Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Khoaluan Totnghiep_ĐHTH_NhuSuu_K.10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (595.7 KB, 85 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Từ xa xưa, con người đã biết dùng miêu tả thể hiện những sinh hoạt trong cuộc
sống hằng ngày. Sự miêu tả đó thường thấy ở những hình vẽ, những bản trường ca,
tiểu thuyết, áng văn… Bằng nhiều biện pháp, cách thức, họ đã truyền tải đến người
đọc, người nghe những bức tranh sinh động đầy màu sắc của sự vật, hiện tượng.
Trẻ em chưa thể vẽ được những bức vẽ hoàn thiện. Các em chỉ biết dùng lời
nói, câu văn để viết lại những điều các em quan sát, nhận xét sự vật dưới cái nhìn của
trẻ con. Sự quan sát, nhận xét của các em còn thiên về cảm tính. Việc dạy văn miêu tả
cho trẻ tiểu học sẽ góp phần nuôi dưỡng mối quan hệ và tạo nên sự quan tâm của các
em với thế giới xung quanh, trong đó quan trọng nhất là với thiên nhiên, góp phần giáo
dục tình cảm thẩm mĩ, tình yêu cái đẹp, góp phần phát triển ngôn ngữ của trẻ… Nhà
giáo dục Xô Viết đã cho rằng : “Việc học sinh tiếp xúc với thiên nhiên, việc dạy các
em miêu tả cảnh vật nhìn thấy, nghe thấy... là con đường có hiệu quả nhất để giáo dục
các em và phát triển ngôn ngữ”. Học văn miêu tả, HS có thêm điều kiện để tạo nên sự
thống nhất giữa tư duy, tình cảm, ngôn ngữ và cuộc sống, con người với thiên nhiên,
với xã hội. Lúc ấy trẻ sẽ bộc lộ được cảm xúc cá nhân, mở rộng tâm hồn, phát triển
nhân cách của một con người có ích cho xã hội.
Chương trình TLV ở tiểu học chủ yếu là dạy văn miêu tả. Ngay từ lớp 2, lớp 3
các em đã được làm quen với văn miêu tả khi được quan sát trả lời câu hỏi. Lên lớp 4,
các em phải hiểu thế nào là văn miêu tả, biết cách quan sát, tìm ý, lập dàn bài, viết
đoạn văn và liên kết đoạn văn thành một bài văn miêu tả đồ vật, cây cối hoặc con vật
những đối tượng gần gũi và thân thiết với các em.
Để hoàn thành bài văn miêu tả lớp 4 rất khó khăn. Do đặc điểm tâm, sinh lí,
HSTH còn ham chơi, khả năng tập trung chú ý quan sát chưa tinh tế, năng lực sử dụng
ngôn ngữ chưa phát triển tốt, dẫn đến HS viết văn miêu tả còn thiếu vốn hiểu biết về
đối tượng miêu tả, hoặc không biết cách diễn đạt điều muốn miêu tả.
Đối với GV đây là bài khó dạy, GV còn thiếu linh hoạt trong vận dụng phương
pháp và chưa sáng tạo trong hoạt động tổ chức, hoạt động học tập của HS. Vì vậy,
không phải giờ dạy văn miêu tả nào cũng đạt hiệu quả mong muốn và không phải GV
nào cũng dạy tốt văn miêu tả, việc tìm tòi để hướng dẫn HS quan sát, tìm ý, lập dàn ý,



0


tưởng tượng,.... còn nhiều hạn chế. Không chỉ vậy, GV còn lúng túng trong việc
hướng dẫn HS sử dụng từ ngữ đúng, hình ảnh đẹp để viết văn.
Chương trình môn TV ở tiểu học còn hạn chế trong việc xây dựng
những nội dung dạy học như: lựa chọn từ khi nói và viết, sử dụng từ
ngữ gợi tả, gợi cảm để viết văn, sửa lỗi dùng từ,… Biện pháp rèn kĩ
năng làm văn trong phân môn TLV còn chung chung, chưa có sự phối
hợp giữa các phân môn, chưa sát với thực tế và chưa gắn với mục
đích cụ thể. Đã có những cuốn sách, bài viết nói về kĩ năng làm văn
trong văn miêu tả nhưng chưa được nghiên cứu vận dụng một cách
cụ thể, có hiệu quả.
Từ những lí do trên, tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: “Rèn kĩ năng
viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4 tại trường Tiểu học Kim Đồng, Tam Kỳ, Quảng
Nam” với mong muốn góp một phần nhỏ vào việc nâng cao kĩ năng viết
văn miêu tả trong chương trình Tiểu học hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở điều tra thực trạng về chất lượng dạy và học dạng bài văn miêu tả
trong phân môn TLV lớp 4, từ đó đề xuất phương hướng ứng dụng một số biện pháp
rèn kĩ năng viết văn miêu tả của mình. Đây là một việc làm thiết thực, vì vậy chúng tôi
hi vọng rằng sẽ giúp giáo viên tiểu học có tài liệu tham khảo để rèn kĩ năng viết văn
miêu tả cho các em.
3. Khách thể nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Học sinh lớp 4, trường tiểu học Kim Đồng, Tam Kỳ, Quảng Nam.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho HS lớp 4 tại trường tiểu học Kim Đồng, Tam
Kỳ, Quảng Nam.

4. Giả thuyết khoa học
Giả định rằng nếu áp dụng những biện pháp kĩ năng làm văn mà chúng tôi đưa
ra vào việc dạy văn miêu tả trong phân môn TLV lớp 4 thì hiệu quả của việc viết văn
của các em sẽ nâng cao hơn rất nhiều.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu

1


5.1. Nhiệm vụ 1: Nghiên cứu cơ sở lí luận về việc rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho
học sinh lớp 4.
5.2. Nhiệm vụ 2: Tìm hiểu tình hình nhà trường, thực trạng rèn kĩ năng viết văn
miêu tả cho học sinh lớp 4 tại trường tiểu học Kim Đồng Tam Kỳ, Quảng Nam.
5.3. Nhiệm vụ 3: Đề xuất các biện pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh
lớp 4 và tổ chức thực nghiệm để kiểm tra tính hiệu quả và khả thi của biện pháp.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết tốt mục đích cũng như những nhiệm vụ của đề tài, chúng tôi đã sử
dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
6.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc tài liệu liên quan đến đề tài,
nghiên cứu nội dung chương trình TLV lớp 4.
6.2. Phương pháp quan sát: Quan sát các tiết dạy học của GV ở trường Tiểu học.
Quan sát tinh thần thái độ, ý thức, trong học TLV của HS.
6.3. Phương pháp điều tra, khảo sát và phỏng vấn: Sử dụng bảng hỏi thu nhập
thông tin về việc dạy và học TLV miêu tả của HS lớp 4, sau đó tiến hành phân tích và
rút ra các kết luận, phỏng vấn trao đổi với giáo viên cùng ngành để tham khảo ý kiến.
6.4. Phương pháp thực nghiệm: Phương pháp này nhằm hiện thực hóa nội
dung lý thuyết và biện pháp. Đây là khâu kiểm tra, đánh giá kết quả, từ đó có thể rút ra
nhận xét, kết luận về quá trình nghiên cứu của mình.
6.5. Phương pháp thống kê toán học: Chúng tôi sử dụng phương pháp này nhằm
xử lý số liệu điều tra một cách chính xác và tin cậy.

7. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Vấn đề rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho HS không phải là một vấn đề mới mẻ.
Đã từ lâu và đông đảo các GV, cũng như các nhà chuyên môn quan tâm nghiên cứu về
vấn đề này. Xem kĩ năng viết văn miêu tả là thước đo cơ bản để đánh giá khả năng
cũng như trình độ viết văn của các HS ở trường tiểu học. Có các bài viết của “Sáng
kiên kinh nghiệm” đã đề cập đến vấn đề này, tuy nhiên vẫn chưa tìm hiểu sâu và phân
tích rõ, chưa thiết thực với các em.
Đã có tác giả Phạm Thị Ngành đã đi nghiên cứu về vấn đề “Các biện pháp nâng
cao chất lượng dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4” tác giả đã nghiên cứu các vấn đề
sau:

2


- Tích hợp dạy văn miêu tả trong các phân môn khác (tập đọc, luyện từ và câu,
chính tả)
- Xây dựng hệ thống bài tập rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4:
+ Rèn kĩ năng quan sát đối tượng miêu tả cho HS.
+ Rèn kĩ năng lập dàn bài chi tiết cho bài văn miêu tả.
+ Rèn kĩ năng viết mở bài, kết bài trong bài văn miêu tả.
+ Rèn kĩ năng xây dựng đoạn văn và viết đoạn văn miêu tả.
+ Bài tập rèn kĩ năng xây dựng các phương tiện trong đoạn văn.
Tuy nhiên, với đề tài này tôi sẽ đi theo một hướng nghiên cứu khác đó là đưa ra 3
nhóm kĩ năng:
+ Nhóm kĩ năng chuẩn bị cho việc sản sinh văn bản.
+ Nhóm kĩ năng viết văn bản.
+ Nhóm kĩ năng kiểm tra kết quả.
Với 3 nhóm kĩ năng đó tôi sẽ đưa ra hệ thống lý thuyết để giúp các em hiểu rõ hơn,
đồng thời hướng dẫn luyện các kĩ năng đó cùng với ví dụ cụ thể và một số dạng bài tập
thiết thực.

8. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho HS lớp 4 thông qua dạy học văn
miêu tả trong phân môn TLV.
Về địa bàn nghiên cứu: Để nghiên cứu đề tài này tôi tiến hành nghiên cứu học
sinh của 2 lớp 4/4, 4/5 của trường Tiểu học Kim Đồng, Tam Kỳ, Quảng Nam. Ngoài
ra, tôi còn tìm hiểu vấn đề cần nghiên cứu qua thầy (cô) giáo.
9. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm có ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học
sinh lớp 4.
Chương 2: Thực trạng dạy và học văn miêu tả ở lớp 4 tại trường tiểu học Kim Đồng,
Tam Kỳ, Quảng Nam.
Chương 3: Các biện pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4 tại trường.
tiểu học Kim Đồng, Tam Kỳ, Quảng Nam và thực nghiệm sư phạm.

3


B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC RÈN KĨ NĂNG
VIẾT VĂN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 4
1.1. Cơ sở lí luận về việc rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4
1.1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1.1. Rèn luyện là gì ?
Theo từ điển Tiếng Việt phổ thông – Viện ngôn ngữ học rèn luyện là luyện tập
nhiều trong thực tế để đạt tới những phẩm chất hay trình độ vững vàng, thông thạo
(trang 756)
1.1.1.2. Văn miêu tả là gì ?
Theo Đào Duy Anh trong Hán Việt từ điển thì miêu tả là “lấy nét vẽ hoặc câu
văn để biểu hiện chân tướng của sự vật. Trong hội họa, các họa sĩ thường dùng đến

những đường nét, màu sắc để miêu tả sự vật, hiện tượng khiến các bức tranh trông y
thật. Sự miêu tả trong văn chương có ưu thế riêng so với sự miêu tả bằng màu sắc,
đường nét, hội họa. Dùng ngôn ngữ văn chương có thể miêu tả sự vật trong một quá
trình vận động, có thể tả được những thứ vô hình như âm thanh, tiếng động, hương
vị... hay tư tưởng thầm kín của con người. Vì vậy, trong văn miêu tả, người ta không
đưa ra một lời nhận xét chung chung hay những đánh giá trừu tượng về một sự vật đại
loại như cái xe này xấu, cái bánh kia ngon... Văn miêu tả là một bức tranh vẽ các sự
vật, hiện tượng, con người bằng ngôn ngữ một cách sinh động, cụ thể. Nhờ có văn
miêu tả, con người có thể lạc vào thế giới của những cảm xúc, những âm thanh, tiếng
động, hương vị của những cánh đồng, khu rừng, làng quê…, thấy rõ tư tưởng, tình
cảm của mỗi con người, mỗi sự vật. Đó là sự kết tinh của các nhận xét tinh tế, những
rung động sâu sắc mà người viết thu lượm được khi quan sát cuộc sống” [12, 102].
Miêu tả theo sách Tiếng Việt 4: “Miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi
bật của cảnh, của người, của vật giúp người nghe, người đọc có thể hình dung được
các đối tượng ấy” [4, 140].

4


Tóm lại “Miêu tả là dùng lời văn có hình ảnh, làm hiện ra hay vẽ ra trước mắt
người đọc hoặc người nghe bức tranh cụ thể về một đối tượng (đồ vật, cây cối, loài
vật, con người...) làm ta chú ý và cảm xúc sâu sắc”.

1.1.1.3. Kĩ năng là gì ?
Theo“Từ điển tường giải và liên tưởng Tiếng Việt” (Nguyễn Văn Đạm) “Kĩ năng
là thói quen áp dụng thành thạo vào thực tiễn những kiến thức đã học hoặc những kết
quả của một quá trình luyện tập” [16,156].
1.1.1.4. Kĩ năng làm văn miêu tả
Theo “Từ điển tường giải và liên tưởng Tiếng Việt” (Nguyễn Văn Đạm), “Từ
điển tiếng Việt (Viện ngôn ngữ học) và Sách giáo khoa phổ thông... Nhìn chung, các

định nghĩa đều có cách nhìn giống nhau về ngôn ngữ miêu tả: Miêu tả là dùng ngôn
ngữ hoặc một phương tiện nghệ thuật nào đó làm cho người khác có thể hình dung
được cụ thể sự vật, sự việc, con người... Muốn miêu tả được, ta phải quan sát, tổ chức
sắp xếp các chi tiết theo lôgic, lựa chọn từ ngữ, cách đặt câu, dựng đoạn một cách có
nghệ thuật... cốt để làm nổi bật cái thần, cái hồn của đối tượng miêu tả.
Như vậy, ta hiểu rộng ra: Kĩ năng làm văn miêu tả là cách vận dụng thành thạo
các thói quen vào thực tiễn bằng cách sử dụng ngôn ngữ như một phương tiện nghệ
thuật để miêu tả làm cho người khác hình dung cụ thể được sự vật, sự việc, con
người... nhằm làm nổi bật cái thần, cái hồn của đối tượng miêu tả.
1.1.1.5. Lập luận là gì ?
Theo từ điển Tiếng việt, nhà xuất bản văn hóa thông tin, 2004 “Lập luận là đưa
ra những lý lẽ nhằm dẫn dắt người nghe đến một kết luận hay chấp nhận một kết luận
nào đó mà người nói muốn đạt tới.”
1.1.1.6. Biện pháp là gì ?
Theo“Từ điển tường giải và liên tưởng Tiếng Việt”(Nguyễn Văn Đạm), Biện
pháp là cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể.[16, 250]
1.1.2. Đặc điểm của văn miêu tả
a. Văn miêu tả là một loại văn mang tính thông báo, thẩm mỹ, chứa đựng tình cảm của
người viết

5


Bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng có thể trở thành đối tượng của văn miêu tả.
Trong văn miêu tả, sự vật và hiện tượng không được tái hiện theo kiểu “chụp ảnh” hay
sao chép một cách máy móc, khô cứng mà là kết quả của sự nhận xét, tưởng tượng,
đánh giá hết sức phong phú. Nó thể hiện cái nhìn, cái quan sát, cách cảm nhận mới mẻ
của người viết với đối tượng miêu tả. Cái mới, cái riêng bắt đầu có thể chỉ là ở những
quan sát và kết quả của sự quan sát, sau đó tiến lên thể hiện cái mới, cái riêng trong tư
tưởng, tình cảm đối với đối tượng miêu tả. Cùng một đối tượng quan sát nhưng giữa

hai người sẽ có cái nhìn, cách cảm nhận, ý nghĩ, cảm xúc khác nhau. Vì vậy mà văn
miêu tả bao giờ cũng mang đậm dấu ấn cá nhân, cảm xúc chủ quan của người viết.
Đây chính là điểm khác biệt giữa miêu tả trong văn học và miêu tả trong khoa học
thường mang tính chính xác cao, nhưng lại thiếu cảm xúc, thiếu tâm hồn.
b. Văn miêu tả mang tính sinh động tạo hình
Một bài văn miêu tả được coi là sinh động, tạo hình khi các sự vật, đồ vật, con
người,... được miêu tả hiện lên qua từng câu, từng dòng như trong cuộc sống thực,
tưởng như có thể nắm được, nhìn, ngắm hoặc ‘‘sờ mó’’ được. Làm nên sự sinh động,
tạo hình của văn miêu tả là những chi tiết sống, gây ấn tượng,... Tước bỏ nó đi, bài văn
miêu tả sẽ trở nên mờ nhạt, vô vị.
Sự sinh động, sáng tạo trong văn miêu tả bao giờ cũng bắt nguồn từ cảm xúc
chân thành của người viết. Nhà văn Tố Hữu đã từng viết : “Văn chương là sự sáng
tạo, là tưởng tượng nhưng đừng có nói dối, đừng có bịa đặt những điều mình không
nghĩ, không cảm thấy chân thật”. Văn miêu tả không hạn chế trí tưởng tượng, không
ngăn cản sự sáng tạo cái mới của người viết. Nhưng như vậy không có nghĩa là văn
miêu tả cho phép người viết “bịa đặt” hay miêu tả một cách tuỳ tiện, miêu tả thế nào
cũng được. Muốn miêu tả đúng, miêu tả hay, trước hết cần phải miêu tả chân thật. Tính
chân thật ở đây không chỉ được hiểu trong quan sát và sự thể hiện những điều quan sát
ấy mà còn được hiểu là sự chân thật trong cách cảm, cách nghĩ của người viết.
c. Ngôn ngữ bài văn trong miêu tả giàu cảm xúc và hình ảnh
Miêu tả chỉ trở thành miêu tả văn học khi mà ngôn ngữ miêu tả diễn đạt được
cảm xúc của người viết, vẽ được sinh động, tạo hình đối tượng miêu tả.
Do đó, ngôn ngữ miêu tả bao giờ cũng là sự phong phú đa dạng của các từ gợi
tả, gợi cảm, các tính từ, động từ, các phép nhân hóa, ẩn dụ, so sánh... Nhờ có sự phối
hợp giữa các tính từ, các động từ, từ tượng thanh, từ tượng hình, từ láy và các biện
6


pháp tu từ hoặc đan xen vào những những đoạn văn tường thuật, kể chuyện… mà ngôn
ngữ trong văn miêu tả luôn gợi lên trong lòng người đọc những cảm xúc, tình cảm, ấn

tượng mạnh về sự vật được miêu tả. Trong SGK TV ở Tiểu học, các đoạn văn trong
chương trình cũng như những đoạn văn làm ngữ liệu trong giờ dạy văn miêu tả đều sử
dụng ngôn ngữ miêu tả giàu cảm xúc và hình ảnh.
1.1.3. Vai trò của văn miêu tả đối với học sinh tiểu học
Phù hợp với đặc điểm tâm lí tuổi thơ (ưa quan sát, thích nhận xét, sự nhận xét
thiên về cảm tính..), góp phần nuôi dưỡng mối quan hệ và tạo nên sự quan tâm của các
em với thế giới xung quanh, trong đó quan trọng nhất là với thiên nhiên, góp phần giáo
dục tình cảm thẫm mĩ, lòng yêu cái đẹp, góp phần phát triển ngôn ngữ ở trẻ… Học văn
miêu tả, HS có thêm điều kiện để tạo nên sự thống nhất giữa tư duy và những tình
cảm, ngôn ngữ và cuộc sống, con người với thiên nhiên, với xã hội, để khêu gợi ra
những tình cảm, cảm xúc, ý nghĩ cao thượng đẹp đẽ.
Ở tiểu học, việc học văn miêu tả góp phần rèn luyện tư duy hình tượng, từ óc
quan sát đến trí tưởng tượng, từ khả năng tái hiện các chi tiết đã quan sát được. Khả
năng tư duy lôgic của HS cũng được phát triển trong quá trình phân tích đề, lập dàn ý.
Trong quá trình sản sinh văn bản cũng giúp HS có kĩ năng phân tích, tổng hợp, phân
loại, lựa chọn. Thông qua viết văn miêu tả HS có sự hiểu biết và tình cảm yêu mến,
gắn bó với đồ vật, cây cỏ thiên nhiên với con người và vạn vật xung quanh: Từ một
quyển sách, đến một cây hoa, một chú gà trống… Từ đây tâm hồn, nhân cách của các
em sẽ được hình thành và phát triển. Như vậy ta thấy rằng việc đưa văn miêu tả vào
ngay từ cấp tiểu học là một việc nên làm và đúng đắn. Bởi nó có vai trò rất quan trọng
và thật sự cần thiết cho sự phát triển toàn diện của HS.
1.1.4. Đặc điểm tâm lý học sinh tiểu học
Ở bậc Tiểu học, lần đầu tiên HS được học văn miêu tả. Các em gặp nhiều khó
khăn cả về tri thức lẫn phương pháp. Do đó việc nắm được đặc điểm tâm lí của HS sẽ
giúp cho GV có những phương pháp thích hợp trong việc giảng dạy trong các giờ học
TLV miêu tả.
1.1.4.1. Tri giác
Tri giác của HSTH mang tính chung chung, đại thể ít đi sâu vào chi tiết và mang
tính không chủ động. Nó còn mang tính tổng thể và chưa đạt trình độ của tri giác phân
biệt. Ở lứa tuổi này, nét đặc trưng nhất của tri giác là tính chất ít phân hóa của nó. Các

7


em khó phân biệt những đối tượng có nét và đặc điểm gần giống nhau. Khi tri giác sự
phân tích có tính chất định hướng, có tổ chức và sâu sắc của trẻ em còn yếu. Vì vậy,
mà khi tri giác một sự vật thì các em phải làm cái gì đó cụ thể với sự vật như: cầm,
nắm, sờ, mó… Các em tri giác những gì phù hợp với nhu cầu của các em, những gì các
em thường gặp trong cuộc sống và gắn với các hoạt động của chúng, những gì mà GV
trực tiếp chỉ dẫn thì các em mới tri giác tốt. Chúng ta thấy rằng, các em tri giác những
sự vật, những dấu hiệu, những đặc điểm nào trực tiếp gây cho các em xúc cảm. Vì vậy,
khi các em tri giác tính xúc cảm thể hiện rất rõ, mang dấu ấn chủ quan.
Chúng ta cũng thấy rằng tri giác không tự bản thân nó phát triển được, trong
quá trình học tập tri giác trở thành hoạt động có mục đích đặc biệt, trở nên phức tạp và
sâu sắc. Chính GV là người tổ chức quá trình hoạt động cho học sinh để tri giác những
đối tượng nào đó, dạy cho trẻ vạch ra những đối tượng, những thuộc tính, bản chất của
sự vật hiện tượng, chỉ dẫn cho HS tri giác một cách có hệ thống và kế hoạch.
1.1.4.2. Chú ý
Sự chú ý không có chủ định là đặc điểm cơ bản của HSTH. Khả năng điều
chỉnh chú ý một cách có ý chí, khả năng chú ý còn bị hạn chế ở HS. Tuy nhiên sự chú
ý có chủ định của trẻ đã được tăng lên, mặt khác sự chú ý của trẻ có khả năng phát
triển ở một số phẩm chất khác về mặt số lượng cũng như về mặt phân hóa chú ý. Sự
chú ý thiếu bền vững của HSTH là do quá trình ức chế còn yếu. HS lớp 1, 2 không thể
tập trung lâu dài vào công việc, chú ý của trẻ dễ bị phân tán. HS lớp 4, 5 có thể duy trì
sự chú ý liên tục trong suốt giờ học. Do vậy, GV cần đưa những tri thức, những hoạt
động mới mẻ nhằm gây sự kích thích chú ý và hứng thú học tập của HS.
1.1.4.3. Trí nhớ
So với lúc tuổi mẫu giáo thì ở HSTH ghi nhớ có chủ định đều đang phát triển.
Sự phát triển trí nhớ của HSTH có sự biến đổi về chất. Đó là sự hình thành và phát
triển của “ghi nhớ có chủ định” phát triển ở mức cao hơn. Tuy vậy, với HSTH cả ghi
nhớ không chủ định và ghi nhớ có chủ định vẫn còn tồn tại song song chuyển hóa và

bổ sung cho nhau trong quá trình học tập. Vì vậy, GV cần nắm chắc và rèn luyện cho
HS cách sử dụng hai loại trí nhớ này một cách hợp lý và hiệu quả.
Ngoài ra chúng ta thấy rằng ngôn ngữ của HSTH ở cuối cấp càng phát triển mạnh
hơn. Vì vậy, mà ngôn ngữ đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy trí nhớ
có chủ định phát triển. Nhờ có ngôn ngữ các em diễn đạt những tri thức đã biết bằng
8


lời, bằng chữ viết của mình, điều này rất quan trọng cho sự phát triển trí nhớ mà còn
cho cả sự phát triển của trí tưởng tượng, tư duy cho các em sau này.
1.1.4.4. Tưởng tượng
Tưởng tượng là một trong quá trình tâm lý rất quan trọng trong hoạt động nhận
thức. Sự nắm vững kiến thức bất kì một lĩnh vực nào không thể thiếu hoạt động tích
cực của tưởng tượng. Để lĩnh hội được tri thức, HS phải tái tạo cho mình những hình
ảnh của hiện thực như: Những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ, những quang cảnh
chưa từng thấy, những đường nét, hình vẽ trong hình học…tất cả những điều đó tạo
điều kiện cho tưởng tượng phát triển. Ở đầu cấp tiểu học, tưởng tượng của các em còn
mang tính trực quan, cụ thể. HS ở cuối bậc tiểu học thì sự hình dung được đối tượng
một cách tương đối đầy đủ trọn vẹn hơn, tưởng tượng càng gần hiện thực hơn. Mặt
khác, đó cũng là nhờ các em biết dựa vào ngôn ngữ để xây dựng hình tượng ngôn ngữ
mang tính khái quát cao và trừu tượng hơn. Trong quá trình phát triển, tưởng tượng
cũng đã dần dần thoát khỏi ấn tượng trực tiếp, hơn nữa tính hiện thực trong tưởng
tượng của HS gắn liền với sự phát triển của tư duy ngôn ngữ.
Từ những đặc điểm trên, trong quá trình dạy học, GV cần tổ chức dạy học theo
hướng cho HS quan sát các sự vật, hiện tượng, mô hình cụ thể cho HS làm các dạng
bài tập mở giúp HS phát triển tốt hơn trí tưởng tượng.
1.1.4.5. Tư duy
Tư duy cũng là một quá trình tâm lý. Nhưng khác với quá trình nhận thức cảm
tính, quá trình tư duy phản ánh dấu hiệu, mối liên hệ bản chất các sự vật hiện tượng
khách quan.

Tuy nhiên, theo các nhà tâm lý học thì sự phát triển tư duy của HSTH diễn ra
theo hai giai đoạn cơ bản (tư duy trực quan cụ thể và tư duy trừu tượng khái quát). Tư
duy của trẻ em ở tiểu học sẽ chuyển dần từ tính trực quan cụ thể sang trừu tượng khái
quát. HSTH khi tiến hành phân tính, tổng hợp, khái quát,…thường căn cứ vào đặc
điểm bên ngoài, cụ thể, trực quan. Nhất là đối với HS đầu bậc tiểu học lớp 1 – 3, tới
lớp 4 – 5 các em đã có thể thoát khỏi ảnh hưởng chủ quan của dấu hiệu trực tiếp, hoàn
toàn dựa vào những tri thức và những khái niệm đã được hình thành trong quá trình
học tập. Ở giai đoạn đầu tư duy của trẻ vẫn bị cái tổng thể chi phối, tư duy phân tích đã
hình thành nhưng còn non và yếu nên các biểu tượng ở trẻ chưa thật chính xác và vững
chắc. Sang giai đoạn hai của tư duy trừu tượng, khái quát thì thao tác của tư duy như
9


phân loại hay tính toán, thao tác về không gian và thời gian đã hình thành và phát
triển. Sự kết hợp các thao tác tư duy là cơ sở của việc hình thành khái niệm. Trẻ đã có
thể thoát khỏi ảnh hưởng chủ quan của những dấu hiệu trực tiếp và hoàn toàn dựa vào
những tri thức, khái niệm đã được hình thành trong quá trình học tập.
Từ những sự phân tích trên ta thấy rằng, trong quá trình dạy học GV cần phải
sử dụng phù hợp các phương pháp dạy học nhằm phát triển năng lực trí tuệ cũng như
nhằm bồi dưỡng những phẩm chất của hoạt động trí tuệ cho HS. Có như vậy, mới nâng
cao chất lượng và hiệu quả trong dạy học.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Vị trí, nhiệm vụ của phân môn tập làm văn ở trường tiểu học
Theo quan điểm của Lê Thị Phương Nga và Nguyễn Trí trong phương pháp dạy
học tiếng Việt 2 ở trường tiểu học thì vị trí và nhiệm vụ của phân môn TLV được xác
định cụ thể như sau:
1.2.1.1. Vị trí phân môn tập làm văn
Môn Tiếng Việt ở tiểu học được chia thành tám phân môn (hay bảy loại bài
học) khác nhau: Học vần, Tập đọc, Tập viết, Chính tả, Từ ngữ, Ngữ pháp, trong đó
TLV có vị trí đặc biệt trong việc dạy và học tiếng Việt xét trên hai phương diện:

- Tận dụng các hiểu biết và kĩ năng về tiếng Việt do các phân môn khác rèn luyện
hoặc cung cấp đồng thời góp phần hoàn thiện chúng. Để làm được bài làm văn nói
hoặc viết, người làm phải hoàn thiện cả bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, phải vận dụng
các kiến thức về tiếng Việt. Trong quá trình vận dụng này, các kĩ năng và kiến thức đó
được hoàn thiện và nâng cao dần.
- Rèn luyện cho học sinh các kĩ năng sản sinh văn bản (nói và viết). Nhờ vậy tiếng
Việt không chỉ là một hệ thống cấu trúc được xem xét từng phần, từng mặt qua từng
phân môn mà trở thành một công cụ sinh động trong quá trình tư duy, giao tiếp, học
tập. Nói cách khác, phân môn TLV đã góp phần hiện thực hóa mục tiêu quan trọng bậc
nhất của việc dạy và học tiếng Việt là dạy học sinh sử dụng tiếng Việt trong đời sống
sinh hoạt, trong quá trình lĩnh hội các tri thức khoa học.
1.2.1.2. Nhiệm vụ phân môn tập làm văn ở trường tiểu học
- TLV có nhiệm vụ rèn luyện kĩ năng viết và nói các kiểu bài miêu tả, kể
chuyện, tường thuật, viết thư. Ngoài các kĩ năng chung của việc viết một văn bản, để
viết được bài văn miêu tả, kể chuyện, tường thuật, GV cần rèn luyện cho HS các kĩ
10


năng đặc thù như kĩ năng quan sát, kĩ năng xây dựng cốt truyện và nhân vật…Bên
cạnh đó việc rèn luyện tâm hồn, cảm xúc, việc tăng vốn sống, vốn hiểu biết trực tiếp
đời sống… cũng là yêu cầu cần phải quan tâm thích đáng nếu GV muốn HS thực sự
viết được các bài văn thuộc kiểu có hồn.
- Ở tiểu học phân môn TLV góp phần rèn luyện tư duy hình tượng; từ óc quan
sát tới trí tưởng tượng, từ khả năng tái hiện các chi tiết đã quan sát được tới khả năng
nhào nặn các vật liệu có thực trong đời sống để xây dựng nên nhân vật, xây dựng cốt
truyện. Khả năng tư duy lôgic của HS cũng được phát triển trong quá trình học các
kiểu bài có phong cách nghệ thuật, việc phân tích đề, lập dàn ý… giúp HS có khả năng
phân tích tổng hợp, phân loại lựa chọn... trở nên sắc bén hơn. Các kiểu bài miêu tả, kể
chuyện, tường thuật, viết thư, viết đơn… giúp HS phát triển vốn động từ, tính từ, tập
vận dụng các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, hoán dụ… và làm nảy sinh tình

cảm yêu mến và gắn bó với thiên nhiên, với mọi người và sự việc xung quanh. Từ đây
tâm hồn và nhân cách của các em hình thành và phát triển.
1.2.2. Nội dung chương trình Tập làm văn miêu tả lớp 4
- Bắt đầu từ tuần 14 HS lớp 4 bắt đầu học thế nào là văn miêu tả, cấu tạo bài
văn miêu tả đồ vật.
- Tuần 15 và 16: Quan sát và luyện tập miêu tả đồ vật.
- Tuần 17 và 18: Đoạn văn trong bài văn miêu tả đồ vật và luyện tập xây dựng
đoạn văn miêu tả đồ vật.
- Tuần 19 và 20: Luyện tập xây dựng mở bài, kết bài trong bài văn miêu tả đồ
vật và kiểm tra viết miêu tả đồ vật.
- Tuần 21 và 22: Trả bài văn miêu tả đồ vật, cấu tạo bài văn miêu tả cây cối, và
luyện tập quan sát, miêu tả các bộ phận của cây cối.
- Tuần 23 và 24: Luyện tập miêu tả các bộ phận của cây cối và xây dựng đoạn
văn miêu tả cây cối.
- Tuần 25 và 26: Luyện tập xây dựng mở bài, kết bài trong bài văn miêu tả cây
cối và luyện tập miêu tả cây cối.
- Tuần 27 và 28: Kiểm tra và trả bài viết miêu tả cây cối.
- Tuần 29 và 30: Cấu tạo của bài văn miêu tả con vật và luyện tập quan sát con
vật.

11


- Tuần 31 và 32: Luyện tập miêu tả các bộ phận của con vật, luyện tập xây dựng
đoạn văn miêu tả con vật và xây dựng mở bài, kết bài trong bài văn miêu tả con vật.
- Tuần 33 và 34: Kiểm tra và trả bài viết miêu tả con vật.

12



1.2.3. Mục tiêu dạy - học văn miêu tả
1.2.3.1. Kiến thức
- Học sinh phải hiểu thế nào là miêu tả ?
- Miêu tả đồ vật: Biết cách quan sát, tìm ý, lập dàn ý bài văn miêu tả đồ vật.
- Miêu tả cây cối: Biết cách quan sát, tìm ý, lập dàn ý bài văn miêu tả cây cối.
- Miêu tả con vật : Biết cách quan sát, tìm ý, lập dàn ý bài văn miêu tả con vật.
1.2.3.2. Kĩ năng
Chương trình TLV miêu tả (nhằm trang bị cho HS những kĩ năng sản sinh ngôn
bản), cụ thể:
- Kĩ năng định hướng hoạt động giao tiếp: Nhận diện đặc điểm văn bản, phân tích đề
bài, xác định yêu cầu.
- Kĩ năng lập chương trình hoạt động giao tiếp: Xác định dàn ý của bài văn đã cho,
quan sát đối tượng tìm ý và sắp xếp ý thành dàn ý trong bài văn miêu tả.
- Kĩ năng thực hiện hoá hoạt động giao tiếp: Đối chiếu văn bản nói, viết của bản thân
với mục đích giao tiếp và yêu cầu diễn đạt, sửa lỗi về nội dung và hình thức diễn đạt.
1.2.3.2. Thái độ
- Rèn cho HS có lòng yêu quý Tiếng Việt.
- Có ý thức rèn luyện văn miêu tả một cách thường xuyên và liên tục.
1.2.4. Các kiểu bài văn miêu tả trong phân môn tập làm văn ở lớp 4
* Miêu tả đồ vật.
* Miêu tả cây cối.
* Miêu tả con vật.
1.3. Thế nào là một bài văn miêu tả hay
Một bài văn hay phải đạt được 3 yêu cầu: Nội dung, hình thức và cách trình bày
* Nội dung:
- Ý tưởng phải ăn khớp với đề bài.
- Ý tưởng phải đúng, mới và đặc biệt.
- Ý tưởng phải súc tích (chứa nhiều ý trong một hình thức diễn đạt ngắn gọn).
- Ý tưởng phải xếp đặt có thứ tự và mạch lạc.
- Ý tưởng cuối cùng (ở phần kết bài) phải khái quát được các ý đã nêu ra.

* Hình thức:
- Viết đúng từ vựng (sử dụng đúng từ ngữ).
13


- Viết đúng nội dung (đặt câu đúng ngữ pháp, có đủ CN, VN).
- Viết đúng dấu câu (sử dụng đúng các dấu câu đã được học).
* Trình bày:
Chữ viết phải rõ ràng, ngay ngắn, đẹp; viết hoa đúng chỗ, các đoạn văn được
phân bố hợp lí (không nên quá dài hoặc quá ngắn).
* Cách dùng từ:
- Phải dùng từ cho chính xác, lựa chọn từ ngữ nào hay nhất để làm cho câu văn
có hồn.
* Một yêu cầu cuối cùng khi viết văn là phải hết sức tránh sự cẩu thả về chữ viết,
về cách trình bày, tránh các sai sót về chính tả. Muốn thế, trong khi viết, chúng ta phải
hết sức chú ý suy nghĩ và vận dụng cho đúng, trình bày cho sáng sủa. Đặc biệt, khi viết
xong bài, phải dành thời gian đọc lại để sửa lại những sai sót (nếu có thể).
1.4. Phương pháp chung khi làm một bài văn miêu tả
1.4.1. Đọc kĩ đề bài
Đọc kĩ đề bài để nắm vững ý nghĩa từng từ, từng câu và tự trả lời 4 câu hỏi sau:
- Đề bài thuộc thể loại văn nào ?
- Đề bài đòi hỏi ta giải quyết những vấn đề gì ?
- Phạm vi bài làm đến đâu ?
- Trọng tâm đề bài ở chỗ nào ?
1.4.2. Tìm ý – lập dàn bài
* Để lập dàn bài cho một bài văn, các em cần đi theo các bước sau:
- Bước 1: Chuẩn bị một tờ giấy nháp trắng để viết toàn bộ nội dung của dàn ý trên
cùng một mặt giấy để tiện theo dõi (không nên ghi dàn ý vào 2 mặt của tờ giấy vì như
thế sẽ khó quan sát được toàn bộ các ý chính cần có của bài văn).
- Bước 2: Ghi sẵn 3 phần lớn của bài văn: 1. Mở bài (MB), 2. Thân bài (TB), 3. Kết

bài (KB). Viết phần 1 xong để cách khoảng 2-3 dòng rồi mới ghi phần 2, phần 3 ghi
xuống cuối tờ nháp, chỉ cần 2-3 dòng là đủ. Các khoảng trống để ta nhập các ý cần
phải có ở mỗi phần vào.
- Bước 3: Nhớ lại những đặc điểm về thể loại, nhớ lại đặc điểm dàn bài chung của thể
loại, dựa vào ý chính của đề để lập một dàn bài chi tiết cho bài văn mình chuẩn bị viết.

14


1.4.3. Viết thành bài văn hoàn chỉnh
Đây là bước quan trọng nhất và cũng là khâu khó nhất. Trên cơ sở dàn bài vừa
lập, em viết thành một bài văn hoàn chỉnh gồm 3 phần (MB,TB, KB), 3 phần này nối
tiếp nhau tạo nên một văn bản thống nhất từ đầu đến cuối để giải quyết vấn đề nêu ra ở
đề bài. Khi viết, phải viết từng câu, nghĩ 2 – 3 câu liền rồi mới viết để các câu đứng
cạnh nhau không bị khập khiễng về cách diễn đạt ý. Khi đặt lời văn để diễn đạt các ý
(đã trình bày ở dàn bài chi tiết), các em lưu ý cách diễn đạt có hình ảnh, gợi cảm và
sinh động bằng cách sử dụng các biện pháp tu từ, các từ ngữ gợi tả, gợi cảm, các từ
tượng thanh, tượng hình,...Ý hay là nhờ ở lời văn rõ ràng, mạch lạc. Vì vậy, chúng ta
cần đặt câu đúng ngữ pháp, tránh viết câu quá dài, tạo nên những câu văn có nhiều ý, ý
luẩn quẩn, lộn xộn hoặc không rõ ràng. Đặc biệt, trong khi trình bày, cần đặt các dấu
câu đúng chỗ, thể hiện đúng nội dung đang trình bày. Sử dụng dấu câu hợp lí, đúng
chỗ cũng là một yếu tố quan trọng giúp cho bài văn của chúng ta trở nên rõ ràng, rành
mạch, quyết định tới 40% thành công của một bài văn. Khi trình bày lưu ý không viết
tắt, không viết chữ số, trừ những số về đo lường và ngày, tháng, năm.
1.4.4. Đọc lại bài văn
Sau khi viết xong, cần đọc lướt lại bài văn để sửa các lỗi về chính tả, dấu câu,
cách dùng từ, diễn đạt các ý liên quan đến đề bài TLV.
Tiểu kết chương 1
Văn miêu tả là một trong những kiểu văn bản có vị trí, vai trò quan trọng. Học
văn miêu tả, HS có thêm điều kiện để phát triển tư duy, tình cảm, năng lực quan sát,

tưởng tượng và hoàn thiện ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ. Vì vậy, mà văn miêu tả luôn được
các nhà giáo dục chú trọng và quan tâm. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu nhằm
mục đích phục vụ cho công việc dạy và học văn miêu tả cho GV và HS.
Rèn kĩ năng viết văn miêu tả là một trong những vấn đề trọng tâm và cần thiết
trong chương trình TLV miêu tả lớp 4. Trong thực tế dạy học, hoạt động rèn kĩ năng
viết văn cho HS còn nhiều hạn chế. GV thì dạy bằng kinh nghiệm của bản thân, chưa
có quy trình viết văn hoàn chỉnh để đảm bảo cho quá trình sản sinh văn bản của các
em. Kĩ năng viết văn của HS có quá nhiều khiếm khuyết: nghèo vốn từ, việc tìm từ, sử
dụng từ chưa chính xác, liên kết ý, câu trong đoạn còn lỏng lẻo, đôi khi mâu thuẫn lẫn
nhau khiến cho việc viết bài văn bị khập khiễng có khi bị lệch lạc. Các giờ học TLV
đôi khi biến thành những giờ đọc văn mẫu làm cho giờ học trở nên nhàm chán, buồn
15


tẻ. Lâu dần GV mất đi nhiệt tình trong việc dạy, HS mất cảm xúc, khả năng độc lập và
sáng tạo trong học tập. Vì vậy, việc rèn kĩ năng viết văn cho HS và một hệ thống các
bài tập hỗ trợ cho việc rèn kĩ năng này là một điều cần thiết, giúp nâng cao kĩ năng viết
văn cho học sinh, nâng cao chất lượng dạy TLV ở Tiểu học.

16


CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG DẠY VÀ HỌC VĂN MIÊU TẢ Ở LỚP 4 TẠI
TRƯỜNG TIỂU HỌC KIM ĐỒNG, TAM KỲ, QUẢNG NAM
2.1. Tình hình chung về địa bàn nghiên cứu

Trường tiểu học Kim Đồng
Trường tiểu học Kim Đồng có cơ sở vật chất đầy đủ, có đủ phòng học, đảm bảo
sạch, đẹp có sân chơi sạch sẽ, có bãi tập cho học sinh, phòng học xây mới lại, trang
thiết bị và các phương tiện kĩ thuật đầy đủ hơn nên thuận lợi cho các em trong việc học

tập.
Trường có đội ngũ GV ổn định, đảm bảo chỉ tiêu. Số GV đạt chuẩn 100%, trường
có đủ các GV chuyên môn Thể dục, Âm nhạc, Mỹ thuật, tiếng Anh trong biên chế,
trường học nội trú và học tại một địa điểm nên thuận lợi cho việc quản lý, chỉ đạo và
sinh hoạt của HS.
Năm học 2013 - 2014 trường có tổng số Cán Bộ - giáo viên - nhân viên là 71
người, trong biên chế 58, hợp đồng trường 26 người.
Chi bộ Đảng có 23 Đảng viên:
+ Ban giám hiệu: 3 (1 hiệu trưởng, 2 hiệu phó); Tổng phụ trách: 01; Tổ VP: 8.
+ Tổ nuôi: 14.
+ Tổng số giáo viên: 46; tỉ lệ GV/ lớp: 46/27 = 1,7.
+ Tổng số lớp 27, số HS là 837 em bình quân 31em/lớp.
+ Trình độ đại học: 26 (đang học: 01); Cao đẳng: 24; Trung học: 01; Tỉ lệ trên chuẩn:
90%.
+ Trình độ trung cấp: 06, quản lý giáo dục: 03.

17


+ Năm học qua có 89% HS đạt loại khá, giỏi. HS lên lớp đạt 99,8%. Hoàn thành
chương trình tiểu học đạt 100%.
+ Đơn vị nhiều năm liền đạt phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi
+ Đầu năm học 2013 – 2014 trường có 837 HS trong đó:
- Khối 1: 219 em/7 lớp.
- Khối 2: 190 em/6 lớp.
- Khối 3: 127 em/4 lớp.
- Khối 4: 142 em/5 lớp.
- Khối 5: 159 em/5 lớp.
2.2. Thực trạng việc dạy và học phân môn TLV miêu tả lớp 4 ở trường tiểu học
Kim Đồng, Tam Kỳ, Quảng Nam

2.2.1. Thực trạng việc rèn kĩ năng viết văn miêu tả của GV cho HS tại trường
tiểu học Kim Đồng, Tam Kỳ, Quảng Nam
* Dạng 1: Tập làm văn nói
Rèn kĩ năng sản sinh văn bản dưới hình thức nói, luyện tập cách nói trước đám
đông thông qua việc trình bày cụ thể. Vì thế trong tiết học, HS nói là chính.
Tiết TLV nói góp phần phát triển HS năng lực nói một bài theo hình thức độc
thoại và mang phong cách khẩu ngữ. Bài nói này có những đặc điểm riêng về nhiều
mặt so với bài viết từ cách triển khai ý đến cách lựa chọn từ ngữ, lựa chọn kiểu câu, từ
cách sử dụng yếu tố phi ngôn ngữ để phụ trợ đến các thủ thuật nhằm thu hút người
nghe. Hiện nay nhiều tiết TLV nói thực chất là tiết đọc chậm hoặc thuộc lòng bài viết
đã chuẩn bị sẵn. Vì thế ảnh hưởng đến kết quả các tiết TLV nói.
Dạng TLV nói rất có ích cho người học khi họ bước vào cuộc sống khi họ tiếp
thu trên các cấp học trên. Khả năng độc thoại theo một đề tài là khả năng mỗi người
thường gặp trong cuộc sống (phát biểu ý kiến về một đề tài trong cuộc họp, các cuộc
thảo luận, tranh luận,..)
Lớp 4 các tiết này được bố trí ở tất cả các kiểu bài TLV, ở từng đề bài trong năm
học. Điều cần quan tâm là một tiết TLV nói hiện chưa mang lại kết quả như mong
muốn do nhiều nguyên nhân: Từ quan niệm về yêu cầu, nhiệm vụ của từng tiết TLV
nói chưa đầy đủ đến việc giải quyết các kĩ thuật cụ thể của việc trên. Trong đó đáng
chú ý nhất là chúng ta chưa tạo ra được hoàn cảnh nói năng kích thích nhu cầu nói của

18


HS. Không có nhu cầu hoặc động cơ thì hành động nói năng của em trở nên gượng
gạo, giả tạo.
Tóm lại, GV cần rèn cho học sinh “tự do nói” nghĩ được điều gì thì thoải mái
diễn đạt ra điều ấy, điều này giúp HS mạnh dạn phát biểu đưa ra ý kiến của mình.
Thường thì các em mang nặng tâm lí đứng lên lo sợ nói sai sẽ bị cô và các bạn chê
cười. Để giải toả gánh nặng tâm lý này, nên để các em tự do đưa ra ý kiến của mình dù

cho ý kiến chưa sát với câu hỏi đặt ra. GV không phủ nhận những suy nghĩ của các em
mà cần khéo léo điều chỉnh, hướng vào trọng tâm đúng mục đích yêu cầu, động viên
các em tự tin hơn khi phát biểu.
GV thay đổi nhiều hình thức học tập để cho nhiều HS được tham gia trình bày ý
kiến của mình. Cần lưu ý những em nhút nhát, động viên khen ngợi kịp thời để các em
phấn khởi, tự tin khi trả lời.
* Dạng 2: Tập làm văn viết
TLV viết nhằm rèn luyện cho HS khả năng viết bài văn theo đề tài đã cho và
thuộc phong cách khác nhau. Trong hai dạng TLV, đây là dạng chúng ta có nhiều kinh
nghiệm và có nhiều thành công hơn. Bài TLV viết là kết tinh nhiều mặt của năng lực
sử dụng tiếng Việt của HS, vì thế bài văn viết được sử dụng để đánh giá năng lực này
qua mỗi học kì, mỗi năm học.
2.2.1.1. Điều tra
* Mục đích điều tra: Nhằm tìm hiểu nhận thức của GV về việc rèn kĩ
năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4.
* Nội dung điều tra: Phiếu điều tra của chúng tôi gồm 10 câu hỏi xoay quanh các
vấn đề về dạy văn miêu tả hiện nay ở lớp 4. (phụ lục 1)
2.2.1.2. Kết quả điều tra
* Kết quả điều tra:
- Thống kê, xử lý số liệu
Số giáo viên điều tra: 5
Địa điểm điều tra: Trường tiểu học Kim Đồng, thành phố Tam Kỳ, Quảng Nam.

19


 Bảng 1: Bảng thống kê kết quả điều tra nhận thức của giáo viên về việc rèn kĩ
năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4.
STT


NỘI DUNG

KẾT QUẢ ĐIỀU TRA
SỐ LƯỢNG

TỈ LỆ %

 Rất quan trọng.

4

80

 Quan trọng.

1

20

 Không quan trọng.

0

0

 Kể chuyện.

1

20


 Miêu tả.

3

60

 Kiểu bài khác.

1

20

 Học sinh không hứng thú.

0

0

 Học sinh nghèo vốn từ, kĩ năng viết văn yếu.

0

0

 Tất cả các ý kiến trên.

5

100


 Chưa bao giờ.

0

0

 Thường xuyên.

1

20

 Thỉnh thoảng.

4

80

 Quan sát, lập dàn ý, triển khai bài viết.

0

0

 Dùng từ, đặt câu, viết đoạn, lên kết đoạn, diễn đạt

0

0


5

100

Tầm quan trọng của việc dạy văn miêu tả ở lớp 4 ?
1

Kiểu bài TLV khó dạy ở lớp 4 ?

2

Những khó khăn khi dạy dạng bài văn miêu tả ?

3

Sử dụng các hệ thống bài tập rèn kĩ năng viết văn
miêu miêu tả cho học sinh ?
4

Học sinh thường yếu nhất những kĩ năng nào khi
viết văn miêu tả ?

5

lưu loát mạch lạc.
 Tất cả các ý kiến trên.

20



Thực hiện nghiêm túc tiết trả bài TLV, khen ngợi và
động viên kịp thời ?
6

7

 Cần thiết.

5

100

 Không cần thiết.

0

0

Ý kiến khác………………………….
Những lỗi mà học sinh thường mắc phải khi viết văn

0

0

 Sai lỗi chính tả, sắp xếp câu văn không lôgic.

0


0

 Dùng thừa từ, lặp từ.

0

0

 Tất cả các ý trên

5

100

 Năng lực truyền thụ của giáo viên.

0

0

 Khả năng tiếp thu của học sinh.

2

40

 Cả hai ý trên.

3


60

 Phong phú.

5

100

 Bình thường.

0

0

 Hạn chế.

0

0

0

0

 Phương pháp luyện tập thực hành.

0

0


 Tất cả các phương pháp trên.

5

100

5

100%

miêu tả ?

Yếu tố quan trọng để làm giàu vốn từ ngữ cho học
sinh là ?
8

Nội dung rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh
trong chương trình SGK Tiếng Việt Tiểu học hiện
nay như thế nào ?
9

Các phương pháp dạy học thường sử dụng nhằm rèn
kĩ năng viết văn miêu tả là những phương pháp nào?
 Phương pháp đàm thoại, Phương pháp giảng
10

Tống
số

giải.


10
 Nhận xét: Qua bảng 1 cho ta thấy:

21


- Có (80%) GV được hỏi cho rằng việc dạy văn miêu tả là rất quan trọng, tuy nhiên
chỉ có (20%) GV cho rằng việc dạy văn miêu tả là bình thường.
- Có (20%) GV được hỏi cho rằng kiểu bài kể chuyện là khó dạy nhất trong chương
TLV lớp 4, nhưng có đến (60%) lại cho rằng đó là kiểu bài văn miêu tả, và có (20%)
lại nghĩ các kiểu bài khác như viết thư, trao đổi ý kiến….. là khó dạy nhất.
- Khi GV được hỏi về những khó khăn khi dạy bài văn miêu tả thì (100%) GV cho
rằng HS không hứng thú, nghèo vốn từ, và kĩ năng hành văn của HS còn rất kém.
- Có (80%) GV được hỏi cho rằng thỉnh thoảng mới sử dụng hệ thống bài tập rèn kĩ
năng viết văn miêu tả cho HS. Và chỉ có (20%) GV thường xuyên sử dụng hệ thống
bài tập rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho HS.
- Khi GV được hỏi HS thường yếu nhất kĩ năng nào khi viết văn thì (100%) GV cho
rằng các vấn đề về lập dàn ý, triển khai bài viết, dùng từ, đặt câu, viết đoạn, lên kết
đoạn, diễn đạt chưa lưu loát mạch lạc, quan sát.
- Có đến (100%) GV cho rằng việc thực hiện nghiêm túc tiết trả bài TLV, khen ngợi và
động viên kịp thời là cần thiết.
- Có đến (100%) GV cho rằng những lỗi mà HS thường hay mắc phải khi viết văn
là: Sai lỗi chính tả, sắp xếp câu văn không lôgic, dùng thừa từ, lặp từ.
- Có đến (60%) GV cho rằng yếu tố quan trọng để làm giàu vốn từ là năng lực
truyền thụ của GV và khả năng tiếp thu của HS. Và chỉ có (40%) GV cho rằng khả
năng tiếp thu của HS là yếu tố quan trọng để làm giàu vốn từ.
- Có đến (100%) GV cho rằng nội dung rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho HS trong
chương trình sách giáo khoa TV Tiểu học hiện nay là phong phú.
- Có (100%) GV khi được hỏi cho rằng phương pháp dạy học thường sử dụng nhằm

rèn kĩ năng viết văn miêu tả là những phương pháp phương pháp đàm thoại, phương
pháp giảng giải, phương pháp luyện tập thực hành.
 Kết luận về việc rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho HS
Từ kết quả điều tra cho chúng ta thấy một thực tế rằng: Hiện nay việc rèn kĩ
năng viết văn nói chung và thể loại văn miêu tả nói riêng cho HS vẫn chưa thực sự
được chú trọng đúng mức. Việc các bài văn miêu tả của các em chưa được hay, chưa
được sinh động là do nhiều yếu tố và nguyên nhân tác động khác nhau, có thể kể đến
là: Do vốn từ nghèo, sắp xếp các câu văn không lôgic, cách diễn đạt lủng củng… của
HS còn hạn chế nên bài viết của các em chưa tốt, hay ngay chính bản thân người GV
22


cũng gặp phải những khó khăn nhất định trong việc hướng dẫn rèn kĩ năng viết văn
sao cho phù hợp. Mặt khác, GV chưa thực sự chủ động và linh hoạt trong việc vận
dụng các bài tập cơ bản để rèn kĩ năng viết văn cho HS, bản thân người GV đôi lúc
còn lúng túng và chưa thật sự xem trọng việc rèn các kĩ năng viết văn
cho HS.
2.2.2. Thực trạng về việc học TLV (miêu tả) của học sinh lớp 4 tại trường tiểu
học Kim Đồng, Tam Kỳ, Quảng Nam
Thực tế giảng dạy các tiết TLV tôi nhận thấy kĩ năng viết văn của HS lớp 4 còn
rất hạn chế.
2.2.2.1. Điều tra
- Mục đích điều tra: Nhằm tìm hiểu về tình hình học tập thể loại văn miêu tả hiện nay
của HS lớp 4.
- Nội dung điều tra: Phiếu điều tra của chúng tôi gồm 10 câu hỏi điều tra về tình hình
học văn miêu tả của HS (phụ lục 2).
2.2.2.2. Kết quả điều tra
* Thống kê, xử lý số liệu
Số học sinh điều tra: 62 (HS lớp 4/4 và lớp 4/5)
Địa điểm điều tra: Trường tiểu học Kim Đồng, thành phố Tam Kỳ, Quảng Nam.

 Bảng 2: Thống kê điều tra về tình hình học tập văn miêu tả của học sinh lớp 4
STT

NỘI DUNG ĐIỀU TRA

KẾT QUẢ ĐIỀU TRA
SỐ LƯỢNG

TỈ LỆ %

 Lập dàn ý, tìm ý.

16

25.8

 Thiếu tư liệu, khó diễn đạt, viết đoạn.

19

30,6

 Tất cả phương án trên.

27

43,5

 Chỉ từ 15 đến 20 phút.


32

51,6

 1 giờ trở lên.

10

16,1

 Gần 1 giờ.

20

32,2

Các em thường gặp vấn đề gì khó nhất trong quá
trình viết văn miêu tả ?
1

Các em dành bao nhiêu thời gian học TLV ?
2

23


Trong 3 kiểu bài văn miêu tả em thích kiểu bài nào
nhất ?
3


 Miêu tả đồ vật.

10

16,1

 Miêu tả con vật.

25

40,3

 Miêu tả cây cối.

27

43,5

 Thường xuyên.

12

19,4

 Thỉnh thoảng.

15

24,2


 Không bao giờ.

35

56,4

7

11,3

45

72,6

10

16,1

 Thường xuyên.

9

14,5

 Thỉnh thoảng.

28

45,2


 Không bao giờ.

25

40,3

 Thường xuyên.

15

24,2

 Thỉnh thoảng.

29

46,8

 Không bao giờ.

18

29

Các em có xác định vốn từ cần thiết cho việc miêu
tả đối với đề bài ?
4

Sách tham khảo, văn mẫu các em thường sử dụng
khi nào ?

 Bố mẹ quản lý, sử dụng để làm tư liệu dạy em
học.
5

 Đề văn nào khó thì chép nguyên xi hay làm
tương tự như thế.
 Đọc lấy câu từ hay sao chép vào sổ nhỏ làm tư
liệu.
Các em có thường xuyên đọc các sách văn mẫu,
sách, báo các loại để trau dồi vốn từ hay không ?

6

Các em có lập dàn ý trước khi làm bài hay không ?

7

24


×