1. Mở đầu:
1.1. Lý do chọn đề tài:
Vui chơi là một trong những nhu cầu đầu tiên của trẻ. Có thể nói vui
chơi là “việc” của trẻ. Trẻ thích chơi. Kết quả của hoạt động này làm cho trẻ
được thoả mãn những nhu cầu vận động, nhu cầu tìm hiểu, khám phá biết bao
điều mới lạ mà trẻ chưa biết từ thế giới xung quanh…Vui chơi là phương thức
học và ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực phát triển của trẻ.
Do đặc điểm của trẻ Mầm non là lứa tuổi đang phát triển mạnh, cả về
thể chất cũng như ý thức học tập. Chính vì vậy mà trẻ luôn tò mò, thích bắt
trước người lớn, trẻ luôn muốn được tìm hiểu, khám phá thế giới xung quanh,
trẻ luôn muốn được hoạt động ở mọi lúc, mọi nơi, trẻ “Học bằng chơi, chơi mà
học”. Trẻ được học dưới hình thức khác nhau như: Học trong giờ hoạt động
ngoài trời, trong buổi tham quan dạo chơi, trong ngày hội ngày lễ và một trong
những hình thức đổi mới cho trẻ hoạt động đó là cho trẻ hoạt động ở các góc .
Trẻ lĩnh hội các tri thức tiền khoa học trong trường mầm non qua vui
chơi: Thông qua đó trẻ khám phá các hoạt động mà trẻ yêu thích như hát, múa,
kể chuyện, vẽ nặn, đọc thơ và được thể hiện mình qua xã hội trẻ em. Các hoạt
động tổ chức cho trẻ phải đảm bảo được sự phát triển tối đa cho trẻ. Muốn vậy
phải xem xét trẻ như một nhân cách trọn vẹn, có đặc điểm chung của độ tuổi
nhưng cũng có những nét riêng biệt, tuỳ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh, môi
trường sống của trẻ.
Hình thức hoạt động này tạo cơ hội cho trẻ lựa chọn hoạt động mà trẻ ưa
thích trong phạm vi có thể, trẻ được hoạt động theo trình độ và khả năng của
mình, có điều kiện để thao tác thử nghiệm, tìm tòi và phát triển, từ đó trẻ tiếp thu
tri thức một cách sâu sắc hơn. Hoạt động ở các góc, trẻ được tự do giao tiếp, tự
do kết bạn, tự do chọn trò chơi. Vì vậy, trẻ được sống trong không khí thoải mái
vui vẻ, học được cách hợp tác, chia sẻ cùng nhau làm việc .
Qua hoạt động ở các góc, giáo viên có điều kiện tìm hiểu trình độ, năng
lực của từng trẻ và cơ hội nắm bắt trẻ ở các trình độ khác nhau, theo cá nhân
hoặc nhóm trẻ. Tuy nhiên trên thực tế cho thấy những năm đàu khi tiếp cận với
hình thức đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục cho trẻ được hoạt động ở các
góc, bản thân tôi và BGH nhà trường cũng còn nhiều lúng túng, dẫn đến giờ
hoạt động còn mang tính áp đặt nặng nề, dẫn đến hiệu quả hoạt động chưa cao,
chưa thực sự phát huy được tính tích cực sáng tạo của trẻ. Qua 3 năm thực hiện
tôi đã trăn trở để tìm ra những phương pháp hay nhất hướng dẫn trẻ đi vào hoạt
động có hiệu quả, và tôi đã chọn đề tài : “Một số biện pháp giúp trẻ mẫu giáo 3 4 tuổi hoạt động góc đạt hiệu quả cao”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Một số kinh nghiệm tổ chức hướng dẫn hoạt động góc cho trẻ mẫu giáo 3
- 4 tuổi.
Tìm hiểu thực trạng của việc tổ chức hướng dẫn hoạt động góc của trẻ
Trường mầm non Trung Hạ.
1
Đề suất một số biện pháp tổ chức hướng dẫn cho trẻ mẫu giáo bé hoạt
động ở các góc.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Trẻ mẫu giáo 3 - 4 tuổi. Khu Din
- Phụ huynh, trẻ
- Một số tài liệu trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu tài liệu: Khái quát những tài liệu liên quan đến đề tài .
Phương pháp quan sát: Quan sát, ghi chép những biểu hiện hứng thú của
trẻ đối với các hoạt động ở các góc khác nhau.
Phương pháp đàm thoại: Đàm thoại cùng trẻ, thăm dò thái độ của trẻ
đối với các hoạt động ở các góc .
2
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2. 1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Một trong những hình thức đổi mới đó là tổ chức cho trẻ hoạt động ở các
góc. Hình thức hoạt động này tạo cơ hội cho trẻ chọn hoạt động mà trẻ ưa thích
trong phạm vi có thể, trẻ được hoạt động theo trình độ và khả năng của mình, có
điều kiện để trẻ thao tác, thử nghiệm tìm tòi và phát hiện.Từ đó trẻ tiếp thu tri
thức một cách sâu sắc hơn, hoạt động ở các góc trẻ được tự do giao tiếp, tự do
kết bạn, tự do chọn vai chơi, góc chơi. Vì vậy trẻ được sống trong không khí
thoải mái vui vẻ, học được cách hợp tác, chia sẻ cùng nhau làm việc.
Qua hoạt động ở các góc, giáo viên có điều kiện tìm hiểu về tâm lý, sở
thích của từng trẻ và cơ hội dạy trẻ theo nhu cầu khác nhau theo cá nhân hoặc
nhóm trẻ.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
* Tình hình nhà trường, nhóm, lớp.
Là điểm trường chính ở trung tâm xã Trung Hạ, nằm ở tuyến đường 217,
là cửa ngõ của huyện Quan sơn. Trường có 5 điểm trường, trong đó có 1 điểm
chính và 4 điểm lẻ với tổng số trẻ là 326 cháu. Phụ huynh rất tin tưởng và yên
tâm khi gửi con.
Nhóm lớp là một điểm khu chính với số trẻ là 17 trẻ, trong đó có 6 trẻ là
nữ và 11 trẻ nam, tất cả các trẻ này đều là dân tộc thái có hộ khẩu sinh sống tại
bản.
* Thực trạng trước khi thực hiện đề tài.
Xuất phát từ tình hình thực tế trên, qua nghiên cứu tìm tòi, tôi đã tìm ra
được những biện pháp tối ưu, để có hướng phát triển cho trẻ trong hoạt động
góc.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu đề tài tôi có một số thuận lợi và khó khăn
sau:
* Thuận lợi:
Qua các đợt đi chuyên đề cấp huyện, bản thân tôi đã tiếp cận được
chương trình, phương pháp mới và tôi được trực tiếp dạy trẻ mẫu giáo 3 - 4 tuổi:
Tổng số 17 cháu, các cháu đều cùng độ tuổi.
Đồ dùng đồ chơi cho các góc được nhà trường trang bị tương đối đầy đủ
và phong phú.
- Cơ sở vật chất nhà trường đã được đầu tư, xây dựng và sửa chữa.
- Được nhà nước hỗ trợ ăn bán trú 120.000đ/tháng/ trẻ/tháng. Cho trẻ ăn
bán trú hoàn toàn, hỗ trợ đồ dùng nhà bếp, đồ chơi cho trẻ.
* Khó khăn:
Từ những thuận lợi trên xong vẫn còn khó khăn trong công việc hướng
dẫn và rèn luyện các cháu. Vẫn còn một số ít phụ huynh nhận thức về nghành
học mầm non còn thấp, chưa coi trọng việc học của con cái khi đến trường,
không giúp đỡ tạo điều kiện trong việc dạy dỗ các cháu.
3
Các cháu 1 phần bị ảnh hưởng bởi môi trường sống tại gia đình như: Bố
mẹ không tập cho trẻ nói tiếng phổ thông. Đa số trẻ là con em người dân tộc nói
tiếng phổ thông chưa thạo nên còn nhút nhát chưa mạng dạn trong giao tiếp.
Trước khi áp dụng các biện pháp mới, tôi đã lập 1 bảng
khảo sát chất lượng đầu năm đối với trẻ và đã có kết quả như sau:
* Khảo sát tỉ lệ đầu năm:
Bảng khảo sát chất lượng đầu năm:
Mức độ - khả năng.
Tổng số
trẻ
Đạt
Tỷ lệ
%
Chưa
đạt
Tỷ lệ
%
- Mức độ hứng thú, tích cực chủ
động sáng tạo, khả năng giao tiếp
17
14
82%
3
18%
tốt.
- Có hứng thú nhưng chưa tích cực
chủ động sáng tạo, khả năng giao
17
12
70%
5
30%
tiếp còn hạn chế.
- Mức độ hứng thú kém, chưa thể
hiện được tính tích cực, sáng tạo,
17
12
70%
5
30%
khả năng giao tiếp kém.
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm, giải pháp đã sử dụng để giải quyết
vấn đề:
Đối với trẻ nằm ở mức độ 1 các cháu đã có khả năng chủ động lựa chọn
góc chơi, vai chơi, theo ý thích mà không bị chi phối bởi 1 điều kiện nào khác .
Đối với trẻ ở mức độ 2 chưa có sự chủ động trong việc lựa chọn vai
chơi.
Đối với trẻ ở mức độ 3 quá trình chơi trẻ thể hiện vai chơi một cách thụ
động, ngôn ngữ còn nhiều hạn chế .
Tùy theo từng độ tuổi, trình độ hoạt động vui chơi và qua thời gian
nghiên cứu tôi đã mạnh dạn cải tiến một số nội dung, phương pháp, biện pháp
giúp trẻ mẫu giáo bé hoạt động góc đạt hiệu quả.
* Giải pháp 1: Thiết kế xây dựng các hoạt động một cách hợp lý và khoa
học:
Thiết kế xây dựng góc hoạt động phải đạt được mục đích tạo ra cho trẻ
một môi trường học tập tự do thoải mái, thoả mãn những nhu cầu phát triển về
nhiều mặt của trẻ, nhận thức tình cảm, ngôn ngữ tính xã hội, kỹ năng thao tác.
Ngay gần cửa vào lớp tôi bố trí góc học tập với mục đích đảm bảo
độ sáng cho trẻ
khi hoạt động, vì hoạt động ở góc học tập trẻ chủ yếu hoạt động với
sách vở, truyện tranh, đọc …
Bên cạnh góc học tập là góc nghệ thuật, góc nghệ thuật lui vào phía
trong.
Nửa lớp phía dưới, tôi bố trí 2 góc đó là góc xây dựng lắp ghép và góc
phân vai, vì đây là 2 góc chơi động trẻ có sự giao lưu đi lại.
4
Góc thiên nhiên được bố trí bên ngoài lớp.
Sau khi lựa chọn được các góc, chúng ta cần bố trí các góc chơi động
và chơi tĩnh cách càng xa nhau càng tốt, để tránh ảnh hưởng lẫn nhau. Giữa góc
này với góc kia cần có sự phân định ranh giới. Giữa các góc có lối đi thuận tiện,
bố trí góc để cô có thể bao quát được cả lớp .
Khi đã hình thành được các góc chính từ góc chính, tôi chia ra nhiều
góc nhỏ phù hợp với chủ đề hoạt động của trẻ thêm phong phú và đạt nhiều yêu
cầu giáo dục (ví dụ: Trong chủ đề “Gia đình” góc phân vai chia ra các góc nhỏ :
cửa hàng mua bán, gia đình, bác sỹ - góc học tập được chia thành: lớp học, thư
viện ...)
* Giải pháp 2: Chuẩn bị phương tiện, đồ dùng đồ chơi phục vụ góc hoạt
động:
Tôi đã lựa chon nguyên vật liệu; đồ dùng, đồ chơi tài liệu cho thích
hợp, tận dụng các nguồn nguyện liệu thiên nhiên của địa phương, đặc biệt là
nguồn đóng góp từ phía phụ huynh đồ dùng, đồ chơi đơn giản dễ tìm kiếm
nhưng lại được trẻ yêu thích và đồng thời dùng đồ chơi phải phù hợp với nội
dung các góc hoạt động và được thường xuyên bổ sung thay đổi theo di chuyển.
Đồ dùng đồ chơi, nguyên liệu phải đảm bảo vệ sinh đối với trẻ.
Ví dụ : Tại góc phân vai ở chủ đề :”Thế giới thực vật” ngoài đồ dùng
đồ chơi của nhà trường tôi đã bổ sung sử dụng nguyên vật liệu như : Các loại
rau, củ, quả thật, các loại quả cây khác nhau, các loại hạt… Từ rau, củ, quả thật
trẻ chế biến được các món ăn khác nhau mà trẻ biết .
Hoặc: Tại góc tạo hình, tôi lựa chọn những cái hộp, giấy báo, len, vải,lá
khô, rơm… Đặc biệt là các nguyên vật liệu thiên nhiên từ thiên nhiên .
Từ những nguyên vật liệu đó trẻ lựa chọn những đồ dùng, đồ chơi mà
trẻ được thao tác, khi được thao tác sẽ giúp trẻ phát triển khả năng tạo hình,
đồng thời tạo cho trẻ phát triển khả năng tạo hình, đồng thời tạo cho trẻ hứng thú
hoạt động tích cực.
Hoạt động góc (hoạt động vui chơi) có thể nói là bước đầu cho trẻ được
làm quen, tiếp cận với xã hội bên ngoài nên việc lựa chọn đồ dùng, đồ chơi cho
các hoạt động tại góc rất quan trọng do đó chúng ta nên hạn chế đồ dùng, đồ
chơi sẵn vì nếu lạm dụng thì sẽ làm mất đi khả năng tư duy sáng tạo của trẻ.
Ví dụ: ở chủ đề “Gia đình” tại góc chơi xây dựng lắp ghép, trẻ muốn
xây ngôi nhà có vườn cây ăn quả, có hàng rào bao bọc xung quanh… nếu sử
dụng đồ dùng đồ chơi có sẵn : Như hình ngôi nhà, cây bằng nhựa, hàng rào được
lắp sẵn… Trẻ chỉ việc xếp vào nhưng nếu chúng ta sử dụng nguyên vật liệu phế
thải từ thiên nhiên : Như bìa cát tông, hình người từ hoạ báo, cành khô, khối gỗ
thừa… Với những nguyên vật liệu này trẻ tích cực hoạt động. Bản thân trẻ phải
suy nghĩ làm thế nào để có được ngôi nhà? Làm sao để tạo ra được những cây ăn
quả ? …
Việc trẻ tự tạo ra sản phẩm từ nguyên vật liệu phục vụ cho trò chơi, trẻ
sẽ cảm thấy tự tin và hào hứng hơn…
5
* Giải pháp 3: Khơi gợi tính tự chủ hứng thú và sáng tạo khi chơi, mở
rộng mối quan hệ cho trẻ về con người với thế giới xung quanh thông qua các
hoạt động.
Muốn trẻ tham gia hoạt động góc 1 cách có hiệu quả, cô giáo phải là
người biết khơi gợi hứng thú cho trẻ, phải làm cho trẻ mang những kiến thức
hiểu biết đã được học từ những môn học, tiết dạy vận dụng vào quá trình thực
tiễn của buổi chơi:
Ví dụ: Khi cho trẻ hoạt động vui chơi ở chủ đề “Trường mầm non” từ
tiết học tạo hình “Vẽ trường mẫu giáo của cháu” tôi đã trò chuyện hỏi trẻ: Các
cháu đã vẽ trường mẫu giáo của mình như thế nào? Ai sẽ xây dựng được ngôi
trường các bạn đã vẽ để mọi người đến tham quan.
Trẻ vốn hiếu động và rất thích được khen nên hàng ngày tôi luôn quan
sát và theo dõi xem trẻ thường hoạt động ở góc chơi nào, động hay tĩnh để khơi
gợi hứng thú, mong muốn của trẻ để trẻ được lựa chọn góc chơi một cách hào
hứng qua đó sẽ dẫn đến kết quả của góc chơi đạt kết quả cao.
Ví dụ: Vai chơi bác thợ cả của góc xây dựng: Cô giáo phải có sự hiểu
biết để gợi ý cho trẻ biết công việc của người thợ cả làm những việc gì? Chỉ đạo
thợ của mình ra sao? Qua đó trẻ sẽ tiếp nhận để tái tạo lại và thể hiện bằng trò
chơi của mình.
* Giải pháp 4: Cách tổ chức hướng dẫn hoạt động của trẻ tại góc:
Phải hiểu rõ tâm sinh lý của từng lứa tuổi, nắm rõ tình hình nhận thức
của trẻ để đề ra mục đích yêu cầu cho phù hợp với từng giai đoạn .
Việc tổ chức hướng dẫn cho trẻ hoạt động ở các góc, tôi đã tiến hành
theo các giai đoạn :
- Giai đoạn đầu: Trẻ chưa có khả năng chủ động hoạt động ở các góc ta
cần giúp trẻ nắm được nguyên tắc hoạt động ở các góc và nhanh chóng thích
nghi với môi trường hoạt động mới. Đầu tiên giới thiệu cho trẻ biết các góc ở
trong lớp, nội dung hoạt động ở từng góc.
Ví dụ:
+ Lớp ta có 5 góc, trong góc phân vai con sẽ đóng vai những người
trong gia đình, mỗi người một công việc (chủ đề gia đình ), người đi làm, người
đi chợ, người bế em… Hoặc ở góc xây dựng các con sẽ làm bác thợ xây, xây
nhà có vườn cây, ao cá …
+ Sau đó tôi quyết định số trẻ trong mỗi góc hoạt động theo nội dung
của từng góc: Trẻ theo ký hiệu đã định sẵn của mình ở góc chơi mà vẽ góc đó .
+ Giúp trẻ nhanh chóng nắm bắt được nguyên tắc hoạt động ở các góc
quy định ở từng góc chơi .
Ví dụ: Cô trao đổi với trẻ : Các con không được vào góc chơi với số
lượng quá đông, không được đem đồ chơi từ góc này sang góc khác, lấy đồ dùng
ra chơi và nhẹ nhàng, mỗi bạn một công việc, không được tranh dành đồ chơi
với bạn, không nói to ảnh hưởng đến các góc khác. Khi kết thúc phải biết cất đồ
chơi vào đúng nơi quy định .
6
+ Tuy nhiên không nên mất nhiều thời gian cho phần này mà dành
nhiều thời gian cho trẻ hoạt động .
- Giai đoạn tiếp theo trẻ tự động ở các góc. Cô quan sát hoạt động của
trẻ, tìm hiểu khả năng, trình độ của trẻ, từ đó có định hướng giáo dục gợi ý thích
hợp với trẻ.
+ Trong giai đoạn này phải chú ý luôn luôn phát triển sự hứng thú hoạt
động của trẻ, kịp thời điều chỉnh nội dung để thoả mãn yêu cầu hoạt động của
trẻ. Cho trẻ tìm tòi, phát hiện, suy nghĩ tự giải quyết vấn đề. Kiên trì dạy trẻ có
thói quen thu dọn, sắp xếp đồ dùng, đồ chơi, nguyên vật liệu vào đúng nơi quy
định.
Ví dụ: ở góc xây dựng cô đến trò chuyện với trẻ: Bác thợ cả ơi, các bác
đang xây dựng công trình gì đấy ? Chưa hoàn thành nhưng tôi thấy rất đẹp, các
bác có thể giới thiệu cho tôi biết chút ít được không? Cô có thể gợi ý để trẻ bổ
sung đồng thời tạo hứng thú để trẻ hoạt động tiếp tại góc chơi.
* Giải pháp 5: Quan sát hoạt động của trẻ:
- Cô chú ý xem trẻ tự chọn góc hoạt động nào ?
Ví dụ: trẻ giá thường chọn góc phân vai, trẻ trai thường chọn góc xây
dựng .
- Loại đồ chơi, đồ dùng nào trẻ thích chơi ?
Ví dụ: Bút chì, bút màu, đồ dùng, phế thải của người lớn như túi xách,
giày dép, xăng đan, đồ dùng trang điểm (đồ dùng này con gái thường hay lựa
chọn). Đồ chơi hoạt động con trai thường lựa chon như ôtô, tàu hoả…
- Vào góc chơi trẻ thường bắt đầu ở việc đi chợ, nấu ăn… Hay ở góc
nghệ thuật thường bắt đầu từ vẽ, cắt dán… Góc học tập thường bắt đầu từ việc
xem tranh ảnh, đọc sách (đọc mò)…
- Tìm hiểu xem tình hình hoạt động của trẻ ra sao, từ đó khuyến khích
trẻ chủ động trong hoạt động của mình, không nên thu mình lại mà nên tham gia
chơi cùng các bạn, chia sẻ cùng với bạn.
- Củng cố và khuyến khích hoạt động của trẻ:
+ Đặt câu hỏi để khơi gợi dẫn dắt làm sáng tỏ cũng như giúp trẻ bày tỏ
làm sáng tỏ suy nghĩ và chọn lựa.
Ví dụ: Hôm nay gia đình bác tổ chức sinh nhật cho búp bê, mọi người
sẽ làm gì? Cuốn album này các bác sẽ trang trí như thế nào cho đẹp? Vì sao em
thích vào thư viện?...
+ Cô có thể miêu tả việc trẻ làm cho trẻ nghe:
Ví dụ: Hôm nay tôi thấy bác có nhiều hàng thế ? Để tôi xem có bao
nhiêu loại nào? Bức ảnh gia đình bác rất đẹp, ảnh của bố và mẹ dán ở trên, còn
của con thì dán ở dưới.
+ Cần mở rộng và làm phong phú các hoạt động của trẻ như: Bổ sung
đồ dùng đồ chơi cho các hoạt động .
* Giải pháp 6: Phát triển ngôn ngữ giao tiếp cho trẻ khi chơi (ngôn
ngữ vai chơi).
- Trong quá trình chơi, trẻ cũng đã thể hiện được tính tích cực của ngôn
ngữ vai chơi. Nhưng thường đa số trẻ rất thụ động trong việc thể hiện ngôn ngữ
7
vai chơi, hạn chế việc giao tiếp giữa bạn chơi này với bạn chơi khác … Vì vậy
cô giáo phải là người khơi gợi, chủ động nhập vai cùng trẻ.
Ví dụ: Ở góc phân vai nhóm chơi “Bác sỹ” cô có thể nhập vai là bệnh
nhân đến xin khám bệnh. Trẻ làm bác sỹ sẽ phải trao đổi với bệnh nhân kiểm tra
sức khoẻ, hỏi bệnh nhân đau chỗ nào ?
Hay trong quá trình chơi, một vài trẻ nói năng thô tục, cục cằn, cộc lôc
với nhau, cô phải đến bên nhẹ nhàng uốn nắn.
Ví dụ: Bác sỹ ơi bệnh nhân đang bị ốm đấy, bác phải động viên bệnh
nhân đi chứ sao bác sỹ lại gắt gỏng thế, bác phải hỏi bệnh nhân: “Thế bác đau ở
chỗ nào để tôi khám lại xem sao?”.
Để có sự liên hoàn giữa vai nọ với vai kia trong nhóm chơi, trẻ phải thể
hiện dược tính tích cực của ngôn ngữ giao tiếp.
Ví dụ: Trong nhóm bán hàng: Cô bán hàng xưng hô “bác - tôi”… Làm
cho vai chơi thể hiện như thật.
Tóm lại khi những vai chơi được phát triển ở mức độ cao nhất sẽ tạo
điều kiện cho hành động, thao tác vai của trẻ đạt tới mức hiệu quả nhất, làm cho
buổi chơi của trẻ phản ánh đúng cuộc sống hiện thực.
* Giải pháp 7: Để hoạt động góc đạt hiệu quả cao, một yếu tố không thể
thiếu được là vai trò của người lớn trong việc hướng dẫn trẻ chơi - đó chính là
cô giáo mầm non.
Hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ em lứa tuổi mẫu giáo.
Để phát huy tối đa tác dụng giáo dục của hoạt động vui chơi đối với sự phát
triển toàn diện của trẻ, những người làm công tác giáo dục, các bậc cha mẹ, đặc
biệt là giáo viên mầm non cần.
Nhận thức đúng vai trò quan trọng của người lớn trong sự phát triển
hoạt động vui chơi của trẻ. Vai trò này được thể hiện ở 3 phương diện:
- Tạo điều kiện về địa điểm, thời gian, đồ chơi, trang thiết bị chơi và
kiến thức kinh nghiệm cho trẻ.
- Quan sát, đánh giá hoạt động vui chơi của trẻ .
- Trực tiếp hướng dẫn hoạt động vui chơi cho trẻ.
Giáo viên hướng dẫn trẻ chơi, cần tuân thủ nguyên tắc, một mặt vẫn
tôn trọng tính chủ động, tự lực, tích cực của trẻ, không làm ngắt quãng trò chơi
của trẻ và không làm mất hứng thú vui chơi của trẻ, mặt khác giáo viên có thể
tác động tích cực lên trò chơi của trẻ, hướng dẫn trẻ chơi 1 cách có mục đích, có
phương hướng và kế hoạch nhằm mở rộng và làm phong phú thêm trò chơi của
trẻ. Hướng dẫn (can thiệp vào) trò chơi của trẻ phải đúng lúc, đúng tình huống
và đúng cách.
Giáo viên cần hướng dẫn trẻ trong buổi chơi khi sảy ra trong buổi chơi
khi sảy ra các tình huống sau:
- Khi trẻ không tự tham gia vào 1 hoạt động vui chơi nào cả.
- Khi trẻ thiếu kỹ năng giao tiếp, hoặc gặp khó khăn trong việc thoả
thuận, hợp tác chơi cùng các bạn khác.
8
- Khi trò chơi của trẻ trở nên đơn điệu, lặp lai, có chiều hướng bị phá
vỡ.
- Khi trẻ thiếu hụt các kỹ năng chơi: Mở rộng nội dung chơi, kỹ năng sử
dụng vật dung thay thế, kỹ năng thực hiện hành động chơi, kỹ năng đóng vai …
- Khi trẻ yêu cầu.
- Khi xảy ra xung đột, vi phạm các luật lệ đã quy định trong lớp, làm
bạn đau.
- Khi trẻ chơi các trò chơi thiếu tính giáo dục.
- Khi giáo viên thấy trẻ bị cô lập, tẩy chay.
Tuỳ theo từng độ tuổi, trình độ phát triển hoạt động vui chơi và từng
tình huống xảy ra khi trẻ chơi, giáo viên có thể vận dụng các cách hướng dẫn
sau.
+ Chơi cạnh trẻ:
Ví dụ: Quan sát thấy 1 trẻ trong góc học tập, cầm 1 cuốn sách lật đi lật
lại, cô đến cạnh trẻ nói “ cô cung rất thích đọc truyện. Đây cô thích đọc truyện
này”. Cô cầm sách đúng chiều, giở lần lượt từng trang, đọc từ trái sang phải, từ
trên xuống dưới và chỉ vào từng chữ… Và làm mẫu các hành vi đọc cho trẻ
xem.
+ Chơi cùng trẻ:
Ví dụ: Sau minh họa cách hướng dẫn trẻ chơi thông qua biện pháp
“Chơi cùng trẻ”.
Quan sát 2 trẻ chơi trong góc chơi đóng vai, giáo viên thấy trẻ giả vờ
làm bánh từ bột nặn, hành động của trẻ đơn điệu và lặp đi lặp lại. Cô đến, tham
gia vào trò chơi của trẻ bằng cách đóng vai người mua hàng.
+ Dạy trẻ chơi:
Ví dụ: dạy trẻ chơi trò “Bán hàng”.
- Cô: bác Hà ơi, bác có nhiều hàng thế ?. Bác đã bán được gì chưa?
- Trẻ: chưa, tôi chưa bán được gì cả.
- Cô: sao bác không xếp hàng hoá lên giá hàng để mọi người nhìn thấy
và đến mua ?. Bác bày hàng đi, tôi sẽ tìm khách đến mua hàng của bác.
Chúng ta có thể khẳng định: Hoạt động vui chơi trở thành phương tiện
giáo dục và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ mẫu giáo khi và chỉ khi giáo
viên nhận thức được rõ vai trò của mình trong việc tổ chức hoạt động vui chơi
cho trẻ và biết vận dụng các biện pháp hướng dẫn trẻ chơi 1 cách linh hoạt, đúng
lúc, đúng cách ở từng tình huống chơi cụ thể khác nhau của trẻ.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đông nghiệp và nhà trường:
Sau khi áp dụng các giải pháp trên thực hiện và được sự hướng dẫn bổ
sung của BGH nhà trường, tôi đã thu được tỷ lệ % mức độ hứng thú, tích cực
chủ động sáng tạo của trẻ với kết quả như sau:
Khảo sát chất lượng cuối năm:
Mức độ - khả năng.
Tổng
Đạt
Tỷ lệ Chưa Tỷ lệ
số trẻ
%
đạt
%
9
Mức độ hứng thú, tích cực chủ động
sáng tạo, khả năng giao tiếp tốt.
Có hứng thú nhưng chưa tích cực chủ
động sáng tạo, khả năng giao tiếp còn
hạn chế.
Mức độ hứng thú kém, chưa thể hiện
được tính tích cực, sáng tạo, khả năng
giao tiếp kém.
17
16
94%
1
0.6%
17
15
88%
2
12%
17
15
88%
2
12%
Nhìn vào bảng khảo sát trên, chúng ta nhận thấy mức độ hứng thú, tích
cực chủ động sáng tạo của trẻ đã tăng lên rõ rệt.
Đầu năm trẻ chưa có sự chủ động trong việc lựa chọn vai chơi, nhưng
sau khi áp dụng các biện pháp trẻ đã có khả năng chủ động lựa chọn góc chơi,
vai chơi theo ý thích mà không bị chi phối bởi một điều kiện nào khác. Quá trình
chơi trẻ thể hiện ngôn ngữ giao tiếp tích cực, nhập vai chơi 1 cách sáng tạo, mức
độ hứng thú được duy trì đến cuối buổi chơi.
Ví dụ: Điển hình có 1 số cháu như cháu Vi Công Báo, Thái, Bảo. Đầu
năm vẫn còn chậm chưa biết lựa chọn góc chơi, vai chơi nhưng đến nay đã biết
lựa chọn góc chơi và chơi 1 cách hứng thú, được duy trì đến cuối buổi.
Trẻ tự lựa chọn cho mình vai phù hợp, cô không cần phải giới thiệu
từng góc chơi, hướng dẫn trẻ cho trẻ mà chỉ cần đóng vai là 1 người bạn lớn
chơi cùng trẻ
Hay ở góc phân vai ngôn ngữ của trẻ tự nhiên hơn so với đầu năm một
số trẻ còn nhút nhát, nhưng đến nay đã hứng thú tích cực hoạt động tại góc chơi.
Hiểu rõ nội dung hoạt động ở các góc, nắm vững các biện pháp tổ chức
hướng dẫn trẻ hoạt động từ đó hướng dẫn trẻ theo đúng quy luật phát triển đồng
thời phát huy tối đa tác dụng giáo dục của hoạt động ở các góc.
Các hoạt động đưa ra tổ chức cho trẻ phải hấp dẫn, gây hứng thú cho
trẻ, phải thường xuyên bổ sung các hoạt động mới trong khi thực hiện theo chủ
điểm.
Không được áp đặt trẻ trong các hoạt động.
Nguyên vật liệu cũng phải được bổ sung để luôn luôn phong phú và
hấp dẫn đối với trẻ.
Cần phải phát huy tính tích cực độc lập sáng tạo hoạt động của trẻ.
Khuyến khích trẻ hoạt động cùng nhau tạo thành sản phẩm hoạt động chung của
cả nhóm, sử dụng sản phẩm này để trang trí lớp. Điều này có ý nghĩa rất lơn đối
với trẻ và có tác dụng tuyên truyền hiệu quả đối với phụ huynh học sinh.
Cô phải tạo ra và duy trì hứng thú cho trẻ trong hoạt động, tạo ra được
sự thoải mái, vui vẻ dễ chịu cho trẻ.
Đầu tư thực sự cho một giáo án tổ chức hoạt động ở các góc cho trẻ.
Phải thường xuyên kiểm tra đánh giá một cách khách quan và sát với
tình hình của lớp, từ đó đề ra các biện pháp khắc phục tồn taị kịp thời.
10
3. Kết luận, kiến nghị:
- Kết luận:
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ, tôi rút ra từ quá trình tổ chức
hoạt động ở các góc. Nó chỉ thực sự có tác động mạnh mẽ và trở thành phương
tiện giáo dục khi có sự đầu tư tổ chức của cô. Đây cũng chính là mục đích của
tôi khi nghiên cứu đề tài này, mong rằng các giải pháp mà tôi đã áp dụng sẽ
được các bạn đồng nghiệp biết đến và cùng tham khảo.
Trong khuôn khổ thời gian và khả năng cá nhân còn nhiều hạn chế, quá
trình viết không tránh khỏi những lúng túng và thiếu sót. Rất mong hội đồng
khoa học các cấp đọc và đóng góp thêm để cho đề tài được hoàn chỉnh hơn.
- Kiến nghị:
+ Đối với nhà trường.
- Tổ chức nhiều giờ dạy mẫu, để rút kinh nghiệm
- Mua sắm các trang thiết bị, dụng cụ hoạt động góc.
+ Đối với phòng giáo dục.
- Cung cấp những tài liệu
- Tổ chức nhiều đợt tập huấn về chuyên môn.
- Cung cấp các trang thiết bị phục vụ cho hoạt động góc.
Bản thân rất mong được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo và
các đông nghiệp, để cho đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
Quan sơn, ngày 20 tháng 04 năm
ĐƠN VỊ
2018
( Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
tôi viết, không sao chép nội dung của
người khác).
Người thực hiện
Hà Thị Sanh
PHỤ LỤC
11
1: Mở đầu
1.1 Lí do chọn đề tài …………………………………………………(Trang 1)
1.2. Mục đích nghiên cứu ……………………………………………( Trang 1)
1.3. Đối tượng nghiên cứu …………………………………………...( Trang 2)
1.4. Phương pháp nghiên cứu ……………………………………… ( Trang 2)
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận sáng kiến kinh nghiệm ……………………………( Trang 3)
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm …..( Trang 3)
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề ………………..( Trang 4)
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm ……………………………( Trang 9)
3. Kết luận, kiến nghị
- Kết luận: ………………………………………………………… (Trang 11)
- Kiến nghị ………………………………………………………….(Trang 11)
12