Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

Ðại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu của dân tộc ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 46 trang )

Ð ại đo àn k ết toàn dân t ộc là truy ền th ống quý báu c ủa dân t ộc ta, đ
ư
ợ c
hun đú c qua hàng nghìn n ăm d ự
ng n ư
ớ c và gi ữ n ư
ớ c . T ừ khi ra đ
ờ i,
Ð ảng ta và Ch ủ t ịch H ồChí Minh luôn luôn coi tr ọng vi ệc xây d ự
ng, c ủng
c ốvà m ởr ộng kh ối đ
ạ i đo àn k ết toàn dân t ộc. D ư
ớ i s ựlãnh đ
ạ o c ủa Ð ảng,
các t ầng l ớp nhân dân không phân bi ệt thành ph ần, giai c ấp, dân t ộc, tôn
giáo, t ập h ợp đo àn k ết trong M ặt tr ận Dân t ộc th ống nh ất Vi ệt Nam, t ạo
nên s ứ
c m ạnh đ
ạ i đo àn k ết toàn dân t ộc giành th ắng l ợ
i l ịch s ửtrong Cách
m ạng Tháng Tám n ăm 1945 và các cu ộc kháng chi ến c ứ
u nư
ớ c , xây
d ựng và b ảo v ệT ổ qu ốc. Ngày nay, s ức m ạnh c ủa kh ối đ
ạ i đo àn k ết toàn
dân t ộc đa ng ti ếp t ục phát huy cao đ
ộ , tr ởthành đ
ộ ng l ự
c c ủa công cu ộc
đổi m ới CNH, HÐH đ
ất nư


ớ c . Ð ại đo àn k ết toàn dân t ộc là đ
ư
ờ n g l ối
chi ến l ư
ợ c , là bài h ọc l ớ
n c ủa cách m ạng n ư
ớ c ta.
Sau h ơn 25 n ăm ti ến hành công cu ộc đ
ổi m ớ
i do Ð ảng ta kh ở
i xư
ớ n g và
lãnh đ
ạ o, n ư
ớ c ta đã đ
ạt đ
ư
ợ c nh ữ
ng thành t ự
u to l ớ
n, có ý ngh ĩa l ịch s ử
.
Vai trò c ủa MTTQ Vi ệt Nam ti ếp t ục đ
ư
ợ c kh ẳng đ
ị nh và nâng cao trong
đời s ống chính tr ị - xã h ội. M ối quan h ệ g ắn bó gi ữ
a M ặt tr ận và các t ầng
l ớp nhân dân ngày càng đ
ư

ợ c t ăng c ư
ờ n g. Ð ư
ờ n g l ối ch ủ tr ư
ơ n g c ủa
Ð ảng, Nhà n ư
ớ c v ềđ
ạ i đo àn k ết toàn dân t ộc ngày càng đ
ư
ợ c hoàn thi ện
và th ể ch ế hóa b ằng các chính sách, pháp lu ật. Các t ầng l ớ
p nhân dân
chung s ứ
c, chung lòng cùng Ð ảng, Nhà n ư
ớc v ư
ợ t qua khó kh ăn, th ử
thách, gi ữv ững s ựổn đ
ị nh chính tr ị, phát tri ển kinh t ế- xã h ội, b ảo đ
ả m an
sinh xã h ội và ti ếp t ục nâng cao v ị th ếc ủa Vi ệt Nam trên tr ư
ờ n g qu ốc t ế.
MTTQ Vi ệt Nam đã và đa ng k ế th ừ
a, phát huy truy ền th ống v ẻ vang c ủa
M ặt tr ận Dân t ộc th ống nh ất Vi ệt Nam, góp ph ần to l ớ
n t ạo nên s ựđ
ồ ng
thu ận trong các t ầng l ớ
p nhân dân; tuyên truy ền, đ
ộ n g viên nhân dân phát
huy quy ền làm ch ủ, th ự
c hi ện đ

ư
ờ n g l ối, ch ủtr ư
ơ n g c ủa Ð ảng, chính sách,
pháp lu ật c ủa Nhà n ư
ớ c . Các phong trào thi đu a yêu n ư
ớ c , các cu ộc v ận
độn g xã h ội r ộng l ớn do M ặt tr ận và các t ổ ch ứ
c thành viên phát đ
ộ ng
ngày càng đi vào cu ộc s ống, đ
ư
ợ c các t ầng l ớ
p nhân dân h ư
ở n g ứn g tích
c ực. Ð ặc bi ệt, các phong trào, cu ộc v ận đ
ộ n g v ềđo àn k ết giúp nhau phát
tri ển kinh t ế, xóa đó i, gi ảm nghèo, đ
ề n ơn đá p ngh ĩa, lá lành đù m lá rách,
các ho ạt đ
ộ n g t ự qu ản ở c ộng đ
ồ n g dân c ư
... có tác d ụng thi ết th ự
c, t ạo
nên s ự g ắn k ết c ộng đ
ồ n g, ph ục v ụ s ự nghi ệp xây d ự
ng và b ảo v ệ T ổ
qu ốc. Cu ộc v ận đ
ộ n g 'H ọc t ập và làm theo t ấm g ư
ơn g đ
ạo đ

ứ c H ồ Chí


Minh' được các c ấp ủy đản g, chính quy ền, M ặt tr ận và
viên tri ển khai th ự
c hi ện sâu r ộng, đã làm cho t ưt ưở
ng
dân t ộc c ủa Ng ườ
i th ấm vào các t ầng l ớp nhân dân, t ạo
vi ệc xây d ự
ng và phát huy s ứ
c m ạnh kh ối đại đo àn k ết
địa bàn dân c ư
.

các t ổch ứ
c thành
đại đo àn k ết toàn
độn g l ự
c thúc đẩy
ngay t ại c ơs ởvà

D ự th ảo V ăn ki ện Ð ại h ội XI c ủa Ð ảng đã nêu 'Phát huy s ứ
c m ạnh đại
đo àn k ết toàn dân t ộc. Nâng cao nh ận th ứ
c, trách nhi ệm c ủa toàn Ð ảng,
toàn dân, toàn quân v ềphát huy s ứ
c m ạnh đại đo àn k ết toàn dân t ộc trong
b ối c ảnh m ới. L ấy m ục tiêu xây d ự
ng m ột n ướ

c Vi ệt Nam hòa bình, độc
l ập, th ống nh ất, toàn v ẹn lãnh th ổ, dân giàu, n ướ
c m ạnh, dân ch ủ, công
b ằng, v ăn minh làm đi ểm t ươ
n g đồn g; xóa b ỏ m ặc c ảm, định ki ến v ề quá
kh ứ, thành ph ần giai c ấp, ch ấp nh ận nh ữ
ng đi ểm khác nhau không trái v ớ
i
l ợi ích chung c ủa dân t ộc. Ð ề cao tinh th ần dân t ộc, truy ền th ống nhân
ngh ĩa, khoan dung để t ập h ợ
p, đo àn k ết m ọi ng ườ
i vào m ặt tr ận chung,
t ăng c ườ
n g đồn g thu ận xã h ội'. Ð ộng viên và phát huy kh ối đại đo àn k ết
dân t ộc luôn g ắn li ền v ới yêu c ầu m ởr ộng dân ch ủvà gi ữv ữ
ng k ỷ c ươ
ng
trong đời s ống xã h ội. Các c ấp ủy đản g, chính quy ền, M ặt tr ận c ần ch ăm
lo, phát huy và b ảo đảm quy ền làm ch ủ c ủa nhân dân. Tr ướ
c yêu c ầu đổi
m ới, ch ỉ có m ởr ộng dân ch ủXHCN m ới có đo àn k ết th ật s ựvà b ền v ữ
ng.
Ti ếp t ục phát huy vai trò, v ị trí MTTQ Vi ệt Nam trong giai đo ạn cách m ạng
m ới. MTTQ các c ấp c ần đổi m ớ
i n ội dung và ph ươ
n g th ứ
c ho ạt độn g, đa
d ạng hóa các hình th ứ
c v ận độn g, t ập h ợ
p nhân dân. Ð ẩy m ạnh Cu ộc v ận

độn g 'H ọc t ập và làm theo t ấm g ươn g đạo đức H ồ Chí Minh'; phong trào
thi đu a yêu n ướ
c ; v ận độn g các t ầng l ớ
p nhân dân cùng Ð ảng, Nhà n ướ
c
phát tri ển kinh t ế - xã h ội; h ợ
p tác và h ội nh ập kinh t ếqu ốc t ế... Nâng cao
ch ất l ượ
n g cu ộc v ận độn g Toàn dân đo àn k ết xây d ự
ng đời s ống v ăn hóa
ở khu dân c ư
, Ngày vì ng ười nghèo; 'Ng ười Vi ệt Nam ưu tiên dùng hàng
Vi ệt Nam', qua đó góp ph ần nâng cao đời s ống v ật ch ất và tinh th ần c ủa
các t ầng l ớp nhân dân. Ch ăm lo và phát huy vai trò c ủa các cá nhân tiêu
bi ểu, các nhân s ĩ, trí th ứ
c, ng ườ
i dân t ộc thi ểu s ố, ch ứ
c s ắc tôn giáo và
c ộng đồn g ng ườ
i Vi ệt Nam ở n ướ
c ngoài. C ủng c ố, ki ện toàn v ề t ổ ch ứ
c,
nâng cao ch ất l ượ
n g đội ng ũ cán b ộ m ặt tr ận đá p ứn g yêu c ầu, nhi ệm v ụ
trong giai đo ạn m ới...
K ỷ ni ệm 80 n ăm Ngày thành l ập M ặt tr ận Dân t ộc th ống nh ất Vi ệt Nam,
Ngày h ội đo àn k ết ở khu dân c ư
, toàn Ð ảng, toàn dân, toàn quân ta ti ếp



tục phát huy truyền thống đoàn kết, ý chí t ự l ực, t ự c ườ ng, v ượ t qua m ọi
khó khăn, thách thức, phấn đấ u hoàn thành thắng l ợi nhiệm v ụ kinh t ế - xã
hội của mỗi đị a ph ươ ng và c ả n ướ c n ăm 2010, l ập thành tích m ừng Ð ại
hội XI của Ðảng, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh 'Ðoàn k ết,
đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công'.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh có một niềm tin tuyệt đố i vào trí tu ệ
và sức mạnh to lớn của toàn dân tộc Việt Nam. Ngườ i cùng Đả ng ta
xây d ựng kh ối đoàn k ết toàn dân v ững ch ắc chi ến th ắng m ọi k ẻ thù
xâm lượ c, giành tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh- vị anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đạ i, nhà văn hóa
kiệt suất của dân tộc Việt Nam và của nhân loại đã để lại cho chúng ta m ột
di sản tinh thần vô giá, một hệ tư tưở ng có giá trị về nhiều mặt. Trong đó t ư
tưở ng về đạ i đoàn kết là tư tưở ng nổi bật, có giá trị tr ườ ng t ồn đố i v ới quá
trình phát triển của dân tộc ta.


Đoàn k ết! Đoàn k ết! Đại đoàn k ết! Thành công! Thành công! Đại thành
công!
Là m ột ng ười am hi ểu sâu s ắc l ịch s ử đấ u tranh d ựng n ước và gi ữ n ước
c ủa dân t ộc mình, H ồ Chí Minh nh ận th ức đượ c th ời phong ki ến ch ỉ có
nh ững cu ộc đấ u tranh thay đổ i tri ều đạ i m ới làm thay đổ i v ận m ệnh đấ t
n ước và t ừ chính nh ững cu ộc đấ u tranh ấy, l ịch s ử đã ghi l ại nh ững t ấm
g ương tâm huy ết c ủa ông cha ta v ới t ư t ưởng “Vua tôi đồ ng lòng, anh em
hòa thu ận, c ả n ước góp s ức” và “khoan th ư s ức dân để làm k ế sâu r ễ b ền
g ốc là th ượng sách gi ữ n ước”.
Bác nh ận đị nh: Đoàn k ết không ph ải là th ủ đo ạn chính tr ị nh ất th ời mà là t ư
t ưởng c ơ b ản, nh ất quán, xuyên su ốt ti ến trình cách m ạng Vi ệt Nam. Đoàn
k ết ph ải luôn đượ c nh ận th ức là v ấn đề s ống còn c ủa cách m ạng. Qua
th ắng l ợi c ủa Cách m ạng tháng 8, Bác đã ch ỉ ra: “Vì sao có cu ộc th ắng l ợi

đó? M ột ph ần là vì tình hình qu ốc t ế có l ợi cho ta. Nh ất là vì l ực l ượng c ủa
toàn dân đoàn k ết…L ực l ượng toàn dân là l ực l ượng v ĩ đạ i h ơn h ết. Không
ai th ắng đượ c l ực l ượng đó”.
Vì v ậy, Bác nh ấn m ạnh “ Đại đoàn k ết dân t ộc không ch ỉ là m ục tiêu, nhi ệm
v ụ hàng đầ u c ủa Đả ng mà còn là m ục tiêu, nhi ệm v ụ hàng đầ u c ủa c ả dân
t ộc”. B ởi vì đạ i đoàn k ết toàn dân t ộc chính là nhi ệm v ụ c ủa qu ần chúng,
do qu ần chúng, vì qu ần chúng không phân bi ệt dân t ộc đa s ố hay thi ểu s ố,
ng ười tín ng ưỡng hay không tín ng ưỡng, không phân bi ệt già tr ẻ, gái trai,
giàu nghèo. Đả ng có s ứ m ệnh th ức t ỉnh, t ập h ợp, đoàn k ết qu ần chúng t ạo
thành s ức m ạnh vô đị ch trong cu ộc đấ u tranh vì độ c l ập cho dân t ộc, t ự do
cho nhân dân, h ạnh phúc cho con ng ười.


Ch ủ tịch H ồ Chí Minh - Ng ười kh ởi x ướng, xây d ựng và h ết lòng ch ăm lo
cho kh ối đạ i đoàn k ết toàn dân t ộc
Chi ến l ược đạ i đoàn k ết dân t ộc c ủa Bác luôn đượ c xây d ựng, hoàn thi ện
và tuân theo nh ững nguyên t ắc nh ất quán là: Đạ i đoàn k ết ph ải đượ c xây
d ựng trên c ơ s ở b ảo đả m nh ững l ợi ích t ối cao c ủa dân t ộc, l ợi ích c ủa
nhân dân lao độ ng và quy ền thiêng liêng c ủa con ng ười; Tin vào dân, d ựa
vào dân, ph ấn đấ u vì quy ền l ợi c ủa dân; Đạ i đoàn k ết m ột cách t ự giác, có
t ổ ch ức, có lãnh đạ o; đạ i đoàn k ết r ộng rãi, lâu dài, b ền v ững; Đạ i đoàn k ết
chân thành, thân ái, th ẳng th ắn trên tinh th ần phê bình, t ự phê bình vì s ự
th ống nh ất b ền v ững; Đạ i đoàn k ết dân t ộc ph ải g ắn li ền v ới đoàn k ết qu ốc
t ế, ch ủ ngh ĩa yêu n ước chân chính ph ải g ắn li ền v ới ch ủ ngh ĩa qu ốc t ế
trong sáng c ủa giai c ấp công nhân.
H ơn 30 n ăm đổ i m ới, v ới nhi ều ch ủ tr ương l ớn c ủa Đả ng, chính sách c ủa
Nhà n ước h ợp v ới lòng dân, kh ối đạ i đoàn k ết toàn dân t ộc trên n ền t ảng
liên minh giai c ấp công nhân v ới nông dân và đội ng ũ trí th ức đượ c m ở
r ộng h ơn là nhân t ố quan tr ọng thúc đẩ y s ự phát tri ển KT-XH, gi ữ v ững ổn



định chính trị c ủa đất n ước. Các hình th ức t ập h ợp nhân dân có b ước đa
d ạng h ơn và có b ước phát tri ển m ới, dân ch ủ xã h ội đượ c phát huy.

Bác H ồ v ới đồ ng bào các dân t ộc.
Trong đi ều ki ện n ước ta đang xây d ựng n ền kinh t ế th ị tr ường đị nh h ướng
xã h ội ch ủ ngh ĩa hi ện nay thì vi ệc quan tr ọng là ph ải kh ơi d ậy và phát huy
t ối đa n ội l ực, nâng cao ý chí t ự c ường dân t ộc, trong chính sách đoàn k ết
ph ải chú ý phát huy tính n ăng độ ng, sáng t ạo c ủa m ỗi ng ười, m ỗi b ộ ph ận
để m ọi vi ệc t ừ lãnh đạo, qu ản lý đến s ản xu ất, kinh doanh, h ọc t ập và lao
động đều có n ăng su ất, ch ất l ượng, hi ệu qu ả ngày càng cao.
Đồng th ời, ph ải kh ắc ph ục nh ững tiêu c ực c ủa kinh t ế th ị tr ường, đặc bi ệt
là tâm lý ch ạy theo đồ ng ti ền, c ạnh tranh không lành m ạnh làm phai nh ạt
truy ền th ống đoàn k ết, tình ngh ĩa t ương thân, t ương ái c ủa dân t ộc, gi ải
quy ết đói nghèo, thu h ẹp kho ảng cách, ranh gi ới gi ữa đồ ng b ằng và mi ền
núi, gi ữa nông thôn và thành th ị, c ủng c ố kh ối đạ i đoàn k ết 54 dân t ộc,
ch ăm lo đờ i s ống cho đồ ng bào dân t ộc ít ng ười, đặ c bi ệt là vùng sâu,
vùng xa, tôn tr ọng tín ng ưỡng tôn giáo, các t ập quán t ốt đẹp c ủa dân t ộc,
kiên quy ết lo ại tr ừ nh ững âm m ưu l ợi d ụng tôn giáo, tín ng ưỡng để gây r ối.


Đoàn k ết là m ột đặc đi ểm n ổi tr ội c ủa dân t ộc ta trong quá trình d ựng n ước
và gi ữ n ước.
Th ực hi ện l ời d ạy c ủa Ng ười, trong su ốt nh ững n ăm qua Đảng ta đã không
ng ừng xây d ựng c ủng c ố tình đoàn k ết trong toàn Đảng, toàn dân. T ừ khi
b ước sang giai đo ạn đổi m ới đất n ước Đảng ta đã nh ận th ức đầy đủ, sâu
s ắc h ơn giá tr ị t ư t ưởng đại đoàn k ết toàn dân. Đi ều đó được th ể hi ện nh ất
quán trong các ch ủ tr ương, chính sách đổi m ới trên c ơ s ở th ống nh ất v ề
chính trị t ư t ưởng trong các t ầng l ớp nhân dân, gi ải quy ết h ợp lý l ợi ích
kinh t ế gi ữa các thành ph ần kinh t ế xã h ội, huy động được s ức l ực trí tu ệ

toàn dân để xây d ựng đất n ước.
V ề giá tr ị lý lu ận c ũng nh ư th ực ti ễn, đại đoàn k ết toàn dân là m ột t ư t ưởng
l ớn c ủa Ch ủ t ịch H ồ Chí Minh mà m ỗi ng ười dân Vi ệt Nam ph ải th ấm
nhu ần sâu s ắc và th ực hi ện m ột cách tri ệt để trong công cu ộc xây d ựng
đất n ước và b ảo v ệ ch ủ quy ền qu ốc gia dân t ộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là tài sản tinh thần vô giá của
toàn Đảng, toàn dân, là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Đại hội XII của Đảng khẳng định, đại đoàn kết dân tộc
là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to
lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một trong những cơ sở quan trọng để


Đảng ta khẳng định chiến lược đó là việc kế thừa, bổ sung và phát triển tư
tưởng
Hồ
Chí
Minh
về
đại
đoàn
kết
dân
tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng có 3 nội
dung chủ yếu, gồm: vị trí, vai trò của đại đoàn kết trong sự nghiệp cách mạng; nội
dung đại đoàn kết dân tộc; hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc.
Khi đề cập đến vị trí, vai trò của đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định,
đại đoàn kết dân tộc là một chiến lược cơ bản, nhất quán, lâu dài, là vấn đề sống
còn, quyết định thành công của cách mạng. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng

nhằm hình thành và phát triển sức mạnh to lớn của toàn dân trong cuộc đấu tranh
chống kẻ thù của dân tộc, của nhân dân. Theo Người, đoàn kết làm nên sức mạnh
và là cội nguồn của mọi thành công: “Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng
ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”(1); “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn
kết; Thành công, thành công, đại thành công”(2). Để đánh bại các thế lực đế quốc,
thực dân giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, nếu chỉ
có tinh thần yêu nước thôi là chưa đủ, cách mạng muốn thành công và “thành công
đến nơi”, phải tập hợp tất cả các lực lượng, xây dựng được khối đại đoàn kết dân
tộc bền vững. Người nhận định, cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta cuối thế
kỷ XIX bị thất bại có một nguyên nhân sâu xa là cả nước không đoàn kết được
thành một khối thống nhất. Muốn cách mạng thành công phải có lực lượng cách
mạng, muốn có lực lượng cách mạng phải thực hiện đoàn kết. Người viết: “Đoàn
kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết chặt chẽ, thì chúng ta nhất định có thể khắc
phục mọi khó khăn, phát triển mọi thuận lợi và làm trọn nhiệm vụ nhân dân giao
phó cho chúng ta”(3). Trong quan điểm của Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc
được xác định là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, phải được quán triệt
trong tất cả các lĩnh vực, từ đường lối, chủ trương, chính sách đến hoạt động thực
tiễn.
Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân. Đây là luận điểm
sáng tạo, đặc sắc. Vì theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng, không phải là việc một hai người có thể làm được. Đại
đoàn kết toàn dân có nghĩa là phải tập hợp được tất cả mọi người dân vào một khối
trong cuộc đấu tranh chung. Trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân,
phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hòa mối quan hệ
giai cấp - dân tộc để tập hợp lực lượng, không được phép bỏ sót một lực lượng
nào. Thực hiện đại đoàn kết toàn dân phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân


nghĩa, tinh thần cộng đồng của dân tộc Việt Nam; phải có lòng khoan dung, độ
lượng, tin vào nhân dân, tin vào con người; đồng thời luôn đứng vững trên lập

trường của giai cấp công nhân, thực hiện đại đoàn kết với phương châm “nước lấy
dân làm gốc”. Truyền thống này được hình thành, củng cố và phát triển trong suốt
quá trình dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc, trở thành giá trị bền
vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi người Việt Nam, được lưu
truyền từ đời này sang đời khác. Đó chính là cội nguồn, sức mạnh vô địch để cả
dân tộc chiến đấu và chiến thắng mọi thiên tai, địch họa, làm cho đất nước trường
tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững. Người cũng nhấn mạnh, trong mỗi cá nhân,
mỗi cộng đồng đều có những ưu, nhược điểm. Cho nên, vì lợi ích của cách mạng
phải có lòng khoan dung, độ lượng, trân trọng cái phần thiện dù là nhỏ nhất ở mỗi
con người mới có thể tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng. Theo Người: trong
mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều là
dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ, ta phải nhận rằng đã là
con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng
bào lạc lối, lầm đường, ta phải dùng tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới
thành đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc chắn vẻ vang(4).
Về hình thức của khối đại đoàn kết dân tộc, Người chỉ rõ, đại đoàn kết là để tạo
nên lực lượng cách mạng, để làm cách mạng xóa bỏ chế độ cũ, xây dựng chế độ
mới. Do đó, đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại ở quan niệm, tư tưởng mà
phải trở thành một chiến lược cách mạng, trở thành sức mạnh vật chất, lực lượng
vật chất có tổ chức và tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất, dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Đó là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của nhân dân Việt
Nam, nơi quy tụ, đoàn kết, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn
giáo, đảng phái, các tổ chức, cá nhân yêu nước ở trong và ngoài nước cùng nhau
phấn đấu vì mục tiêu chung là hòa bình, độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, vì tự
do, hạnh phúc của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ các nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động
của Mặt trận dân tộc thống nhất, đó là: phải được xây dựng trên nền tảng khối liên
minh công - nông - trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng; phải hoạt động trên cơ sở
bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc và quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân;
phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, bảo đảm đoàn kết ngày càng

rộng rãi, bền vững và đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, chân thành, thân ái, giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ.
Thấm nhuần, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân
tộc tại Đại hội XII của Đảng


Đại hội XII của Đảng khẳng định: đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược của
cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc(5). Để phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, Đại hội XII đã đề ra phương
hướng, nhiệm vụ tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo.
Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc
lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích
chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước,
nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài
nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh
lực mới của khối đại đoàn kết dân tộc.
Với sự khẳng định này, Đảng Cộng sản Việt Nam càng làm sáng rõ hơn quan điểm
“cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, phải do quần chúng, vì quần chúng” của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ phong trào đấu tranh để tự giải phóng và xây dựng xã
hội mới tốt đẹp, quần chúng nảy sinh nhu cầu đoàn kết và hợp tác. Đảng Cộng sản
Việt Nam nhận rõ sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, lãnh đạo quần chúng,
chuyển những nhu cầu, đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành những
đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức trong khối đại đoàn kết dân tộc; tạo
thành sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh vì độc lập của dân tộc, tự do cho
nhân dân và hạnh phúc cho con người.
Đại đoàn kết dân tộc chỉ có thể thực hiện được khi giải quyết hài hòa quan hệ lợi
ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng

của nhân dân, bảo đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của
công cuộc đổi mới. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân. Để thực hiện nhiệm vụ trên, Đại hội XII đưa
ra những phương hướng, nhiệm vụ cụ thể nhằm xây dựng, phát triển các giai cấp
công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức cũng như đổi mới nội dung, phương thức
giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ; nâng cao trình độ mọi
mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ; có cơ chế, chính sách tạo điều kiện,
đồng thời động viên cựu chiến binh tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng,
Nhà nước, nhân dân và chế độ; quan tâm chăm sóc sức khỏe, tạo điều kiện để
người cao tuổi hưởng thụ văn hóa, tiếp cận thông tin, sống vui, sống khỏe, sống
hạnh phúc…
Đoàn kết dân tộc không chỉ có chính sách phù hợp đối với các giai cấp, tầng lớp
nhân dân trong xã hội mà cần có những chính sách để phát huy sự bình đẳng giữa


các dân tộc, dân cư ở các vùng, miền trên cả nước. Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ
Chí Minh vào điều kiện cụ thể nước ta, Đại hội XII chỉ rõ: “Tiếp tục hoàn thiện các
cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết
hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt
trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số,
nhất là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, tây duyên hải miền Trung.
Nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây
dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, người tiêu biểu có uy tín trong cộng
đồng các dân tộc. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các
chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị dân
tộc; nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân
tộc”(6).
Việt Nam hiện có 14 tôn giáo đã được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân và
cấp phép hoạt động với khoảng 25 triệu tín đồ. Các tôn giáo chung sống đan xen,
nhưng tồn tại độc lập và hòa bình với nhau, không phụ thuộc vào nhau. Tuy nhiên,

các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách tác động vào tình hình tôn giáo để gây mâu
thuẫn, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Nhằm chống lại âm mưu trên, đồng thời
để các tôn giáo đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đại
hội XII chủ trương: Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn
giáo, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm
và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ
chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật; chủ động
phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với các hành vi lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng để
chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn
giáo trái pháp luật(7).
Đối với kiều bào Việt Nam sinh sống ở nước ngoài, Đảng chỉ rõ: Nhà nước hoàn
thiện cơ chế, chính sách để hỗ trợ giúp đỡ đồng bào định cư ở nước ngoài ổn định
cuộc sống, phát triển kinh tế, góp phần tăng cường hợp tác, hữu nghị giữa nhân dân
ta với nhân dân các nước; được bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền, lợi ích
chính đáng; tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc;
có cơ chế, chính sách thu hút đồng bào hướng về Tổ quốc, đóng góp xây dựng và
bảo vệ đất nước(8).
Có thể nói, với những quan điểm trên, Đại hội XII của Đảng thể hiện sự thấm
nhuần, vận dụng sáng tạo, cụ thể hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân
tộc vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Phương hướng, nhiệm vụ xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc có tính đến tất cả các
lực lượng, giai cấp, dân tộc, tôn giáo, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Đó


là chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, nếu được triển khai thực hiện có hiệu quả,
sẽ là động lực, là nguồn lực và là cơ sở quan trọng cho sự phát triển của dân tộc ta
trong thời gian tới. Điều này càng chứng tỏ hơn nữa sức sống trường tồn của tư
tưởng Hồ Chí Minh nói chung và quan điểm xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
nói riêng của Người đối với sự nghiệp cách mạng nước ta./.
Đại đoàn kết toàn dân tộc luôn là vấn đề chiến lược, là tư

tưởng nhất quán và là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tiến trình lãnh
đạo cách mạng của Đảng ta. Tiếp tục thực hiện nhất quán
đường lối “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” trong điều
kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, Đại hội XII
của Đảng chỉ rõ: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối
chiến lược, là động lực và nguồn lực to lớn để xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo”(1).

Được hình thành và hun đúc trong lịch sử hàng nghìn năm dựng
nước và giữ nước, đoàn kết trở thành một truyền thống quý báu
của dân tộc Việt Nam. Từ ngàn xưa, ông cha ta đã dùng ca dao,
tục ngữ để khuyên nhủ các thế hệ mai sau đoàn kết, thương yêu,
đùm bọc, cùng nhau lập nghiệp: “Một cây làm chẳng nên non/ Ba
cây chụm lại nên hòn núi cao”; hay: “Thuận vợ thuận chồng tát
biển Đông cũng cạn/ Thuận bè thuận bạn, tát cạn biển Đông”...
Chính nhờ tinh thần đoàn kết, trên dưới một lòng, nhân dân ta đã
vượt qua mọi gian lao thử thách, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược:
giặc Tống, Nguyên, Minh, Thanh... giữ vững non sông bờ cõi, viết
nên những trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam.
Dưới thời đại Hồ Chí Minh, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc được
phát huy mạnh mẽ và phát triển đến đỉnh cao. Trong suốt cuộc đời
cũng như cả tiến trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn coi đại đoàn kết là vấn đề chiến lược có ý nghĩa quyết định
đến sự sống còn, thành bại của cách mạng nước nhà. Trong tác
phẩm Nên học sử ta, viết vào đầu năm 1942, Người khẳng định:
“Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập,
tự do. Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài
xâm lấn. Vậy nay ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết



chắc chắn thêm lên mãi...”(2). Vì thế, Người thường xuyên chăm lo
xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở lấy
liên minh công nhân - nông dân - trí thức làm động lực, nền tảng,
tất cả vì lợi ích thiêng liêng của dân tộc và nguyện vọng chính
đáng của nhân dân lao động. Ngọn cờ đại đoàn kết của Hồ Chí
Minh đã trở thành mục tiêu, động lực liên minh, liên kết các giai
tầng xã hội, đoàn kết các dân tộc, tôn giáo đấu tranh vì độc lập,
tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Với tinh thần “Dĩ
công vi thượng” tất cả vì nước, vì dân, đặt lợi ích của nhân dân,
của Đảng, của đất nước lên trên hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo
ra nguồn sức mạnh vô địch và sức sống bất diệt, thực hiện thành
công chiến lược đại đoàn kết rất sáng tạo và độc đáo, rất nhân
văn giữa Đảng và dân; giữa lực lượng vũ trang với nhân dân; giữa
các dân tộc, các tôn giáo, các giai tầng xã hội khác nhau; không
kể già, trẻ, gái, trai, không phân biệt bất kỳ tầng lớp nào; giữa
quốc gia và quốc tế, trên tinh thần “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn
kết/ Thành công, thành công, đại thành công” mang lại nhiều kỳ
tích cho cách mạng Việt Nam. Trên trường quốc tế, tinh thần đoàn
kết của Người đã đạt được nhiều kết quả to lớn. Phong trào phản
chiến ở Mỹ, ở Pháp và phong trào phản đối chiến tranh xâm lược
Việt Nam diễn ra ở nhiều nước trên thế giới, đã làm cho kẻ thù
xâm lược càng ngày càng bị cô lập. Trong các nước xã hội chủ
nghĩa, tư tưởng đoàn kết quốc tế của Người đã làm cho những
người bạn lớn của Việt Nam dù có hiềm khích, mất lòng với nhau,
nhưng vẫn luôn luôn nhất trí ủng hộ sự nghiệp kháng chiến, thống
nhất đất nước của Việt Nam.
Nhận thức rõ chân lý “đẩy thuyền đi là dân, mà lật thuyền cũng là
dân”; trung thành và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác Lênin “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”; phát huy những

giá trị cao đẹp, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta xác định, đại đoàn
kết dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là nhiệm vụ hàng đầu, là sợi chỉ
đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng. Sứ mệnh lịch sử
của Đảng là thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn nhằm chuyển những
nhu cầu, đòi hỏi khách quan, chính đáng nhưng mang tính tự phát
của quần chúng thành sự tự giác, có tổ chức trong khối đại đoàn
kết toàn dân tộc vì độc lập dân tộc, vì tự do cho nhân dân và hạnh
phúc cho mọi người. Chính đường lối gây dựng, xây dựng và
không ngừng củng cố, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn


dân tộc đã đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác. Mốc son đánh dấu sự tổng kết chân lý về tầm quan trọng
của việc phát huy khối đại đoàn kết dân tộc được thể hiện
qua Chính cương vắn tắt; Sách lược vắn tắt và Điều lệ vắn tắt do
Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và thông qua trong Hội nghị thành
lập Đảng đầu năm 1930. Từ hạt nhân đó, các hình thức tổ chức
khối đại đoàn kết toàn dân được hình thành và phát triển phù hợp
với từng giai đoạn và điều kiện cách mạng cụ thể, khối đại đoàn
kết được tập hợp và phát huy cao độ, sức mạnh đó đã được khẳng
định qua những chiến thắng mang tầm thời đại: Cách mạng
Tháng Tám long trời lở đất năm 1945 thành công đưa nhân dân
Việt Nam từ địa vị nô lệ trở thành người làm chủ, chính quyền và
mọi quyền lực thuộc về nhân dân; thắng lợi của Chiến dịch Điện
Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” kết thúc cuộc
kháng chiến trường kỳ của dân tộc chống thực dân Pháp. Tiếp nối
truyền thống Điện Biên, cả dân tộc lại cùng kề vai, sát cánh trên
đường kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mà đỉnh cao là chiến
thắng của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử thu non sông về một
mối, đưa đất nước bước sang một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên hòa

bình, độc lập thống nhất Tổ quốc và cả nước đi lên xây dựng
CNXH.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, củng cố, phát huy sức mạnh khối đại
đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được khẳng định là đường lối nhất
quán trong 30 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử: Kinh tế đã thoát ra khỏi tình trạng khủng
hoảng, kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu
nhập trung bình, đưa đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH và hội nhập quốc tế; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng,
an ninh được tăng cường; dân chủ XHCN được phát huy và ngày
càng mở rộng; văn hóa xã hội có bước phát triển, bộ mặt đất nước
và đời sống nhân dân có nhiều thay đổi; quan hệ đối ngoại ngày
càng được mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế, uy tín của Việt
Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng cao...
Những thành tựu đó chẳng những tạo tiền đề, nền tảng quan
trọng để nước ta tiếp tục đổi mới, phát triển mạnh mẽ trong
những năm tới, mà còn khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là
đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của nhân
dân.


Đảng đã tập hợp và quy tụ sức mạnh và niềm tin của cả dân tộc,
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân chung sức, chung lòng, đồng
tâm, hiệp lực hướng đến mục tiêu chung xóa bỏ đói nghèo, lạc
hậu, phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập,
thống nhất, dân chủ và giàu mạnh. Tinh thần đoàn kết ấy được
thể hiện rõ nét trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam - tổ chức đóng vai trò nòng cốt trong tập hợp, vận động
nhân dân, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, củng cố, tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

chính là cầu nối thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và
Nhà nước. Đánh giá về những thành tựu trong xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc thời gian qua, Văn kiện Đại hội XII của
Đảng nhấn mạnh: “Khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được
mở rộng, củng cố và tăng cường trong bối cảnh đất nước có nhiều
khó khăn, thách thức. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
nhân dân đã đổi mới cả về nội dung và phương thức hoạt động,
phát huy ngày càng tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc; cùng Đảng, Nhà nước chăm lo, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, tham gia
xây dựng Đảng, quản lý nhà nước, quản lý xã hội; thường xuyên
tổ chức các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước góp phần
vào những thành tựu chung của đất nước”(3).
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc thời gian qua có lúc, có nơi chưa được phát
huy đầy đủ; chưa đánh giá và dự báo chính xác những diễn biến
thay đổi cơ cấu xã hội cũng như tâm tư, nguyện vọng của các
tầng lớp nhân dân để có chủ trương và giải pháp phù hợp; quyền
và lợi ích hợp pháp của các giai cấp, tầng lớp nhân dân chưa được
kịp thời thể chế hóa hoặc thực hiện thiếu nghiêm túc; hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân các cấp ở một số
địa phương chưa sâu sát, chưa thiết thực, thiếu hiệu quả; quyền
làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực bị vi phạm;
tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ,
gây rối, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội
còn xảy ra ở nhiều nơi...
Hiện nay, bối cảnh quốc tế, khu vực và trong nước có những diễn
biến nhanh, phức tạp, khó lường; đan xen cả thời cơ và thách
thức, thuận lợi và khó khăn, đối với sự nghiệp đổi mới nói chung



và đối với đường lối xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân
nói riêng. Lợi dụng quá trình mở cửa, hội nhập, các thế lực thù
địch đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hòa bình”, kích động tư
tưởng ly khai, chia rẽ dân tộc, gây thù hằn tôn giáo, phá hoại khối
đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta; khoét sâu các mâu thuẫn,
gây xung đột xã hội, kích động biểu tình, bạo loạn, làm mất ổn
định chính trị - xã hội. Đặc biệt, chúng đang tìm cách chia rẽ
Đảng, Nhà nước với nhân dân; đối lập nhân dân với lực lượng vũ
trang; chia rẽ các dân tộc, tôn giáo, phá hoại liên minh công nông - trí; kích động chống đối, làm suy yếu sức mạnh bảo vệ Tổ
quốc, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội. Những vấn đề đó đang đặt ra nhiều thách thức lớn đối
với “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” cũng như sự
nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội ở
nước ta hiện nay.
Trên bình diện quốc tế, các mâu thuẫn cơ bản của thời đại vẫn tồn
tại. Tranh giành ảnh hưởng giữa các nước lớn, chiến tranh cục bộ,
xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo; hoạt động ly khai, can thiệp
lật đổ, khủng bố diễn ra quyết liệt ở nhiều nơi trên thế giới. Trong
khu vực, bên cạnh sự “trỗi dậy hòa bình” của Trung Quốc là sự
điều chỉnh, chuyển trọng tâm chiến lược của các nước lớn sang
châu Á - Thái Bình Dương và sự tăng cường sức mạnh quân sự của
nhiều nước trong khu vực. Những động thái trên không những làm
cho tình hình Biển Đông vốn đã phức tạp sẽ tiềm ẩn nhiều diễn
biến khó lường, mà còn phần nào tác động đến tư tưởng, tình cảm
của các tầng lớp dân cư, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập ngày càng sâu, rộng vào
khu vực và quốc tế. Hội nhập, toàn cầu hóa là quá trình vừa hợp
tác, vừa đấu tranh, không chỉ tạo ra những thời cơ mà còn ẩn
chứa cả những nguy cơ, thách thức lớn đối với sự nghiệp an ninh,

quốc phòng của mỗi nước, nhất là những nước đang phát triển
như Việt Nam. Việc nhận thức rõ quan điểm của Đảng: Những ai
chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng
quan hệ hữu nghị hợp tác, bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều
là đối tác; bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá
đất nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là
đối tượng đấu tranh, chính là tiêu chí, là nguyên tắc để thực hiện
đoàn kết quốc tế phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


Âm mưu “diễn biến hòa bình” và các nguy cơ đe dọa độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, nhất là giữ vững chủ quyền
biển, đảo và an ninh quốc gia đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân phải đồng lòng, chung sức, phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc. Đồngthời, phải “tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng
hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc...”(4). Kinh nghiệm của cha ông cũng như quy luật của lịch
sử đã minh chứng, chỉ khi nào kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại; sức mạnh trong nước với sức mạnh ngoài
nước; biến được sức mạnh ngoại sinh thành sức mạnh nội sinh,
thành ý chí của toàn dân tộc chúng ta mới có thể giữ gìn vẹn toàn
lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ vững chắc nền độc lập tự chủ và bảo
vệ thành công sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng
XHCN.
Khắc phục những hạn chế trong quá trình xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc thời gian qua, đồng thời để giải quyết hiệu quả
những vấn đề mới nảy sinh trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế, Đảng ta nhấn mạnh:“Đại đoàn kết toàn dân tộc là
đường lối chiến lược, là động lực và nguồn lực to lớn để xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Phát huy mạnh mẽ mọi
nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa
bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn
trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc
gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước,
nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam
ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân
dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc”(5).
Như vậy, không những tiếp tục khẳng định vai trò hết sức quan
trọng của khối đại đoàn kết toàn dân, mà đồng thời đường lối của
Đảng còn chỉ rõ: Bên cạnh việc đề cao tinh thần dân tộc, truyền
thống nhân nghĩa, khoan dung, phải lấy “tinh thần yêu nước” để
quy tụ lòng dân, tập hợp, đoàn kết “mọi người Việt Nam ở trong


và ngoài nước” nhằm “tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc”. Để xây dựng, củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc thì đoàn kết trong Đảng và tăng cường quan hệ mật
thiết giữa Đảng với nhân dân giữ vai trò hết sức quan trọng. Đoàn
kết trong Đảng phải trở thành hạt nhân, chỗ dựa vững chắc cho
khối đại đoàn kết toàn dân. Muốn vậy, mỗi cơ sở đảng phải thực
sự trong sạch, vững mạnh, mỗi cán bộ, đảng viên phải thực sự là
tấm gương sáng, mẫu mực về cả tư duy lý luận và hành động thực
tiễn cho toàn dân tin và noi theo.
Nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tại Đại hội XII,

Đảng ta đã đề ra các nhiệm vụ của cách mạng trong tình hình
mới. Trong đó, có nhiệm vụ hoàn thiện, phát huy dân chủ xã hội
chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, không ngừng củng cố,
phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc; tiếp tục đổi mới
nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể nhân dân. Đồngthời, tiếp tục hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng bộ máy nhà nước
tinh gọn, trong sạch, vững mạnh; hoàn thiện hệ thống pháp luật,
đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp; xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất, năng lực đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ; phát huy dân chủ, tăng cường trách nhiệm, kỷ
luật, kỷ cương, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí, quan liêu, tệ nạn xã hội và tội phạm.
Để phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, hoàn thành trọng
trách lớn lao nhưng hết sức vẻ vang, góp phần thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, thời gian tới, các cấp, các ngành cần tập trung thực hiện
nghiêm túc những vấn đề chính sau:
Một là, phải tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc.
Theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nhà nước ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật, các cơ chế, chính sách về
dân tộc, tôn giáo, chính sách xã hội nhằm khuyến khích, động
viên, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, phải có những
chính sách cụ thể, quan tâm mọi mặt đối với các tầng lớp, giai cấp
trong xã hội như công nhân, nông dân, trí thức, doanh nhân, thế


hệ trẻ, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi, các chính sách xã

hội, nhất là các chính sách đối với các thương binh, gia đình liệt sĩ,
những người có công với cách mạng, tạo điều kiện để họ khắc
phục khó khăn, đảm bảo cuộc sống, tích cực tham gia xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc... Có như vậy mới phát huy được tối đa sức
mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Tuyệt đối tôn trọng quyền làm
chủ của nhân dân trong Nhà nước pháp quyền XHCN, phát huy vai
trò, tạo điều kiện, cơ hội để nhân dân tham gia thảo luận, góp ý
những vấn đề quan trọng của đất nước; bảo đảm tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân. Phổ biến và thực hiện tốt hơn
nữa “Quy chế dân chủ ở cơ sở”, từng bước giải quyết những vấn
đề xã hội bức xúc đang đặt ra. Theo đó, các cấp ủy đảng và chính
quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý
kiến, giải quyết khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của
nhân dân; tin dân và tôn trọng dân; đồng thời hoàn thiện hệ
thống pháp luật để đảm bảo nhân dân thực sự làm chủ, được bày
tỏ nguyện vọng của mình thông qua Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân.
Hai là, giải quyết tốt quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp xã
hội; kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và toàn xã hội.
Tổ chức và động viên, quy tụ nhân dân tham gia các phong trào
thi đua yêu nước. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng
bào ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng căn cứ kháng
chiến cũ, các vùng chiến lược, vùng tôn giáo. Bảo đảm việc làm,
nâng cao thu nhập, chăm lo xây dựng các công trình phúc lợi cho
nhân dân. Chú trọng xây dựng nông thôn mới; nâng cao năng
suất lao động trong nông nghiệp, mở rộng và nâng cao chất lượng
cung ứng các dịch vụ cơ bản về điện, nước sạch, y tế, giáo dục,
thông tin... Tôn vinh đội ngũ trí thức, có cơ chế chính sách đặc biệt

để thu hút nhân tài. Tôn vinh những doanh nhân có nhiều đóng
góp cho sự nghiệp phát triển đất nước. Xây dựng ý thức tôn trọng
và nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật cho thế hệ
trẻ. Tạo cơ chế, chính sách phù hợp, tạo thuận lợi cho thế hệ trẻ
học tập, nghiên cứu, lao động, giải trí, phát triển trí tuệ, kỹ năng,
thể lực. Thực hiện tốt chính sách bình đẳng giới, tạo điều kiện cho
phụ nữ phát triển tài năng; hoàn thiện chính sách pháp luật về tín


ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp
của các tôn giáo. Đối với đồng bào định cư ở nước ngoài, cần hỗ
trợ bà con giữ gìn và phát huy văn hóa dân tộc, góp phần bảo hộ
tính mạng, tài sản và các quyền, lợi ích chính đáng của họ.
Ba là, tăng cường mối quan hệ bền chặt giữa Đảng, Nhà nước với
nhân dân, củng cố vững chắc “thế trận lòng dân”, trong đó “Mặt
trận Tổ quốc đóng vai trò nòng cốt trong tập hợp, vận động nhân
dân”. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, góp phần làm
cho mối liên hệ đó ngày càng khăng khít, đảm bảo ý Đảng luôn
phù hợp với lòng dân. Bằng nhiều hoạt động thiết thực cụ thể, với
nhiều hình thức vận động phong phú, đa dạng thông qua các tổ
chức thành viên, Mặt trận Tổ quốc phải thường xuyên làm tốt
công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thống yêu nước, hiểu biết
về đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước, về
nhiệm vụ bảo đảm an ninh, quốc phòng; phát huy vai trò của
nhân dân trong việc xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh, từ
đó tạo sự đồng thuận xã hội, vận động các tầng lớp nhân dân
khắc phục khó khăn, đưa đất nước phát triển.
Bốn là, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cần làm
tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội theo tinh thần Hiến pháp

năm 2013, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Quyết định số 217QĐ/TW ngày 12-12-2013 của Bộ Chính trị. Tăng cường giám sát
để tạo sự đồng thuận, nhất trí cao, ổn định xã hội phát triển toàn
diện và bền vững đất nước. Mặt trận Tổ quốc phải là chủ thể tích
cực phát huy vai trò của nhân dân trong tổ chức lấy ý kiến đóng
góp cho các chủ trương, chính sách của Đảng và của cấp ủy,
chính quyền các địa phương, nhất là những vấn đề hệ trọng, liên
quan trực tiếp đến quyền và lợi ích chính đáng của quần chúng
nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần làm tốt vai trò chủ trì
hiệp thương, phân công, phối hợp các tổ chức thành viên trong
thực hiện giám sát và phản biện xã hội; cần huy động tối đa các
nhà khoa học, những chuyên gia đầu ngành liên quan đến từng
lĩnh vực để lấy ý kiến phản biện, đóng góp ý kiến, bổ sung, sửa
đổi các văn bản, hoàn thiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước cho phù hợp với quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.


Năm là, tăng cường công tác phòng, chống âm mưu, hoạt
động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, kiên quyết
đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch phá hoại, chia rẽ
khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
tổ chức thành viên cần tham gia tuyên truyền sâu rộng để mọi
tầng lớp nhân dân nhận thức rõ âm mưu thâm độc của các thế lực
thù địch đang lợi dụng tuyên truyền xuyên tạc đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về dân tộc, tôn giáo,
chính sách xã hội, chính sách đối với văn nghệ sĩ, trí thức... nhằm
chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Từng bước tạo sự
chuyển biến căn bản trong nhận thức, nâng cao tinh thần cảnh
giác, sự nhạy bén trong nhận diện và tích cực tham gia đấu tranh
với những quan điểm sai trái, thù địch.
Đại đoàn kết là bài học truyền thống nhưng luôn mang tính thời

sự trong mọi thời kỳ, là phương châm để toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân hành động và đạt được thành công trên con đường tiếp
tục sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. Xây dựng và củng cố
khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nhiệm vụ cơ bản, vừa cấp bách,
vừa lâu dài của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị
nhằm tăng cường sức mạnh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sức
mạnh của khối đại đoàn kết phải được huy động và tổ chức trong
thực tiễn xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc
phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh
nhân dân. Thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết dân tộc là nền
tảng để củng cố vững chắc “thế trận lòng dân”, là điều kiện tiên
quyết đảm bảo cho đất nước có đủ tiềm lực, sức mạnh để xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
__________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 9-2016
(1), (3), (4), (5) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.158-159,
156- 157, 147, 158- 159.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2002, tr.216-217.


GS, TS Nguyễn Thiện Nhân
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Ủy ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Nghiên cứu - Tìm hiểu Nghiên cứu - Trao đổi
QPTD -Thứ Hai, 11/09/2017, 13:25 (GMT+7)
Mấy giải pháp tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình
hình mới
Đại đoàn kết là truyền thống quý báu, được hun đúc trong quá trình

dựng nước và giữ nước của dân tộc ta; là nguồn sức mạnh, động lực
chủ yếu của cách mạng Việt Nam. Đồng thời, cũng là mục tiêu chống
phá quyết liệt của các thế lực thù địch thông qua chiến lược “Diễn
biến hòa bình” nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Vì vậy,
nghiên cứu giải pháp tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc là
vấn đề cấp thiết hiện nay.
Trong những năm qua, mặc dù đất nước có nhiều khó khăn, thách thức,
nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục
được mở rộng, củng cố và tăng cường. Đại hội XII của Đảng đã khẳng
định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có đổi mới cả
về nội dung và phương thức hoạt động; phát huy ngày càng tốt hơn vai trò
tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; cùng Đảng, Nhà nước
chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân;
tham gia xây dựng Đảng, quản lý nhà nước, quản lý xã hội; thường xuyên
tổ chức các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước, góp phần tích
cực vào những thành tựu chung của đất nước” 1.
Tuy nhiên, “… sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy
đầy đủ, có lúc, có nơi chưa phát huy được vai trò, sức mạnh của nhân
dân. Chưa đánh giá và dự báo chính xác những diễn biến, thay đổi cơ cấu
xã hội, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân để có chủ trương
phù hợp. Chủ trương, quan điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc,
về quyền và lợi ích hợp pháp của các giai cấp, tầng lớp nhân dân chưa
được kịp thời thể chế hóa, hoặc đã thể chế hóa nhưng chưa được thực
hiện nghiêm túc”2.
Hiện nay, bối cảnh quốc tế, khu vực và trong nước có những diễn biến
nhanh, phức tạp, khó dự báo; đan xen cả thời cơ và thách thức, thuận lợi
và khó khăn đối với sự nghiệp đổi mới nói chung và đường lối xây dựng,


củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc nói riêng. Lợi dụng quá trình mở

cửa, hội nhập, các thế lực thù địch đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa
bình”, kích động tư tưởng ly khai, chia rẽ dân tộc, phá hoại khối đại đoàn
kết toàn dân tộc ở nước ta; khoét sâu các mâu thuẫn, gây xung đột xã hội,
kích động nhân dân tụ tập đông người bất hợp pháp, bạo loạn, làm mất ổn
định chính trị - xã hội. Với việc làm đó, họ đang tìm cách chia rẽ Đảng, Nhà
nước với nhân dân; đối lập nhân dân với lực lượng vũ trang; chia rẽ các
dân tộc, tôn giáo, phá hoại khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức; kích động chống đối, làm suy yếu sức
mạnh bảo vệ Tổ quốc, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội. Những vấn đề đó đang là những thách thức đối với
“Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” và sự nghiệp bảo vệ an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội ở nước ta hiện nay.
Trong bối cảnh tình hình trên, để tiếp tục tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, cần thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:
Trước hết, tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền để các cấp, ngành, lực lượng
nhận thức sâu sắc về sự cần thiết phải tăng cường khối đại đoàn kết toàn
dân tộc hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Đoàn kết là một truyền
thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung
ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như
giữ gìn con ngươi của mắt mình” 3; “Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người
như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết
thì bị nước ngoài xâm lấn. Vậy nay ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau,
đoàn kết chắc chắn thêm lên mãi...” 4. Công tác tuyên truyền cần phải làm
cho nhân dân thấm nhuần lời dạy của Người. Cùng với đó, cần quán triệt,
thực hiện quan điểm của Đảng: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối
chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc
trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo” 5. Để tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, cần phát huy những yếu tố tương đồng, cố gắng tìm ra mẫu số chung

của mọi giai cấp, tầng lớp; quy tụ sức mạnh của các bộ phận cấu thành
dân tộc ta nhằm mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”. Qua đó, để mọi người nhận thức rõ khối đại đoàn kết toàn dân
tộc bao gồm mọi người dân đang sinh sống, làm ăn ở trong nước và ở
nước ngoài có nguồn gốc là người Việt Nam, không phân biệt là dân tộc
thiểu số hay đa số, theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo; không phân
biệt giàu hay nghèo, nam hay nữ, già hay trẻ, nếu “Ai có tài, có đức, có
sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với


họ”6 để xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và tiếp
tục thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về đại
đoàn kết toàn dân tộc. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối
với việc tăng cường, củng cố, phát huy vai trò của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc. Đảng lãnh đạo thông qua đường lối, chính sách, Nhà nước quản
lý thông qua hệ thống pháp luật, nhằm tạo cơ sở cho sự thống nhất các lợi
ích, thống nhất về ý chí và hành động của các giai cấp, tầng lớp trong xã
hội, nhất là giữa giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức. Do vậy,
Đảng và Nhà nước không ngừng hoàn thiện, thể chế hóa, cụ thể hóa hệ
thống đường lối, chính sách, pháp luật để “bảo đảm tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân”7, nhân dân thực sự làm chủ, được bày tỏ nguyện
vọng của mình thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; đáp
ứng yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân và phải được thực thi trong thực
tiễn. Khắc phục triệt để tình trạng có nơi, có lúc thực hiện không đúng,
thậm chí trái ngược với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước. Các văn bản quy phạm pháp luật, các cơ chế, chính
sách về dân tộc, tôn giáo, chính sách xã hội phải khuyến khích, động viên,

phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Đồng thời, có những
chính sách cụ thể, quan tâm mọi mặt đối với các tầng lớp, giai cấp trong xã
hội, nhất là chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công
với cách mạng, tạo điều kiện để họ khắc phục khó khăn, đảm bảo cuộc
sống, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, v.v. Thực sự tôn
trọng và tạo điều kiện, cơ hội để nhân dân tham gia thảo luận, góp ý những
vấn đề quan trọng của đất nước; phổ biến sâu rộng và thực hiện tốt hơn
nữa Quy chế Dân chủ ở cơ sở, giải quyết tốt những vấn đề xã hội bức xúc
đang đặt ra. Cấp ủy và chính quyền các cấp phải thường xuyên đối thoại,
lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết khó khăn, vướng mắc và yêu
cầu chính đáng của nhân dân; tin dân và tôn trọng dân.


Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc dự ngày hội Đại đoàn
kết toàn dân và tặng quà cho các hộ nghèo, hộ có
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn quận Ba Đình, Hà Nội.
Ba là, giải quyết tốt quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội; kết
hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và toàn xã hội. “Đại đoàn kết
toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa
các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, bảo đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng những thành quả
của công cuộc đổi mới”8. Tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số, ở vùng sâu,
vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng căn cứ kháng chiến cũ, các vùng chiến
lược, vùng tôn giáo. Trân trọng, tôn vinh những đóng góp, cống hiến của
nhân dân; có cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài của đất nước.
Tôn vinh những doanh nhân có nhiều đóng góp cho sự nghiệp phát triển
đất nước; “Xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để

phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh và đúng định hướng. Phát huy mặt
tích cực có lợi cho đất nước của kinh tế tư nhân…” 9. Tiếp tục xây dựng cơ
chế, chính sách phù hợp, tạo thuận lợi cho thế hệ trẻ học tập, nghiên cứu,
lao động, giải trí, phát triển trí tuệ, kỹ năng, thể lực để cống hiến cho đất
nước. Thực hiện tốt chính sách bình đẳng giới, tạo điều kiện cho phụ nữ
phát triển tài năng; hoàn thiện chính sách pháp luật về tín ngưỡng, tôn


×