1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương mại
Lào đã có những chuyển biến tích cực. Trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới, hệ thống Ngân hàng thương mại Lào đang đứng trước những vận hội lớn đi
kèm với nó là những thách thức to lớn. Các cơ hội là hội nhập kinh tế quốc tế mở ra
cơ hội giao lưu và hợp tác kinh tế, tạo điều kiện để các Ngân hàng thương mại có
thể nhanh chóng bắt kịp trình độ quản lý cũng như trình độ công nghệ của các Ngân
hàng thương mại của các quốc gia phát triển. Ngân hàng thương mại Lào sẽ hoạt
động an toàn và hiệu quả hơn thông qua việc cải tổ triệt để để nâng cao khả năng
cạnh tranh và tồn tại trong môi trường mới; sự quan tâm và gia tăng giám sát của
mọi chủ thể tham gia vào hoạt động kinh tế, tham gia các kênh lưu chuyển tiền tệ sẽ
tạo ra môi trường lành mạnh, buộc các nhà kinh doanh tiền tệ phải tính toán đến
hiệu quả, sự lành mạnh của các quan hệ tài chính, chú trọng ngăn ngừa các rủi ro tác
hại đến quá trình kinh doanh tiền tệ.
Trong những năm qua, hoạt động của các ngân hàng thương mại Lào đã
không ngừng đổi mới về lượng và chất, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới
của ngành ngân hàng. Tuy nhiên, thực tế hoạt động của các Ngân hàng thương mại
Lào cũng bộc lộ không ít hạn chế; đó là chưa đáp ứng tốt nhu cầu của nền kinh tế,
còn tiềm ẩn nhiều rủi ro và rủi ro chưa được khống chế ở mức hợp lý, đặc biệt tập
trung vào hoạt động tín dụng.
Ngân hàng thương mại với tư cách là doanh nghiệp kinh doanh chủ yếu
trên lĩnh vực tiền tệ thông qua các nghiệp vụ huy động và cung ứng vốn tín dụng
cho nền kinh tế. Hoạt động kinh doanh tiền tệ luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro và luôn
nhạy cảm với các vấn đề kinh tế, xã hội và chính trị. Khi nền kinh tế phát triển,
song song với việc tín dụng ngân hàng được mở rộng thì những hành vi lừa đảo để
vay vốn ngân hàng ngày càng xuất hiện dưới nhiều hình thức tinh vi. Tình trạng đầu
tư vốn vào những đơn vị sản xuất kinh doanh yếu kém, không hiệu quả…gây thất
2
thoát về vốn, tài sản và ảnh hưởng đến uy tín ngân hàng là không thể tránh khỏi. Vì
vậy việc nâng cao chất lượng kiểm soát tín dụng là một vấn đề cần thiết đối với
ngân hàng nói riêng và toàn xã hội nói chung.
Trước những rủi ro và thách thức đó, các Ngân hàng thương mại không thể
né tránh được mà phải đối mặt và tự tìm cho mình những giải pháp thiết thực phù
hợp để hạn chế rủi ro, tăng quy mô và chất lượng tín dụng, đảm bảo hoạt động kinh
doanh có hiệu quả.
Xuất phát từ thực tế đó, bản thân đã chọn đề tài: “Kiểm soát nội bộ hoạt
động tín dụng tại Ngân hàng Thương mại tỉnh Savannakhet - Lào” làm đề tài
nghiên cứu, hy vọng có đóng góp nhất định vào việc hạn chế rủi ro, nâng cao chất
lượng tín dụng tại Ngân hàng Thương mại tỉnh Savannakhet – Lào.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu toàn diện hoạt động tín dụng, mô tả và đánh giá đúng thực
trạng kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại tỉnh
Savannakhet – Lào, trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp tăng cường kiểm soát nội
bộ đối với hoạt động tín dụng, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng
thương mại tỉnh Savannakhet – Lào.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công tác kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng
tại ngân hàng thương mại tỉnh Savannakhet – Lào
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào kiểm soát quản lý đối với hoạt động
tín dụng tại ngân hàng thương mại tỉnh Savannakhet – Lào.
4. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, luận văn sử
dụng phương pháp thống kê, so sánh, tổng hợp, phương pháp tiếp cận thu thập
thông tin, đối chiếu…để rút ra kết luận về những vấn đề nghiên cứu.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có ba chương:
3
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về kiểm soát nội bộ đối với hoạt
động tín dụng trong ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng kiểm soát nội bộ đối với hoạt động tín dụng tại ngân
hàng thương mại tỉnh Savannakhet – Lào.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường kiểm soát nội bộ
đối với hoạt động tín dụng tại ngân hàng thương mại tỉnh Savannakhet – Lào.
4
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KIỂM SOÁT NỘI BỘ ĐỐI
VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. KIỂM SOÁT TRONG QUẢN LÝ
1.1.1. Kiểm soát là một chức năng quan trọng của hoạt động quản lý
Quản lý là một hiện tượng xã hội xuất hiện từ lâu trong lịch sử loài người,
được các nhà tư tưởng, các nhà triết học và các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực
khác nhau tìm hiểu, nghiên cứu. Ngày nay, khoa học quản lý đã có nhiều bước tiến
mạnh mẽ với nhiều quan điểm mạnh mẽ với nhiều quan điểm, nhiều lý thuyết quản
lý ra đời và quản lý được hiểu là một quá trình định hướng và tổ chức thực hiện các
định hướng đó trên cơ sở nguồn xác định nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Kiểm tra, kiểm soát không phải là một giai đoạn của quá trình quản lý mà
nó được thực hiện ở tất cả các giai đoạn của quá trình quản lý. Vì vậy có thể khẳng
định kiểm soát là một chức năng quan trọng của hoạt động quản lý; nó giúp cho nhà
quản lý nhận thấy những khiếm khuyết trong hệ thống tổ chức, trên cơ sở đó có thể
tiến hành những quyết định điều chỉnh kịp thời.
Kiểm tra và kiểm soát thường gắn liền chặt chẽ với nhau. Trong đó, kiểm
tra được hiểu là sự soát xét theo cấp bậc quản lý; kiểm soát được hiểu là sự rà soát
để nắm lấy và điều hành hoạt động.
Chức năng kiểm tra, kiểm soát được thực hiện khác nhau tùy theo cơ chế
kinh tế, tùy theo các chủ thể quản lý, theo loại hình hoạt động cụ thể, theo truyền
thống và điều kiện kinh tế xã hội trong từng thời ký lịch sử cụ thể. Hệ thống kiểm
tra, kiểm soát hiện đại với các bộ máy tổ chức khác nhau khẳng định ý nghĩa, tác
dụng của kiểm tra, kiểm soát trong quản lý vĩ mô và vi mô. Thực tế kiểm tra, kiểm
soát không phải là hoạt động tự thân, mà nó sinh ra từ yêu cầu của quản lý. Kiểm
tra, kiểm soát có các tác dụng sau đây:
5
- Kiểm tra, kiểm soát góp phần hướng dẫn nghiệp vụ và cũng cố nền nếp hoạt động
tài chính – kế toán nói riêng và hoạt động kinh tế - tài chính của đơn vị nói chung.
- Kiểm tra, kiểm soát tạo niềm tin cho những người quan tâm đến kết quả hoạt động
của doanh nghiệp như cơ quan Nhà nước, các nhà đầu tư, các nhà quản trị doanh
nghiệp, người lao động, khách hàng, nhà cung cấp…
- Kiểm tra, kiểm soát góp phần nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý, bởi vì kiểm
tra, kiểm soát không chỉ có chức năng xác minh, mà còn có chức năng tư vấn.
Tóm lại, khi nhu cầu kiểm soát chưa nhiều và chưa phức tạp, kiểm soát
được thực hiện đồng thời với các chức năng quản lý khác trên cùng một hệ thống
chuyên môn. Ngược lại, khi quản lý phát triển cần có những bộ phận độc lập thực
hiện các chức năng của kiểm soát. Hoạt động kiểm tra, kiểm soát nảy sinh và phát
triển từ chính nhu cầu của quản lý.
1.1.2. Các loại kiểm soát trong quản lý
Kiểm soát trong quản lý được phân loại theo các tiêu thức sau:
- Theo chức năng cụ thể, có:
+ Kiểm soát phòng ngừa: là kiểm soát được thiết kế để ngăn chặn các sai phạm
hoặc các điều kiện dẫn đến sai phạm. Kiểm soát phòng ngừa thường được thực hiện
trước khi nghiệp vụ xảy ra và được thực hiện ngay trong công việc hằng ngày của
nhân viên theo chức năng của họ: phân chia trách nhiệm, giám sát, kiểm tra tính hợp
lý, sự đầy đủ, sự chính xác…
+ Kiểm soát phát hiện: là các thủ tục kiểm soát được thiết kế nhằm phát hiện các sai
phạm hoặc các điều kiện dẫn đến sai phạm. Kiểm soát phát hiện thường thực hiện
sau khi nghiệp vụ đã xảy ra.
Kiểm soát phát hiện và kiểm soát phòng ngừa có mối quan hệ bổ sung cho
nhau trong việc thực hiện các mục tiêu kiểm soát. Thế mạnh của kiểm soát phòng
ngừa là giúp ngăn chặn sai phạm trước khi xảy ra, do đó giảm thiệt hại. Tuy nhiên
kiểm soát phòng ngừa không thể giảm được rủi ro xuống bằng 0 và chi phí cho
kiểm soát phòng ngừa trong nhiều trường hợp rất là cao, do đó kiểm soát phát hiện
sẽ giúp phát hiện sai phạm “lọt lưới”kiểm soát phòng ngừa. Một ý nghĩa quan trọng
6
của kiểm soát phát hiện là sự “răn đe”, làm tăng sự chú ý và trách nhiệm của nhân
viên trong quá trình thực hiện kiểm soát phòng ngừa.
+ Kiểm soát bù đắp: là kiểm soát được thiết kế để bù đắp một yếu kém về một thủ
tục kiểm soát khác. Cơ sở của việc sử dụng kiểm soát bù đắp là quan hệ giữa chi phí
và lợi ích.
+ Kiểm soát bổ sung: là các thủ tục kiểm soát có tính chất bổ sung cho nhau, nghĩa
là một số thủ tục kiểm soát tồn tại đồng thời để thỏa mãn cùng một mục tiêu kiểm
soát.
- Theo thời điểm tiến hành: kiểm soát trước, kiểm soát trong, kiểm soát sau.
- Theo mối quan hệ giữa chủ thể với đối tượng kiểm soát: kiểm soát từ xa, kiểm soát
trực tiếp, kiểm soát gián tiếp.
- Theo mối quan hệ với phạm vi áp dụng, kiểm soát phân thành:
+ Kiểm soát chung: là kiểm soát được thiết kế liên quan đến nhiều hoạt động hay
nghiệp vụ của đơn vị
+ Kiểm soát cụ thể: là kiểm soát được thiết kế một cách riêng biệt, chỉ liên quan đến
sự hữu hiệu của một hoạt động hoặc nghiệp vụ nào đó.
Do đó, khi thiết kế các thủ tục kiểm soát cần xem xét các rủi ro một cách
đồng thời để lựa chọn các thủ tục kiểm soát chung và các thủ tục kiểm soát cụ thể
một cách đồng bộ.
- Theo mục đích thực hiện: kiểm soát được phân thành kiểm soát hướng dẫn, kiểm
soát “có/không”, kiểm soát hành động.
- Theo mối quan hệ giữa chủ thể với khách thể kiểm soát có thể phân thành:
+ Ngoại kiểm: là sự kiểm soát từ bên ngoài tổ chức do các chủ thể có liên quan thực
hiện.
+ Nội kiểm: là một hệ thống chính sách và thủ tục do nhà quản lý đơn vị thiết lập
nhằm bảo vệ tài sản, bảo đảm độ tịn cậy của các thông tin và ngăn ngừa các sai sót
trong báo cáo tài chính, bảo đảm tuân thủ các quy chế quản lý và bảo đảm hiệu quả
các hoạt động quản lý nói chung và hoạt động kinh doanh nói riêng.
7
1.2. ĐẶC ĐIỂM KIỂM SOÁT TÍN DỤNG TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI
1.2.1. Khái quát về hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.2.1.1. Các chức năng quan trọng của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng xuất hiện đầu tiên và phổ
biến nhất hiện nay. Đây là tổ chức nhận tiền gửi (depository institutions) đóng vài
trò là trung gian tài chính huy động tiền nhàn rỗi thông qua các dịch vụ nhận tiền
gửi rồi cung cấp cho những chủ thể cần vốn chủ yếu dưới hình thức các khoản vay
trực tiếp. Các ngân hàng thương mại huy động vốn chủ yếu dưới dạng: tiền gửi
thanh toán (checkable deposits), tiền gửi tiết kiệm (saving deposits), tiền gửi có kỳ
hạn (time deposits). Vốn huy động được dùng để cho vay: cho vay thương mại
(commercial loans), cho vay tiêu dùng (consumer loans), cho vay bất động sản
(mortage loans) và để mua chứng khoán chính phủ, trái phiếu của chính quyền địa
phương. Ngân hàng thương mại dù ở quốc gia nào cũng đều là nhóm trung gian tài
chính lớn nhất, cũng là trung gian tài chính mà các chủ thể kinh tế giao dịch thường
xuyên nhất.
Với vị trí quan trọng đó, Ngân hàng thương mại đảm nhiệm những chức
năng khác nhau trong nền kinh tế như:
Chức năng trung gian tín dụng: Khi thực hiện chức năng trung gian tín
dụng, Ngân hàng thương mại đóng vai trò là cầu nối giữa người thừa vốn và người
có nhu cầu về vốn. Với chức năng này, Ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò là
người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh
lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các
bên tham gia: người gửi tiền và người đi vay:
Đối với người gửi tiền, họ thu được lợi từ khoản vốn tạm thời nhàn rỗi
dưới hình thức lãi tiền gửi mà Ngân hàng trả cho họ. Hơn nữa Ngân hàng còn đảm
bảo cho họ sự an toàn về khoản tiền gửi và cung cấp các dịch vụ thanh toán tiện lợi.
8
Đối với người đi vay, họ sẽ thỏa mãn được nhu cầu vốn kinh doanh tiện lợi,
chắc chắn và hợp pháp, chi tiêu, thanh toán mà không chi phí nhiều về sức lực thời
gian cho việc tìm kiếm những nơi cung ứng vốn riêng lẻ.
Đặc biệt là đối với nền kinh tế, chức năng này có vai trò quan trọng trong
việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình
tái sản xuất được thực hiện liên tục và mở rộng quy mô sản xuất. Chức năng trung
gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại.
Chức năng tạo tiền: Chức năng tạo tiền không giới hạn trong hành động in
thêm tiền và phát hành tiền mới của ngân hàng Nhà nước. Bản thân các ngân hàng
thương mại trong quá trình thực hiện các chức năng của mình vẫn có khả năng tạo
ra tiền tín dụng (hay tiền ghi sổ) thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh toán của
khách hàng tại Ngân hàng thương mại. Đây chính là một bộ phận của lượng tiền
được sử dụng trong các giao dịch.
Từ khoản tích trữ ban đầu, thông qua hành vi cho vay bằng chuyển khoản,
hệ thống Ngân hàng thương mại có khả năng tạo nên số tiền gửi (tức tiền tín dụng)
gấp nhiều lần số dự trữ tăng thêm ban đầu. Mức mở rộng tiền gửi phụ thuộc vào hệ
số mở rộng tiền gửi. Hệ số này đến lượt nó chịu tác động bởi các yếu tố: tỷ lệ dự trữ
bắt buộc, tỷ lệ dự trữ vượt mức và tỷ lệ giữ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán của
công chúng.
Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của Ngân
hàng thương mại là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức
năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số
tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ
trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là
một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch
vụ… Với chức năng này, hệ thống Ngân hàng thương mại đã làm tăng tổng phương
tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Rõ
ràng khái niệm về tiền hay tiền giao dịch không chỉ là tiền giấy do NHTW phát
9
hành mà còn bao gồm một bộ phận quan trọng là lượng tiền ghi sổ do các Ngân
hàng thương mại tạo ra.
Chức năng này cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và lưu
thông tiền tệ. Một khối lượng tín dụng mà Ngân hàng thương mại cho vay ra làm
tăng khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại, từ đó làm tăng lượng tiền cung
ứng.
Chức năng trung gian thanh toán: ở đây ngân hàng thương mại đóng vai
trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu
cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền
hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán
hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ.
Việc ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian thanh toán có ý
nghĩa rất to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế. Với chức năng này, các Ngân hàng
thương mại cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như séc,
ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng,…Tùy theo
nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ
đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ
nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương
thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết
kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng
này vô hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tố
độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế. Đồng thời việc thanh toán
không dùng tiền mặt qua ngân hàng đã giảm được lượng tiền mặt trong lưu thông,
dẫn đến tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt như chi phí in ấn, đếm nhận, bảo quản,
…
Ngân hàng thương mại thu phí thanh toán. Thêm nữa, nó lại làm tăng
nguồn vốn cho vay của ngân hàng thể hiện trên số dư có trong tài khoản tiền gửi
của khách hàng.
1.2.1.2. Các hình thức tín dụng ngân hàng
10
Ngân hàng cung cấp rất nhiều loại tín dụng, cho nhiều đối tượng khách
hàng với những mục đích sử dụng khác nhau. Để thấy được tính đa dạng, phong
phú của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường, ta có thể phân loại tín dụng
theo một số tiêu chí sau:
- Căn cứ vào thời hạn cho vay:
+ Cho vay ngắn hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay đến 12 tháng
+ Cho vay trung hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến 60
tháng
+ Cho vay dài hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay trên 60 tháng trở lên.
- Căn cứ vào đảm bảo tín dụng:
+ Tín dụng không có bảo đảm là tín dụng không có tài sản cầm cố, thế chấp hay có
bảo lãnh của người thứ ba.
+ Tín dụng có bảo đảm là tín dụng có tài sản cầm cố, thế chấp hay có bảo lãnh của
người thứ ba.
- Căn cứ vào mục đích tín dụng:
+ Tín dụng bất động sản là các khoản tín dụng được đảm bảo bằng bất động sản,
bao gồm:
• Tín dụng ngắn hạn cho xây dựng và mở rộng đất đai.
• Tín dụng dài hạn để mua đất đai, nhà cửa, căn hộ, cơ sở dịch vụ, trang trại
và bất động sản ở nước ngoài.
+ Tín dụng công thương nghiệp là các khoản tín dụng cấp cho các doanh nghiệp để
trang trải các chi phí như nguyên vật liệu, trả thuế và chi trả lương.
+ Tín dụng nông nghiệp là các khoản tín dụng cấp cho các hoạt động nông nghiệp,
nhằm trợ giúp cho các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi gia súc…
+ Tín dụng cá nhân là các khoản tín dụng cấp cho cá nhân để mua sắm hàng hóa
tiêu dùng như xe hơi, trang thiết bị trong nhà…
+ Tín dụng cho các tổ chức tài chính là các khoản tín dụng cấp cho các ngân hàng,
công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác.
11
+ Cho thuê tài chính là việc ngân hàng mua các trang thiết bị, máy móc và cho thuê
lại chúng.
+ Tín dụng khác, bao gồm các khoản tín dụng khác chưa phân loại ở trên (như tín
dụng kinh doanh chứng khoán…)
Mỗi loại tín dụng đáp ứng một yêu cầu khác nhau, với các điều kiện thực
hiện khác nhau. Tuy nhiên các loại tín dụng trên đều thể hiện những đặc trưng cơ
bản sau đây:
- Chỉ thay đổi quyền sử dụng mà không thay đổi quyền sở hữu tín dụng
- Có thời hạn cụ thể do thỏa thuận giữa người cho vay và người đi vay
- Người sở hữu vốn tín dụng được nhận một phần thu nhập dưới hình thức lợi tức.
- Tín dụng ngân hàng có tính chất đa dạng hóa vì hoạt động tín dụng ngân hàng
thực chất mang tính chất dịch vụ (tiếp cận thị trường và đưa sản phẩm thỏa mãn nhu
cầu thị trường nên sản phẩm phải đa dạng phong phú) thể hiện trên nhiều mặt cụ
thể: đa dạng về hình thức cấp tín dụng (tiền, tài sản, chữ ký người bảo lãnh…) đa
dạng về thời gian cấp tín dụng (ngắn, trung, dài hạn…) đa dạng về lãi suất (lãi suất
cố định, lãi suất thả nổi, lãi suất thỏa thuận…) đa dạng về kỹ thuật cấp tín dụng
(ứng trước, thấu chi, chiết khấu, thuê mua…)
Chính vì lẽ đó mà hoạt động tín dụng có tính đa dạng, tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Do đó, đa dạng hóa các hình thức cho vay là một trong những biện pháp nhằm hạn
chế và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng.
Để đảm bảo hiệu quả trong hoạt động tín dụng cần tuân thủ các nguyên tắc
sau:
- Tín dụng phải được hoàn trả cả gốc và lãi: Đây là nguyên tắc đặc biệt quan trọng
vì nguồn vốn tín dụng ngân hàng chủ yếu là huy động để cho vay trong một thời
gian nhất định. Vì vậy, nếu cho vay mà không hoàn trả thì ngân hàng sẽ mất khả
năng chi trả dẫn đến rủi ro. Ngân hàng phải xác định chính xác kỳ hạn nợ phù hợp
với chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng, tạo điều kiện cho khách hàng trả nợ
đúng hạn. Nguyên tắc này đảm bảo tính an toàn, nâng cao số vòng luân chuyển vốn.
12
- Tín dụng có mục đích: Tín dụng có mục đích hướng việc có đầu tư của ngân hàng
vào những khách hàng có những ngành nghề kinh doanh được pháp luật thừa nhận.
Đặc biệt ngân hàng quan tâm cung ứng tín dụng cho những ngành nghề kinh tế mũi
nhọn, trọng tâm trong chính sách phát triển kinh tế của nhà nước trong từng thời kỳ.
Để thực hiện nguyên tắc này, khi cho vay ngân hàng phải yêu cầu khách hàng nêu
rõ mục đích vay, ngân hàng thường xuyên kiểm tra xem khách hàng có thực hiện
đúng những điều đã thỏa thuận hay không. Nếu có vi phạm, tùy theo mức độ mà có
những biện pháp thích hợp đối với từng khách hàng.
- Vốn vay phải được đảm bảo theo đúng quy định: Để đảm bảo tiền vay của các tổ
chức tín dụng thì khách hàng khi vay vốn ngân hàng phải thỏa thuận các biện pháp
bảo đảm cho các khoản nợ của mình như sau:
+ Cầm cố thế chấp bằng tài sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ
với ngân hàng
+ Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba: Là việc bên thứ ba cam kết với tổ chức tín
dụng cho vay về việc sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ
trả nợ cho người vay nếu đến hạn mà người vay không thực hiện được nghĩa vụ trả
nợ.
+ Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay là việc khách hàng dùng tài sản hình
thành từ vốn vay để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chính khoản vay đó.
Đây là nguyên tắc hỗ trợ bảo đảm an toàn nguồn vốn cho vay, hạn chế được rủi ro
đồng thời nâng cao ý thức hợp tác tích cực của khách hàng, ngân hàng đối với các
hoạt động của nền kinh tế.
Có rất nhiều góc độ để nghiên cứu về nghiệp vụ tín dụng ngân hàng và ở
mỗi góc độ ta có thể nhận biết về đặc điểm của nghiệp vụ này một cách khác nhau.
Tuy nhiên, với hoạt động kiểm soát, việc đánh giá các đặc điểm nghiệp vụ tín dụng
thường được nhìn nhận dưới góc độ rủi ro hay chất lượng tín dụng. Rủi ro tín dụng
sẽ phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được đầy đủ cả gốc lẫn lãi của
khoản vay, hoặc việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng kỳ hạn. Rủi ro này sẽ ảnh
hưởng đến toàn bộ tài sản của đơn vị chứ không chỉ vốn vay.
13
1.2.2. Hệ thống kiểm soát nội bộ ngân hàng
Hệ thống KSNB là một hệ thống các chính sách, các thủ tục được thiết kế
và thực hiện nhằm hạn chế, kiểm soát các rủi ro có thể phát sinh trong tất cả các quy
trình nghiệp vụ, hoạt động của ngân hàng.
1.2.2.1. Môi trường kiểm soát
Môi trường kiểm soát bao gồm toàn bộ các nhân tố bên trong và bên ngoài
ngân hàng có tính chất môi trường tác động đến việc thiết kế, hoạt động và sự hữu
hiệu của các chính sách, thủ tục KSNB ngân hàng.
a. Các nhân tố bên trong:
+ Triết lý và phong cách điều hành của nhà quản lý:
Sự kiểm soát hữu hiệu của một ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào thái độ
của nhà quản lý ngân hàng đó đối với vấn đề kiểm soát.
Nếu nhà quản lý là người quyết định và điều hành mọi hoạt động của đơn
vị thì triết lý cũng như phong cách điều hành của họ là vấn đề trung tâm của môi
trường kiểm soát. Nếu các nhà quản lý cho rằng công tác kiểm tra, kiểm soát quan
trọng và không thể thiếu đối với mọi hoạt động của đơn vị thì những người khác
trong đơn vị cũng sẽ có nhận thức đúng đắn về hoạt động kiểm tra, kiểm soát và tôn
trọng triệt để những chế độ và thể thức đã được đề ra. Ngược lại, các thành viên của
đơn vị thấy rõ hoạt động của kiểm tra, kiểm soát không được các nhà quản lý quan
tâm thì chắc chắn các quy chế về KSNB sẽ không được vận hành một cách có hiệu
quả bởi các thành viên của đơn vị.
+ Năng lực của cán bộ, nhân viên ngân hàng:
Năng lực ở đây bao gồm kỹ năng và kinh nghiệm nghề nghiệp, trình độ học
vấn, quan điểm thái độ, nhận thức cũng như hành động và đạo đức của nhà quản lý
cấp cao và cán bộ ngân hàng nói chung. Trên thực tế, tính hiệu quả của hoạt động
kiểm tra, kiểm soát trên các hoạt động của một tổ chức phụ thuộc chủ yếu vào các
nhà quản lý của tổ chức đó.
Ngoài ra, sự thành công hay thất bại trong hoạt động kinh doanh của
NHTM chủ yếu phụ thuộc vào năng lực của cán bộ ngân hàng và chính sách tuyển
14
dụng, đào tạo, khen thưởng, kỷ luật và cả môi trường làm việc của họ. Đó chính là
những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động kiểm soát ngân
hàng. Điều đó giải thích tại sao trên cùng một địa bàn, các điều kiện khác giống
nhau nhưng chất lượng tín dụng lại khác nhau, một cán bộ tín dụng cho vay chủ yếu
dựa vào tài sản thế chấp mà không có khả năng phân tích kinh tế tài chính, không
nắm được tình hình sản xuất kinh doanh của người vay, thiếu hiểu biết về pháp luật
hoặc bị thái hóa về đạo đức, không có được động lực trong quá trình làm việc cũng
như sự trung thành đối với tổ chức thì chỉ có thể có những quyết định sai lầm khi đề
xuất cho vay. Ban lãnh đạo điều hành quan liêu, xét duyệt các khoản vay thiếu
khách quan dẫn đến các quyết định cho vay đầy rủi ro. Năng lực của các bộ tín dụng
thể hiện chủ yếu ở việc thu nhập, xử lý thông tin về khách hàng xin vay, kể cả năng
lực phân tích các báo cáo tài chính, tình hình thị trường giá cả…Từ đó có những
đánh giá về mức độ rủi ro cũng như hiệu quả của vốn vay.
Tuy nhiên chất lượng tín dụng không chỉ chịu sự tác động chủ quan của
người vay vốn mà còn chịu sự ảnh hưởng của môi trường kinh tế - xã hội, pháp
luật…Do trình độ cán bộ ngân hàng phải tương đối phong phú và đa dạng. Theo
ông Geoffrey Peter cố vấn đầu tư kinh doanh và chuyên gia tín dụng ngân hàng thế
giới thì một cán bộ ngân hàng phải tiến hành phân tích tín dụng phải có kiến thức
sâu rộng về:
Kiến thức kinh tế: Kể cả kinh tế vĩ mô và kinh tế vi mô, khả năng phân tích
tình hình thị trường, giá cả, chất lượng sản xuất, khả năng tiêu thụ và hiệu quả kinh
doanh, và có thể dự đoán được những biến động của thị trường sản phẩm của người
đi vay, có khả năng tư vấn cho người đi vay lập các kế hoạch sản xuất kinh doanh,
tiêu thụ sản phẩm, kế hoạch tài chính…
Kiến thức kế toán tài chính: cần hiểu được các nghiệp vụ kế toán tài chính
của doanh nghiệp , phân tích được báo cáo tài chính như Bảng cân đối kế toán, Báo
cáo lãi lỗ, tình hình công nợ và báo cáo lưu chuyển tiền tệ; đánh giá tình hình tài
chính trên báo cáo tài chính của khách hàng vay vốn như đánh giá được các khoản
mục tài sản, nguồn vốn, tăng giảm các khoản nợ phải thu, phải trả…
15
Kiến thức pháp luật: có khả năng đánh giá được tư cách pháp nhân của
người vay, tính chất hợp pháp trong kinh doanh của họ hoặc những tài sản mà họ sở
hữu có hợp pháp hay không? Một khoản tín dụng có đầy đủ các yếu tố pháp lý sẽ ít
bị thua thiệt nếu xảy ra tranh chấp.
Nhận thức sự phát triển công nghệ: Trong giai đoạn hiện nay, khoa học kỹ
thuật phát triển mạnh mẽ, công nghệ thay đổi nhanh chóng đã tác động trực tiếp đến
sản xuất, nó gây ra rủi ro cho doanh nghiệp (cả ngân hàng) vì sản phẩm của họ bị
các sản phẩm khác hiện đại hơn thay thế. Do đó, nếu nhận thức được sự phát triển
của công nghệ thì mới có thể tránh được những quyết định cho vay có tính chất rủi
ro.
+ Về phẩm chất đạo đức cán bộ, nhân viên ngân hàng:
Đây là yếu tố cũng rất quan trọng, một cán bộ ngân hàng có đạo đức kém
(hoặc bị thái hóa) thường thông đồng với khách hàng, hoặc đứng về phía khách
hàng (bị khách hàng mua chuộc, lợi dụng) thường thực hiện những vốn vay kém
chất lượng gây thiệt hại cho ngân hàng. Một số cán bộ tín dụng còn gây khó dễ với
khách hàng nhằm đòi hối lộ. Sự tiêu cực của cán bộ ngân hàng nguy hiểm ở chỗ bản
thân họ chỉ nhận được một số tiền nhỏ nhưng làm cho ngân hàng thiệt hại một
khoản tiền lớn, gây mất uy tín của ngân hàng và làm cho hệ thống KSNB kém hiệu
quả.
+ Hệ thống thông tin khách hàng:
Hệ thống thông tin khách hàng là yếu tố quan trọng để nắm bắt và điều
hành hoạt động tín dụng của các NHTM. Việc thu thập, tổng hợp, phân tích xếp
loại, trao đổi, khai thác và sử dụng thông tin khách hàng nhằm góp phần bảo đảm an
toàn hoạt động tín dụng của ngân hàng thông qua ngăn chặn và hạn chế rủi ro tín
dụng.
Trên thị trường, những thông tin về khách hàng có nhiều loại và được biểu
hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhưng cơ bản nhất là thông tin phản ánh về
năng lực của khách hàng, bao hàm thông tin về năng lực tài chính, năng lực pháp lý,
phẩm chất đạo đức của người vay; thông tin phản ánh đặc điểm, mức độ rủi ro và
16
lợi nhuận của doanh nghiệp; thông tin về lĩnh vực và nhành nghề mà doanh nghiệp
vay hoạt động; thông tin về số tiền, mục đích vay và các tài sản bảo đảm.
Toàn bộ nguồn thông tin cần thu thập mục đích để ngân hàng có thể đánh
giá được tính hiệu quả của dự án và phương án, các yếu tố bảo đảm an toàn tiền
vay, trên cơ sở đó, quyết định cho vay và xây dựng phương án thu hồi nợ vay. Tìm
kiếm và phát hiện sớm các khoản tín dụng có vấn đề và đánh giá đúng mức độ rủi
ro của các khoản nợ, đồng thời tiên liệu trước khả năng một khoản tín dụng có thể
chuyển sang nợ xấu.
Tuy nhiên, luồng thông tin đó nhiều khi không phản ánh trung thực hoặc
sai lệch, thiếu chính xác về đối tượng vay, đã tạo nhiều khó khăn cho ngân hàng
trong việc có được những quyết định tốt để phòng ngừa rủi ro khi cho vay, nhất là
cho vay đối với những trường hợp mà nguy cơ rủi ro có nguyên nhân bắt nguồn từ
sự chọn lựa đối nghịch và rủi ro đạo đức. Thực tế hoạt động cho vay của NHTM
cho thấy, nhiều khách hàng thích mạo hiểm, khả năng trả nợ kém nhưng cung cấp
thông tin không trung thực vẫn được ngân hàng cho vay. Những trường hợp này,
phần lớn đưa ngân hàng đến chỗ gặp rủi ro không thu hồi được vốn vay do khách
hàng không trả không trả được nợ.
Do đó, các NHTM cần tập hợp, phân tích và sang lọc thông tin về khách
hàng vay nhằm có được sự lựa chọn khách hàng tốt nhất. Các NHTM thu thập
thông tin dựa vào việc điều tra tín dụng, tuy nhiên không có một khuôn mẫu chung
cho tất cả các khách hàng, vì mỗi người có một đặc điểm khác nhau.
b. Các nhân tố bên ngoài:
Ngoài các nhân tố bên trong nói trên, môi trường kiểm soát còn bao hàm
nhiều nhân tố bên ngoài. Những nhân tố này vượt ra ngoài sự kiểm soát của các nhà
quản lý nhưng nó lại ảnh hưởng rất lớn đến thái độ của nhà quản lý và nhiều thủ tục
kiểm soát cụ thể. Có thể khái quát các nhân tố liên quan chủ yếu sau:
+ Cơ chế tín dụng:
Hoạt động kinh doanh của NHTM chịu sự chi phối của một hệ thống các
văn bản có tính bắt buộc hoạt động tín dụng của ngân hàng trong những khuôn khổ
17
nhất định, gọi là cơ chế tín dụng. Một cơ chế tín dụng mang tính chất khoa học, phù
hợp với thực trạng ngân hàng và hoàn cảnh kinh tế được thực hiện tốt sẽ là yếu tố
quan trọng bảo đảm an toàn, hiệu quả cho hoạt động tín dụng của ngân hàng và
ngược lại, hoạt động tín dụng sẽ gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Cơ chế tín dụng
có khác nhau giữa các nước cũng như giữa các ngân hàng thương mại. Cơ chế tín
dụng gồm có: Luật các tổ chức tín dụng, các quy định cho vay.
Luật các tổ chức tín dụng: về các quy định hành chính tạo cơ sở pháp lý
cho hoạt động của các tổ chức tín dụng nói chung.
Các quy định cho vay: các khoản cho vay phải được thực hiện theo các quy
định chặt chẽ, xuất phát từ nhiều lý do trong đó điều quan trọng nhất là bảo vệ sự an
toàn của các ngân hàng, các quy định này sẽ tạo ra một hệ thống các chỉ tiêu làm
căn cứ đánh giá hoạt động của ngân hàng.
+ Khách hàng vay vốn:
Mặc dù các NHTM đã “sàng lọc” những khách hàng có rủi ro cao trước khi
cho vay, nhưng những khách hàng còn lại được ngân hàng giải quyết cho vay vẫn
có thể bị rủi ro. Nếu người sử dụng vốn vay hoạt động kinh doanh có hiệu quả, khả
năng thanh toán tốt, khoản cho vay của ngân hàng sẽ được trả đúng kì hạn thì chất
lượng tín dụng sẽ tốt. Chính vì vậy, năng lực và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của khách hàng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng, đồng thời ảnh
hưởng đến hoạt động kiểm tra, kiểm soát trong hoạt động tín dụng.
+ Môi trường pháp lý:
Hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường chịu sự tác động, ảnh
hưởng của pháp luật gọi là môi trường pháp lý ngân hàng. Trong cơ chế thị trường,
ngoài sự tác động của “Bàn tay vô hình” còn chịu sự tác động của “Bàn tay hữu
hình” là sự điều tiết của Nhà nước do bản thân cơ chế thị trường mặc dù có nhiều
ưu điểm song vẫn tồn tại nhiều khuyết tật. Nhà nước điều tiết nền kinh tế bằng công
cụ pháp luật được coi là rất quan trọng nhằm đảm bảo cho nền kinh tế phát triển
lành mạnh. Hoạt động NHTM có quan hệ với nhiều pháp nhân và thể nhân khác
nhau trong xã hội. Các khách hàng của ngân hàng rất phong phú và phức tạp từ
18
những người trung thực cho đến những kẻ lừa đảo mà người ta gọi là “Tính ăn cướp
tại tâm”. Một hệ thống pháp luật tốt sẽ bảo vệ được lợi ích chính đáng của ngân
hàng và khách hàng, mặt khác sẽ ngăn chặn nhiều tiêu cực có thể xảy ra trong quá
trình hoạt động, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kiểm tra, kiểm soát của chính
ngân hàng.
Môi trường pháp lý ngân hàng bao gồm các yếu tố cơ bản như: Các vi
phạm pháp luật về ngân hàng là khung vật chất cơ bản; các vi phạm pháp luật khác
liên quan đến hoạt động của ngân hàng. Một môi trường pháp lý về ngân hàng lành
mạnh bao hàm cả tính đầy đủ, tính đồng bộ của hệ thống pháp luật cũng như tính
khoa học. Vì vậy môi trường pháp lý có vị trí hết sức quan trọng đối với hoạt động
ngân hàng nói chung và hoạt động kiểm soát tín dụng nói riêng trong ngân hàng.
+ Môi trường kinh tế:
Hoạt động kinh doanh của NHTM còn chịu tác động của môi trường kinh
tế. Điều kiện kinh tế của khu vực mà ngân hàng phục vụ ảnh hưởng lớn tới mở rộng
và nâng cao hiệu quả tín dụng. Một nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho các khoản tín dụng có chất lượng cao và mở rộng được chúng, còn nền kinh tế
không ổn định thì các yếu tố lạm phát, khủng hoảng sẽ làm cho khả năng tín dụng
và khả năng trả nợ vay biến động làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng tín dụng của
ngân hàng cũng như nội dung kiểm soát của ngân hàng.
Các yếu tố cấu thành chất lượng môi trường kinh tế gồm trình độ phát
triển, tính ổn định kinh tế, sự quản lý của nhà nước và các yếu tố khách quan khác.
Trình độ phát triển kinh tế: được xem xét trên phương diện sự phát triển
của lực sản xuất và mức sống dân chúng. Một nền kinh tế lành mạnh với lực lượng
sản xuất đã được thực hiện sẽ là một yếu cơ bản tạo nên môi trường kinh tế tốt.
Tính ổn định của nền kinh tế: Cũng ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng nắm
bắt và điều hành tín dụng. Nền kinh tế thị trường bao giờ cũng phát triển chiều
hướng lúc lên lúc xuống, lúc suy thoái lúc tăng trưởng. Khi nền kinh tế đang ở giai
đoạn phục hồi và hưng thịnh thì hoạt động ngân hàng sẽ diễn ra thuận lợi, ngược lại
trong giai đoạn suy thoái, khủng hoảng sẽ gặp khó khăn, thua lỗ. Sự ổn định kinh tế
19
tất nhiên trong đó đồng tiền cũng phải được ổn định, sự lạm phát hoặc giảm phát
đều rủi ro cho nền kinh tế.
Quản lý nhà nước: là sự can thiệp của Nhà nước đối với nền kinh tế, là một
tác nhân quan trọng đối với sự ổn định và phát triển kinh tế sáng suốt kịp thời sẽ
giúp môi trường kinh tế được lành mạnh hóa hoặc ngược lại sẽ gây rối loạn thị
trường. Điều này đặc biệt đúng khi điều kiện kinh tế của những nước đang phát
triển, môi trường kinh tế không ổn định, các chính sách và cơ chế quản lý vĩ mô của
đang trong quá trình hoàn thiện. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tín
dụng của NHTM.
1.2.2.2. Hệ thống kế toán trong ngân hàng thương mại
Hệ thống kế toán trong ngân hàng là nhân tố quan trọng quyết định sự
thành công của hoạt động kinh doanh ngân hàng, đảm bảo cung cấp thông tin kịp
thời và chính xác cho các nhà quản lý khi đưa ra quyết định cho vay. Hệ thống
thông tin trong NHTM bao gồm: hệ thống kế toán, mạng lưới máy tính, phần mềm
kế toán ứng dụng.
Một hệ thống kế toán hữu hiệu xét trên góc độ là một bộ phận cấu thành hệ
thống KSNB phải thõa mãn các mục tiêu sau:
- Tính có thực: chỉ được ghi chép các nghiệp vụ kinh tế có thực
- Sự phê chuẩn: phải có sự phê chuẩn trước khi thực hiện mọi hoạt động, nghiệp vụ.
- Tính đầy đủ: không được loại bỏ, giấu bớt, để ngoài sổ sách về mọi nghiệp vụ phát
sinh.
- Sự đánh giá: không để xảy ra những sai phạm trong tính toán, trong việc áp dụng
chính sách kế toán.
- Sự phân loại: bảo đảm số liệu được phân loại đúng theo sơ đồ tài khoản của đơn
vị.
- Đúng hạn: việc ghi nhận doanh thu và chi phí đúng kỳ.
- Chuyển sổ và tổng hợp chính xác: số liệu kế toán phải được ghi vào sổ phụ đúng
đắn và tổng hợp chính xác.
20
Tính kiểm soát của hệ thống kế toán được thực hiện qua 3 giai đoạn của
quá trình kế toán: Lập chứng từ kế toán, hệ thống sổ sách kế toán và lập báo cáo tài
chính.
+ Lập chứng từ kế toán:
Chứng từ kế toán ngân hàng là loại giấy tờ chứng minh một nghiệp vụ kinh
tế phát sinh và đã hoàn thành.
Lập chứng từ kế toán là giai đoạn đầu tiên và rất quan trọng vì chứng từ kế
toán chỉ chính xác nếu việc lập chứng từ đầy đủ, hợp lệ, hợp pháp và phản ánh
trung thực, chính xác trung thực, chính xác nghiệp vụ kinh tế phát sinh và là công
cụ để bảo vệ tài sản.
Việc lập chứng từ kế toán giúp ngăn ngừa những sai phạm, thiếu sót trên
nhiều mặt quan trọng, nhằm bảo vệ và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của đơn
vị.
+ Sổ sách kế toán:
Sổ sách kế toán giai đoạn chính trong tiến trình xử lý số liệu kế toán, bằng
việc ghi chép, phân loại, tính toán, tổng hợp…để chuẩn bị cung cấp các thông tin
tổng hợp trên báo cáo. Ngoài ra, nó giúp tổng hợp, lưu trữ thông tin một cách hệ
thống, khoa học và đóng vai trò trung gian giữa chứng từ và báo cáo tài chính, nên
là cơ sở để kiểm tra, truy cập chứng từ.
+ Báo cáo tài chính:
Đây là giai đoạn cuối cùng của quá trình xử lý nhằm tổng hợp các số liệu
trên sổ sách kế toán thành những chỉ tiêu trên báo cáo. Các thông tin được thể hiện
trên báo cáo tài chính phải phản ánh trung thực tình hình tài chính và kết quả hoạt
động kinh doanh của ngân hàng và phải được trình bày đúng theo các chuẩn mực kế
toán hiện hành.
Để kiểm soát hữu hiệu với chứng từ sổ sách, báo cáo cần lưu ý các vấn đề
sau:
- Chứng từ cần được đánh số liên tục để có thể kiểm soát, tránh thất lạc và dễ dàng
truy cập khi cần thiết.
21
- Chứng từ và sổ sách cần được ghi chép ngay tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ
hoặc ngay sau đó càng sớm càng tốt. Việc ghi chép chậm trễ làm cho sổ sách thiếu
tin cậy và tăng khả năng sai sót hoặc gian lận.
- Ghi chép cần rõ ràng, ngắn gọn và dễ hiểu.
- Tổ chức luân chuyển chứng từ phải được thực hiện một cách khoa học để một liên
chứng từ có thể đi qua và sử dụng cho nhiều bộ phận, giảm được các khác biệt trong
ghi chép.
- Thiết kế các biểu mẫu chứng từ phù hợp với quy định của Nhà nước và có tính
năng kiểm soát.
- Sổ sách cần được đóng chắc chắn, đánh số trang, quy định nguyên tắc ghi chép,
chữ ký của người soát duyệt…
- Quy định thời hạn và trách nhiệm của từng bộ phận trong việc lập và kiểm tra báo
cáo tài chính.
1.2.2.3. Các thể thức kiểm soát hoạt động tín dụng
Các thể thức kiểm soát là những chính sách, thủ tục giúp cho việc thực hiện
các chỉ đạo của người quản lý, bảo đảm ngăn ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời rủi
ro có thể phát sinh trong quá trình thực hiện các mục tiêu của ngân hàng. Các thể
thức kiểm soát được xây dựng thường bao gồm các nguyên tắc sau:
a. Phân chia trách nhiệm phù hợp
Nguyên tắc này thực hiện thông qua việc phân tích trách nhiệm, thực hiện
nghiệp vụ tín dụng cho nhiều người, nhiều bộ phận cùng tham gia, mục đích là
không để cho một cá nhân hay bộ phận nào có thể kiểm soát mọi mặt của một
nghiệp vụ. Khi đó thông qua cơ cấu tổ chức, công việc của một nhân viên này được
kiểm soát tự động bởi công việc của một nhân viên khác. Việc phân chia trách
nhiệm còn bao hàm cả yêu cầu về việc luân chuyển cán bộ tín dụng trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ quan hệ khách hàng để ngăn ngừa khả năng thông đồng, cấu kết
với khách hàng. Việc phân chia trách nhiệm rõ ràng cụ thể sẽ tạo cho nhân viên
không có cơ hội làm sai qyu chế trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, dù chỉ là
nhiệm vụ thông thường.
22
b. Các thủ tục phê chuẩn đúng đắn
Tất cả các nghiệp vụ đều phải được những người có trách nhiệm phê chuẩn
trước khi thực hiện. Khi bất kì ai trong ngân hàng cũng có thể quyết định cho vay
thì sự hỗn độn sẽ xảy ra. Có hai mức độ phê chuẩn:
- Phê chuẩn chung: Ban quản trị đưa ra các chính sách và những người cấp dưới
được chỉ đạo thực thi các hoạt động theo chính sách này mà không trình để xét
duyệt một lần nữa.
- Phê chuẩn cụ thể: Liên quan đến một cá nhân xét duyệt cụ thể cho từng nghiệp vụ.
Đối với những nghiệp vụ có số tiền lớn hoặc quan trọng, người quản lý yêu cầu xét
duyệt cụ thể đối với từng trường hợp.
Cá nhân hoặc nhóm người được phê chuẩn cụ thể hoặc phê chuẩn chung
phải giữ một vị trí tương xứng với bản chất và ý nghĩa của nghiệp vụ kinh tế đó.
c. Chứng từ và sổ sách đầy đủ
Chứng từ và sổ sách là những hình thức, công cụ mà trên đó các nghiệp vụ
kinh tế được phản ánh và tổng hợp.
Chứng từ thực hiện chức năng ghi nhận và thông tin ban đầu trong toàn tổ
chức của ngân hàng. Chứng từ phải đầy đủ để cung cấp sự bảo đảm hợp lý là tất cả
các tài sản đã được kiểm soát đúng đắn và tất cả các nghiệp vụ kinh tế được ghi sổ
chính xác.
d. Bảo vệ tài sản vật chất và sổ sách
Tài sản có thể được bảo vệ tốt thông qua hạn chế việc tiếp cận tài sản bằng
cách xây dựng nhà hầm an toàn, sử dụng két sắt, bố trí lực lượng bảo vệ đầy đủ, tổ
chức kiểm kê định kỳ…
e. Kiểm tra độc lập
Kiểm tra độc lập là sự xem xét lại cẩn thận và liên tục bồn loại thủ tục kiểm
soát trên có được thực hiện đầy đủ hay không. Người thực hiện thủ tục kiểm tra này
phải độc lập với nghiệ vụ được kiểm tra. Trong quá trình thực hiện, nhân viên có
khả năng quên hoặc vô ý không tuân theo các thủ tục hoặc trở nên cẩu thả. Ngoài ra
sự gian lận và vô ý sai phạm đều có khả năng xảy ra, bất luận quá trình kiểm soát là
23
như thế nào. Vì vậy, mặc dù sự phân chia trách nhiệm đã tạo một sự kiểm soát lẫn
nhau một cách tự nhiên trong hoạt động, kiểm tra độc lập vẫn tồn tại trong một số
nghiệp vụ mà người quản lý thấy trọng yếu và rủi ro cao.
f. Phân tích rà soát
Thủ tục phân tích là sự so sánh giữa hai số liệu từ những nguồn gốc khác
nhau và tất cả mọi khác biệt đều cần làm rõ. Thủ tục này giúp mau chóng phát hiện
các gian lận, sai sót hoặc các biến động bất thường để kịp thời đối phó. Các dạng
phân tích rà soát thường gặp là:
• Đối chiếu giữa ghi chép của đơn vị với các số liệu từ bên ngoài.
• Đối chiếu giữa số liệu tổng hợp và số liệu chi tiết.
• Đối chiếu giữa số liệu kỳ này với kỳ trước, giữa thực tế với kế hoạch.
1.2.3. Nội dung và biện pháp kiểm soát tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.3.1. Mục tiêu kiểm soát
Đối với hoạt động tín dụng, một hệ thống KSNB được thiết lập nhằm thỏa
mãn các mục tiêu mà các nhà quản lý mong muốn là:
Mục tiêu hoạt động: ngân hàng phải đạt được hiệu quả trong hoạt động, đặc
biệt là trong việc sử dụng các tài sản và các nguồn lực khác để kinh doanh sinh lời.
Do vậy, ngân hàng phải có khả năng kiểm soát và phòng chống được các rủi ro mà
ngân hàng gặp phải trong toàn bộ hoạt động quản lý, điều hành và tác nghiệp.
Mục tiêu thông tin: Ngân hàng phải có được một hệ thống sổ sách, hồ sơ,
báo cáo tài chính và báo cáo hoạt động đầy đủ, chính xác và kịp thời để cung cấp
cho cấp điều hành của ngân hàng, các cơ quan có chức năng giám sát ngân hàng và
các đối tác bên ngoài khi cần thiết. Thông tin gửi tới HĐQT, ban điều hành và các
đối tượng khác phải đáng tin cậy, đầy đủ và trung thực để họ có thể dựa vào thông
tin này để ra các quyết định quản lý, điều hành hoặc tác nghiệp đúng đắn.
Mục tiêu tuân thủ: Mọi nghiệp vụ và hoạt động trong ngân hàng phải tuân
thủ theo các qui định, các cơ chế chính sách, pháp luật hiện hành; các chiến lược,
các chính sách kinh doanh và quy trình nghiệp vụ mà các cấp lãnh đạo quản lý và
24
điều hành của ngân hàng đã quy định trong các văn bản quy phạm hoặc có tính quy
phạm.
1.2.3.2. Nội dung kiểm soát tín dụng
Công tác kiểm soát trong ngân hàng mang tính toàn diện bao trùm tất cả
các hoạt động nhằm bảo đảm đạt được các mục tiêu mà một ngân hàng đặt ra.
Trong nghiệp vụ tín dụng, hoạt động kiểm soát tín dụng bao gồm một số
nội dung cơ bản sau:
• Kiểm soát việc xét duyệt tín dụng: kiểm soát số tiền cho vay, thủ tục cho
vay, thủ tục gia hạn các khoản nợ, lãi suất áp dụng.
• Kiểm soát giai đoạn giải ngân và quá trình kế toán: giám sát việc tuân thủ
cam kết trả vốn, lãi vay, thẩm tra thường xuyên tình hình tài chính của người vay
vốn, đánh giá độ an toàn của tài sản thế chấp.
• Kiểm soát quá trình thu hồi vốn vay: giám sát việc tuân thủ cam kết trả
vốn, lãi vay, thẩm tra thường xuyên tình hình tài chính của người vay vốn, đánh giá
độ an toàn của tài sản thế chấp.
• Kiểm soát rủi ro tín dụng thông qua việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh
giá tình hình tài chính doanh nghiệp, hệ thống chỉ tiêu phân loại khách hàng, xây
dựng phương pháp định lượng rủi ro và cách thức giám sát rủi ro áp dụng trong
ngân hàng.
• Kiểm soát việc chấp hành các nguyên tắc trong thực hiện nghiệp vụ
• Kiểm soát hệ thống thông tin tín dụng trên mạng lưới thông tin nội bộ của
ngân hàng.
1.2.3.3. Những thủ tục kiểm soát tín dụng trong ngân hàng thương mại
a. Phân tích tín dụng
Đối với mỗi đơn xin vay, cán bộ tín dụng phải trả lời được 3 câu hỏi căn
bản sau:
- Người xin vay vốn có thể tín nhiệm và mình biết họ là ai?
25
- Hội đồng tín dụng có được ký kết một cách đúng đắn và hợp lệ, nhằm bảo vệ được
ngân hàng và người gửi tiền, và người xin vay có khả năng hoàn trả nợ vay mà
không cần đến một sức ép nào?
- Trong trường hợp khách hàng không trả được nợ, liệu ngân hàng có thể thu hồi
bằng tài sản hay thu nhập của người vay một cách nhanh chóng với chi phí và rủi ro
thấp? nghĩa là ngân hàng phải xác định rõ ràng và chính xác những tài sản nào là
đối tượng có thể gán nợ và có thể bán được đối với những tài sản của người vay vốn
xin thế chấp.
Cán bộ tín dụng phải có trách nhiệm làm thỏa mãn yêu cầu đồng thời của
người vay và ngân hàng trong hợp đồng tín dụng, nhằm tạo điều kiện cho khách
hàng vay vốn theo kế hoạch và trả nợ thuận lợi. Một hợp đồng tín dụng hợp lệ phải
bảo vệ được quyền lợi của ngân hàng bằng cách quy định những điều khoản giới
hạn hoạt động của người vay, nếu hoạt động này đe dọa đến khả năng thu hồi vốn
của ngân hàng.
b. Kiểm tra tín dụng
Sau khi hợp đồng tín dụng được ký kết giữa người vay vốn và ngân hàng,
ngân hàng phải thường xuyên kiểm tra khoản tín dụng đó. Lý do, các điều kiện tín
dụng thường thay đổi, điều kiện tài chính của người vay và khả năng hoàn trả nợ
vay của khách hàng; những biến động trong nền kinh tế; người vay có thể bị mất
việc làm, bị bệnh, chết;…không có khả năng trả nợ. Cán bộ tín dụng phải nhạy cảm
với những diễn biến như vậy và định kì phải kiểm tra tất cả các khoản tín dụng cho
đến khi chúng hết hạn.
Kiểm tra tín dụng giúp cho nhà quản lý nhận ra một cách nhanh chóng về
các vấn đề như sau: Đã sai trong việc phân tích và ra quyết định ở khâu nào? Với
sai lầm đó đã thiệt hai bao nhiêu? Đồng thời, cũng giúp cho nhà quản lý điều hành
trong việc đánh giá toàn bộ tiềm ẩn rủi ro đối với ngân hàng, để có biện pháp phòng
chống kịp thời.
c. Xử lý tín dụng có vấn đề