạng của tình hình tội phạm, diễn
biến của tình hình tội phạm; đặc điểm về chất của tình hình tội phạm bao gồm: cơ cấu
của tình hình tội phạm, tính chất của tình hình tội phạm).
Không nên quan niệm rằng tình hình tội phạm mang tính giai cấp bởi vì không
phải mọi tội phạm trong xã hội phát sinh đều do xung đột quyền lợi giữa các giai cấp


đối kháng - giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. (Ví dụ: tội phạm về ma túy hoặc
tội phạm mua bán phụ nữ phát sinh trong xã hội không có liên quan gì đến vấn đề
xung đột quyền lợi giai cấp; do vậy tình hình tội phạm về ma túy hay tình hình tội
phạm mua bán phụ nữ không thể có tính giai cấp). Trong xã hội có thể có một số tội
phạm nảy sinh do xung đột quyền lợi giai cấp nhưng không phải mọi tội phạm nảy
sinh đều do xung đột quyền lợi giai cấp.
Do đó, khi xây dựng khái niệm về tình hình tội phạm thì khái niệm này phải lột tả
1

Xem Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng năm 2000, tr 996.

56


đúng bản chất của tình hình tội phạm và giúp ta phân biệt rõ ràng giữa tội phạm với
tình hình tội phạm cũng như làm rõ cách nhìn nhận về tình hình tội phạm dưới góc độ
tội phạm học. Từ sự phân tích ở trên, có thể hiểu khái niệm tình hình tội phạm như
sau: Tình hình tội phạm là trạng thái, xu thế vận động của (các) tội phạm (hoặc nhóm
tội phạm hoặc một loại tội phạm) đã xảy ra trong một đơn vị không gian và đơn vị thời
gian nhất định. Tình hình tội phạm được thể hiện thông qua thực trạng, diễn biến, cơ
cấu, tính chất của tình hình tội phạm, trên cơ sở đó giúp cho các cơ quan có thẩm
quyền xây dựng được biện pháp phòng ngừa tội phạm sát hợp với thực tiễn.2
2. CÁC NỘI DUNG CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM
Các nội dung - bộ phận hợp thành của tình hình tội phạm có quan hệ, ảnh hưởng
đến nhau ở mức độ nhất định tạo nên bức tranh tổng thể về tội phạm - tình hình tội
phạm. Các bộ phận hợp thành của tình hình tội phạm bao gồm: Thực trạng của tình
hình tội phạm, diễn biến (động thái) của tình hình tội phạm, cơ cấu của tình hình tội
phạm, tính chất của tình hình tội phạm. Các bộ phận hợp thành này có hai loại:
+ Thông số về lượng của tình hình tội phạm bao gồm: thực trạng và diễn biến của
tình hình tội phạm;

+ Thông số về chất của tình hình tội phạm bao gồm: cơ cấu của tình hình tội phạm,
tính chất của tình hình tội phạm. Trên cơ sở cơ cấu của tình hình tội phạm sẽ cho
chúng ta rút ra những đặc điểm đặc trưng của tình hình tội phạm - tính chất của tình
hình tội phạm.
2.1. Thực trạng của tình hình tội phạm
Thực trạng của tình hình tội phạm là tổng hợp các số liệu về vụ phạm tội đã xảy ra,
số lượng người thực hiện các tội đó và thông số về nạn nhân trên một địa bàn nhất
định và trong khoảng thời gian nhất định.
Khi nghiên cứu về thực trạng của tình hình tội phạm, cần làm sáng tỏ tội phạm rõ,
tội phạm ẩn, chỉ số tội phạm và thông số về nạn nhân.
Để có cái nhìn khách quan và tương đối toàn diện về thực trạng của tình hình tội
phạm, người nghiên cứu trước hết cần phải tìm hiểu về tội phạm rõ và tội phạm ẩn1.
Sở dĩ phải có sự kết hợp này vì không phải mọi tội phạm xảy ra trên thực tế đều bị
phát hiện và xử lí về hình sự. Có khá nhiều tội phạm xảy ra trên thực tế, nhưng do
nhiều nguyên nhân khác nhau nên không bị phát hiện và do vậy không bị xử lí về hình
sự.
2.1.1. Tội phạm rõ
Tội phạm rõ là tội phạm đã xảy ra trên thực tế, đã bị phát hiện và xử lí về hình sự.
2

Khái niệm này có kế thừa và phát triển khái niệm “tình hình tội phạm” của GS.TS Nguyễn Ngọc Hoà, xem GS.
TS Nguyễn Ngọc Hoà, Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Công an nhân dân, HN năm 2006, tr 211.
1

Một số tài liệu tội phạm học ở Việt Nam có sử dụng thuật ngữ “Phần hiện của tình hình tội phạm” hoặc “phần
ẩn của tình hình tội phạm” là chưa chính xác vì qua nghiên cứu khá nhiều tài liệu tội phạm học nước ngoài,
chúng tôi nhận thấy không tồn tại những thuật ngữ này. “Cleared crime” dịch ra tiếng Việt là tội phạm rõ, còn
“dark figure of crime” dịch ra tiếng Việt là tội phạm ẩn thì mới chính xác.

57



Được coi là tội phạm rõ khi có đủ 3 nhân tố:
+ Có người chứng kiến hoặc phát hiện ra tội phạm;
+ Tội phạm đã được tường thuật (tố cáo) với cảnh sát;
+ Cơ quan cảnh sát hoặc cơ quan áp dụng luật khác khẳng định đó là hành vi phạm
luật hình sự.
Thời điểm được coi là tội phạm rõ khá sớm ngay từ khi cơ quan cảnh sát nhận
được tin báo về tội phạm và có sự xác nhận của cơ quan cảnh sát hoặc cơ quan áp
dụng luật khác là hành vi đó vi phạm luật hình sự.
Xác định tội phạm rõ nên dựa trên thông số về số vụ án xảy ra trên thực tế (chứ
không đơn thuần là số vụ án bị đưa ra xét xử trên thực tế), và chỉ khi làm như vậy mới
phản ánh chính xác về thực trạng của tình hình tội phạm. Thông số về số vụ án xảy ra
trên thực tế được lưu trữ ở cơ quan cảnh sát là đầy đủ nhất vì thông thường, khi có tội
phạm xảy ra, người dân thường báo cho cơ quan cảnh sát biết. Và khi xác nhận là có
tội phạm, cơ quan cảnh sát sẽ lập hồ sơ. Thống kê của cơ quan cảnh sát phản ánh đầy
đủ, bao quát hơn số liệu xét xử hình sự của Toà án vì nhân tố quan trọng nhất phản ánh
thực trạng của tình hình tội phạm chính là số vụ án hình sự xảy ra trên thực tế. Bởi vì,
không phải mọi vụ án xảy ra thì các cơ quan chức năng đều truy tìm ra thủ phạm và tất
cả các bị cáo đều bị đưa ra xét xử. Thực tế cho thấy, số vụ án hình sự xảy ra so với số
vụ án hình sự đã tìm ra thủ phạm và bị đưa ra xét xử có độ vênh khá lớn. Con số vụ án
hình sự tìm ra thủ phạm và bị đưa ra xét xử chiếm tỉ lệ thấp hơn nhiều so với con số vụ
án hình sự xảy ra trên thực tế. Do vậy, nếu đánh giá tình hình tội phạm mà chỉ dựa vào
số liệu xét xử của Toà án thì chắc chắn phản ánh không đúng vì thực chất nó chỉ phản
ánh phần nổi của tảng băng chìm. Đó là chưa kể đến số liệu xét xử của toà án về số
vụ, bị cáo sẽ không thể "khớp" về thời gian so với số vụ, bị cáo xảy ra trên thực tế bởi
vì nhiều vụ phạm tội xảy ra một thời gian khá lâu, sau đó người phạm tội mới bị đưa ra
xét xử; hoặc tuy có phát hiện ra thủ phạm nhưng do khách quan, án bị tồn đọng và xét
xử chậm. Ví dụ: vụ cướp tài sản xảy ra vào năm 2002, nhưng mãi đến tận năm 2007
nhóm phạm tội mới bị bắt, bị đưa ra xét xử vào cuối năm 2007 và như vậy, sẽ có trong

số liệu xét xử của năm 2007. Như vậy, đây là vụ án bị xét xử vào năm 2007 chứ không
phải là xảy ra vào năm 2007. Nếu dùng số liệu này làm tội phạm rõ để đánh giá về
thực trạng của tình hình tội cướp xảy ra vào năm 2007 thì sẽ không lô gic nếu như
không muốn nói là phản ánh sai lệch về tình hình tội cướp năm 2007 (bởi vì thực chất
vụ án xảy ra vào năm 2002).
Như vậy, nếu dựa vào số liệu của cơ quan cảnh sát thì việc đánh giá sẽ chính xác
hơn (tuy chỉ là tương đối) vì cho dù chưa đưa vụ án ra xét xử do không bắt được người
phạm tội nhưng cơ quan cảnh sát vẫn có được số liệu về vụ phạm tội xảy ra (trong khi
đó, số liệu này không có trong thống kê của Toà án). Và như vậy số liệu của cơ quan
cảnh sát mới phản ánh được chính xác về thực trạng của tình hình tội phạm; Còn nếu
dựa vào số liệu tội phạm bị phát hiện và bị xét xử về hình sự, có trong thống kê hình
sự của Toà án) thì thực chất số liệu này đã bỏ bớt một phần đáng kể số vụ án có thật
58


trên thực tế nghĩa là số liệu này chỉ phản ánh được phần nào thực trạng của tình hình
tội phạm. Tuy nhiên cũng cần lưu ý là số liệu của cơ quan cảnh sát vẫn có hạn chế. Đó
là trong một số ít trường hợp, có một số cá nhân bị cơ quan cảnh sát xác định là có tội,
nhưng sau đó kết luận của Toà án lại khẳng định họ vô tội hoặc họ phạm tội khác,
không phải là tội phạm theo kết luận của cơ quan cảnh sát. Và ở đây đã có sự sai số về
người phạm tội, hoặc số tội phạm thực hiện (nhưng thực tế cho thấy, sự sai số này là
không đáng kể). Nhưng cho dù có thể có sự sai số về người phạm tội trong một số ít
trường hợp thì so với số liệu của Toà án, số liệu thống kê của cơ quan Cảnh sát vẫn
đầy đủ hơn vì nó bao hàm cả những vụ có thật xảy ra trên thực tế nhưng chưa truy tìm
ra thủ phạm và do vậy chưa bị đưa ra xét xử; hoặc những vụ người phạm tội tuy có tội
những sau đó được Viện Kiểm sát xác định miễn trách nhiệm hình sự.
Mặc dù số liệu xét xử của Toà án có hạn chế nhất định như đã phân tích ở trên,
nhưng khi đánh giá về thực trạng của tình hình tội phạm vẫn cần tham khảo số liệu này
để thấy rõ sự chênh lệch về số vụ án xảy ra trên thực tế và số vụ án bị đưa ra xét xử
hình sự. Từ đó, cơ quan chức năng sẽ đánh giá về hiệu quả hoạt động của mình để có

những cải cách cần thiết thúc đẩy công tác phát hiện tội phạm cũng như hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử có hiệu quả. Qua nghiên cứu tài liệu tội phạm học nước ngoài, tác
giả nhận thấy, các tài liệu này đều sử dụng số liệu của cơ quan Cảnh sát để minh
chứng về tội phạm rõ.1 Ví dụ, theo GS. TS. Jock Yong2, “có 4 nguồn thông tin là cơ sở
để xác định tội phạm trong xã hội. Đó là:
+ Số liệu từ cơ quan cảnh sát;
+ Số liệu từ cuộc điều tra nạn nhân của tội phạm;
+ Số liệu từ cuộc điều tra về tội phạm tự tường thuật;
+ Các số liệu khác (ví dụ số liệu về các nạn nhân của vụ tai nạn giao thông được
điều trị tại bệnh viện)”.
Trong các nguồn trên thì số liệu của cơ quan cảnh sát được sử dụng để minh chứng
về tội phạm rõ. Ba nguồn còn lại dùng để xác định tội phạm ẩn.
Còn theo GS.TS. Frank Schmalleger, “số liệu về tội phạm ở Mỹ được xác định trên
cơ sở 2 nguồn:
+ Số liệu từ Cục điều tra liên bang Mỹ (FBI).
+ Số liệu từ Cục thống kê tư pháp.” 1
Số liệu của Cục điều tra liên bang Mỹ được sử dùng để minh chứng về tội phạm
rõ. Còn Cục thống kê tư pháp sẽ tiến hành cuộc điều tra quốc gia về nạn nhân của tội
phạm hàng năm để xác định tội phạm ẩn.
Từ sự phân tích ở trên, tác giả cho rằng nên thay đổi quan điểm coi số liệu từ toà
1

Trong các tài liệu tội phạm học nước ngoài, số liệu của Toà án thường dùng để đánh giá “chỉ số tái phạm” đánh giá về tỉ lệ người phạm tội bị kết án tù với số người sau khi mãn hạn tù lại tiếp tục phạm tội
2
Xem Bài giảng “Extend of Crime”của GS.TS Jock Young trên trang Web:
www.malcolmread.co.ukJockYoungthe_extent_of_crime.pdf ngày 21/8/2009. GS.TS Jock Young là học giả
người Anh nổi tiếng trên thế giới về tội phạm học, xã hội học.
1
Xem sách “Criminology Today” của GS.TS. Frank schmalleger, Prentice Hall Publisher, 2002, trang 36.


59


án làm căn cứ để mô tả tội phạm rõ, chúng ta nên lấy số liệu của cơ quan cảnh sát thì
hợp lí hơn, phù hợp hơn với xu thế các nước vẫn sử dụng để xác định tội phạm rõ.
2.1.2. Tội phạm ẩn
Thuật ngữ tội phạm ẩn do Adolphe Quetelet, nhà thiên văn học, toán học, xã hội
học của Bỉ đưa ra lần đầu tiên vào năm 1830 (Adolphe Quetelet còn là nhà sáng lập ra
khoa học thống kê hiện đại). Chính Adolphe Quetelet là người đầu tiên đã đưa ra
thuật ngữ “dark figure of crime” và là người dày công nghiên cứu về tội phạm ẩn cũng
như vấn đề thống kê tội phạm. Nghiên cứu về thực trạng của tình hình tội phạm không
chỉ dựa vào con số về tội phạm rõ mà còn phải dựa vào việc đánh giá về tội phạm ẩn
bởi vì số liệu tội phạm rõ chỉ phản ánh được phần nào tình hình tội phạm. Theo
GS.TS. Tymothy Mason, số lượng tội phạm ẩn lớn hơn 6 đến 10 lần tội phạm rõ1. Còn
theo cuộc điều tra về tội phạm ẩn ở Anh tiến hành năm 2000, tội phạm ẩn chiếm
khoảng 70% tổng số vụ phạm tội.2 Điều này có nghĩa là số lượng tội phạm “nằm trong
bóng tối” không bị trừng trị bởi pháp luật chiếm tỉ lệ đáng kể trong tổng số tội phạm.
Khái niệm tội phạm ẩn
Qua nghiên cứu tài liệu tội phạm học nước ngoài, tác giả nhận thấy nhìn chung,
các tài liệu này có quan điểm này giống nhau khi quan niệm về tội phạm ẩn. Cụ thể
như sau: “Tội phạm ẩn là những tội phạm có thực nhưng không được tường thuật với
cảnh sát.”3
“Tội phạm ẩn là thuật ngữ được đưa ra bởi các nhà tội phạm học và xã hội học mô
tả số lượng tội phạm không được tường thuật hoặc không bị phát hiện và nó trả lời
cho câu hỏi về độ tin cậy của thống kê tội phạm chính thức.”1
“Tội phạm ẩn là số lượng lớn tội phạm không được tường thuật với cảnh sát và
không có trong thống kê hình sự chính thức.”2
Như vậy, có thể thấy rõ các quan niệm về tội phạm ẩn của tội phạm học nước
ngoài đã nhấn mạnh tới hai đặc tính của nó. Đó là:
+ Chưa được tường thuật hoặc chưa bị phát hiện;

+ Không có trong thống kê hình sự chính thức.
Chúng tôi cho rằng tội phạm ẩn cần được hiểu như sau: Tội phạm ẩn là số lượng
tội phạm đã thực hiện trên thực tế nhưng không được tường thuật với cơ quan có thẩm
quyền hoặc chưa bị phát hiện (một cách chính thức) và do vậy chưa bị đưa ra xét xử,
1

Xem Baì giảng “Official statistics & the dark figure” của Giáo sư Timothy Mason, Paris University, trên trang
Web iance 2-official statistics & the dark figure.htm ngày 9/5/2006
2
Xem Bài giảng “Extend of Crime”của GS.TS Jock Young trên trang Web:
www.malcolmread.co.ukJockYoungthe_extent_of_crime.pdf ngày 21/8/2009 Hoặc Xem Bài viết “The Dark
Figure of British Crime” đăng trên Tạp chí CITY JOURNAL, Spring 2009, Bài viết này được đăng tải trên
trang Web www.berlinski.com/node/116
3
Xem Baì giảng của Giáo sư Timothy Mason, Paris University, Official statistics & the dark figure, trên trang
Web iance 2 - official statistics & the dark figure.htm ngày 9/5/2006
1
Xem Dark figure of crime –Wikipedia, the free encyclopedia ngày 9/5/2006
2
Xem Criminology Today của GS.TS Frank Schmalleger, The University of North Carolina at Pembroke,
Prentice Hall Publisher, năm 2002, tr 61.

60


chưa có trong thống kê hình sự chính thức.
Phân loại tội phạm ẩn
Có 2 loại tội phạm ẩn. Đó là tội phạm ẩn khách quan và tội phạm ẩn chủ quan.
Tội phạm ẩn khách quan là trường hợp tội phạm đã xảy ra trên thực tế, nhưng do
nguyên nhân khách quan, cơ quan chức năng không phát hiện ra vụ phạm tội - không

có thông tin về vụ án (ví dụ: nạn nhân đã bị giết chết trong rừng và người phạm tội đã
che giấu bằng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt và không có người chứng kiến vụ việc).
Tội phạm ẩn chủ quan là trường hợp tội phạm đã xảy ra trên thực tế, cán bộ hoặc
cơ quan chức năng đã nắm được vụ việc nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau mà
vụ án không được thụ lí, xử lí hình sự và do đó không có trong số liệu thống kê (ví dụ:
cán bộ điều tra đã được người dân báo về vụ phạm tội nhưng do nhận hối lộ của người
phạm tội nên cơ quan điều tra chỉ lập hồ sơ xử lí hành chính; hoặc cán bộ điều tra đã
được người dân báo về vụ phạm tội nhưng vì quen biết người phạm tội nên không lập
hồ sơ xử lí hình sự mà lại đứng ra làm trung gian xúc tiến việc bồi thường của người
phạm tội đối với nạn nhân...)
Có ý kiến cho rằng ngoài 2 loại tội phạm ẩn nói trên, còn có loại tội phạm ẩn thứ
ba. Đó là tội phạm ẩn thống kê. Tác giả cho rằng tội phạm ẩn thống kê thực chất vẫn là
tội phạm rõ vì khi đã đưa ra xét xử rồi thì đương nhiên phải là tội phạm rõ (trường hợp
này gọi là sai số thống kê), còn việc thông số về vụ án không có trong số liệu thống kê
chính thức của Toà án là do nhiều nguyên nhân khác nhau. Xin nêu một số nguyên
nhân:
+ Kĩ thuật thống kê còn hạn chế (ví dụ: Nếu vụ án bị xét xử về nhiều tội thì thống
kê ở nước ta hiện nay chỉ thống kê số liệu về tội nặng nhất trong vụ án);
+ Do bệnh thành tích nên có địa phương không đưa một số vụ án vào số liệu thống
kê.
+ Do sai sót của cán bộ thống kê (ví dụ như trình độ chuyên môn hạn chế nên cán
bộ thống kê thiếu, không đầy đủ).
Nguyên nhân dẫn tới tội phạm ẩn
Có nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng có thể chia làm 4 nhóm:
+ Nguyên nhân từ phía nạn nhân của tội phạm. Nạn nhân không tố cáo về vụ
phạm tội có thể là do:
 Bị người phạm tội (hoặc người nhà người phạm tội) đe dọa;
 Không tin tưởng vào cơ quan bảo vệ pháp luật;



Sợ phiền hà hoặc sợ công khai bí mật đời tư ...

+ Nguyên nhân từ phía người phạm tội. Người phạm tội thực hiện tội phạm bằng
thủ đoạn quá tinh vi xảo quyệt, hoặc người phạm tội đã đe dọa nạn nhân, người làm
chứng hoặc người phạm tội đã đưa hối lộ...
+ Nguyên nhân từ phía cơ quan chức năng như thái độ thiếu tinh thần trách nhiệm,
61


cán bộ có hành vi nhận hối lộ để không xử lí vụ việc hoặc do nể nang, quen biết nên
bao che không xử lí vụ việc...
+ Nguyên nhân từ phía người làm chứng. Người làm chứng không dám tố cáo
hoặc đứng ra làm chứng vụ việc do nhiều nguyên nhân khác nhau như: sợ bị trả thù, sợ
liên lụy khó khăn cho bản thân, quen biết hoặc là người thân của người phạm tội...
Phương pháp xác định tội phạm ẩn
Để xác định tội phạm ẩn, các nhà tội phạm học trên thế giới thường tiến hành hai
phương pháp điều tra cơ bản sau đây:
+ Điều tra về tội phạm tự tường thuật (offender self-report surveys). Để tiến hành
các cuộc điều tra loại này, các nhà nghiên cứu phải cam kết giữ bí mật danh tính của
người tham gia tự tường thuật về tội phạm đã thực hiện, đảm bảo để họ không phải lo
lắng về sự tiết lộ thông tin với người tiến hành điều tra cũng như không sợ hãi sẽ bị bắt
giữ và bị xử lí về hình sự do đã thực hiện tội phạm.
Đối tượng mà các nhà nghiên cứu hướng tới là những người trẻ tuổi. Kết quả thu
được từ Điều tra về tội phạm tự tường thuật cho thấy số tội phạm xảy ra trên thực tế
cao hơn rất nhiều so với số tội phạm có trong thống kê chính thức. Tuy nhiên, phương
pháp này cũng có một số hạn chế. Cụ thể là do đối tượng được nghiên cứu thường
nhằm vào người trẻ tuổi - diện nghiên cứu còn chưa rộng và sự tự tường thuật của một
số người có thể không trung thực hoặc do tội phạm xảy ra đã lâu so với thời điểm tự
tường thuật, do vậy, có thể đưa tới kết quả nghiên cứu chỉ mang tính chính xác tương
đối.

+ Điều tra về nạn nhân của tội phạm (the victimization survey).
Với loại điều tra này, nhà nghiên cứu cũng phải cam kết giữ bí mật danh tính của
nạn nhân tham gia tự tường thuật bởi vì sự tiết lộ danh tính của họ trong nhiều trường
hợp có thể gây bất lợi cho nạn nhân (nhất là đối với nạn nhân của nhóm tội xâm phạm
tình dục, tội phạm bạo lực gia đình). Điều cần chú ý là việc thiết kế mẫu điều tra về
nạn nhân của tội phạm phải khác với mẫu điều tra về tội phạm tự tường thuật vì đây là
những đối tượng nghiên cứu khác nhau. Hạn chế của phương pháp này là không phải
nạn nhân nào cũng tường thuật đúng sự thật do e ngại bị ảnh hưởng đến đời sống riêng
tư hoặc do thái độ bất hợp tác... Mặt khác, diện nghiên cứu của phương pháp này có
thể không bao quát được hết tất cả các nạn nhân của tội phạm, do vậy kết quả nghiên
cứu theo phương pháp này cũng chỉ có tính chính xác tương đối. Bên cạnh đó còn có
một số tội phạm không có nạn nhân, do vậy, trường hợp này không thể tiến hành
phương pháp Điều tra về nạn nhân của tội phạm.
Ngoài hai phương pháp trên, để xác định tội phạm ẩn còn có thể dựa vào một số
nguồn khác như: số liệu từ bệnh viện, trạm y tế để xác định tội phạm ẩn đối với một số
tội như tội phạm giao thông, tội cố ý gây thương tích. Số liệu từ các trung tâm tư vấn,
trợ giúp pháp lí, trung tâm hỗ trợ nạn nhân, nhà tạm lánh để xác định tội phạm ẩn đối
với một số tội như nhóm tội phạm tình dục, tội phạm bạo lực gia đình...

62


2.1.3. Chỉ số tội phạm1
Chỉ số tội phạm được xác định để tìm hiểu mức độ phổ biến tội phạm trong dân cư.
Khi đánh giá thực trạng của tình hình tội phạm không thể bỏ qua chỉ số tội phạm, nhất
là khi đánh giá thực trạng của tình hình tội phạm qua các khoảng thời gian khác nhau
trên một địa bàn hoặc ở các địa bàn khác nhau trong cùng khoảng thời gian nhất định.
Chỉ số tội phạm được tính theo tỉ lệ số người phạm tội (hoặc vụ phạm tội) trên
100.000 người dân (hoặc 10.000 dân). Cần lưu ý là chỉ số tội phạm luôn được xác định
gắn liền với một địa bàn nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định. Ví dụ số

vụ phạm tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh N là 548 vụ trong năm 2007. Dân cư của
tỉnh N năm 2007 là 525.000 người. Do đó, chỉ số tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh N
năm 2007 sẽ là: (548x 100.000) : 525.000 = 104,3
2.1.4. Thông số về nạn nhân1
Thông số về nạn nhân đóng vai trò quan trọng trong việc mô tả thực trạng của tình
hình tội phạm. Để làm sáng tỏ thông số về nạn nhân cần làm rõ các vấn đề sau đây:
+ Số lượng nạn nhân;
+ Thông tin về đặc điểm nhân thân của nạn nhân;
+ Thiệt hại mà nạn nhân phải gánh chịu như thiệt hại về thể chất, vật chất, tâm lí;
+ Tình huống trở thành nạn nhân.
Những thông tin này rất quan trọng đối với cơ quan hoạch định chính sách phòng
ngừa nhằm giúp các cơ quan này đưa ra những giải pháp phù hợp với thực tế cũng như
phải có biện pháp cảnh báo người dân để họ chủ động phòng tránh không trở thành
nạn nhân của tội phạm.
2.2. Diễn biến (động thái) của tình hình tội phạm
Trên cơ sở những số liệu về thực trạng của tình hình tội phạm, người nghiên cứu sẽ
đánh giá được diễn biến của tình hình tội phạm.
Diễn biến của tình hình tội phạm là sự phản ánh xu hướng tăng, giảm hoặc ổn định
tương đối của tội phạm nói chung (hoặc một tội hoặc nhóm tội phạm) xảy ra trong
khoảng thời gian nhất định và trên một địa bàn nhất định.
Nghiên cứu diễn biến của tình hình tội phạm có ý nghĩa quan trọng, nó không chỉ
giúp cho nhận diện “bức tranh” về tội phạm – tình hình tội phạm được rõ nét mà nó
còn giúp cho việc dự đoán (tuy chỉ là tương đối) xu hướng vận động của tội phạm
trong thời gian tiếp theo, từ đó giúp cho việc xây dựng biện pháp phòng ngừa tội phạm
của cơ quan chức năng sát với thực tiễn. Diễn biến của tình hình tội phạm có thể là
diễn biến của tình hình tội phạm nói chung, diễn biến của tình hình tội phạm một
nhóm tội cụ thể hoặc một tội phạm cụ thể nào đó.
1

Một số tài liệu tội phạm học ở Việt Nam gọi là hệ số của tình hình tội phạm là không chính xác vì trong tiếng

Anh, thuật ngữ này là "Crime Index". Do đó phải dịch là "chỉ số tội phạm" mới chính xác.
1

Thông số về nạn nhân chỉ đặt ra khi nghiên cứu về thực trạng của tình hình tội phạm đối với
những tội có nạn nhân.

63


Diễn biến của tình hình tội phạm có thể bị thay đổi do tác động của hai loại yếu tố:
+ Các yếu tố xã hội như: sự tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế, vấn đề di
dân, sự gia tăng dân số ở các thành phố lớn, sự chênh lệch về mức sống của người
dân...
+ Sự thay đổi về mặt pháp lí trong đó, sự thay đổi của pháp luật hình sự trong việc
mở rộng hoặc thu hẹp tội phạm cũng như biện pháp xử lí hình sự cũng ảnh hưởng đáng
kể đến xu hướng vận động của tội phạm.
Việc đánh giá diễn biến của tình hình tội phạm có thể đặt ra trong khoảng thời gian
ngắn hay dài phụ thuộc vào mục đích, nhiệm vụ của người nghiên cứu. Trên thực tế,
việc nghiên cứu diễn biến của tình hình tội phạm thường đặt ra trong khoảng thời gian
5 năm (hoặc 10 năm) vì đây là khoảng thời gian tương đối dài, ổn định nên nhận định
về nó có độ chính xác tương đối cao. Nghiên cứu diễn biến của tình hình tội phạm
trong thời gian dài sẽ giúp cho việc tìm ra được qui luật vận động của tội phạm. Để tìm
ra qui luật này, trước tiên, người nghiên cứu sẽ chọn năm thứ nhất của đơn vị thời gian
nghiên cứu là năm gốc và số liệu liên quan đến số vụ án và người phạm tội xảy ra
trong năm này là số liệu gốc (coi là 100%), sau đó sẽ lấy số liệu của các năm tiếp theo
đối chiếu với số liệu gốc để tìm ra xu thế tăng hay giảm của năm tiếp theo (tính theo tỉ
lệ %).
Các con số phản ánh diễn biến của tình hình tội phạm cần được thực hiện trên các
bảng thống kê và sau đó cần được biểu đạt bằng đồ thị. Với đồ thị, diễn biến của tình
hình tội phạm sẽ được thể hiện sinh động, rõ nét làm cho người đọc có thể nhận biết

được ngay xu hướng tăng hay giảm của tình hình tội phạm trong quãng thời gian nhất
định. Ví dụ: số vụ cướp tài sản xảy ra trên địa bàn tỉnh A từ năm 2000 đến năm 2005
như sau:
Năm
2000

Số vụ

Tăng

(36)= (100%)

2001

53

47,22 %

2002

59

63,8%

2003

63

75%


2004

55

52,7%

2005

48

33,3%

Với bảng dữ liệu trên ta có thể minh họa bằng đồ thị bên dưới và có thể thấy tội cướp
tài sản gia tăng từ năm 2000 đến năm 2003, tăng cao nhất vào năm 2003, sau đó giảm
dần trong hai năm tiếp theo là 2004 và 2005.

64


70
60

53

59

63
55
48


50
40
30
20
10
0
2001

2002

2003

2004

2005

2.3. Cơ cấu và tính chất của tình hình tội phạm
Cơ cấu và tính chất của tình hình tội phạm là những đặc điểm về chất của tình hình
tội phạm. Giữa cơ cấu và tính chất của tình hình tội phạm có quan hệ mật thiết với
nhau. 1 Trên cơ sở tìm hiểu về cơ cấu của tình hình tội phạm theo những tiêu chí khác
nhau (như tiêu chí về hình thức phạm tội, tiêu chí về nhóm tội, tiêu chí về nhân thân
người phạm tội...), người nghiên cứu có thể rút ra những đặc điểm đặc trưng, có tính
nổi bật của tình hình tội phạm và những đặc điểm này được gọi là tính chất của tình
hình tội phạm. Việc đánh giá tính chất của tình hình tội phạm có ý nghĩa vô cùng quan
trọng trong việc xây dựng các biện pháp phòng ngừa tội phạm. Các biện pháp phòng
ngừa không những phải xuất phát từ các nguyên nhân của tội phạm mà còn phải bám
sát vào các đặc trưng của tình hình tội phạm- tính chất của tình hình tội phạm. Có như
vậy, giải pháp phòng ngừa mới có tính khả thi, hiệu quả vì nó sát hợp với thực tiễn.
Nghiên cứu cơ cấu của tình hình tội phạm thực chất là tìm hiểu nội dung bên trong
của tình hình tội phạm, tìm ra những điểm riêng biệt của nó. Cơ cấu của tình hình tội

phạm là tỉ trọng, mối tương quan giữa nhân tố bộ phận và tổng thể của tình hình tội
phạm trong khoảng thời gian nhất định và trên địa bàn nhất định. Tùy theo mục đích
nghiên cứu mà người nghiên cứu có thể xác định nhân tố bộ phận cũng như tổng thể là
gì để từ đó tìm ra tỷ trọng cũng như mối tương quan tương ứng. Cũng trên cơ sở mục
đích nghiên cứu, người nghiên cứu có thể lựa chọn, sắp xếp theo trình tự nhất định các
loại cơ cấu của tình hình tội phạm. Cơ cấu của tình hình tội phạm có thể được xác định
theo những tiêu chí sau:
+ Cơ cấu của tình hình tội phạm theo tên chương các tội phạm cụ thể của Bộ luật
hình sự. Trường hợp này cơ cấu sẽ được tính theo tỷ trọng giữa các tội của từng
chương đã xảy ra (nhân tố bộ phận) với tổng số các tội phạm đã xảy ra (tổng thể). Loại
cơ cấu này thường được xác định khi nghiên cứu tình hình tội phạm nói chung.
+ Cơ cấu của tình hình tội phạm theo tội danh cụ thể của Bộ luật hình sự. Loại cơ
cấu này thường được xác định khi nghiên cứu tình hình tội phạm của nhóm tội nào đó.
1

Hiện nay, một số công trình nghiên cứu về tội phạm học thường trình bày cơ cấu của tình hình tội phạm hoàn
toàn độc lập, tách rời với tính chất của tình hình tội phạm là chưa hợp lí vì như vậy là không thấy được mối liên
hệ giữa hai yếu tố này cũng như vai trò của chúng trong việc hoạch định các biện pháp phòng ngừa tội phạm.

65


Ví dụ khi nghiên cứu về nhóm tội phạm về ma túy thì người nghiên cứu sẽ tìm hiểu tỉ
trọng giữa từng loại tội phạm về ma túy (bộ phận) so với tổng số các tội về ma túy
(tổng thể) như thế nào. Cụ thể là tội mua bán trái phép chất ma túy chiếm bao nhiêu %
trong tổng số các tội phạm về ma túy. Tương tự, tội tàng trữ, vận chuyển, chiếm đoạt
chất ma túy...chiếm bao nhiêu % trong tổng số các tội phạm về ma túy. Từ đó tìm ra
tội nào hoặc một số tội nào đó thực sự là nổi cộm nhất để từ đó định hướng, tập trung
tìm ra nguyên nhân của tội phạm cũng như biện pháp phòng ngừa đối với tội đó (hoặc
một số tội đó).

+ Cơ cấu của tình hình tội phạm theo phân loại tội phạm - tội ít nghiêm trọng, tội
nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng (Điều 8 khoản 3 BLHS).
Theo cơ cấu này phải xác định tội ít nghiêm trọng (bộ phận) chiếm tỉ lệ bao nhiêu %
trong tổng số các 4 loại tội phạm nói trên (tổng thể). Tương tự, tội nghiêm trọng, tội
rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng chiếm tỉ lệ bao nhiêu % trong tổng số các
loại tội phạm. Bên cạnh đó cũng cần tìm hiểu số người phạm từng loại tội nói trên
chiếm tỉ lệ như thế nào trong tổng số người phạm 4 loại tội đó. Loại cơ cấu này được
xác định khi nghiên cứu tình hình tội phạm nói chung hoặc tình hình tội phạm của
nhóm tội hoặc một tội danh cụ thể nào đó (trường hợp tình hình tội phạm của một tội
danh cụ thể nào đó phải là trường hợp điều luật có nhiều khung hình phạt).
+ Cơ cấu của tình hình tội phạm theo hình thức lỗi. Theo loại cơ cấu này, người
nghiên cứu sẽ xác định loại tội phạm cố ý, vô ý xảy ra chiếm tỉ lệ bao nhiêu % trong
tổng số tội phạm xảy ra; cũng như số người phạm tội cố ý hoặc vô ý chiếm tỉ lệ bao
nhiêu % trong tổng số người phạm tội của các tội với các hình thức lỗi khác nhau. Loại
cơ cấu này thường được xác định khi nghiên cứu tình hình tội phạm nói chung hoặc
tình hình tội phạm của một nhóm tội nào đó.
+ Cơ cấu của tình hình tội phạm theo hình thức phạm tội. Theo loại cơ cấu này,
người nghiên cứu sẽ xác định tội phạm xảy ra dưới hình thức đồng phạm, đơn lẻ và
nhất là phạm tội có tổ chức chiếm tỉ lệ bao nhiêu % trong tổng số tội phạm xảy ra.
Loại cơ cấu này được xác định khi nghiên cứu tình hình tội phạm nói chung hoặc tình
hình tội phạm của nhóm tội hoặc một tội danh cụ thể nào đó. Tuy nhiên, trên thực tế,
số liệu thống kê chính thức thường không thống kê hình thức phạm tội của tội phạm.
Do vậy, người nghiên cứu cần tiến hành phương pháp nghiên cứu mẫu để xác định (dù
độ chính xác chỉ là tương đối) tội phạm xảy ra dưới hình thức đồng phạm, phạm tội có
tổ chức hoặc phạm tội dưới hình thức đơn lẻ chiếm tỉ lệ bao nhiêu % trong tổng số tội
phạm xảy ra.
+ Cơ cấu của tình hình tội phạm theo địa bàn phạm tội. Theo loại cơ cấu này,
người nghiên cứu sẽ xác định tội phạm xảy ra ở thành phố lớn, tội phạm xảy ra ở nông
thôn chiếm tỉ lệ bao nhiêu % trong tổng số tội phạm xảy ra trên thực tế; hoặc người
nghiên cứu có thể xác định tội phạm xảy ra trong từng huyện chiếm tỉ lệ bao nhiêu %

trong tổng số tội phạm xảy ra trên toàn bộ đơn vị tỉnh; hoặc người nghiên cứu có thể
xác định tội phạm xảy ra trong từng tỉnh chiếm tỉ lệ bao nhiêu % trong tổng số tội
phạm xảy ra trên toàn quốc. Loại cơ cấu này được xác định khi nghiên cứu tình hình
66


tội phạm nói chung hoặc tình hình tội phạm của nhóm tội hoặc một tội danh cụ thể nào
đó.
+ Cơ cấu của tình hình tội phạm theo loại hình phạt áp dụng cho người phạm tội.
Theo loại cơ cấu này, người nghiên cứu sẽ xác định từng loại hình phạt được áp dụng
chiếm tỉ lệ bao nhiêu % trong tổng số hình phạt được áp dụng. Loại cơ cấu này được
xác định khi nghiên cứu tình hình tội phạm nói chung hoặc tình hình tội phạm của
nhóm tội hoặc một tội danh cụ thể nào đó.
+ Cơ cấu của tình hình tội phạm theo dạng thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Theo loại cơ cấu này, người nghiên cứu sẽ xác định thiệt hại về thể chất, thiệt hại về
tài sản chiếm tỉ lệ bao nhiêu % trong tổng số các vụ án đã xảy ra. Loại cơ cấu này
thường được xác định khi nghiên cứu tình hình tội phạm nói chung.
+ Cơ cấu của tình hình tội phạm theo đặc điểm về nhân thân của người bị kết án.
Những đặc điểm về nhân thân người bị kết án thường được sử dụng để xác định cơ cấu
là: tuổi, giới tính, dân tộc, có nghề nghiệp hay thất nghiệp, tái phạm hay tái phạm nguy
hiểm, trình độ văn hoá...Ví dụ: người nghiên cứu sẽ xác định nam giới phạm tội chiếm
tỉ lệ bao nhiêu % trong tổng số người phạm tội. Loại cơ cấu này thường được xác định
khi nghiên cứu tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội phạm của nhóm tội hoặc
một tội danh cụ thể nào đó.
+ Cơ cấu của tình hình tội phạm theo loại động cơ phạm tội. Ví dụ: người nghiên
cứu sẽ xác định phạm tội vì động cơ đê hèn chiếm tỉ lệ bao nhiêu % trong tổng số các
vụ phạm tội giết người. Loại cơ cấu này thường được xác định khi nghiên cứu tình
hình tội phạm của nhóm tội hoặc một tội danh cụ thể nào đó.
+ Cơ cấu của tình hình tội phạm theo đặc điểm của công cụ, phương tiện phạm tội,
thời gian phạm tội. Ví dụ: người nghiên cứu sẽ xác định số vụ cướp tài sản vào ban

ngày, số vụ cướp tài sản vào ban đêm chiếm tỉ lệ bao nhiêu % trong tổng số vụ cướp
xảy ra. Loại cơ cấu này thường được xác định khi nghiên cứu tình hình tội phạm của
một tội danh cụ thể nào đó.
+ Cơ cấu của tình hình tội phạm theo đặc điểm mối quan hệ của nạn nhân với
người phạm tội. Ví dụ: người nghiên cứu sẽ xác định số vụ phạm tội mà giữa nạn nhân
và người phạm tội có quan hệ gia đình, họ hàng (hoặc là quan hệ xóm giềng, hoặc là
quan hệ đồng nghiệp hoặc là không quen biết) chiếm tỉ lệ bao nhiêu % trong tổng số
tội phạm xảy ra. Loại cơ cấu này thường được xác định khi nghiên cứu tình hình tội
phạm của một tội danh cụ thể nào đó.
Để biểu đạt cơ cấu của tình hình tội phạm được sinh động, rõ nét, người nghiên
cứu nên sử dụng các bảng thống kê và đặc biệt là biểu đồ thống kê phù hợp. Điều này
sẽ giúp cho người đọc dễ dàng nhận biết được cơ cấu của tình hình tội phạm theo từng
tiêu chí đánh giá. Ví dụ: qua tìm hiểu về loại tài sản bị chiếm đoạt của tội cướp tài sản
trên địa bàn tỉnh H thì thống kê được như sau: tiền Việt Nam, ngoại tệ chiếm tỉ lệ
(56%); tiếp đó là vàng chiếm tỉ lệ là 23%, cuối cùng là loại tài sản khác như máy tính
cá nhân, điện thoại di động… chiếm tỉ lệ thấp nhất là 21%. Trên cơ sở dữ liệu trên thì
67


ta có biểu đồ sau:
Biểu đồ 1: Cơ cấu của tình hình tội cướp tài sản theo tài sản bị chiếm đoạt
trên địa bàn tỉnh H
tiền, nữ trang

20%
46%

Xe máy 39%

11%

Điện thoại DĐ

23%
Tài sản khác

Tính chất của tình hình tội phạm được làm sáng tỏ sau khi đã có sự nghiên cứu cơ
cấu của tình hình tội phạm. Chỉ khi cơ cấu của tình hình tội phạm được nghiên cứu
một cách kĩ lưỡng theo các tiêu chí khác nhau thì tính chất của tình hình tội phạm càng
định hình rõ nét, “bức tranh’ về tội phạm càng được sáng tỏ.
Tính chất của tình hình tội phạm phản ánh những đặc điểm đặc trưng, nổi bật nhất
trong cơ cấu của tình hình tội phạm. Trên cơ sở đó, cơ quan có thẩm quyền sẽ có định
hướng tập trung trong việc tìm ra nguyên nhân của tội phạm cũng như có giải pháp
phòng ngừa tội phạm sát hợp với thực tế, khắc phục tình trạng biện pháp phòng ngừa
quá phân tán, tràn lan nên không thể giải quyết hiệu quả, dứt điểm vấn đề tội phạm;
việc tìm ra nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa thường tập trung vào nhóm tội (hoặc
tội) với những đặc trưng phổ biến nhất, nguy hiểm nhất thể hiện trong tính chất của
tình hình tội phạm. Ví dụ qua tìm hiểu cơ cấu của tình hình tội phạm về ma túy (trên
địa bàn tỉnh X) theo hình thức phạm tội, người nghiên cứu sẽ phát hiện được tội phạm
được thực hiện dưới hình thức đồng phạm chiếm tỉ lệ 75%, tội phạm thực hiện dưới
hình thức đơn lẻ là 25%, từ đó rút ra tính chất của tình hình tội phạm về ma túy là
được đặc trưng bởi hình thức đồng phạm, từ đó, giải pháp phòng ngừa cũng phải tập
trung vào việc phòng ngừa đối với các băng nhóm phạm tội về ma túy./.
.

CÂU HỎI ÔN TẬP:
Câu 1: Phân tích khái niệm tình hình tội phạm.
Câu 2: Phân tích các nội dung của tình hình tội phạm.
Câu 3: Phân biệt tội phạm rõ và tội phạm ẩn.
Câu 4: Trình bày cách xác định chỉ số tội phạm.


68


CHƯƠNG 4
NGUYÊN NHÂN CỦA TỘI PHẠM
Nguyên nhân của tội phạm là nội dung cốt lõi của tội phạm học. Ngay từ thời cổ
đại, các học giả thời kì đó đã băn khoăn, trăn trở trước câu hỏi lớn: Tại sao con người
ta phạm tội? lí do gì đã thúc đẩy con người phạm tội hay nguyên nhân của tội phạm là
gì. Cho đến khi tội phạm học được hình thành và phát triển, câu hỏi này vẫn tồn tại và
luôn là vấn đề “nóng hổi” cho các nhà khoa học tiếp tục quan tâm nghiên cứu về nó.
Việc nghiên cứu, tìm hiểu về nguyên nhân của tội phạm đóng vai trò vô cùng quan
trọng trong tội phạm học. Sau khi tìm hiểu về tình hình tội phạm, nhà nghiên cứu tiếp
tục tìm hiểu vấn đề nguyên nhân của tội phạm, từ đó mới có thể xây dựng được các
giải pháp phòng ngừa tội phạm sát hợp với thực tế, có thể hạn chế hoặc loại trừ được
69


nguyên nhân phát sinh tội phạm, ngăn chặn được hiệu quả tội phạm xảy ra trong xã
hội. Việc xây dựng giải pháp phòng ngừa tội phạm nếu chỉ dựa trên tình hình tội phạm
mà không gắn kết với nguyên nhân của tội phạm thì rõ ràng giải pháp đó không thể
hoặc khó có thể giải quyết tận gốc, triệt để nguyên nhân phát sinh tội phạm, từ đó, ảnh
hưởng tới hiệu quả của việc ngăn ngừa tội phạm xảy ra trên thực tế.
1. KHÁI NIỆM NGUYÊN NHÂN CỦA TỘI PHẠM
Các nhà tội phạm học trước đây khi lí giải về nguyên nhân của tội phạm đã dựa
vào học thuyết để giải thích, cách lí giải đó ít nhiều là có cơ sở và không thể phủ nhận
sự đóng góp của các thuyết này đối với sự phát triển của tội phạm học. Tuy nhiên,
ngày nay, khoa học và đời sống xã hội ngày càng phát triển, do vậy, nếu chỉ dựa vào
học thuyết để giải thích về nguyên nhân của tội phạm thì cách tiếp cận đó mới chỉ giải
thích nguyên nhân của tội phạm ở phạm vi hẹp và trên một phương diện nhất định. Ví
dụ như “thuyết bắt chước” giải thích về nguyên nhân của tội phạm mới chỉ đưa ra

được một nhân tố có thể tác động làm phát sinh tội phạm – đó là “tâm lí bắt chước”
của người phạm tội và chưa chỉ ra được các nhân tố khác có thể tác động làm phát sinh
tội phạm. Khi tìm hiểu bất kì vụ án cụ thể nào, ta sẽ thấy tội phạm phát sinh là do tác
động của nhiều nhân tố khác nhau và không phải là tác động chỉ từ một nhân tố nào
đó. Các nhân tố được coi là “tác nhân” làm phát sinh tội phạm có sự tác động qua lại
với nhau và trong tình huống cụ thể, nhất định mới có thể làm phát sinh tội phạm.
Chính vì vậy, tìm hiểu về nguyên nhân của tội phạm đòi hỏi người nghiên cứu phải
tiếp cận đa chiều với việc phân tích các nhân tố khác nhau có thể tác động, ảnh hưởng
đến việc phát sinh tội phạm. Dựa trên kết quả nghiên cứu, người nghiên cứu sẽ rút ra
được những nhân tố nào là nguyên nhân chủ yếu trong việc phát sinh tội phạm, trên cơ
sở đó việc xây dựng biện pháp phòng ngừa mới có định hướng cụ thể, có tính tập trung
và không bị dàn trải. Từ việc phân tích trên, có thể hiểu: Nguyên nhân của tội phạm là
tổng hợp các nhân tố mà sự tác động qua lại giữa chúng đưa đến việc thực hiện tội
phạm của người phạm tội.
Một tội phạm phát sinh không phải do một nguyên nhân gây ra mà là kết quả tác
động của hàng loạt các nguyên nhân khác nhau. Ở mức độ tổng quan, có thể chia
nguyên nhân của tội phạm thành những nhóm nguyên nhân sau:
+ Nhóm nguyên nhân từ môi trường sống;
+ Nhóm nguyên nhân xuất phát từ phía người phạm tội;
+ Tình huống cụ thể (trong một số trường hợp được coi là một nguyên nhân đưa
đến việc phát sinh tội phạm).
Có thể mô tả về nguyên nhân của tội phạm thông qua
sơ đồ sau:
Môi trường sống
(môi trường tiêu cực)

70


Tác động

Người phạm tội

hình

Nhân cách
lệch lạc

thành

nảy

Ýđịnh
phạm
tội

sinh

Tác động
Tình huống cụ thể

đưa đến

đưa đến

Thực
hiện
tội
phạm

2. NGUYÊN NHÂN TỪ MÔI TRƯỜNG SỐNG (những nhân tố không thuận lợi

từ môi trường sống tác động đến sự hình thành nhân cách lệch lạc của cá nhân)
Sự hình thành, phát triển nhân cách cá nhân với tính chất là một thực thể của xã
hội bắt đầu từ khi con người ta được sinh ra và trải qua hàng loạt các giai đoạn khác
nhau, mỗi giai đoạn đều có những nhân tố thuận lợi và không thuận lợi từ môi trường
sống (với mức độ khác nhau tuỳ từng trường hợp cụ thể).
Những nhân tố tác động có thể ảnh hưởng tới việc hình thành và phát triển nhân
cách cá nhân bao gồm: 1) Bản thân con người đó; 2) Các tiểu môi trường mà cá nhân
đang sống và giao tiếp thường xuyên như: môi trường gia đình; môi trường trường
học; môi trường nơi người đó đang làm việc, môi trường nơi cư trú, sinh sống...3) Môi
trường xã hội vĩ mô như: tác động của chính sách, pháp luật, tác động của các phương
tiện thông tin đại chúng, tác động của phim ảnh, truyện, báo chí, tác động ảnh hưởng
của những hiện tượng tiêu cực trong xã hội mà người phạm tội chứng kiến hoặc nghe
kể, vấn đề thất nghiệp, bất bình đẳng trong xã hội...
Trong phạm vi của mục này, chúng ta sẽ tìm hiểu những nhân tố khác nhau (nhân
tố không thuận lợi) từ môi trường sống có thể ảnh hưởng đến việc hình thành và phát
triển nhân cách lệch lạc của cá nhân. Cụ thể là:
+ Các tiểu môi trường mà cá nhân đang sống và giao tiếp thường xuyên;
+ Môi trường xã hội vĩ mô.
Tuy nhiên, cũng cần chú ý rằng tuy cá nhân chịu sự tác động của môi trường sống
(chứa đựng cả nhân tố thuận lợi và không thuận lợi) nhưng tiếp thu và chịu sự tác động
như thế nào là do từng cá nhân. Cá nhân không phải là thụ động chịu sự chi phối hoàn
toàn từ môi trường sống mà có thể tác động trở lại môi trường sống thậm chí có thể
thay đổi môi trường đang sống ở mức độ nhất định. Do đó, trong mối quan hệ qua lại
giữa cá nhân và môi trường sống, vai trò của cá nhân có tính độc lập tương đối. Chính
vì vậy, tuy cùng sống trong môi trường xấu, nhưng có cá nhân dễ dàng chịu sự tác
động của môi trường xấu, tiêm nhiễm nhanh chóng những thói hư tật xấu ngoài xã hội
nhưng ngược lại cũng có những cá nhân bản lĩnh vững vàng trước mọi cám dỗ tiêu cực
của đời sống hoặc cũng có cá nhân chịu sự tác động của môi trường sống ở mức độ
71



hạn chế. Chính vì vậy, chúng ta có thể hiểu được vì sao trong xã hội có những người
phạm tội tồn tại bên cạnh những người khác không phạm tội.
2.1. Các tiểu môi trường mà cá nhân đang sống và giao tiếp thường xuyên
2.1.1. Môi trường gia đình
Gia đình có tầm ảnh hưởng nhất trong việc hình thành nhân cách cá nhân trong
thời kì thơ ấu. Trong gia đình, đứa trẻ bắt đầu học hỏi, bắt chước hành vi (bao gồm cả
hành vi tốt cũng như hành vi xấu) từ các thành viên trong gia đình mà nó có dịp quan
sát. Thông thường, quá trình học hỏi, bắt chước hành vi xấu của trẻ diễn ra nhanh hơn,
dễ dàng hơn so với bắt chước hành vi tốt. Càng lớn, đứa trẻ càng có khao khát khám
phá thế giới xung quanh, vì vậy quá trình nhận thức cũng như học hỏi, bắt chước dần
dần mở rộng phạm vi không còn dừng lại ở các thành viên trong gia đình nữa mà bắt
đầu vươn ra bên ngoài, tuy nhiên nhận thức, lối sống của trẻ vẫn mang dấu ấn của việc
ảnh hưởng từ các thành viên trong gia đình. Do đó, nếu đứa trẻ sống trong môi trường
gia đình an toàn, lành mạnh luôn chú trọng giáo dục nhân cách cho trẻ, hướng trẻ sống
thiện, trung thực, nhân hậu, vươn lên trong học tập, công việc thì sẽ hạn chế hiệu quả
việc hình thành nhân cách lệch lạc của cá nhân. Ngược lại, sống trong môi trường gia
đình không an toàn, không lành mạnh thì có thể tác động, ảnh hưởng đến việc hình
thành nhân cách lệch lạc của cá nhân. Có thể kể ra một số nhân tố có thể tác động đến
việc hình thành nhân cách lệch lạc của cá nhân:
+ Cha và (hoặc) mẹ buông lỏng việc giáo dục con cái, để mặc con cái phát triển tự
nhiên hoặc phó thác việc giáo dục trẻ cho nhà trường và xã hội. Khi phát hiện trẻ có
những biểu hiện sai trái đã không uốn nắn kịp thời mà vẫn thờ ơ, không quan tâm,
thậm chí còn dung túng.
+ Cha và (hoặc) mẹ quá nuông chiều hoặc quá hà khắc trong giáo dục con cái đều
có thể ảnh hưởng đến việc hình thành nhân cách của trẻ.
+ Cha và (hoặc) mẹ không gương mẫu trong lối sống như có hành vi phạm tội, sa
đà vào tệ nạn xã hội như nghiện hút, cờ bạc, mại dâm hoặc có lối sống quá thực dụng
chỉ biết coi trọng đồng tiền mà coi nhẹ các giá trị đạo đức; hoặc đứa trẻ lớn lên trong
gia đình mà bạo lực gia đình luôn tồn tại...

+ Cha và (hoặc) mẹ dạy con lối sống thực dụng, thậm chí xúc giục, dụ dỗ, ép buộc
con cái vào con đường phạm tội.
+ Các nhân tố khác như: trong gia đình có nhiều thành viên phạm tội, cha và
(hoặc) mẹ ngoại tình, đứa trẻ lớn lên trong môi trường thiếu cả cha mẹ hoặc thiếu cha
(thiếu mẹ), trong gia đình có nhiều thành viên ưa lối hành xử bạo lực, côn đồ, ngang
ngược...
2.1.2. Môi trường trường học
Quá trình lớn lên và dần trưởng thành, con người ta càng có khao khát khám phá
thế giới xung quanh, vì vậy quá trình nhận thức cũng như học hỏi của cá nhân dần dần
mở rộng phạm vi không còn dừng lại ở các thành viên trong gia đình nữa mà bắt đầu
sang môi trường khác trong đó có môi trường trường học. Do đó nếu sống trong môi
72


trường trường học có tồn tại nhiều nhân tố không lành mạnh thì cũng có thể ảnh hưởng
đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách lệch lạc của cá nhân. Những nhân tố
không lành mạnh đó có thể kể đến như:
+ Kỉ luật nhà trường lỏng lẻo, không nghiêm, việc xử lí những biểu hiện sai trái
trong học sinh (hoặc sinh viên) còn chưa triệt để dẫn đến những hiện tượng tiêu cực
trong nhà trường có nguy cơ lan rộng. Điều này có thể ảnh hưởng dẫn đến việc suy
giảm, thậm chí mất niềm tin vào sự công bằng trong nhà trường của các em làm cho
một số em chán nản, sa sút học hành, dễ bị lôi kéo tham gia vào các hoạt động tiêu
cực, không lành mạnh.
+ Kết bạn, giao du với bạn bè xấu (những đối tượng lười học, ham ăn chơi, đua
đòi, hay bỏ học, hỗn láo với thày cô giáo và bố mẹ, sa đà vào tệ nạn xã hội...). Do kết
bạn, giao tiếp thường xuyên với những đối tượng này, đứa trẻ dần dần ảnh hưởng và
có thể bị tiêm nhiễm và bắt chước những hành vi xấu của những đối tượng này như
thường xuyên bỏ học, tụ tập ăn chơi, về nhà hỗn láo với bố mẹ, bỏ nhà đi hoang... và
dần dần đi vào con đường phạm tội.
+ Một số ít cán bộ, giáo viên trong nhà trường không gương mẫu trong lối sống,

thiếu đạo đức trong hành xử với học sinh (hoặc sinh viên), thậm chí lôi kéo các em vào
lối sống không lành mạnh hoặc vào con đường phạm tội như có hành vi dụ dỗ học sinh
nữ vào quan hệ tình dục khi các em còn nhỏ tuổi, dụ dỗ các em môi giới mại dâm...
2.1.3. Môi trường nơi cá nhân làm việc hoặc cư trú
Môi trường nơi cá nhân làm việc hoặc cư trú có vai trò rất lớn trong việc hình
thành và phát triển nhận thức, năng lực chuyên môn, lối sống cũng như những phẩm
chất đạo đức cá nhân.
Nếu sống trong môi trường tập thể hoặc nơi cư trú lành mạnh, an toàn, mọi người
biết quan tâm giúp đỡ lẫn nhau, không có tệ nạn xã hội và tội phạm hoành hành, mọi
người biết chí thú làm ăn, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của nhà nước thì có thể
nói đây là môi trường thuận lợi có tác động tích cực đến việc hình thành nhân cách
đúng đắn của cá nhân và hạn chế sự phát triển nhân cách lệch lạc của cá nhân. Ngược
lại, nếu sống trong môi trường có chứa đựng nhiều nhân tố tiêu cực như có nhiều
người sống bê tha, suốt ngày chỉ cờ bạc, rượu chè, đánh lộn nhau thậm chí sa đà vào
ma tuý, mại dâm, phạm tội thì đây thực sự là môi trường xấu tiềm ẩn nguy cơ cao lôi
kéo, tác động những con người không bản lĩnh, không vững vàng sa ngã trước cái xấu,
cái tiêu cực của đời sống xã hội, từ đó có thể ảnh hưởng đến việc hình thành và phát
triển nhân cách lệch lạc của cá nhân.
2.2. Môi trường xã hội vĩ mô
Môi trường xã hội vĩ mô cũng có vai trò quan trọng trong việc tác động hình thành
và phát triển nhận thức, lối sống, quan điểm của cá nhân. Có thể liệt kê một số nhân tố
sau:
+ Tác động từ sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội, vấn đề thất nghiệp, đói nghèo,
bất bình đẳng xã hội...
73


+ Tác động của chính sách, pháp luật. Nhân tố không thuận lợi từ chính sách, pháp
luật được coi là nguyên nhân phát sinh tội phạm có thể là do quy định của chính sách,
pháp luật còn lỏng lẻo, sơ hở, chưa chặt chẽ hoặc không công bằng, thiếu thoả

đáng...Ví dụ quy định về quản lí tài sản công lỏng lẻo có thể làm cho cá nhân nảy sinh
lòng tham và có hành vi chiếm đoạt tài sản công.
+ Hoạt động của các cơ quan quản lí trong các lĩnh vực còn chưa đồng bộ, lỏng
lẻo, thiếu kiên quyết trong xử lí vi phạm. Sự phối hợp giữ các cơ quan chức năng trong
xử lí vi phạm, tội phạm còn chưa thực sự hiệu quả. Ví dụ việc không kiểm soát chặt
chẽ phim ảnh bạo lực, khiêu dâm có thể ảnh hưởng nhất định đến việc hình thành phát
triển nhân cách của những đối tượng thường xuyên xem những bộ phim kiểu này, dẫn
đến hình thành nhân cách lệch lạc cá nhân.
+ Các nhân tố khác…
3. NGUYÊN NHÂN TỪ PHÍA NGƯỜI PHẠM TỘI
Việc nghiên cứu nguyên nhân của tội phạm xuất phát từ phía người phạm tội lâu
nay không được các nhà tội phạm học nước ta quan tâm nghiên cứu. Khi đề cập đến
nguyên nhân của tội phạm, các nhà tội phạm học nước ta mới chỉ chú trọng đến các
nguyên nhân từ môi trường sống (vì quan niệm rằng tội phạm là hiện tượng xã hội).
Tuy nhiên, chúng ta cần hiểu rằng tội phạm là hiện tượng có tính cá nhân và xã hội.
Tội phạm do cá nhân (hoặc nhóm cá nhân người phạm tội) thực hiện do đó nó không
thể không mang đặc tính riêng biệt của cá nhân. Nghiên cứu nguyên nhân từ phía
người phạm tội sẽ giúp cho người nghiên cứu thấy được đặc điểm nào là đặc trưng có
ảnh hưởng đến việc thực hiện tội phạm, từ đó có thể dự đoán được tội phạm xảy ra
trong tương lai, trên cơ sở đó đề xuất biện pháp phòng ngừa phù hợp. Ví dụ khi tìm
hiểu về tội phạm có sử dụng bạo lực ở Mỹ, bằng phương pháp nghiên cứu mẫu, các
nhà tội phạm học Mỹ thấy rằng những người phạm tội loại này có hàm lượng insulin
quá nhiều trong máu sẽ làm cho những người này buồn bực, mệt mỏi, nóng nảy, sự
kiềm chế kém dễ trở nên hung bạo, từ đó đưa đến việc thực hiện tội phạm bạo lực. Vì
vậy, trong nhiều trường hợp, để ngăn chặn nguy cơ phạm tội trong tương lai, trước khi
được trở lại cộng đồng (sau khi họ đã thi hành án xong) người phạm tội phải trải qua
chương trình điều trị để giảm hàm lượng insulin trong máu hoặc họ phải qua khoá học
tâm lí về kiềm chế cảm xúc nhất là kiềm chế sự nổi nóng. Chính vì vậy, chúng ta thấy
rằng việc nghiên cứu nguyên nhân của tội phạm xuất phát từ người phạm tội có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong phòng ngừa và kiểm soát tội phạm.

Trên cơ sở nghiên cứu toàn diện về nguyên nhân từ môi trường sống, nguyên nhân
từ phía người phạm tội, sự tác động qua lại giữa môi trường sống và người phạm tội
thì việc đưa ra giải pháp phòng ngừa tội phạm mới thực sự hiệu quả và có thể giải
quyết tận gốc nguyên nhân phát sinh tội phạm.
Nghiên cứu nguyên nhân của tội phạm xuất phát từ phía người phạm tội thường
tập trung vào việc tìm hiểu ba nhóm dấu hiệu (đặc điểm) sau:
* Nhóm dấu hiệu sinh học của người phạm tội có thể ảnh hưởng đến việc phạm tội
74


như: tuổi, giới tính, lượng hooc môn trong cơ thể, hàm lượng insulin trong máu...
Ví dụ do giới tính chi phối mà nam giới có tính cách mạnh mẽ quyết đoán, khả
năng kiềm chế hành vi thấp hơn nữ giới, còn nữ giới thường kiên nhẫn hơn, cân nhắc
khi thực hiện hành vi kĩ hơn nam giới và đây là nhân tố quan trọng giải thích tại sao
nam giới thường phạm tội có tỉ lệ cao hơn nữ giới (tất nhiên, việc nam giới phạm tội
cao hơn nữ giới cũng còn do một số nguyên nhân khác).
* Nhóm đặc điểm tâm lí của người phạm tội có thể ảnh hưởng, tác động nhất định
đến việc phạm tội như:
+ Tính ích kỉ;
+ Tính hám lợi;
+ Tính ham ăn chơi, lười lao động và học tập;
+ Tính hận thù;
+ Có sở thích không lành mạnh (như thích xem phim khiêu dâm trẻ em);
* Nhóm các đặc điểm về văn hoá - xã hội, nghề nghiệp có thể ảnh hưởng đến việc
phạm tội. Ví dụ: người mù chữ hoặc có trình độ văn hoá thấp thường chiếm tỉ lệ phạm
tội cao trong các tội xâm phạm sở hữu.
Để làm sáng tỏ ba nhóm dấu hiệu trên của người phạm tội, người nghiên cứu
thường sử dụng phương pháp nghiên cứu mẫu, đặc biệt là nghiên cứu tuổi thơ và thời
kì bắt đầu trưởng thành của người phạm tội. Từ việc nghiên cứu những vụ án có tính
chất điển hình sẽ rút ra những kết luận có tính qui luật chung hoặc lặp đi lặp lại ở số

lượng người đáng kể, từ đó, đưa ra được giải pháp phòng ngừa tội phạm hiệu quả, sát
với thực tế.
4. TÌNH HUỐNG VÀ VAI TRÒ CỦA TÌNH HUỐNG TRONG CƠ CHẾ
CỦA HÀNH VI PHẠM TỘI
3.1. Khái niệm tình huống
Tình huống là cơ hội hoặc hoàn cảnh cụ thể đã trực tiếp ảnh hưởng đến việc phát
sinh tội phạm của người phạm tội vào thời điểm nhất định. Trong một số trường hợp
phạm tội nhất định, tình huống cụ thể đóng vai trò như là một nguyên nhân phát sinh
tội phạm.
3.2. Phân loại tình huống
* Căn cứ vào mức độ phức tạp của tình huống và khả năng giải quyết của chủ thể
thì có thể chia thành:
+ Tình huống căng thẳng, phức tạp kéo dài được chủ thể cảm nhận bế tắc, không
lối thoát. Ví dụ người chồng thường xuyên ngày này qua ngày khác có hành vi ngược
đãi, đánh đập tàn nhẫn người vợ trong gia đình làm người vợ luôn phải sống trong tình
trạng bức xúc, căm thù người chồng, đến thời điểm nào đó, hành vi này lại lặp lại dẫn
đến việc người vợ không kiềm chế được đã phản kháng lại và có hành vi giết chết
người chồng.
+ Tình huống diễn ra nhanh chóng, chớp nhoáng. Ví dụ người phạm tội đi công tác
75


về bất ngờ chứng kiến cảnh vợ đang ngoại tình trong nhà đã không kiềm chế được và
thực hiện hành vi giết vợ.
+ Tình huống dễ dàng, thuận lợi. Ví dụ: người phạm tội tình cờ đi ngang qua nhìn
thấy chủ tài sản đã sơ hở để xe máy trên vỉa hè mà không khoá xe máy, chìa khoá vẫn
cắm ở ổ khoá nên nảy sinh lòng tham và đã có hành vi trộm cắp xe máy.
* Theo nguồn gốc xuất hiện thì có thể chia tình huống thành tình huống phát sinh
từ thảm hoạ tự nhiên và tình huống do hành vi con người tạo ra.
+ Tình huống phát sinh từ điều kiện tự nhiên (như do bão, lũ lụt, động đất, núi lửa,

lở đất...). Ví dụ: bão đã đánh sập ngôi nhà dân trong khi chủ nhà không có mặt ở đó,
một số người khác đã nhân cơ hội này có hành vi chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu.
+ Tình huống do con người tạo ra. Ví dụ: người phạm tội đã giả danh đại diện của
công ty xuất khẩu lao động tiếp xúc với những người có nhu cầu xuất khẩu lao động
để lừa đảo và chiếm đoạt tiền của họ.
3.3. Vai trò của tình huống trong cơ chế của hành vi phạm tội
Trong một số trường hợp phạm tội nhất định, tình huống cụ thể đóng vai trò như là
một nguyên nhân phát sinh tội phạm.
Một số tình huống đã trực tiếp tác động đến chủ thể làm chủ thể hình thành động
cơ, từ đó quyết định thực hiện hành vi phạm tội cụ thể. Ví dụ: tình huống người chồng
có hành vi ngoại tình, phản bội người vợ đã làm người vợ xuất hiện và hình thành
động cơ ghen tuông thù hận, từ đó nảy sinh ý định giết chồng và đã đầu độc người
chồng chết.
Bên cạnh đó, lại có tình huống chỉ là tạo điều kiện thuận lợi cho người phạm tội
(đã có sẵn động cơ) thực hiện tội phạm được dễ dàng, nhanh chóng và không có ảnh
hưởng gì đến việc xuất hiện và hình thành động cơ phạm tội. Trong trường hợp này,
tình huống đóng vai trò như là cơ hội phạm tội. Ví dụ: Vì muốn có tiền tiêu xài, A nảy
sinh ý định cướp tài sản. A giấu dao vào người rồi đi ra ngoài đường. Đến một cửa
hàng bán quần áo, nhìn thấy cửa hàng vắng vẻ, chỉ có một người bán hàng ở đó, đường
phố không có người qua lại, A đã dùng dao khống chế người bán hàng, cướp tiền.
Tóm lại, tình huống trên thực tế xảy ra rất đa dạng. Việc tìm hiểu kĩ về loại tình
huống có vai trò rất quan trọng trong phòng ngừa tội phạm, nhất là trong việc cảnh báo
người dân về những nguy cơ có thể xảy ra, từ đó làm cho người dân có ý thức bảo vệ
tài sản công cũng như tự bảo vệ bản thân và tài sản của chính mình cũng như những
quyền lợi chính đáng khác./.
CÂU HỎI ÔN TẬP:
Câu 1: Phân tích khái niệm nguyên nhân của tội phạm
Câu 2: Phân tích những nhân tố không thuận lợi từ môi trường sống tác động tới sự
hình thành nhân cách lệch lạc của cá nhân.
76



Câu 3: Phân tích nguyên nhân từ phía người phạm tội.
Câu 4: Trình bày tình huống và vai trò của tình huống trong cơ chế của hành vi phạm
tội.

CHƯƠNG 5
NẠN NHÂN CỦA TỘI PHẠM
Là lĩnh vực chuyên sâu của tội phạm học (area of specialization within
criminology), nạn nhân học ngày nay được các nhà tội phạm học rất quan tâm, nghiên
cứu. Thời gian đầu mới hình thành, nạn nhân học còn giữ vị trí khiêm tốn. Tuy nhiên,
ở thời đại ngày nay, việc nghiên cứu về nạn nhân học là một phần tất yếu, không thể
thiếu khi nghiên cứu về tội phạm học1. “Nạn nhân học là khoa học nghiên cứu về nạn
nhân bao gồm mối quan hệ giữa nạn nhân và người phạm tội, tác động qua lại giữa
nạn nhân và hệ thống tư pháp hình sự, quan hệ giữa nạn nhân với các tổ chức và thiết
chế xã hội khác như truyền thông, tổ chức kinh doanh, phong trào xã hội. Nạn nhân
học không chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu về nạn nhân của tội phạm mà còn nghiên
cứu cả những vi phạm về quyền con người mà không nhất thiết bị coi là tội phạm”.2
Nghiên cứu về nạn nhân học có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc tìm ra cơ chế
phù hợp để bảo vệ nạn nhân của tội phạm được tốt hơn cũng như có những cảnh báo
cần thiết để hạn chế nguy cơ cá nhân có thể trở thành nạn nhân của tội phạm, từ đó
góp phần vào việc phòng ngừa và kiểm soát tội phạm, duy trì trật tự, ổn định xã hội.
1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, PHÂN LOẠI NẠN NHÂN CỦA TỘI PHẠM
1.1. Khái niệm nạn nhân của tội phạm
Nạn nhân nói chung có thể được hiểu trong phạm vi rộng. Trong phạm vi rộng,
1

Xem bài “Vai trò sống còn của nạn nhân học trong cải tạo người phạm tội và tác động của nó đối với xã hội”
của tác giả Ezzard A.Fantah trên trang Web www.unafei.or.jp/english/pdf/PDF_rms/no56/56-07.pdf
2

Xem trang Web bách khoa toàn thư mở Wikipedia, the free encyclopedia ngày 10/10/2009.

77


nạn nhân có thể là cá nhân (hoặc tổ chức) bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do
tội phạm gây ra (như nạn nhân của tội giết người, cướp tài sản…) hoặc do thiên tai gây
ra (như nạn nhân của vụ động đất, sóng thần, bão, lốc xoáy…) hoặc nguyên nhân khác
gây ra như nạn nhân của sự kiện bất ngờ... Tuy nhiên trong phạm vi của bài viết này,
chúng tôi chỉ đề cập đến nạn nhân trong tội phạm học – Nạn nhân của tội phạm. Nói
đến nạn nhân của tội phạm cần hiểu rằng không phải bất kì tội phạm nào cũng có nạn
nhân. Thực tế cho thấy có những tội có nạn nhân và có những tội không có nạn nhân.
Trong văn kiện “Các nguyên tắc về tố tụng và chứng cứ” được áp dụng cho tội
phạm quốc tế (cũng như hoạt động của Toà hình sự quốc tế) khái niệm nạn nhân của
tội phạm được hiểu như sau:
“Nạn nhân của tội phạm là những người phải gánh chịu những thiệt hại do tội
phạm gây ra;
Nạn nhân của tội phạm cũng có thể là đơn vị hoặc tổ chức bị thiệt hại trực tiếp về
tài sản mà những tài sản này được sử dụng cho tôn giáo, giáo dục, nghệ thuật, khoa
học, hoặc mục đích từ thiện và cho những di tích lịch sử văn hoá, các bệnh viện và
những nơi phục vụ cho lợi ích của nhân loại.”1
Tuy nhiên, cần nhấn mạnh là khái niệm này chỉ trình bày về nạn nhân của tội phạm
trong phạm vi hẹp – nạn nhân của tội phạm quốc tế.
Tác giả Andrew Karmen trong bài viết “Crime Victims: An Introduction to
Victimology”(1990), ông đã nêu khái niệm nạn nhân của tội phạm như sau: “Nạn nhân
của tội phạm là bất kì tổ chức, cá nhân nào hoặc bất kì thực thể kinh doanh nào bị
thiệt hại hoặc mất mát bởi hành vi phạm tội. Thiệt hại ở đây có thể là thiệt hại về thể
chất, tâm lí hoặc kinh tế”.
Như vây, chúng ta có thể thấy nạn nhân của tội phạm không nên hiểu theo nghĩa
hẹp chỉ là cá nhân mà rộng hơn, nạn nhân của tội phạm có thể là tổ chức hoặc bất kì

thực thể kinh doanh nào. (Tuy nhiên, cần hiểu là thực thể kinh doanh có thể là cá nhân
hoặc tổ chức theo pháp luật hình sự Việt Nam). Thiệt hại mà nạn nhân phải gánh chịu
rất đa dạng, có thể là thiệt hại về thể chất như thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ; thiệt
hại về tâm lí như làm nạn nhân khủng hoảng, lo sợ, bất an về tinh thần; thiệt hại về
kinh tế như làm nạn nhân bị mất mát tài sản hoặc bỏ khoản tiền đáng kể để khôi phục
sức khoẻ. Nếu nạn nhân là tổ chức thì thiệt hại có thể là mất mát về tài sản, uy tín
thương hiệu của tổ chức bị tổn hại, việc kinh doanh của tổ chức có thể bị đình đốn...
Từ sự phân tích trên, có thể hiểu nạn nhân của tội phạm như sau:
“Nạn nhân của tội phạm là cá nhân, tổ chức bị hành vi phạm tội xâm hại gây ra
thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc một số quyền lợi ích hợp pháp khác.”
Cần phân biệt thuật ngữ “Nạn nhân của tội phạm” với thuật ngữ “nạn nhân gián
tiếp của tội phạm”. Sở dĩ thuật ngữ “nạn nhân gián tiếp của tội phạm” ra đời vì các nhà
tội phạm học thấy rằng trong một số trường hợp không chỉ là những cá nhân, tổ chức
1

Xem Compilation of core documents of the International criminal court, Apulication of the Coalition for the
International Criminal Court 12/2003, tr138.

78


bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại mà người khác có quan hệ mật thiết đến nạn
nhân của tội phạm như người thân ruột thịt của nạn nhân của tội phạm cũng bị hành vi
phạm tội tác động đến. Ví dụ: một người mẹ có đứa con trai duy nhất đã bị giết (là nạn
nhân của tội giết người). Do quá thương con, người mẹ đã bỏ ăn, buồn phiền và sau đó
đã bị suy giảm trí lực dẫn đến mất trí nhớ. Như vậy, người mẹ này cũng đã bị ảnh
hưởng bởi hành vi phạm tội gây ra. Trường hợp của người mẹ nói trên được các nhà
tội phạm học gọi là “nạn nhân gián tiếp của tội phạm”.
1.2. Đặc điểm của nạn nhân của tội phạm
Từ khái niệm về nạn nhân của tội phạm, có thể thấy các đặc điểm của nạn nhân

của tội phạm bao gồm:
+ Đối tượng được coi là nạn nhân của tội phạm chỉ có thể là cá nhân, tổ chức.
Cá nhân được coi là nạn nhân của tội phạm phải là con người cụ thể và phải là
người đang sống, do vậy, bào thai hay người chết không được coi là nạn nhân của tội
phạm. Bởi vì khi một người đã chết thì đồng thời chấm dứt sự tồn tại thực tế cũng như
về mặt pháp lí của họ (do vậy, đối với tội xâm phạm thi thể, hài cốt sẽ không có nạn
nhân của tội phạm). Khi người phạm tội thực hiện hành vi phá thai trái phép gây hậu
quả thiệt hại về tính mạng hoặc nghiêm trọng về sức khoẻ của người mang thai thì nạn
nhân của tội phạm lại là người phụ nữ đang mang thai chứ không phải là bào thai.
Trường hợp tổ chức được coi là nạn nhân của tội phạm phải là tổ chức được thành
lập một cách hợp pháp trên cơ sở quy định của pháp luật và tổ chức này vẫn đang tồn
tại, chưa chấm dứt hoạt động vào thời điểm xảy ra hành vi phạm tội.
+ Cá nhân, tổ chức trở thành nạn nhân của tội phạm là do hành vi gây ra.
Nạn nhân nói chung có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra như có thể do
thiên tai (như bão, sóng thần có thể gây chết người hoặc mất tài sản…) hoặc có thể do
sự kiện khách quan gây ra như bất ngờ bị cây đổ đè vào người gây thương tích (do sâu
đục thân ăn mục ruỗng cây làm cho cây bị đổ). Tuy nhiên, riêng đối với trường hợp
nạn nhân của tội phạm thì những đối tượng này chỉ có thể bị thiệt hại do nguyên nhân
hành vi phạm tội gây ra.
+ Thiệt hại mà nạn nhân của tội phạm phải gánh chịu rất đa dạng có thể là thiệt hại
về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc các thiệt hại khác.
Khi bị tội phạm xâm hại, nạn nhân của tội phạm phải chịu rất nhiều thiệt thòi, mất
mát khác nhau như thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, thiệt hại về tài sản, mất khả năng
lao động, mất thu nhập hoặc giảm sút thu nhập, thiệt hại về tinh thần (như danh dự,
nhân phẩm, uy tín)…
1.3. Phân loại nạn nhân của tội phạm.
Trong tội phạm học có nhiều cách phân loại nạn nhân của tội phạm.
+ Nếu dựa vào khách thể của tội phạm có thể chia nạn nhân của tội phạm thành:
Nạn nhân của các tội phạm xâm phạm về tính mạng, sức khoẻ; nạn nhân của các tội
phạm xâm phạm sở hữu; nạn nhân của các tội phạm tình dục, nạn nhân của các tội

79


phạm xâm phạm trật tự quản lí kinh tế…
+ Nếu dựa vào giới tính thì có thể chia nạn nhân làm 2 loại là nạn nhân nữ giới và
nạn nhân nam giới;
+ Nếu dựa vào độ tuổi thì có thể chia nạn nhân thành: nạn nhân là trẻ em, người
già, người đã thành niên (trường hợp không thuộc đối tượng là người già);
+ Nếu dựa vào đối tượng bị thiệt hại thì có thể chia nạn nhân làm hai loại là cá
nhân và tổ chức;
+ Nếu dựa vào quan hệ giữa nạn nhân và người phạm tội có thể chia thành: nạn
nhân có quen biết người phạm tội, nạn nhân có quan hệ họ hàng ruột thịt với người
phạm tội và nạn nhân không quen biết người phạm tội;
+ Nếu căn cứ vào hình thức thực hiện của hành vi phạm tội thì có thể chia thành
nạn nhân của các tội có sử dụng bạo lực và nạn nhân của các tội không sử dụng bạo
lực;
+ Nếu căn cứ vào dấu hiệu lỗi của nạn nhân thì có thể chia thành trường hợp nạn
nhân có lỗi và trường hợp nạn nhân không có lỗi.
+ Nếu căn cứ vào dấu hiệu chức vụ, quyền hạn của nạn nhân thì có thể chia thành
nạn nhân là người có chức vụ quyền hạn và nạn nhân là dân thường.
2. NHỮNG THIỆT HẠI MÀ NẠN NHÂN CỦA TỘI PHẠM PHẢI GÁNH
CHỊU VÀ QUYỀN CỦA NẠN NHÂN CỦA TỘI PHẠM
Khi trở thành nạn nhân của tội phạm, nạn nhân phải chịu rất nhiều thiệt hại, mất
mát như thiệt hại về vật chất, thiệt hại về sức khoẻ, mất khả năng lao động, mất thu
nhập do bị mất khả năng lao động, thiệt hại về tinh thần (như danh dự, nhân phẩm, uy
tín)…thậm chí trong một số trường hợp, thiệt hại mà họ phải chịu là rất lớn không gì
có thể bù đắp được như trường hợp nạn nhân bị chết, bị cố tật vĩnh viễn về sức khoẻ,
hoặc bị chấn động, rối loạn về tinh thần không thể hồi phục hoặc khó có thể hồi phục
được. Ví dụ như trong vụ khủng bố ở Beslan cuả Cộng hoà liên bang Nga, không chỉ
nhiều nạn nhân là trẻ em đã bị chết gây đau thương, tang tóc cho nhiều gia đình mà

hầu hết các em còn sống sót đòi hỏi phải được điều trị tâm lí lâu dài mới có thể hồi
phục dần dần để có thể trở lại cuộc sống bình thường.
Tuy nhiên, trong một thời gian dài, vấn đề thiệt hại của nạn nhân chưa được các
nhà tội phạm học tập trung nghiên cứu. Thời gian gần đây, khi tìm hiểu về nạn nhân
của tội phạm, các nhà nghiên cứu mới nhận ra rằng nạn nhân của tội phạm có những
phản ứng khủng hoảng tinh thần tương tự như phản ứng của nạn nhân chiến tranh, nạn
nhân của thảm hoạ tự nhiên và nạn nhân của một số bệnh tật do thảm hoạ tự nhiên gây
ra đặc biệt là trường hợp nạn nhân của tội phạm bạo lực, nạn nhân của tội phạm tình
dục. Một cuộc điều tra xã hội học do các nhà nghiên cứu tiến hành tại trường đại học
Marquete của Mỹ. Họ đã phỏng vấn 3000 nạn nhân và nhân chứng từ các vụ án ở hệ
thống toà án quận Milwaukee (Milwaukee County’s Court System) và 1.600 người
được xác định là nạn nhân của các tội phạm nghiêm trọng (lấy từ cuộc điều tra tội
phạm quốc gia). Họ nhận thấy rằng tinh thần và xúc cảm của nạn nhân của tội phạm có
80


×