PHẦN MỞ ĐẦU
Dân tộc Việt Nam anh hùng đã trải qua hơn bốn ngàn nǎm lịch sử dựng nước
và giữ nước. Với ý chí quật cường ông cha ta đã viết nên những trang sử vàng chói
lọi, vẻ vang mà không thể không kể đến sự hiện diện của một nền ngoại giao tinh tế
và hiển hách. Việt Nam là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, phía Bắc
tiếp giáp với Trung Quốc, phía Tây và Tây nam tiếp giáp với Lào và Campuchia,
phía Đông và phía Nam giáp biển Đông. Nước ta có vị trí đặc biệt quan trọng ở khu
vực Đông Nam Á là nơi tiếp giáp, là chiếc cầu nối giữa Đông Nam Á lục địa và
Đông Nam Á hải đảo. Với vị trí địa lí đặc thù như vậy, trừ một nghìn năm Bắc
thuộc, ngoại giao luôn được xem là một vấn đề quan trọng, sống còn, được quan
tâm đặc biệt xuyên suốt các triều đại phong kiến khác nhau từ vua Hùng Vương, An
Dương Vương, Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê,… cho đến nhà Nguyễn.
Nói ngoại giao của một quốc gia nghĩa là nói quan hệ của nước đó đối với
cộng đồng quốc gia chung quanh, và quan hệ do xuất phát từ yêu cầu tạo một môi
trường quốc tế thuận lợi để đất nước sinh tồn và phát triển. Mục đích chung của
chính sách đối ngoại là duy trì độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thỗ. Tuy nhiên, ở
mỗi thời kì lại có những hoàn cảnh lịch sử, điều kiện khác nhau nên mỗi triều đại,
chính sách ngoại giao của Đại Việt đối với các nước láng giềng trong khu vực có
những sự khác nhau nhất định, điều chỉnh phù hợp. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề
ngoại giao của các triều đại phong kiến trong lịch sử là rất phức tạp song vô cùng
cần thiết. Những sách lược mà triều đình phong kiến thực hiện thông qua ngoại
giao với các nước luôn trực tiếp hoặc gián tiếp phản ánh tình hình chính trị, kinh tế,
xã hội đương thời, giúp chúng ta nhìn nhận, đánh giá đúng vị thế, sức mạnh của
triều đại đó trong tương quan với các nước trong khu vực.
Tuy nhiên, cho tới nay vẫn chưa có một công trình giới thiệu một cách có hệ
thống và tương đối toàn diện hoạt động ngoại giao Việt Nam trong tiến trình lịch sử
dân tộc, kể cả một giáo trình về lịch sử ngoại giao nước ta để giảng dạy cho sinh
viên ở Học viện Quan hệ quốc tế cũng chỉ mới bắt đầu được xây dựng. Là một sinh
viên đại học chuyên nghành lịch sử, em nhận thấy đây là một đề tài rộng lớn, mở ra
nhiều hướng nghiên cứu trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Bài viết này tập trung
trình bày quan hệ bang giao của vương triều Lê sơ đối với các nước trong khu vực
thế kỉ XV.
Trong bức tranh về lịch sử các vương triều, thời kỳ Lê sơ ở Việt Nam (14281527) là thời kỳ phong kiến với đầy đủ những cung bậc thăng trầm của lịch sử. Nhà
Lê sơ được thành lập từ kết quả thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn kéo dài 10
năm chống lại sự đô hộ của nhà Minh (Trung Quốc) do Lê Lợi lãnh đạo. Thời Lê sơ
1
kéo dài đúng 100 năm, có 11 vị vua thuộc 6 thế hệ, đây là thời kỳ các vua Lê nắm
trọn được quyền hành, cũng là thời kỳ vĩ đại, hoàng kim của chế độ phong kiến
Việt Nam. Đặc biệt dưới thời Lê Thánh Tông, Đại Việt đã trở thành một quốc gia
cường thịnh bậc nhất Đông Nam Á lúc bấy giờ. Để làm được điều đó, song song
với việc hoàn thiện chế độ chuyên chế trung ương tập quyền, phục hồi và phát triển
kinh tế - xã hội các vua Lê còn chú trọng đến sự nghiệp bang giao và bảo vệ biên
cương. Vua Lê Thánh Tông căn dặn các quan trong triều “Một thước núi, một tấc
sông của chúng ta lẽ nào lại tự tiện vứt bỏ đi được… Nếu ngươi dám đem một
thước núi, một tấc đất đai của Thái Tổ để làm mồi cho giặc, ngươi sẽ bị tri di”. [1]
Nghiên cứu vấn đề ngoại giao của vương triều Lê sơ phần nào phản ánh khả
năng, thực lực, vị thế của triều đình phong kiến nhà Lê và khẳng định vai trò, đóng
góp to lớn của triều đại này trong lịch sử huy hoàng của dân tộc. Thông qua sự khái
quát một số đặc điểm cơ bản về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa lúc bấy giờ để
thấy được nhà Lê sơ đã tạo dựng được cơ sở, địa vị uy tín với các nước láng giềng.
Đó chính là cơ sở, là điểm tựa để vua Lê triển khai nhiều chủ trương, biện pháp
ngoại giao đúng đắn, tinh tế và giành được những thắng lợi quan trọng trong sự
nghiệp bang giao bảo vệ và phát triển biên cương. Tìm hiểu hoạt động ngoại giao
còn để rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết có thể vận dụng kết quả cho hiện
tại, đó là việc làm vừa có ý nghĩa khoa học vừa có ý nghĩa thực tiễn. Trên cơ sở
khai thác nhiều nguồn tư liệu về lịch sử cổ - trung đại Việt Nam, đồng thời sử dụng
nhiều phương pháp nghiên cứu như so sánh, phân tích, tập hợp số liệu. Sử dụng
phương pháp liên nghành vận dụng kiến thức của nhiều ngành khoa học khác nhau
như địa lí, văn học, tôn giáo…để cùng nhận rõ tâm lực, tài trí, bản lĩnh đáng tự hòa
của ông cha xưa trong vấn đề ngoại giao thế kỉ XV. Cũng qua đó nhận thức sâu sắc
hơn về truyền thống tốt đẹp của ngoại giao Việt Nam, một truyền thống được định
hình ngay từ buổi đầu dựng nước, ngày càng củng cố và phát triển và vẫn tiếp nối
cho đến ngày nay.
Đây là toàn bộ nội dung mà em muốn đề cập đến trong bài viết này. Tuy nhiên
với thời gian và trình độ có hạn bài làm sẽ khó tránh khỏi những thiếu sót rất mong
được sự góp ý của thầy cô giáo để bài làm được tốt hơn. Cũng qua đây em xin chân
thành cảm ơn giảng viên đã tận tình giúp đỡ em, tạo điều kiện và hướng dẫn em
hoàn thành đề tài này.
Bố cục của bài viết được chia làm 3 phần:
2
Phần I: Khái quát vài đặc điểm cơ bản về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội thời Lê Sơ
Phần II: Quan hệ bang giao của vương triều Lê sơ đối với các nước trong
khu vực
Phần III: Kết luận chung
_______________
[1] Tất cả những chữ in nghiêng trong bài này không có dấu chú thích đều trích từ Ngô Sỹ
Liên và sử thần triều Lê, Đại Việt sử ký toàn thư (Bản dịch), Tập II, Nxb. KHXH, H, 1993.
3
PHẦN I
KHÁI QUÁT VÀI ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN VỀ CHÍNH TRỊ, KINH TẾ,
VĂN HÓA, XÃ HỘI THỜI LÊ SƠ
Sau khi đánh thắng quân Minh xâm lược và thả hàng chục vạn tù hàng binh
cho về Trung Quốc, tháng tư năm Mậu Thân (1428), Lê Lợi đưa quân đội và quần
thần vào kinh thành Thăng Long. Ngày 15 tháng tư năm Mậu Thân, tức 29 tháng 4
năm 1428, Lê Lợi lên ngôi vua, xưng hiệu Thuận Thiên hoàng đế, đặt tên nước là
Đại Việt. Khi ông mất, triều thần đặt miếu hiệu là Lê Thái Tổ.
Sau ngày “Bình Ngô đại cáo”, kỉ nguyên mới của nước Đại Việt bắt đầu. Triều
Hậu Lê kéo dài 361 năm (1428 – 1789), được chia làm 2 thời kì : Lê sơ và Lê
Trung hưng. Thời Lê sơ được tính từ khi Lê Lợi lên ngôi (1428) đến khi Mạc Đăng
Dung cướp ngôi (1527), gồm 11 đời vua, trong đó Lê Thái Tổ là người sáng lập, Lê
Thánh Tông là người đưa vương triều Lê đến giai đoạn thịnh trị nhất.
Nhìn lại 100 năm triều đại Lê sơ, thấy nổi lên những đặc điểm sau:
1. Tình hình chinh trị
* Bộ máy chính quyền
Một công việc thiết yếu mà các vua thời Lê sơ đều quan tâm và cố gắng thực
hiện là kiện toàn bộ máy nhà nước quân chủ tập trung, mang tính quan liêu chuyên
chế. Đến thời Lê Thánh Tông (1460 – 1497), nó đạt tới đỉnh cao, trở thành một nhà
nước toàn trị, cực quyền. Đây là một bước ngoặt lịch sử, một sự chuyển đổi mô
hình, từ nền quân chủ quý tộc thời Lý - Trần mang đậm tính Phật giáo màu sắc
Đông Nam Á sang một nền quân chủ quan liêu Nho giáo Đông Á.
Trong thiết chế quân chủ tuyệt đối thời Lê sơ, vai trò của nhà vua đã được đẩy
lên rất cao với chủ nghĩa “tôn quân”. Theo đó, nhà vua là “con Trời”, Người giữ
mệnh Trời, thay Trời trị dân; Điện Kính Thiên được xây trong Hoàng thành Thăng
Long. Hoàng đế là người chủ tế duy nhất trong các buổi tế lễ (tế Trời, tế Tôn miếu,
tế Khổng Tử), là Tổng chỉ huy quân đội (Lê Thánh Tông đích thân cầm quân đi
đánh Champa). Thời Lê Thánh Tông, chức Tướng quốc (Tể tướng) đầu triều và một
số chức danh đại thần khác đã bị bãi bỏ. Hoàng đế trực tiếp điều khiển triều đình.
Quyền lực của các quý tộc tôn thất cũng bị hạn chế, không được lập quân vương
hầu, phủ đệ, Lê Thánh Tông bỏ lệ ban Quốc tính.
4
Bộ máy quan liêu hành chính và chuyên môn cũng được kiện toàn từng bước.
Năm 1471 , Lê Thánh Tông đã tiến hành một đợt cải cách hành chính lớn (dụ Hiệu
định quan chế) nhằm tăng cường sự kiểm soát chỉ đạo của Hoàng đế đối với các
triều thần, tăng cường sự ràng buộc, kiểm soát lẫn nhau trong giới quan liêu, tăng
cường tính hiệu lực và hiệu quả của bộ máy quan lại.
Trong triều đình, dưới quyền điều khiển trực tiếp của nhà vua là 6 bộ: Lại, Hộ,
Lễ, Binh, Hình, Công, đứng đầu là Thượng thư, giúp việc có 2 Thí lang. Bên cạnh
đó, còn có Lục khoa với chức năng theo dõi, giám sát và Lục tự với chức năng điều
hành. Những cơ quan chuyên môn trong triều gồm có cácđài, các viện, giám, sảnh
như Ngự sử đài, Hàn lâm viện. Quốc tử giám, Nội thị sảnh …
Về mặt hành chính, trước đó, Lê Thái Tổ chia nước thành 5 đạo. Lê Thánh
Tông đã cải tổ lại, chia thành 13 đạo (sau đổi là 13 thừa tuyên). Dưới đạo thừa
tuyên có 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, cùng các đơn vị cơ sở như hương, xã, thôn,
trang, sách, động, nguồn, trường. Riêng kinh thành Thăng Long được chia thành 36
phường.
* Quân đội
Quân đội thời Lê sơ là một quân đội mạnh, được huấn luyện kỹ, có nhiều kinh
nghiệm chiến đấu. Sau cuộc kháng chiến chống Minh thắng lợi, Lê Lợi có 35 vạn
quân, sau khi cho giải ngũ, còn 10 vạn.
Quân đội được chia thành cấm binh và ngoại binh. Lê Thái Tổ chia quân thành
5 phiên, Lê Thánh Tông đổi thành 5 phủ (quân khu). Cũng như thời Lý – Trần, nhà
Lê đã áp dụng chính sách “ngụ binh ư nông”, cho quân lính thay phiên về làm
ruộng.
Theo chế độ tuyển quân, cứ 3 đinh lấy một lính thường trực (tráng hạng) và
một lính trù bị (quân hạng). Có các loại quân thủy, bộ, tượng, kỵ. Vũ khí ngoài giáo
mác, cung tên, có hỏa pháo và hỏa đồng. Chế độ tập luyện quy củ. Hàng năm, quân
sĩ từ Thanh Hóa trở ra tập duyệt ở Kinh đô, từ Thanh Hóa trở vào tập duyệt tại địa
phương. Ở phía tây thành Thăng Long, có khu Giảng Võ điện, Giảng Võ đường
chuyên huấn luyện tướng sĩ.
* Luật pháp
Trong việc trị nước, bên cạnh lễ giáo, các vua thời Lê sơ rất chú trọng đến việc
chế định pháp luật. Lê Thánh Tông nói: “Pháp luật là phép công của nhà nước, vua
cùng quan đều phải theo”. Đến thời Hồng Đức, Lê Thánh Tông đã cho ban hành bộ
luật thành văn hoàn chỉnh, gồm 722 điều, được gọi là Quốc triều hình luật hay Bộ
5
luật Hồng Đức, sẽ được duy trì và bổ sung ở các thế kỷ sau. Về hình thức, đó là bộ
luật hình sự (với khung ngũ hình : suy, trưởng, đồ, lưu, tử), nhưng thực chất là bộ
luật tổng hợp, có các điều khoản về điền sản, dân sự, hôn nhân gia đình… Nội dung
cơ bản của Bộ luật này là bảo vệ vương quyền, chế độ quan liêu, trật tự đẳng cấp,
gia đình phụ hệ gia trưởng và ý thức hệ Nho giáo. Luật quy định 10 trọng tội không
thể nhân nhượng được (thập ác) và 8 hạng người có thể miễn giảm tội (bát nghị).
Luật hồng Đức là bộ luật xưa nhất còn lại ở nước ta, bộ luật mang tính đẳng
cấp khẳng định ý chí của giai cấp thống trị nhưng nhiều điều khoản đã lưu ý đến
những tập quán cổ truyền mang tính đặc hữu dân tộc. Đặc biệt là ý thức bảo vệ
quyền lợi của phụ nữ, của dân đinh tự do và ý thức bảo vệ độc lập toàn vẹn lãnh
thổ, được coi là tiến bộ hơn so với luật Trung Quốc đương thời.
2. Tình hình kinh tế
Nhà nước quân chủ chuyên chế thời Lê sơ là một nhà nước mạnh và ổn định.
Trong sự phục hồi và phát triển kinh tế, Nhà nước đó đã đề cao vai trò chỉ đạo và sự
can thiệp của mình vào đời sống kinh tế – xã hội, duy trì sự cân bằng giữa những
yếu tố nhà nước và dân gian, công hữu và tư hữu. Thời Lê sơ, nền kinh tế tiểu nông
– sản xuất nhỏ làng xã đã được duy trì và khuyến khích, với sự can thiệp và bảo hộ
của một Nhà nước thu tô, trọng nông. Nhà nước đó cũng có thái độ dè dặt, không
khuyến khích nền kinh tế công thương nghiệp hàng hóa phát triển, nắm độc quyền
gian thương với nước ngoài.
* Nông nghiệp
Ruộng đất thời Lê sơ bao gồm ruộng đất Nhà nước, ruộng công làng xã và
ruộng tư.
Ruộng Nhà nước thường được gọi là quan điền. Có ruộng quốc khố là những
ruộng do Nhà nước trực tiếp quản lý và sản xuất, thu hoạch đưa vào kho công. Lộc
điền là loại ruộng của Nhà nước ban cấp cho những quan liêu cao cấp (từ tứ phẩm
trở lên), gồm có ruộng ban cấp được phép thừa kế (ruộng thể nghiệp) và ruộng ban
cấp tạm thời, có thể thu hồi lại sau khi chết (ruộng ân tứ). Diện tích lộc điền có thể
thay đổi từ 40 mẫu (quan tứ phẩm) đến trên 2000 mẫu (các thân vương). Người
được cấp chỉ được hưởng hoa lợi, tô thuế, có một số hộ người hầu nhưng không có
nông nô và nô tì.
Ruộng làng xã gồm có các loại công điền và tư điền. Thời Lê sơ, tuy ruộng tư
đã phát triển, nhưng ruộng công vẫn chiếm ưu thế, qua việc thực hiện phép quân
điền.
6
Chính sách “quân điền” bắt đầu từ thời Lê Thái Tổ. Chính sách “quân điền”
thời Lê sơ là một bước trong quá trình phong kiến hóa làng xã, chuyển từ nền kinh
tế điền trang quý tộc sang nền kinh tế tiểu nông. Qua đó, Nhà nước đã nắm được
làng xã và dân chúng tăng nguồn thu nhập (qua nghĩa vụ tô thuế, lao dịch, binh
dịch). Mặt khác, phát triển được sản xuất và ổn định được đời sống nhân dân. Đó là
một biện pháp tích cực trong chính sách ruộng đất thời Lê sơ, nhưng sau đã dần dần
mất tác đụng do nạn chấp chiếm ruộng đất.
Bên cạnh ruộng công, ruộng tư thời Lê sơ cũng đã phát triển, một số là của địa
chủ quan liêu và đại bộ phận là của địa chủ bình dân. Sự phát triển của ruộng tư
thời Lê sơ phản ánh xu thế phát triển khách quan về ruộng đất trong lịch sử Việt
Nam, xác lập quan hệ sản xuất phong kiến phổ biến địa chủ – tá điền trong xã hội.
Tuy nhiên, đây là một quá trình tư hữu hóa không tự nhiên, không được Nhà nước
khuyến khích, nên đã dẫn đến những tệ nạn như chiếm công vi tư, chấp chiếm
ruộng đất… dần dần đi tới tình trạng khủng hoảng ruộng đất.
Nhà nước Lê sơ là một Nhà nước trọng nông, đã đề ra nhiều biện pháp để
khuyến khích và phát triển nông nghiệp. Quan điểm trọng nông là một chính sách
truyền thống của các vương triều phong kiến Việt Nam. Nó cũng xuất phát từ
nguyên lý trọng bản, ức mạt của Nho giáo. Vì vậy, thời Lê sơ, quan điểm trọng
nông bắt đầu đi kèm với quan điểm ức thương.
* Thủ công nghiệp
Nhà nước Lê sơ một mặt dung dưỡng nền sản xuất nhỏ thủ công nghiệp trong
các làng xã, mặt khác đẩy manh hoạt động của các quan xưởng thuộc thủ công
nghiệp Nhà nước. Ở nông thôn, đã xuất hiện nhiều làng chuyên nghề như Bát Tràng
(gốm sứ), Huê Cầu (nhuộm thâm). Ở kinh thành Thăng Long, Dư địa chí ghi lại
một số phường chuyên nghề nổi tiếng như Tàng Kiếm làm kiệu, áo giáp, Yên Thái
làm giấy, Nghi Tàm và Thuỵ Chương dệt vải lụa, Hà Tân nung vôi, Hàng Đào
nhuộm điều, Tả Nhất làm quạt, Đường Nhân bán áo diệp y.
* Thương nghiệp
Hoạt động thương nghiệp chủ yếu ở thời Lê sơ là nền buôn bán nhỏ thông qua
mạng lưới chợ ở nông thôn và thành thị. Nhà Lê đã ban hành lệ lập chợ, khẳng định
“trong dân gian hễ có dân là có chợ, để lưu thông hàng hoá”, quy định nguyên tắc
họp chợ luân phiên. Ở Thăng Long – Đông Kinh, các thương nhân từ các nơi về,
đua nhau mở hàng quán phố xá buôn bán. Họ được triều đình cho phép ở lại sinh
nhai, để cho hàng hóa lưu thông và nhà nước cũng có được khoản thu từ thuế
7
(1481). Thời Lê sơ, Nhà nước bỏ lệ tiêu tiền giấy của nhà Hồ, cho lưu thông tiền
đồng.
Riêng việc buôn bán với nước ngoài, Nhà nước đã kiểm soát nghiêm ngặt các
cáng khẩu, như Vân Đồn, Vạn Ninh, (Quảng Ninh), Càn Hải, Hội Thống (Nghệ
An), cấm dân chúng tự tiện buôn bán trao đổi hàng hóa với các tàu buôn ngoại
quốc, thi hành chính sách “bế quan toả cảng”.
3. Tình hình văn hóa-xã hội
* Kết cấu xã hội
Xã hội Đại Việt thời Lê sơ là một xã hội tương đối ổn định và phát triển, bản
chất của xã hội nông nghiệp đồng thời là một xã hội mang tính đẳng cấp đã chín
muồi. Có hai đẳng cấp chính: quan liêu và thứ dân. Quan liêu là đẳng cấp cầm
quyền, cai trị, đồng thời cũng được coi là tầng lớp ưu tú của xã hội, yêu nuôi và
giáo hóa dân chúng. Đẳng cấp thứ dân (bách tính) là giai tầng xã hội bì cai trị, bao
gồm 4 tầng lớp chính : sĩ, nông, công, thương. Giai cấp phong kiến luôn có ý thức
dùng uy lực của mình để tăng cường và phổ biến lễ giáo phong kiến, giữ vững sự
ổn định của xã hội. Thời Lê sơ các quan hệ giai cấp (địa chủ phong kiến và nông
dân) đã đan chen vào các quan hệ đẳng cấp.
*Tình hình tư tưởng văn hóa
Nhìn chung, thời Lê sơ, văn hóa Đại Việt đã chuyển sang sự ưu thắng của văn
hóa Đông Á, Nho học - Nho giáo.
Đây là thời kỳ diễn ra một sự phân dòng văn hóa. Dòng văn hóa dân gian làng
xã không được nhà nước khuyến khích, đã tách khỏi dòng văn hóa cung đình. Sự
phân dòng văn hóa này đã phản ánh sự phân tầng đẳng cấp ngoài xã hội. Chính việc
trọng người hiền tài cũng như nền giáo dục khoa bảng phát triển vào thời Lê sơ đã
đào tạo được đội ngũ nhân tài đáng kể cho đất nước. Họ chính là chủ nhân của
dòng văn hóa bác học, có đóng góp nhiều cho văn hóa dân tộc ở các lĩnh vực văn
học, sử học, địa lý học, toán học, y học… như các công trình Đại Việt sử ký toàn
thư của Ngô Sĩ Liên, Việt giám thông khảo của Vũ Quỳnh, Thiên Nam ngữ lục của
ĐỗNhuận, Bản thảo thực vật toát yếu của Phan Phu Tiên, Bảo anh lương phương
của Nguyễn Trực, Đại thành toán pháp của Lương Thế Vinh …
Tuy nhiên, trên thực tế, các yếu tố văn hóa khác biệt nhau vẫn cùng tồn tại,
chung sống hòa bình, như giữa Nho và Phật, Đạo, giữa văn hóa chính thống và văn
hóa dân gian. Mô hình ý thức hệ đã phải nhân nhượng với thực trạng văn hóa.
8
Thế kỷ XV Đại việt đã phát triển trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị,
văn hóa và xã hội.
Hình thành từ những thế kỷ trước, muộn nhất là vào thời nhà Lý, chế độ phong
kiến Đại Việt - thuộc loại hình phong kiến nhà nước quan liêu đã được xác lập vững
chắc vào thế kỷ XV, dưới triều Lê sơ.
Triều Lê sơ thành lập, có thể được coi như một bước ngoặt lịch sử, trong
những điều kiện thuận lợi cho những yếu tố phong kiến phát triển. Ở đây, một nhà
nước chuyên chế toàn năng, can thiệp vào mọi mặt đời sống xã hội, đã được xác
lập. Đẳng cấp quan liêu được tuyển lựa qua khoa cử, đã trở thành lực lượng thống
trị, ngày càng xa cách khối quần chúng bình dân làng xã. Trên danh nghĩa, Nho
giáo được coi như một hệ tư tưởng phong kiến chính thống độc tôn. Thiết chế - hệ
tư tưởng phong kiến đến giai đoạn này, đã được hoàn chỉnh. Những chuyển biến về
kinh tế - xã hội thời Lê sơ cũng ngày càng ngả sang màu sắc phong kiến. Sự phân
hóa đẳng cấp trở nên sâu sắc, trên quy mô xã hội ở tầng vĩ mô, cũng như trong quy
mô làng xã ở tầng vi mô.
Nói tóm lại, thời Lê sơ, cả ở mặt mô hình thiết chế, hệ tư tưởng lẫn mặt thực
thể kinh tế - xã hội, những yếu tố phong kiến đã chiếm ưu thế. Chế độ phong kiến
nhà nước quan liêu Đại Việt đã được xác lập vững chắc, khoảng cách giữa danh và
thực (giữa mô hình và thực thể) ở mức độ nhỏ nhất. Thế kỷ XV được coi là một thế
kỷ cổ điển của chế độ phong kiến Việt Nam. Triều Lê sơ, vì vậy, đã có một vị thế
quan trọng và được đánh giá cao trong lịch sử dân tộc, qua sự nghiệp giữ nước và
dựng nước. Đất nước phát triển về mọi mặt từ kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, thi
cử, quân sự... Nước Đại Việt chưa bao giờ cường thịnh bằng thời này. Sự nỗ lực của
các vị vua đã tạo dựng được cơ sở, địa vị uy tín với các nước láng giềng để thực
hiện những chính sách ngoại giao tích cực thu được nhiều thắng lợi cho đất nước.
PHẦN II
QUAN HỆ BANG GIAO CỦA VƯƠNG TRIỀU LÊ SƠ ĐỐI VỚI CÁC
NƯỚC TRONG KHU VỰC
Ý thức về độc lập, về toàn vẹn núi sông, từ lâu đã hình thành tiềm tàng trong
nhận thức của các chính quyền nhà nước Việt thời tự chủ. Qua 20 năm bị giặc Minh
đô hộ, áp bức, đồng hóa non sông, Đại Việt được giành lại bằng bao nhiêu hi sinh
xương máu của các thế hệ, nên ý thức đó càng trở nên rất rõ, cụ thể và sinh động
9
đối với thể hệ mở nước. Chính vì vậy, đối với vấn đề bảo vệ quốc phòng toàn vẹn
lãnh thổ, an ninh quốc gia nói chung và quan hệ ngoại giao nói riêng các triều vua
từ Thái Tổ (1428-1433), Thái Tông (1434-1442), Nhân Tông (1443-1459), Thánh
Tông (1460-1497), Hiến Tông (1497-1503)… đều thực hiện những chính sách
ngoại giao vừa mềm dẻo, linh hoạt vừa cứng rắn, cương quyết đối với Trung Quốc
(nhà Minh) và các nước láng giềng trong khu vực để bảo vệ hòa bình dân tộc.
“Biên phòng hảo vị trù phương lược, xã tắc ưng tu kế cửu an” lời răn dạy của Lê
Thái Tổ, đâu chỉ khắc trên đá núi miền biên cương Tây Bắc năm 1431 mà đã trao
truyền và khảm sâu vào nhận thức tình cảm và lí trí của các thế hệ kế tiếp.
Triều Hậu Lê tồn tại hơn 300 năm, thời kỳ thịnh trị là từ Lê Thái Tổ đến hết
thế kỷ XV, tức hết thời vua Lê Thánh Tông. Trong thời kỳ thịnh trị, việc bang giao
với các nước láng giềng, nhà Lê có nhiều thuận lợi.
Lịch sử quan hệ ngoại giao của Đại Việt với các nước lân bang như Trung Hoa
ở phía bắc, Ai Lao (Lào ngày nay) ở phía tây, Chămpa ở phía nam đã tạo nên một
mạng lưới giao thoa chằng chịt tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và xuyên xuốt
diễn trình lịch sử Việt Nam. Bên cạnh người láng giềng phương bắc hùng mạnh,
luôn có xu hướng thâu tóm, đồng hóa và sáp nhập Đại Việt thành một phần lãnh thổ
của họ, Đại Việt còn phải ứng xử với những người láng giềng ở phía tây và phía
nam. Không to lớn, vĩ đại như người khổng lồ Trung Hoa nhưng Chămpa và Ai Lao
luôn làm cho các triều đại trong lịch sử Việt Nam phải để mắt, tính toán đến mỗi
khi có những biến cố quan trọng. Đặc biệt là với người Chămpa ở phương nam mà
sử Việt hay Tàu trước kia gọi là Lâm Ấp, rồi Chiêm Thành.
1.
Ngoại giao với Trung Quốc
Thời Lê sơ lĩnh vực bang giao với nhà Minh vẫn rất phức tạp như các vấn đề
giải quyết hậu quả sau cuộc chiến, vấn đề biên cương trên đất liền và biển đảo,
buôn bán, cống nạp… Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí đã nhận
xét rất đúng khi nói rằng: "Trong việc trị nước, hoà hiếu với nước láng giềng là
việc lớn…Nước Việt ta có cả cõi đất phía Nam mà thông hiếu với Trung Hoa, tuy
nhân dân dựng nước có quy mô riêng, nhưng ở trong thì xưng đế, mà đối ngoại thì
xưng vương, vẫn chịu phong hiếu, xét lý thế lực phải như thế” [2].
Các vua thời Lê sơ đã cố gắng tạo ra một quan hệ bang giao hòa hảo với nhà
Minh. Các vua Lê cho thi hành chính sách ngoại giao mềm dẻo, tìm mọi cách
không làm ảnh hưởng đến thể diện của “thiên triều” - một nước lớn bên cạnh nước
ta và luôn có ý đồ gây sự để xâm lược Đại Việt. Tất cả các việc ngoại giao được
10
triều đình trao cho các Tiến sĩ, Trạng nguyên đảm nhiệm và họ đều hoàn thành tốt
như Trạng nguyên Nguyễn Trực, Bảng nhãn Nguyễn Như Đổ 3 lần đi sứ, thám hoa
Quách Đình Bảo…
Sau chiến thắng quân Minh, Lê Lợi chủ động cho sứ sang Trung Quốc, tiến
hành ngoại giao bình thường với triều đình nhà Minh và trao trả tù binh cho nhà
Minh. Nhà Minh cũng trao cho ta một số người của ta bị họ bắt giữ trong chiến
tranh. Nhưng với đầu óc nước lớn và thể diện của “thiên triều”, họ muốn xả bớt sự
xấu hổ và ngoan cố không chịu thừa nhận nước đã đánh bại mình, nên vua Minh ra
yêu sách buộc Lê Lợi phải đi tìm con cháu nhà Trần để lập vua. Vua Lê Thái Tổ
buộc phải hướng nhà Minh cầu phong, theo như các triều đại trước, chấp nhận để
vua Minh phong vương. Mặt khác, sau chiến tranh, nhà Minh là kẻ chiến bại, trước
thiện chí của nước ta, đối với triều Lê cũng e nể nhiều. Năm 1437, nhà Minh phong
vương và tặng một quả ấn bằng vàng nặng một trăm lạng cho vua Lê Thái Tông.
Hai nước giao hảo từ đấy. Từ đó, cứ 3 năm, nhà Lê theo lệ sang cống cho nhà Minh
và tiếp đón các sứ bộ nhà Minh sang nước ta. Có thể nói, trong thời đại phong
kiến, vấn đề "sách phong" là một trong hai cơ sở chủ yếu (bên cách việc "triều
cống") để xây dựng nên quan hệ ngoại giao giữa các vương triều phong kiến Việt
Nam và Trung Quốc. Triều Lê sơ cũng không bỏ qua truyền thống này.
Sau đây là bảng thống kê việc các vua triều Lê sơ cử sứ giả sang Trung Quốc
cầu phong và việc vua Trung Quốc ban sắc phong. (Theo Ngô Sỹ Liên và các sử
thần triều Lê, 1967-1972, Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb KHXH, tập 1,2,3,4; Phan
Huy Chú, 1961, Lịch triều hiến chương loại chí - Bang giao chí, bản dịch. Nxb Sử
học, Hà Nội; Quốc sử quán triều Nguyễn, 1993, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ,
phần chính biên, Nxb Thuận Hoá, gồm 15 tập và Quốc sử quán triều Nguyễn, 19621978, Đại Nam thực lục, Nxb KHXH.)
- 1427: Vua Lê Thái Tổ sai người
- 1427: Nhà Minh Phong Trần Cảo làm An
dâng biển cầu phong cho Trần Cảo.
Nam Quốc Vương.
- 1429: Vua Lê Thái Tổ sai sứ sang
- 1431: phong vua Lê Thái Tổ quyền thự An
xin sách phong.
Nam Quốc sử.
- 1434: Vua Lê Thái Tông sai sứ
- 1435: Quốc vương đem sắc cho vua Lê Thái
sang báo tang Thái Tổ và cầu phong.
Tông quyền coi việc nước.
11
- 1442: Vua Lê Nhân Tông sai sứ
sang báo Tang Thái Tông và cầu Phong.
- 1462: Phong vua Lê Thánh Tông làm An
- 1460: Vua Lê Thánh Tông sai sứ Nam Quốc Vương.
sang cầu phong.
- 1497: Vua Lê Hiến Tông sai sứ
- 1499: Phong vua Lê Hiến Tông làm An
sang báo tang Thánh Tông và cầu phong. Nam Quốc Vương.
- 1504: Vua Lê Dục Tông sai sứ
- 1506: Phong vua Lê Dục Tông làm An Nam
sang báo tang Hiến Tông và cầu phong.
Quốc Vương.
- 1510: Vua Lê Tương Dực sai sứ
- 1513: Phong vua Lê Tương Dực làm An
sang cầu phong.
Nam Quốc Vương.
Hai nước cũng thường thăm hỏi, quà cáp cho nhau luôn. Tuy giao hảo, nhưng
từ cuối thế kỷ XV trở đi, triều đình nhà Minh cũng đôi khi hạch sách, đe dọa. Mỗi
khi sứ ta sang, vua quan nhà Minh thường nói bóng gió về sức mạnh nước lớn của
chúng, tỏ ý coi thường ta. Cho nên, sứ của ta đi Trung Quốc thường phải chọn
người có kiến thức, có tài năng đối đáp đấu trí với chúng, giữ vững quốc thể Đại
Việt. Khoảng năm 1495 – 1496, một sứ thần của ta là hoàng giáp Ngô Kính Thần
sang Trung Quốc. Một lần vua quan nhà Minh ra cho ông một vế câu đối tỏ cái thế
mạnh của chúng:
Nhật hỏa, vân yên, bạch đán thiên tân ngọc thỏ.
(Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày đốt cháy vầng trăng) .
Ngô Kính Thần đối lại:
Nguyệt cung, tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô.
(Mặt trăng là cung, sao là đạn, chiều tối bắn rơi mặt trời).
Vua quan nhà Minh bực tức, giam giữ ông một thời gian.
Trong thời thịnh trị của nhà Lê, tham vọng bá quyền nước lớn của nhà Minh
chỉ hạn chế trong những hành động như vậy.
12
Mặc dù các vua Lê đã thi hành một chính sách hòa hoãn nhưng vẫn giữ vững
nguyên tắc của một nhà nước tự chủ, đã kiên quyết trong vấn đề biên giới, bảo toàn
lãnh thổ và giữ vững chủ quyền đất nước, phát triển lãnh thổ về phía tây và phía
nam. Những hành động xâm lấn, cướp bóc của bọn quan lại nhà Minh ở vùng biên
giới đều được các vua Lê giải quyết hoặc bằng biện pháp ngoại giao hoặc bằng sức
mạnh quân đội biên phòng. Lê Thánh Tông là ông vua đã có những việc làm kiên
quyết trong vấn đề này.
Chính nhà vua đã cho quân tăng cường ở các đạo phía bắc và khi cần thiết đã
mở cuộc hành quân dẹp tan các cuộc xâm lấn của nhà Minh trên các đạo Lạng sơn,
Yên Quảng. Vào năm 1473, vua Lê Thánh Tông căn dặn các quan rằng : “Một
thước núi, một tấc sông của ta lẽ nào lại tự tiện vứt bỏ đi được. Phải kiên quyết
tranh biện, chớ cho họ lấn dần, nếu họ không nghe còn có thể sai sứ sang tận triều
đình của họ, trình bày rõ điều ngay, lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước núi,
một tấc đất đai của Thái Tổ để làm mồi cho giặc, ngươi sẽ bị tru di”.
Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam sơn cùng với sức mạnh mới của nước Đại
Việt đã đè bẹp được ý chí xâm lược của nhà Minh. Cương giới phía bắc của nước ta
nhờ đó được xác lập và bảo vệ vững chắc suốt mấy thế kỷ cho đến nửa sau thế kỉ
XVIII.
2.
Quan hệ Đại Việt - Chămpa
Kể từ vương triều Lê sơ, mô hình nhà nước của Đại Việt đã hoàn toàn được
Hán hóa, hoàn toàn theo tư tưởng Khổng - Mạnh, đặc biệt trên phương diện thượng
tầng kiến trúc và tư tưởng chính trị của triều đình quan phương. Rồi dần dà, nó
cũng ảnh hưởng trực tiếp tới lối sống của dân chúng phi quan phương. Chính vì thế,
quan hệ Đại Việt - Chămpa về hình thức không nhiều thay đổi, nhưng bên trong Đại
Việt đã có một vị thế, tiềm lực, suy nghĩ và cách thức hành xử đã khác trước kia rất
nhiều. Nó càng được khẳng định vào triều vua Lê Thánh Tông, vị quân vương có
quyền uy nhất trong lịch sử Việt Nam thời Trung đại.
Về quan hệ ngoại giao, các hình thức cử sứ thần giữa hai quốc gia vẫn diễn ra
đều đặn. Chiêm Thành (Chămpa) vẫn triều cống để tỏ ra thần phục trước thiên
triều. Cũng giống với thời kỳ trước, những hoạt động ngoại giao luôn xen giữa các
cuộc đụng độ quân sự. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, tâm thế, nội lực của Đại Việt
đã có những thay đổi lớn và hoàn thiện mạnh mẽ về mọi mặt từ đời sống chính trị,
xã hội đến sức mạnh quân sự. Khi giao hảo với Chămpa, Đại Việt tự coi mình là
thiên triều và gọi họ là dân man. Bên cạnh đó, việc chiến đấu chống nhà Minh vào
13
năm 1427 thành công đã làm cho uy lực của vương triều Lê sơ trở nên mạnh hơn
bao giờ hết. Nên ngay sau khi chiến thắng, “nước Chiêm Thành cho người sang
cống” và để tỏ rõ uy thế của mình, vua Lê Thái Tổ đã “cho ngựa và lụa bảo về, sai
thiêm tri khu mật là Hà Lật cùng đi”(3). Cũng trong năm ấy, vào “mùa thu, tháng 7,
người Chiêm Thành dâng sản vật địa phương”, và ngay sau đó, “tháng 8, lấy viên
ngoại lang là Lê Khắc Hài và Bùi Tất Ưng làm chánh phó sứ mang ngựa và đồ
uống rượu bằng pha lê màu xanh trắng sang cho vua Chiêm Thành”(4). Sự cống
nạp của Chiêm Thành và sự đáp lễ có tính chất ban phát của vua Lê cho chúng ta
nhận định rằng, sức mạnh, uy thế cũng như suy nghĩ của Đại Việt khi đó đã được
đẩy cao lên một tầm mới. Sang năm 1434, đã xảy ra một biến cố kép, “Chiêm
Thành bắt người ở châu Hóa”(5). Nhưng do vụ bắt người không trót lọt, nên ngay
lập tức vua Chiêm Thành đã “sai sứ mang thư và sản vật địa phương sang hiến để
cầu hòa than”(6). Mặc dù triều thần Đại Việt có hoặc tội, quở trách, nhưng khi sứ
thần trở về nước Chiêm vào năm 1435, vua Lê vẫn “ban cho lụa tấm”(7).
Kể từ những năm đầu của vương triều Lê sơ cho đến khi suy vong vào đầu TK
XVI, Chiêm Thành cho sứ thần sang cống nạp, dâng các sản vật địa phương vào
các năm 1448, 1449, 1467. Tuy nhiên, quan hệ ngoại giao vào thời kỳ này có vẻ
không suôn sẻ như thời Lý - Trần, sứ thần được cử sang mỗi khi Chiêm Thành
(Chămpa) phạm vào điều gì đó với Đại Việt. Việc cử sứ thần sang chỉ có tính chất
hòa hoãn xung đột quân sự giữa hai quốc gia mà thôi. Điều này cũng làm triều đình
nhà Lê liên tục hặc tội sứ thần của Chămpa về lễ giáo, việc cướp phá ở vùng biên
giới... Sử chép, năm 1449, “mùa thu, tháng 7,... sứ Chiêm Thành là bọn Bô Sa Phá
Tham Tốt cùng đi với Nguyễn Hữu Quang sang. Vua sai tư khấu Lê Khắc Phục và
nạp ngôn Nguyễn Mộng Tuân hỏi vặn sứ Chiêm thành về tội giết vua (Chămpa). Sứ
Chiêm Thành không trả lời được, chỉ lạy tạ mà thôi”(8). Rồi năm 1467, “tháng 3,
sai thượng thư Lễ bộ Lê Hoàng Dục đặt yến đãi sứ thần Chiêm Thành ở quán Bắc
sứ. Sai nội quan hỏi sứ thần nước Chiêm về lẽ nước nhỏ kính thờ nước lớn. Sứ
Chiêm Thành trả lời: Nước Chiêm tôi đối với thánh triều như là con nhờ cậy cha
mẹ, bảo thế nào thì nghe theo thế.”(9). Bên cạnh các hoạt động ngoại giao chính
thống như vậy, dưới triều Lê sơ cũng xảy ra một vài lần quy phụ vào các năm 1434,
1448. Riêng lần quy phụ năm 1448, sử chép: “... Người Chiêm Thành là Phan Mỗ
đem đàn ông, đàn bà hơn 340 người sang hàng. Xuống chiếu cho ở các đạo”(10).
Mặc dù uy vũ của triều Lê sơ đối với Chămpa đã lớn mạnh đến mức "bảo thế
nào thì nghe theo thế", nhưng các hoạt động quấy nhiễu vẫn liên tiếp xảy ra ở khu
vực biên giới hai nước. Năm 1434, “Chiêm Thành bắt người Châu Hóa. Vua Chiêm
Thành là Bố Đề nghe tin Thái Tổ băng, thấy vua mới lên ngôi, ngờ rằng trong nước
có biến loạn, bèn thân đem quân ra đóng ở cõi gần”(11). Năm 1445, “mùa hạ, tháng
4, người Chiêm Thành đến cướp thành An Dung ở châu Hóa”(12). Những lần quấy
nhiễu như vậy, ngay lập tức, triều đình Đại Việt tổ chức phản công. “Tháng 12, sai
14
Bình chương sự Lê Khả đem quân đi đánh Chiêm Thành”(13). Lần chinh phạt này
kéo dài cho đến năm 1446, thì “mùa hạ, tháng 4, các quân của Lê Thụ đánh phá
được thành Chà Bàn, bắt được vua Chiêm là Bí Cai, và các phi tần, bộ thuộc, ngựa
voi, đồ quân khí của các tướng đầu hàng rồi về”(14).
Sự kiện năm 1469, “tháng 3, người Chiêm Thành đi thuyền vượt biển để đến
quấy châu Hóa”(15). Và việc năm 1470, “tháng 8, quốc vương Chiêm Thành là Bàn
La Trà Toàn thân đem quân thủy bộ voi ngựa hơn 10 vạn đánh úp châu Hóa”(16).
Đã trở thành cái cớ hợp lý cho Lê Thánh Tông tiến hành cuộc đại chinh phạt Chiêm
Thành lớn nhất trong lịch sử Trung đại Việt Nam. Quân đội nhà Lê thời Thánh
Tông đã được xây dựng rất hùng mạnh. Tháng 10 năm 1470, vua Lê Thánh Tông
sai sứ đem việc Chiêm Thành đánh úp biên giới sang báo cáo với nhà Minh và thân
chinh cầm 200.000 quân tiến vào đất Chiêm Thành.
Tháng 3 năm 1471, kinh đô Đồ Bàn của Chiêm Thành thất thủ. Theo Đại Việt
Sử Ký Toàn Thư, hơn 30.000 người Chiêm bị bắt, trong đó có chúa Trà Toàn,
40.000 lính Chiêm Thành đã tử trận. Bấy giờ 1 tướng Chiêm là Bô Trì Trì chạy về
đất Phan Lung, cử sứ sang cống và xin xưng thần với Đại Việt. Theo Việt Nam Sử
Lược, vua Thánh Tông có ý muốn làm cho Chiêm Thành yếu đi, mới chia đất
Chiêm ra làm 3 nước, phong 3 vua: 1 nước gọi Chiêm Thành, 1 nước nữa là Hóa
Anh và 1 nước nữa là Nam Phan. Sau khi Trà Toàn bị bắt, em là Trà Toại trốn vào
núi, sai người sang cầu cứu nhà Minh và xin phong vương. Được tin, Lê Thánh
Tông sai Lê Niệm đem 3 vạn quân vào đánh, Trà Toại bị bắt giải về kinh. Về sau,
vua nhà Minh sai sứ sang bảo Thánh Tông phải trả đất cho Chiêm Thành, nhưng
ông nhất quyết không chịu.
Sự kiện năm 1471 đã trở thành niên điểm vô cùng quan trọng trong lịch sử
quan hệ giữa Đại Việt và Chămpa. Rất nhiều học giả đã đồng thuận với quan điểm,
sau trận chiến này, Chiêm Thành không còn đủ sức gượng dậy được nữa. Để chuẩn
bị cho cuộc chinh phạt với quy mô lớn, Lê Thánh Tông đã cất công làm rất nhiều
thủ tục khác nhau, từ việc năm 1470, “mùa đông, tháng 10 sai sứ sang nước Minh.
Nguyễn Đình Mỹ tâu việc Chiêm Thành quấy nhiễu biên giới”(17). Cho đến việc,
“tháng 11, ngày 6, vua xuống chiếu thân đi đánh Chiêm Thành”(18). Sự chu đáo về
mọi mặt, đã khiến vua Lê Thánh Tông tổ chức cuộc chinh phạt được chính danh,
thuận lẽ đứng từ nhiều góc độ. Việc chinh thảo đã được đặc biệt mô tả trong các
pho chính sử của Đại Việt. Ngay sau khi giành được thắng lợi to lớn, Lê Thánh
Tông đã nhanh chóng “lấy đất Chiêm Thành đặt làm thừa tuyên Quảng Nam và vệ
Thăng Hoa. Đặt chức án sát ở 12 thừa tuyên và đặt 3 ty”(19). Việc làm mạnh tay về
quân sự, bài bản về hành chính và tham vọng chính trị của Lê Thánh Tông đã gần
như làm cho Chiêm Thành kiệt quệ, không gượng dậy được nữa. Mặc dù trong thời
15
gian sau này, cũng có một vài lần người Chiêm quấy nhiễu ở vùng biên giới song
mọi cố gắng đó đều không kéo dài được bao lâu.
Sau chiến thắng, Lê Thánh Tông thực hiện chính sách mới, bình định và Việt
hóa dân chúng người Chiêm Thành và sát nhập lãnh thổ miền bắc Chiêm Thành (từ
đèo Hải Vân tới bắc Phú Yên ngày nay) vào Đại Việt. Tháng 6 năm 1471, lãnh thổ
miền bắc Chiêm Thành được lập thành thừa tuyên Quảng Nam và vệ Thăng Hoa.
3.
Quan hệ với Ai Lao
Quan hệ giữa Đại Việt với Ai Lao trong suốt thời Lê, nói chung là tốt. Hai
nước thường cho sứ qua lại giao hảo. Đầu năm 1432, có nghịch thần là Kha Lại nổi
loạn, vua Ai Lao cho sứ sang ta cầu cứu. Lê Thái Tổ cho quân sang giúp đánh tan
quân phiến loạn và giết Kha Lại.
Nhưng năm 1479, nghe theo lời xúi giục của một vài kẻ phản loạn, vua Ai Lao
cho quân xâm phạm biên giới Tây Bắc nước ta. Vua Lê Thánh Tông cho các tướng
Lê Thọ Vực, Trịnh Công Lộ, Lê Đình Ngạn, Lê Lộng, Lê Nhân Hiếu cầm đầu năm
đạo quân đi theo các đường Nghệ An, Thanh Hóa, Hưng Hóa tiến sang Luông Pha
Băng, truy kích quân Ai Lao tới biên giới Miến Điện. Sau chiến thắng, quân ta rút
về.
Từ đấy, quan hệ giữa hai nước trở lại bình thường.
4.
Quan hệ với các nước khác
Quan hệ ngoại giao của nhà nước Đại Việt cho tới hết thế kỷ XV vẫn bó hẹp
trong phạm vi tiếp xúc với mấy nước láng giềng sát cạnh mình là Trung Quốc, Ai
Lao, Chiêm Thành. Đối với những nước khác ở Đông Dương như Chân Lạp, Xiêm
La và các nước ở xa hơn nữa, đều chưa có quan hệ cấp nhà nước. Mặc dầu vậy,
triều đình nhà Lê vẫn cho phép người ngoại quốc tới Việt Nam buôn bán, giảng
đạo. Thường vẫn có người ở các nước, nay là In-đô-nê-xi-a và Ma-lai-xi-a tới buôn
bán.
Sau khi Đại Việt đánh hạ Chiêm Thành, nhiều vương quốc láng giềng phía
Tây bắt đầu cử sứ thần đến thông hiếu. Quan điểm của Vua Lê Thánh Tông là vừa
tiếp đãi, vừa dè chừng họ. Năm 1485, nhà vua ra lệnh vệ Cẩm y phải nghiêm ngặt
tiếp rước và canh giữ, đề phòng các sứ giả Chiêm Thành, Lão Qua ( Lan Xang),
Xiêm La ( các quốc gia thuộc Thái Lan), Trảo Oa, Lộ Lạc ( Malakka) dò xét nội
tình Đại Việt.
16
Sang đầu thế kỷ thứ XVI, người phương Tây bắt đầu vào nước ta. Năm 1523,
vua Bồ Đào Nha cho sứ sang triều đình Đại Việt thượng nghị về việc buôn bán giữa
hai nước.
Năm 1525, có 21 giáo sĩ Dòng Tên được phép vào Đại Việt giảng đạo Gia Tô
(thờ Chúa Giê su).
_______________
[2] Phan Huy Chú, 1961. Lịch triều hiến chương loại chí - Bang giao chí, Bản dịch. Nxb
Sử học, Hà Nội.
3,4,5,6,7,8,9,10,11,12,13,14,15,16,17,18,19 Đại Việt sử ký toàn thư, tập 3, sđd, Tr.32, 40,
86, 87, 110, 156, 204, 148, 86, 135, 136, 136, 224, 228, 229, 229, 239.
PHẦN III
KẾT LUẬN CHUNG
Giống như Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế, Mai Hắc Đế, Phùng Hưng, nhà Hậu Lê
lên cầm quyền ở Việt Nam nhờ công đánh đuổi người phương Bắc để giành lại
nước. Nhưng khác với thế hệ trước, nhờ có cơ sở vững chắc 470 năm liên tục (9381407) do các triều đại Ngô - Đinh - Tiền Lê - Lý - Trần trước đó tạo dựng nên thành
quả đánh ngoại xâm của nhà Hậu Lê được giữ gìn trong thời gian dài. Nước Đại
Việt thời nhà Hậu Lê tồn tại được trong một thời gian dài suốt ba thế kỉ (14281788).
Các vua đầu thời Lê như Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông đều là những vị vua
giỏi, sau khi đánh thắng quân Minh xâm lược, nước Đại Việt gắng sức xây dựng
thành một nước mạnh ở Đông Nam châu Á. Đến thời Lê Thánh Tông, đã đưa Đại
Việt tới thời hoàng kim của chế độ phong kiến. Chẳng những có thành tựu về chính
17
trị, kinh tế mà cả giáo dục và nhất là quân sự khiến nước Đại Việt được mở mang
tới phía bắc Nam Trung Bộ. Cũng chính cuộc tấn công của vua Lê Thánh Tông
đánh dấu bước khởi đầu cho sự diệt vong của nước Chiêm Thành mà các chúa
Nguyễn sau này hoàn thành.
Ngoại giao thời Lê là ngoại giao của một nhà nước cường thịnh, nên giữ được
quan hệ hòa dịu với nước lớn Trung Quốc và giao hảo với các nước láng giềng
khác. Đôi khi cũng có xung đột với hai nước Ai Lao và Chiêm Thành, nhưng triều
đình nhà Lê dùng sức mạnh vũ trang dập tắt xung đột, gây lại hòa hảo như trước.
Trải qua hơn bốn thế kỉ, các triều Lý Trần Lê đã mở mang bờ cõi nước ta vào Nam
và đã lấn phần đất từ Hoành Sơn đến Ải Vân mà nước Chiêm Thành đã chiếm được
từ thời nước ta còn thống thuộc nước Trung Hoa, lại mở rộng tới phần đất căn bản
của nước Chiêm Thành từ Ải Vân đến Cù Mông. Đây là một thắng lợi hết sức quan
trọng trong sự nghiệp bang giao bảo vệ và phát triển biên cương.
Trong quan hệ với các nước, triều Lê sơ tiếp nối các triều đại đi trước rất coi
trọng quan hệ ngoại giao với Trung Quốc(nhà Minh). Có thể nói, không phải ngẫu
nhiên mà Tsuboi trong Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa đã nhấn
mạnh rằng: "Lịch sử của đất nước Việt Nam cũng là lịch sử của sự khẳng định độc
lập với Trung Hoa"[20]. Điều này đúng không chỉ trong thời chiến mà cả trong thời
bình. Quả thật, lịch sử Việt Nam đã hằn sâu dấu ấn của cuộc chiến đấu chống đế
quốc Trung Hoa. Song sang thời bình ông cha ta đã thực hiện một tập tục khôn
khéo, kéo dài hàng ngàn năm bắt đầu từ Khúc Thừa Dụ là "Độc lập thật sự, thần
thuộc danh nghĩa" để ngoại giao được với một nước như Trung Quốc. Nhà Lê sơ
với tinh thần “Ta phải giữ gìn cho cẩn thận, đừng dể ai lấy mất 1 phân núi, 1 tấc
sông do vua Thái Tổ để lại” để giữ vững độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ mà
tiến hành hoạt động cầu phong, đường lối nghoại giao mềm dẻo, linh hoạt cũng
không nằm ngoài mục đích tối cao ấy.
Trong bối cảnh hiện nay, khi xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hoá đang lôi cuốn
mỗi một quốc gia, dân tộc, khi xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển đã thành xu
hướng chung của các quốc gia trên thế giới thì công tác ngoại giao lại càng đóng
một vai trò cực kì quan trọng đối với mỗi dân tộc trong việc giữ vững nền độc lập,
mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới. Tuy rằng quan hệ với các nước lớn
ngày xưa và ngày nay có khác nhau song những phương cách ứng xử mà ông cha ta
để lại có thể gợi lên cho chúng ta tìm ra những đối sách thích hợp để ứng xử với các
nước lớn trong thời đại ngày nay.
18
_______________
[20] Yoshiharu Tsuboi, 1992. Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa 1847 - 1885. Hội
Sử học Việt Nam, Hà Nội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đào Duy Anh, 2002. Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX. Nxb
văn hóa thông tin, Hà Nội.
[2] Đinh Đức Tiến, Lược sử quan hệ Đại Việt – Chămpa. Tạp chí VHNT số
340, tháng 10-2012.
[3] Lê Thị Sơn, Quốc Triều Hình Luật, lịch sử hình thành nội dung và giá
trị. Nxb. Khoa học Xã hội, Tr.7-42.
[4] Huỳnh Công Bá, 2012. Giáo trình lịch sử Việt Nam cổ - trung đại. Nxb
Thuận Hóa, Thừa Thiên Huế, Tr 273-282.
[5] Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, 1967-1972 Đại Việt sử ký toàn thư.
Nxb KHXH, tập 1,2,3,4.
[6] Nguyễn Quang Ngọc, 2006, Chương IV - Việt Nam thế kỷ XV, Tiến trình
Lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo Dục, Hà Nội, Tr.116 -130.
19
[7] Nguyễn Lương Bích, 2000. Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước.
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, Tr.160 – 164.
[8] Phan Huy Chú, 1961. Lịch triều hiến chương loại chí - Bang giao chí,
Bản dịch. Nxb Sử học, Hà Nội.
20