Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

BÀI THU HOẠCH BDTX TIỂU HỌC MODULE 16, 15

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.61 KB, 15 trang )

PHÒNG GD&ĐT A LƯỚI
TRƯỜNG TH HỒNG THÁI

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
A Lưới, ngày 27 tháng 4 năm 201…

BÁO CÁO
BỒI DƯỠNG THƯƠNG XUYÊN MODULE TH 16

MỘT SỐ KĨ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC Ở TIỂU HỌC
MODULE TH 15
MỘT SỐ PPDH TÍCH CỰC Ở TIỂU HỌC
A. TÌM HIỂU VỀ KTDH TÍCH CỰC
1. Thế nào là KTDH và KTDH tích cực
Trong ba bình diện của PPDH (QĐ DH, PPDH cụ thể, KTDH) thì KTDH là bình
diện nhỏ nhất. QĐ DH là khái niệm rộng định hướng cho việc lựa chọn các PPDH cụ thể,
các PPDH cụ thể là khái niệm hẹp hơn, đưa ra mô hình hành động. KTDH là khái niệm
nhỏ nhất, thực hiện các tình huống hành động
Kĩ thuật dạy học là những biện pháp, cách thức hành động của GV và HS trong các
tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học. Sự phân biệt
giữa KTDH và PPDH nhiều khi không rõ rang. Có thể hiểu rằng: Khi sử dụng PPDH ta
cần phải có các kĩ thuật dạy học. Ví dụ: Khi sử dụng PP đàm thoại GV phải có kĩ thuật
đặt câu hỏi….
KTDH tích cực là thuật ngữ dùng để chỉ các kĩ thuật dạy học có tác dụng phát huy
tính tích cực học tập của HS. VD: Kĩ thuật khăn trải bàn; KT mảnh ghép; KT hỏi và trả
lời; KT động não….
2. Tìm hiểu một số KTDH tích cực

2.1 Kĩ thuật đặt câu hỏi:


* Người GV đặt câu hỏi khi nào? Mục đích đặt câu hỏi là gì?
Trong qua trình DH, GV đặt câu hỏi khi sử dụng PP vắn đáp, phương pháp thảo
luận. Mục đíc của việc đặt câu hỏi rất khác nhau: có lúc để kiểm tra việc nắm kiến thức,
KN của HS ; có lúc để hướng dẫn tìm tòi, khám phá tri thức; có lúc để giúp các em cũng
cố, hệ thống kiến thức đã học.
* Đặt câu Hỏi phụ thuộc vào yếu tố nào?
Chủ yếu vào chất lượng câu hỏi và cách ứng xử của giáo viên khi hỏi HS
* KT đặt câu hỏi theo các cấp độ nhận thức như thế nào?
Biết; hiểu; vận dụng; phân tích; tổng hợp; đánh giá
Sử dụng câu hỏi có hiệu quả đem lại sự hiểu biết lẫn nhau giữa HS – GV và HS –
HS. Kĩ năng đặt câu hỏi càng tốt thì mức độ tham gia của HS càng nhiều; HS sẽ học tập
tích cực hơn. Trong dạy học theo PP cùng tham gia, GV thường phải sử dụng câu hỏi để
gợi mở, dẫn dắt HS tìm hiểu, khám phá thông tin, kiến thức, kĩ năng mới. Để đánh giá kết
quả học tập của HS, HS cũng phải sử dụng câu hỏi để hỏi lại, hỏi thêm GV và các HS
khác về những nội dung bài học chưa sáng tỏ.
Người thực hiện: Võ Thị Thúy – Giáo viên trường Tiểu học Hồng Thái

1


*Khi đặt câu hỏi cần đảm bảo các yêu cầu sau: 1.Câu hỏi phải liên quan đến việc
thực hiện mục tiêu bài học; 2.Ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu; 3.Đúng lúc, đúng chỗ; 4.Phù
hợp với trình độ HS; 5.Kích thích suy nghĩ của HS; 6.Phù hợp với thời gian thực tế;
7.Sắp xếp theo trình tự từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp; 8.Không ghép nhiều câu
hỏi thành một câu hỏi móc xích; 9.Không hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc.
* Khi nêu câu hỏi cho HS cần chú ý: 1.Đưa ra câu hỏi với một thái độ khuyến
khích, với giọng nói ôn tồn, nhẹ nhàng. 2.Thu hút sự chú ý của HS trước khi nêu câu hỏi.
3.Chú ý phân bố hợp lí số HS được chỉ định trả lời. 4.Chú ý khuyến khích những HS rụt
rè, chậm chạp. 5.Sử dụng câu hỏi mở và câu hỏi đóng phù hợp với từng trường hợp.
6.Khi kiểm tra sử dụng câu hỏi đóng; 7. Khi cần mở rộng ý ta dùng câu hỏi mở. Ví dụ:

Em có nhận xét gì về bức tranh Thiếu nữ bên hoa huệ? 8.Không nên nêu những câu hỏi
quá đơn giản. Ví dụ : Đối với HS lớp 4, 5 mà GV nêu: Các em xem có mấy hình vẽ?
Hoặc hỏi HS: Hiểu chưa?
2. Kĩ thuật dạy học theo góc
Học theo góc là một hình thức tổ chức hoạt động học tập theo đó người học thực
hiện các nhiệm vụ khác nhau tại vị trí cụ thể trong không gian lớp học, đáp ứng nhiều
phong cách học khác nhau. Học theo góc người học được lựa chọn họat động và phong
cách học: Cơ hội “Khám phá”, ‘Thực hành”; Cơ hội mở rộng, phát triển, sáng tạo; Cơ hội
đọc hiểu các nhiệm vụ và hướng dẫn bằng văn bản của người dạy; Cơ hội cá nhân tự áp
dụng và trải nghiệm.
+ Do vậy, học theo góc kích thích người học tích cực thông qua hoạt động; Mở
rộng sự tham gia, nâng cao hứng thú và cảm giác thoải mái, đảm bảo học sâu, hiệu quả
bền vững, tương tác mang tính cá nhân cao giữa thầy và trò, tránh tình trạng người học
phải chờ đợi. Ví dụ: Với chủ đề môi trường hoặc giao thông có thể tổ chức các góc: Viết;
Đọc; Vẽ tranh: Xem băng hình; Thảo luận...về nội dung chủ đề.
*Áp dụng: Tổ chức học theo góc trong tiết ôn tập về toán. Góc HS giỏi; Góc HS
còn yếu; Góc HS trung bình đến khá
3. Kĩ thuật “Khăn trải bàn”
a. Thế nào là kĩ thuật “khăn trải bàn”? Là hình thức tổ chức hoạt động mang tính
hợp tác kết hợp giữa hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm nhằm: 1- Kích thích, thúc đẩy
sự tham gia tích cực; 2- Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân HS; 3- Phát
triển mô hình có sự tương tác giữa HS với HS.
b. Cách tiến hành kĩ thuật “Khăn trải bàn”
- Hoạt động theo nhóm (4 người /nhóm)(có thể nhiều người hơn)
- Mỗi người ngồi vào vị trí như hình vẽ minh họa (xem sơ đồ ở file đính kèm)
- Tập trung vào câu hỏi (hoặc chủ đề,…)
- Viết vào ô mang số của bạn câu trả lời hoặc ý kiến của bạn (về chủ đề...). Mỗi cá nhân
làm việc độc lập trong khoảng vài phút
- Kết thúc thời gian làm việc cá nhân, các thành viên chia sẻ, thảo luận và thống nhất
các câu trả lời

- Viết những ý kiến chung của cả nhóm vào ô giữa tấm khăn trải bàn (giấy A0)
Cách tổ chức: Kĩ thuật khăn trải bàn:
Người thực hiện: Võ Thị Thúy – Giáo viên trường Tiểu học Hồng Thái

2


- Chia giấy A0 thành phần chính giữa và phần xung quanh. Chia phần xung quanh
thành các phần theo số thành viên của nhóm.
- Cá nhân trả lời câu hỏi và viết trên phần xung quanh.
- Thảo luận nhóm, thống nhất ý kiến và viết vào phần chính giữa.
- Treo SP, trình bày.
4. Kĩ thuật “Các mảnh ghép”
Thế nào là kĩ thuật “Các mảnh ghép” là hình thức học tập hợp tác kết hợp giữa cá
nhân, nhóm và liên kết giữa các nhóm nhằm:
+ Giải quyết một nhiệm vụ phức hợp
+ Kích thích sự tham gia tích cực của HS:
Nâng cao vai trò của cá nhân trong quá trình hợp tác (Không chỉ hoàn thành nhiệm
vụ ở Vòng 1 mà còn phải truyền đạt lại kết quả vòng 1 và hoàn thành nhiệm vụ ở vòng 2).
Cách tiến hành kĩ thuật “Các mảnh ghép”
VÒNG 1 Hoạt động theo nhóm 3 người. Mỗi nhóm được giao một nhiệm vụ (Ví
dụ : nhóm 1 : nhiệm vụ A; nhóm 2: nhiệm vụ B, nhóm 3: nhiệm vụ C). Đảm bảo mỗi
thành viên trong nhóm đều trả lời được tất cả các câu hỏi trong nhiệm vụ được giao. Mỗi
thành viên đều trình bày được kết quả câu trả lời của nhóm
VÒNG 2: Hình thành nhóm 3 người mới (1người từ nhóm 1, 1 người từ nhóm 2
và 1 người từ nhóm 3)
• Các câu trả lời và thông tin của vòng 1 được các thành viên nhóm mới chia sẻ đầy
đủ với nhau
• Nhiệm vụ mới sẽ được giao cho nhóm vừa thành lập để giải quyết
• Lời giải được ghi rõ trên bảng

Ví dụ Chủ đề: Câu tiếng Việt: * Vòng 1:
Nhiệm vụ 1: Thế nào là câu đơn? Nêu và phân tích VD minh họa
Nhiệm vụ 2: Thế nào là câu ghép? Nêu và phân tích VD minh họa
Nhiệm vụ 3: Thế nào là câu phức? Nêu và phân tích VD minh họa
* Vòng 2: Câu đơn, câu phức và câu ghép khác nhau ở điểm nào? Phân tích VD
minh hoạ.
5. Kĩ thuật sơ đồ tư duy
Sơ đồ tư duy là một công cụ tổ chức tư duy. Đây là cách dễ nhất để chuyển tải
thông tin vào bộ não rồi đưa thông tin ra ngoài bộ não; là phương tiện ghi chép sáng tạo,
hiệu quả nhằm sắp xếp ý nghĩa.
- Mục tiêu là giúp phát triển tư duy logic, khả năng phân tích tổng hợp; HS hiểu bài
nhớ lâu.
- Tác dụng là giúp HS hệ thống hóa kiến thức. tìm ra mối liên hệ giữa các kiến
thức; hiểu bài nhớ lâu, phát triển tư duy logic; mang lại hiệu quả dạy học cao.
- Cách lập sơ đồ tư duy
+ Ở vị trí trung tâm sơ đồ là một hình ảnh hay một cụm từ thể hiện một ý tưởng
khái niệm/nội dung/chủ đề.
+ Từ ý tưởng hình ảnh sẽ phát triển các nhánh chính, nối các cụm từ, hình ảnh cấp một.
+ Từ các nhánh tiếp tục các ý tưởng /khái niệm liên quan được kết nối
- Yêu cầu sư phạm:
Người thực hiện: Võ Thị Thúy – Giáo viên trường Tiểu học Hồng Thái

3


Hướng dẫn HS tìm ra ý tưởng. Khi lập sơ đồ tư duy cần lưu ý: Các nhánh chính
được tô đậm, các nhánh cấp 2,3 vẽ bằng các nét mảnh dần; từ cụm từ hình ảnh trung tâm
tỏa đi các nhánh nên sử dụng màu sắc khác nhau, màu sắc nhánh chính cần duy trì đến
các nhóm phụ.
Dùng các đường cong thay cho các đường thẳng; bố trí các thông tin đều theo hình

ảnh/cụm từ.
6. Kĩ thuật hỏi và trả lời
- Giúp HS củng cố, khắc sâu kiển thức đã học thông qua việc hỏi, trả lời
- Tác dụng: Củng cố, khắc sâu kiến thức cho HS; phát triển KN đặt câu hỏi, KN trình
bày, khả năng phản ứng nhanh; tạo hứng thú cho HS; giúp GV biết được kết quả học tập
của các em.
- Cách tiến hành
+ GV giới thiệu chủ đề sẽ thực hiện hỏi, trả lời.
+ GV hoặc 1 HS sẽ bắt đầu đặt một câu hỏi về chủ đề và yêu cầu HS khác trả lời.
+ HS trả lời xong câu hỏi đầu tiên lại đặt câu hỏi tiếp theo, yêu cầu HS khác trả lời…
cứ tiếp nối như thế cho đến các bạn khác.
- Yêu cầu sư phạm
+ Chủ đề phải có nội dung phong phú, đặt được nhiều câu hỏi
+ GV có thể đặt câu hỏi trước ( nếu HS chưa quen)
+ Tạo cơ hội cho tất cả HS trong lớp được hỏi, trả lời
+ Khi HS trả lời không được có thể yêu cầu bạn khác trả lời, song mất quyền đặt câu
hỏi cho người khác
+ KT hỏi và trả lời sử dụng hợp cho các tiết ôn tập. khi kiểm tra bài cũ, củng cố bài học.
7. Kĩ thuật trình bày một phút
- Mục tiêu là tạo cơ hội cho HS tổng kết lại kiến thức; trình bày những băn khoăn,
thắc mắc trước lớp
- Tác dụng: Giúp củng cố quá trình học tập; giúp HS tự thấy được mình hiểu vấn đề
ngang đâu.
- Cách tiến hành
+ Cuối tiết học, GV yêu cầu HS suy nghĩ trả lời các câu hỏi sau: ( Điều quan trọng
nhất các em học hôm nay là gì? Vấn đề gì các em chưa giải đáp hôm nay? Các em có
những băn khoăn, thắc mắc gì?); HS viết ra giấy; trình bày trước lớp trong thời gian
không quá 1 phút.
- Lưu ý khi sử dụng
Dành thời gian phù hợp cho HS chuẩn bị; động viên khuyến khích HS tham gia trình

bày; lắng nghe tôn trọng phần trình bày của HS, không tỏ thái độ chê bai; động viên HS
khác lắng nghe câu trả lời và trả lời câu hỏi đặt ra; giải đáp các câu hỏi, thắc mắc của HS
B. THỰC HÀNH, VẬN DỤNG MỘT SỐ KTDH TÍCH CỰC
1. Vận dụng kĩ thuật đặt câu hỏi trong bài Tập đọc “ Chú đi tuần” lớp năm
Mục đích là giúp học sinh tự khám phá tìm hiểu kiến thức của bài đọc. Hệ thống
câu hỏi như sau:
+ Người chiến sĩ đi tuần trong hoàn cảnh như thế nào?
Người thực hiện: Võ Thị Thúy – Giáo viên trường Tiểu học Hồng Thái

4


+ Đặt hình ảnh chiến sĩ đi tuần trong đêm đông bên cạnh hình ảnh giấc ngủ yên
của các em bé, tác giả muốn nói lên điều gì?
+ Tìm những chi tiết nói lên sự quan tâm yêu thương các em nhỏ của anh chiến sĩ?
+ Để tỏ lòng biết ơn các anh chiến sĩ các em phải làm gì?
Trong qua trình DH bản thân luôn dùng hệ thống câu hỏi để giảng dạy; có cách xử
lí tốt khi đặt ra câu hỏi; đưa ra câu hỏi phù hợp đối tượng HS; phù hợp quỹ thời gian với
hoàn cảnh; câu hỏi luôn ngắn gọ, dề hiểu, tạo được sự kích thích hứng thú cho HS. Tôi
luôn dừng lại sau khi hỏi, dành thời gian cho HS suy nghĩ; phân phối câu hỏi cho cả lớp;
tôn trọng lắng nghe ý kiến của HS; luôn xây dựng câu hỏi trọng tâm, không lan man.
2. Vận dụng kĩ thuật mảnh ghép:
Thực hành thiết kế KTDH mảnh ghép:
- Giai đoạn 1: Chia lớp thành 4 nhóm và phân công
+ Nhóm 1 nghiên cứu tư liệu và thảo luận về truyền thống đấu tranh bảo vệ tổ quốc
của dân tộc Việt Nam
+ Nhóm 2 nghiên cứu tư liệu và thảo luận về truyền thống văn hóa lâu đời của dân
tộc Việt Nam
+ Nhóm 3 nghiên cứu tư liệu và thảo luận các danh lam thắng cảnh nổi tiếng của
Việt Nam

+ Nhóm 4 nghiên cứu tư liệu và thảo luận thành tựu KT, VH, GD… của Việt Nam?
- Giai đoạn 2: Thành lập các nhóm mới, trong mỗi nhóm mới có ít nhất một thành
viên nhóm ban đầu và trả lời các câu hỏi sau:
+ Em nghĩ gì về đất nước và con người Việt Nam
+ Hiện nay nước ta còn có những khó khăn gì?
+ Chúng ta cần làm gì để góp phần xây dựng đát nước?
( Những KTDH khác được vận dụng trong việc thiết kế KHBH của môn học được đảm nhận)
Tùy vào bài, vào mỗi phân môn, vào tình hình lớp và thiết bị dạy học hiện có để
thiết kế KHBH và tổ chức lớp học đạt hiệu quả, thúc đẩy được sự tham gia tích cực của
học sinh, giúp học sinh tự chủ, tham gia tích cực vào các hoạt động học tập.
A. TÌM HIỂU VỀ PPDH, PPDH TÍCH CỰC
1. Thế nào là PPDH
Phương pháp DH chính là cách thức, là con đường hoạt động chung giữa giáo viên
và học sinh trong những điều kiện DH xác định, nhằm đạt tới mục đích DH.
2. PPDH tích cực là gì
Phương pháp dạy học tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để
chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của người học. "Tích cực" trong PPDH tích cực được dùng với nghĩa là hoạt
động, chủ động, PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận
thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ không
phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy.
Ta có thể khẳng định rằng: PPDH tích là thuật ngữ dùng để chỉ những ppdh phát huy
được tính tích cực, chủ động học tập của học sinh. PPDH tích cực không phải là một
PPDH cụ thể mà bao gồm nhiều PP cụ thể phù hợp với QĐDH tích cực
Người thực hiện: Võ Thị Thúy – Giáo viên trường Tiểu học Hồng Thái

5


3. Đặc trưng của các phương pháp dạy học tích cực.(có 4 đặc trưng)

a. Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.
Khi sử dụng PPDH tích cực, người học - đối tượng của hoạt động "dạy", đồng thời
là chủ thể của hoạt động "học" - được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ
chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải
thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên sắp đặt. Dạy theo cách này thì giáo
viên không chỉ giản đơn truyền đạt tri thức mà còn hướng dẫn hành động. Chương trình
dạy học phải giúp cho từng học sinh biết hành động và tích cực tham gia các chương
trình hành động của cộng đồng.
b. Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học.
PPDH tích cực luôn chú trọng việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh
không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học.
Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện cho người
học có được PP, KN, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi
dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội.
c. Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác.
Trong một lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của học sinh không thể đồng đều
tuyệt đối thì khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận sự phân hóa về
cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học được thiết kế thành
một chuỗi công tác độc lập.
Tuy nhiên, trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều được hình
thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp thầy - trò,
trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh nội
dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc
lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới. Trong nhà
trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm, tổ, lớp hoặc trường. .
Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề gay
cấn, lúc xuát hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ
chung. Trong hoạt động theo nhóm nhỏ sẽ không thể có hiện tượng ỷ lại; tính cách năng
lực của mỗi thành viên được bộc lộ, uốn nắn, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần
tương trợ.

d. Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
Trong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định thực
trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định thực
trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.
Trước đây GV giữ độc quyền đánh giá học sinh. Trong phương pháp tích cực, GV
phải hướng dẫn HS phát triển KN tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học. Liên quan với
điều này, giáo viên cần tạo điều kiện thuận lợi để học sinh được tham gia đánh giá lẫn
nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành
đạt trong cuộc sống mà nhà trường phải trang bị cho học sinh.
Người thực hiện: Võ Thị Thúy – Giáo viên trường Tiểu học Hồng Thái

6


Việc kiểm tra, đánh giá không thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các
kĩ năng đã học mà phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết
những tình huống thực tế.
Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn đóng vai trò
đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ chức,
hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh tự lực chiếm lĩnh nội
dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu của
chương trình. . Giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành
nghề mới có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh mà nhiều khi diễn biến
ngoài tầm dự kiến của giáo viên.
4. Một số phương pháp dạy học tích cực cần phát triển ở trường Tiểu học.
a. Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề.
Chúng ta đang sống trong xã hội đang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường, cạnh
tranh gay gắt thì phát hiện sớm và giải quyết hợp lý những vấn đề nảy sinh trong thực
tiễn là một năng lực đảm bảo sự thành công trong cuộc sống. Vì vậy, tập dượt cho học
sinh biết phát hiện, đặt ra và giải quyết những vấn đề gặp phải trong học tập, không chỉ

có ý nghĩa ở tầm phương pháp dạy học mà phải được đặt như một mục tiêu giáo dục và
đào tạo.
* Bản chất của PP này là sự lĩnh hội tri thức diễn ra thông qua việc xem xét phân tích
những vấn đề đang tồn tại và xác định cách thức nhằm giải quyết vấn đề.
* Quy trình thực hiện PP đặt và giải quyết vấn đề
- Bước 1: Đặt vấn đề, xây dựng bài toán nhận thức
+ Tạo tình huống có vấn đề
+ Phát hiện, nhận dạng vấn đề nảy sinh
+ Phát biểu vấn đề cần giải quyết
- Bước 2: Giải quyết vấn đề đặt ra
+ Đề xuất cách giải quyết;
+ Lập kế hoạch giải quyết;
+ Thực hiện kế hoạch giải quyết.
- Bước 1:Kết luận:
+ Thảo luận kết quả và đánh giá;
+ Khẳng định hay bác bỏ giả thuyết nêu ra
+ Phát biểu kết luận;
+ Đề xuất vấn đề mới.
* Điều kiện thực hiện có hiệu quả PP đặt và giải quyết vấn đề
- HS phải nêu được điều chưa biết cần tìm hiểu, chỉ ra mối quan hệ giữa cái chưc biết
và đã biết. Trong đó cái chưa biết là yếu tố trung tâm của tình huống có vấn đề, sẽ được
khám phá trong giai đoạn giải quyết vấn đề. Các tình huống có vấn đề, phải kích thích
hứng thú nhận thức, tính tò mò thích khám phá của HS. Các tình huống có vấn đề phải
phù hợp trình độ nhận thức của HS; HS có thể giải quyết được. Vấn đề đặt ra được phát
biểu dưới dạng câu hỏi nêu vấn đề.
Người thực hiện: Võ Thị Thúy – Giáo viên trường Tiểu học Hồng Thái

7



* Có thể phân biệt bốn mức trình độ đặt và giải quyết vấn đề:
Mức 1: Giáo viên đặt vấn đề, nêu cách giải quyết vấn đề. Học sinh thực hiện cách
giải quyết vấn đề theo hướng dẫn của giáo viên. Giáo viên đánh giá kết quả làm việc của
học sinh.
Mức 2: Giáo viên nêu vấn đề, gợi ý để học sinh tìm ra cách giải quyết vấn đề. .
Giáo viên và học sinh cùng đánh giá.
Mức 3: Giáo viên cung cấp thông tin tạo tình huống có vấn đề. Học sinh phát hiện
và xác định vấn đề nảy sinh, tự đề xuất các giả thuyết và lựa chọn giải pháp. Học sinh
thực hiện cách giải quyết vấn đề. Giáo viên và học sinh cùng đánh giá.

Mức 4 : Học sinh tự lực phát hiện vấn đề nảy sinh trong hoàn cảnh của mình hoặc
cộng đồng, lựa chọn vấn đề giải quyết. Học sinh giải quyết vấn đề, tự đánh giá chất
lượng, hiệu quả, có ý kiến bổ sung của giáo viên khi kết thúc.
b. Phương pháp hoạt động nhóm:
* Bản chất của PP này là tổ chức cho HS hoạt động theo những nhóm nhỏ để HS
cùng thực hiện một nhiệm vụ nhất định trong một khoảng thời gian nhất định; trong quá
trình làm việc có sự kết hợp làm việc các nhân và việc nhóm để cùng nhau chia sẻ kinh
nghiệm.
Tuỳ mục đích, yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên
hay có chủ định, được duy trì ổn định hay thay đổi trong từng phần của tiết học, được
giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau.
Nhóm tự bầu nhóm trưởng nếu thấy cần. Trong nhóm có thể phân công mỗi người
một phần việc. Trong nhóm nhỏ, mỗi thành viên đều phải làm việc tích cực, không thể ỷ lại
vào một vài người hiểu bết và năng động hơn. Các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm
hiêu vấn đề nêu ra trong không khí thi đua với các nhóm khác. Kết quả làm việc của mỗi
nhóm sẽ đóng góp vào kết quả học tập chung của cả lớp. Để trình bày kết quả làm việc của
nhóm trước toàn lớp, nhóm có thể cử ra một đại diện hoặc phân công mỗi thành viên trình
bày một phần nếu nhiệm vụ giao cho nhóm là khá phức tạp.
*Quy trình thực hiện Phương pháp hoạt động nhóm
Bước 1: Chọn nội dung và nhiệm vụ phù hợp

Lựa chọn ND, nhiệm vụ tương đối khó mà để giải quyết nó phải huy động kinh
nghiệm, ý kiến, công sức của nhiều HS. ND dễ không cần tổ chức nhóm.
- Bước 2: Thiết kế kế hoạch bài học áp dụng PP hợp tác theo nhóm nhỏ
- Bước 3: Tổ chức DH theo PP hợp tác nhỏ
GV nêu yêu cầu, nhiệm vụ và pp học tập cho cả lớp; phân công nhóm học tập, vị
trí làm việc cho các nhóm (Nhóm từ 2-6 HS là tốt nhất); giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm
HS, mỗi nhóm có thể thực hiện một nhiệm vụ riêng biệt trong gói nhiệm vụ chung hoặc
tất cả các nhóm cùng thực hiện một nhiệm vụ.; cần quy định thời gian làm việc và sản
phẩm của các nhóm); hướng dẫn hoạt động của nhóm HS( nhóm trưởng điều khiển, thư
kí ghi chép, đại diện trình bày); GV quan sát hỗ trợ các nhóm; tổ chức cho HS báo cáo
Người thực hiện: Võ Thị Thúy – Giáo viên trường Tiểu học Hồng Thái

8


kết quả ( đại diện nhóm trình bày, các nhóm khác lắng nghe nhận xét, bổ sung; GV nhận
xét tổng kết.
* Điều kiện để thực hiện có hiệu quả PP nhóm
Phòng học đủ không gian; bàn ghế dễ di chuyển; nhiệm vụ học tập đủ khó; thời
gian đủ để HS làm việc nhóm và trình bày kết quả; HS cần được bồi dưỡng các KN điều
khiển tổ chức, KN xã hội.
c. Phương pháp đóng vai
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho HS thực hành làm thử một số cách ứng xử
nào đó trong một tình huống giả định.
*Phương pháp đóng vai có những ưu điểm sau:
Học sinh được rèn luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong
môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn; gây hứng thú và chú ý cho học
sinh; tạo điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo của học sinh; khích lệ sự thay đổi thái độ,
hành vi của học sinh theo chuẩn mực; ó thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói
hoặc việc làm của các vai diễn.

* Quy trình thực hiện PP đóng vai:
- Bước 1: Giáo viên chia nhóm, giao tình huống đóng vai cho từng nhóm và quy
định rõ thời gian chuẩn mực, thời gian đóng vai.
- Bước 2: Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai( trong lúc này GV đến từng
nhóm lắng nghe, gợi ý, giúp đỡ)
- Bước 3: Các nhóm lên đóng vai.
- Bước 4: Lớp thảo luận, nhận xét về cách ứng xử và cảm xúc của các vai diễn, về
ý nghĩa của các cách ứng xử.
- Bước 5: Giáo viên kết luận về cách ứng xử cần thiết trong tình huống.
Những điều cần lưu ý khi sử dụng:
- Phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị đóng vai
- Người đóng vai phải hiểu rõ vai của mình trong bài tập đóng vai
- Nên khích lệ cả những học sinh nhút nhát tham gia.
d. Phương pháp vấn đáp
Là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra câu hỏi để học sinh trả lời, hoặc học sinh
có thể tranh luận với nhau và với cả giáo viên; qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài
học. Căn cứ vào tính chất hoạt động nhận thức, người ta phân biệt các loại phương pháp
vấn đáp:
* Có 3 hình thức đàm thoại:
- Đàm thoại tái hiện: Giáo viên đặt câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức đã
biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không cần suy luận. Vấn đáp tái hiện không được xem là
phương pháp có giá trị sư phạm. Đó là biện pháp được dùng khi cần đặt mối liên hệ giữa
các kiến thức vừa mới học.
- Vấn đáp giải thích - minh hoạ: Nhằm mục đích làm sáng tỏ một đề tài nào đó, giáo
viên lần lượt nêu ra những câu hỏi kèm theo những ví dụ minh hoạ để học sinh dễ hiểu,
dễ nhớ. Phương pháp này đặc biệt có hiệu quả khi có sự hỗ trợ của các phương tiện nghe
- nhìn.
Người thực hiện: Võ Thị Thúy – Giáo viên trường Tiểu học Hồng Thái

9



- Vấn đáp gợi mỡ: Giáo viên dùng một hệ thống câu hỏi được sắp xếp hợp lý để
hướng học sinh từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật, tính quy luật của hiện tượng
đang tìm hiểu, kích thích sự ham muốn hiểu biết. Giáo viên tổ chức sự trao đổi ý kiến kể
cả tranh luận giữa thầy với cả lớp, có khi giữa trò với trò, nhằm giải quyết một vấn đề xác
định.
* Quy trình thực hiện PP vấn đáp
- Đặt câu hỏi nhỏ, siêng lẽ
- Chỉ định từng học sinh trả lời hoặc để HS tự nguyện trả lời
- GV tổng hợp ý kiến và nêu ra kết luận
* Điều kiện để thực hiện có hiệu quả PP
- Cần thực hiện tốt hệ thống câu hỏi; các câu hỏi có liên quan chặt chẽ với nhau,
câu hỏi trước là tiền đề cho câu hỏi sau, câu hỏi sau là sự kế tục và phát triển kết quả của
câu hỏi trước. Mỗi câu hỏi là cái nút của từng bộ phận mà HS cần tháo gỡ thì mỡi tìm
được kết quả cuối cùng.
Để tăng thêm hiệu quả hỏi đáp GV cần sử dụng PP hỏi đáp, tổ chức đối thoại theo
nhiều chiều: GV hỏi HS, HS hỏi HS; HS hỏi GV.
d. PP trò chơi
PP trò chơi là PP tổ chức cho HS tìm hiểu một vấn đề hay luyện tập, thực hành
những thao tác kĩ năng, hành vi thông qua một trò chơi nào đó.
* Quy trình thực hiện:
- GV lựa chọn trò chơi; chuẩn bị các phương tiện, điều kiện; Phổ biến trò chơi,
cách chơi, luật chơi; tổ chức chơi thử; HS tiến hành chơi; tổ chức đánh giá sau trò chơi;
hướng dẫn HS thảo luận về ý nghĩa giáo dục của trò chơi
* Điều kiện thực hiện
- Trò chơi dễ tổ chức, phù hợp chủ đề bài học, trình độ HS, quỹ thời gian, điều kiện
lớp, không nguy hiểm; HS nắm được quy tắc chơi, biết tôn trọng luật chơi; quy định thời
gian địa điểm chơi; phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của HS; trò chơi phải được
luân phiên, thay đổi hợp lí.

Phần 2: Vận dụng các PPDH tích cực trong dạy học các môn học ở tiểu học
1. Vận dụng PP đặt và giải quyết vấn đề:
Ứng dụng"Phương pháp DH Phát hiện & Giải quyết vấn đề" vào dạy học Toán ở
tiểu học. Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề trong toán học, người ta hiểu vấn đề như
sau: HS chưa trả lời được câu hỏi hay chưa thực hiện được được hành động; HS cũng
chưa được học 1 quy luật có tính thuật giải nào để trả lời câu hỏi đó hay thực hiện được
hành động đó. Hiểu theo nghĩa trên thì vấn đề ở đây không có nghĩa là bài tập. Nếu BT
chỉ yêu cầu HS áp dụng một quy tắc để giải thì không gọi là vấn đề. Chẳng hạn, yêu cầu
hs tính diện tích HCN với đầy đủ các yếu tố về độ dài sau khi đã biết công thức tính diện
tích HCN thì không gọi là vấn đề. Vấn đề chỉ có tính tương đối, ở thời điểm này thì nó là
vấn đề, nhưng ở thời điểm khác thì nó không còn là vấn đề.
Người thực hiện: Võ Thị Thúy – Giáo viên trường Tiểu học Hồng Thái

10


Ví dụ: Yêu cầu HS vẽ hai đường thẳng song song sẽ là vấn đề nếu các em chưa
được học bài “Vẽ hai đường thẳng song song” – Lớp 4, nhưng khi học xong bài này thì
vẽ hai đường thẳng song song không còn là vấn đề nữa.
Bản chất HS được đặt vào tình huống có vấn đề chứ không phải được thông báo
dưới dạng tri thức có sẵn. HS tích cực, chủ động, tự giác tham gia HĐ học, tự mình tìm ra
tri thức cần học chứ không phải được thầy giảng một cách thụ động. Học sinh được học
cách phát hiện và giải quyết vấn đề.
2. Quy trình dạy học
Bước 1: GV nêu vấn đề (có thể hs nêu vấn đề, nhưng thường hs nêu) Có nhiều
cách để nêu vấn đề đến cho hs như sau:
- Cách 1: Dựa vào tình huống có thực trong thực tiễn
- Cách 2: Lật ngược vấn đề
Ví dụ: Số tự nhiên chia hết cho 5 thì có chữ số hàng đơn vị là 0 èvậy một số không
có chữ số hàng đơn vị tận cùng là 0 thì có chia hết cho 5 không?

- Cách 3: Xem xét tương tự
Ví dụ: Từ tính chất giao hoán của phép cộng trong số tự nhiên ta có thể suy ra tính
chất giao hoán của phép cộng các phân số, số thập phân hay không?
- Cách 4: Khái quát hoá
Ví dụ tính chất giao hoán của phép cộng A b a + b b + a 12 4 12 + 4 = 16 4 + 12 =
16 123 12 123 + 12 = 135 12 + 123 = 135 ….. ………….. …………………
……………… Khái quát: a + b = b + a
- Cách 5: Tổ chức tình huống có vấn để yêu cầu hoạt động đặc biệt hoá.
- Cách 6: Nêu một bài toán mà việc giải quyết dẫn đến một kiến thức mới.
- Cách 7: Tìm sai lầm trong lời giải.
Ví dụ Diện tích hình thoi – Lớp 4
Trước hết ta xét đây có phải là tình huống có vấn đề hay không
- Tồn tại một vấn đề: HS chưa biết công thức tính diện tích hình thoi.
- Gợi nhu cầu nhận thức: HS muốn biết công thức tính diện tích hình thoi.
- Gợi niềm tin ở khả năng: Mặc dù hs chưa biết công thức tính diện tích hình thoi
nhưng hs đã biết đặc điểm của hình thoi, tính chất trung điểm, công thức tính diện tích
hình chữ nhật, biết cách tính diện tích hình bình hành thông qua hoạt động cắt ghép hình.
Đây là tình huống có vấn đề.
* Triển khai hoạt động học “Diện tích hình thoi”
-Bước 1: GV nêu vấn đề: Cho hình thoi ABCD có AC = m, BD = n. Tính diện tích
hình thoi ABCD.
-Bước 2: HS phát hiện và giải quyết vấn đề + HS phát hiện vấn đề: Tìm công thức
tính diện tích hình thoi. + HS giải quyết vấn đề: Cắt ghép hình thoi thành HCN
-Bước 3: Trình bày giải pháp Hs trình bày giải pháp và giải thích, trình bày con
đường đi hình thành để có kết quả.
-Bước 4: Nghiên cứu sâu giải pháp + Rút ra quy tắc tính diện tích hình thoi: Diện
tích hình thoi bằng tích độ dài hai đường chéo chia cho 2 (cùng một đơn vị đo) + GV yêu
cầu HS tìm cách khác tính diện tích hình thoi nếu có thể.
2. Vận dụng PP làm viêc theo nhóm:
Người thực hiện: Võ Thị Thúy – Giáo viên trường Tiểu học Hồng Thái


11


Bất cứ PPDH nào cũng đếu có quy trình thực hiện của nó. Việc đảm bảo quy trình
giúp GV tránh được những lúng túng trong khi hướng dẫn HS. Nó còn thể hiện được tính
khoa học trong tổ chức DH, đồng thời iups HS tham gia thảo luận, chọn vấn đề tốt hơn.
Tuy nhiên việc thực hiện quy trình có thể bỏ qua khi thường xuyên dùng.
Nên tránh máy móc mất thời gian nhưng cũng không được lạm dụng việc làm vắn
tắt quá mức làm mất hứng thú trong học tập.
Trình tự tiến hành PP nhóm
1- Giáo viên nêu vấn đề: giúp học sinh xác định đúng nhiệm vụ cần giải quyết.
2- Chia nhóm: từ việc nắm chắc nội dung, đối tượng học sinh trong lớp, đồ dùng dạy
học mình có, giáo viên chọn cách chia nhóm sao cho phù hợp:
- Khi nội dung yêu cầu không khác nhau, ít có chênh lệch về độ khó nên chia nhóm
ngẫu nhiên.
- Khi nội dung cần có sự phân hóa về độ khó, dễ nên chia nhóm cùng trình độ.
- Khi nội dung đơn vị kiến thức cần có sự hỗ trợ lẫn nhau như các bài ôn tập thì nên
chia nhóm đủ trình độ.
3. Giao nhiệm vụ cho các nhóm: khi tổ chức dạy học nhóm thông thường mỗi nhóm
được giao một nhiệm vụ khác nhau hoặc 2-3 nhóm cùng một nhiệm vụ…GV cần làm cho
tất cả các thành viên trong nhóm đều nắm rõ nhiệm vụ của nhóm cũng như nhiệm vụ của
bản thân. Nên giao việc sau khi đã chia xong nhóm và các nhóm đã về vị trí của mình. Có
thể giao nhiệm vụ cho từng nhóm chung ở giữa lớp, việc này có ưu điểm là nhóm nào
cũng biết được nhiệm vụ của nhóm khác để có thể tự tham khảo thêm và sẽ bổ sung cho
nhóm bạn dễ dàng hơn. Hoặc giao nhiệm vụ dưới dạng phiếu giao việc cho từng nhóm…
Nhưng dưới hình thức nào thì cũng cần cho nhóm nêu nội dung mà nhóm cần thảo luận.
4- Hướng dẫn các nhóm thực hiện nhiệm vụ: trong điều kiện hiện nay, các nhóm học
sinh tiểu học nên chỉ từ 4 – 6 HS là tốt nhất. Các chức danh nhóm trưởng và thư kí (đối
với lớp 4-5) nên luân phiên. Khi bắt đầu làm việc, nhóm trưởng phải phân công các thành

viên trong nhóm, mỗi người một việc, sau đó cá nhân làm việc độc lập rồi từng em đưa ra
ý kiến để thảo luận trong nhóm. Ý kiến thống nhất được ghi nhận để chuẩn bị trình bày
trước lớp. Người trình bày cũng nên luân phiên để tạo điều kiện cho tất cả học sinh được
rèn kĩ năng. Trong thời gian HS làm việc, GV thường xuyên theo dõi để hướng dẫn, giúp
đỡ các nhóm trao đổi thảo luận đúng yêu cầu bài học, tránh thảo luận tùy hứng dẫn đến
nguy cơ đi chệch yêu cầu hoặc giáo viên gợi mở thêm nhằm mở rộng kiến thức cho các
em.
5- Tổ chức thảo luận chung: trước khi cho đại diện nhóm trình bày, giáo viên cần nêu
lại vấn đề để cả lớp tập trung lắng nghe. Phải rèn cho học sinh có thói quen lắng nghe và
khuyến khích các em đưa ra nhận xét cụ thể hoặc ý kiến bổ sung cho nội dung nhóm bạn
vừa trình bày. Cao hơn nữa là tập cho học sinh đặt vấn đề, nêu câu hỏi tạo tình huống
phản biện. Quá trình thảo luận chung nếu điều hành tốt thì sẽ giúp học sinh rút thêm kinh
nghiệm khi điều hành thảo luận trong nhóm sau này và kĩ năng hợp tác nhóm của học
sinh sẽ ngày một cao hơn.
6- Tổng kết vấn đề - Nhận xét quá trình làm việc: giáo viên cần dự kiến trước các
hướng trả lời của học sinh để có thể xử lí tốt các kết luận. Ví dụ: chuẩn bị câu hỏi gợi mở
để làm rõ vấn đề hơn hoặc liên hệ thực tế để giúp học sinh có khả năng vận dụng
Người thực hiện: Võ Thị Thúy – Giáo viên trường Tiểu học Hồng Thái

12


kiến thức vào cuộc sống. Nếu kết quả làm việc nhóm của học sinh đáp ứng đầy đủ yêu
cầu thì có thể sử dụng để hệ thống thành bài học. Điều này sẽ làm tăng sự thích thú làm
việc của học sinh bởi vì các em rất tự hào khi tự mình có thể hình thành được bài học cho
cả lớp, đồng thời giảm bớt sự can thiệp của giáo viên trong quá trình học.
Việc nhận xét quá trình làm việc của nhóm cũng không nên qua loa, đại khái. Càng
đưa ra nhận định cụ thể càng giúp học sinh tích lũy nhiều kinh nghiệm cho những lần làm
việc sau. Những tiêu chí nhận xét cần thiết phải có:
- Sự phân công trong nhóm

- Tinh thần thái độ làm việc của các thành viên trong quá trình thảo luận.
- Kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao.
- Kĩ năng trình bày kết quả hoặc giải thích chất vấn trước lớp.
Cần khen ngợi những HS biết lắng nghe và đưa ra câu hỏi thắc mắc phù hợp.
Xây dựng mô hình lớp để tổ chức hoạt động nhóm hiệu quả:
Điểm thuận lợi khi sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh theo các mô hình trên là lối di
chuyển trong lớp nhiều hơn, giáo viên có điều kiện tiếp cận từng cá nhân học sinh khi cần
thiết. Riêng đối với mô hình 3, giáo viên cần lưu ý xây dựng cho học sinh thói quen xoay
người hợp lí: khi hướng bảng, lúc thảo luận,…và đối với lớp Một, đa số tiết học sinh cần
hướng bảng, giáo viên nên cân nhắc, chỉ xếp lớp theo mô hình này trong một số tiết học
thật sự cần thiết mà thôi.
Lưu ý khi xếp mô hình lớp cần phải: Phù hợp yêu cầu tổ chức hoạt động dạy học.
Đảm bảo có lối di chuyển để giáo viên có thể tiếp cận giúp đỡ các nhóm; học sinh có thể
xoay trở dễ dàng, không bị ngồi sai tư thế; không cố định vị trí của học sinh hoặc cố định
nhóm để học sinh có cơ hội thay đổi hướng nhìn.
- Tôi đã mạnh dạn tổ chức DH theo nhóm vào thời điểm thích hợp của tiết học để
giúp HS quen dần với hoạt động nhóm, có kinh nghiệm thảo luận nhóm.
- Thời lượng dành cho HS hoạt động nhóm phải thích đáng để thực hiện hoàn chỉnh các
bước: làm việc độc lập, thảo luận trong nhóm, trình bày kết quả và thảo luận chung.
- Cần nắm được các nhược điểm của phương pháp dạy học theo nhóm để trong khi
chuẩn bị hoặc tổ chức thực hiện có biện pháp khắc phục. Ví dụ: lớp ồn thường ảnh hưởng
lớp bên cạnh nên nhớ đóng bớt cửa, nhắc nhở trao đổi vừa đủ nghe, phát huy vai trò
nhóm trưởng để điều chỉnh trong nhóm. Hoặc một số em hay “quậy”, tranh bạn nói hết,
còn một số em chỉ im lặng không tham gia ý kiến thì giáo viên nên chọn em hay nói làm
nhóm trưởng mà trong nhóm đó ít có bạn thân của em, còn em ít nói sẽ làm việc với
nhóm bạn thân để em mạnh dạn, hòa nhập tốt hơn.
- Nếu tổ chức không tốt, không đặt ra những yêu cầu rõ ràng đối với mỗi HS trong
hoạt động nhóm thì sẽ tạo điều kiện cho một số HS ỷ lại, không tích cực tham gia nhiệm vụ
của nhóm. HS có thể mất trật tự khi sự phân công trách nhiệm trong nhóm không rõ ràng,
để mạnh ai nấy làm thì hiệu quả sẽ thấp hoặc nếu HS chỉ biết phần việc của nhóm mình thì

cuối tiết học KT của bài trở thành một vài mảnh chắp vá trong đầu HS.
Trong những hội thi chọn giáo viên dạy giỏi cấp trường, các tiết bản thân tôi được
dự, đa số các tiết dạy có tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm (gần như 100%) và
họ đã áp dụng rất hiệu quả. Điều đó có ý nghĩa là, người dạy học đã thừa nhận ưu điểm
của phương pháp này, họ tin rằng, phương pháp dạy học theo nhóm với sự vận dụng kết
Người thực hiện: Võ Thị Thúy – Giáo viên trường Tiểu học Hồng Thái

13


hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác sẽ giúp cho từng học sinh được thực sự
suy nghĩ, thực sự hoạt động trong mỗi giờ học, đồng thời tiết dạy sẽ có khả năng đạt hiệu
quả cao nhất. Từ niềm tin và thành công trong công tác chỉ đạo chuyên môn, tôi khẳng
định rằng, PPDH theo nhóm cần được quan tâm. Muốn vận dụng PPDH theo nhóm thành
công thì người giáo viên phải chịu khó trau dồi nghiệp vụ bởi vì nghề dạy học ở tiểu học
tưởng như đơn giản, dễ dàng, ai cũng có thể dạy được nếu như họ có trình độ học vấn
nhất định. Nhưng kì thực, đây là một nghề đòi hỏi sự công phu, tỉ mỉ và tinh tế, một nghề
vừa có tính khoa học cao vừa có tính nghệ thuật.
3. Vận dụng PP hỏi đáp
Trong quá trình DH tôi đã sử dụng PP hỏi đáp, theo 3 hình thức vấn đáp sau:
- Vấn đáp tái hiện: GV đặt ra những câu hỏi chỉ yêu cầu HS nhớ lại kiến thức đã biết
và trả lơì dựa vào trí nhớ, không cần suy luận. Đó là hình thức được dùng khi cần
đặt mối liên hệ giữa KT đã học với KT sắp học; khi cần củng cố kiến thức vừa mới học.
- Vấn đáp giải thích – minh hoạ: Nhằm mục đích làm sáng tỏ một vấn đề nào đó,
GV lần lượt nêu ra những câu hỏi kèm theo những VD minh hoạ để HS dễ hiểu, dễ nhớ.
Hình thức này đặc biệt có hiệu quả khi có sự hỗ trợ của các phương tiện nghe nhìn.
- Vấn đáp gợi mở (là vấn đáp tìm tòi): GV dùng một hệ thống câu hỏi được sắp xếp
hợp lý để dẫn dắt HS từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật, tính quy luật của hiện
tượng đang tìm hiểu, kích thích sự ham muốn hiểu biết.Trong quá trình dạy học, tôi đã sử
dụng cả 3 hình thức, tuy nhiên nghiêng về hình thức vấn đáp tìm tòi.

Ưu điểm: Kích thích tính tích cực, độc lập sáng tạo trong học tập của HS- Bồi
dưỡng cho HS năng lực diễn đạt những vấn đề học tập bằng lời; giúp GV thu thập thông
tin từ phía HS để kịp thời điều chỉnh hoạt động; tạo không khí học tập sôi nổi.
Hạn chế: Nếu người giáo viên chưa có nghệ thuật tổ chức, điều khiển phương
pháp đàm thoại thì mang một số hạn chế sau:- Dễ làm mất thời gian, ảnh hưởng tới việc
thực hiện kế hoạch bài học.- Có thể biến đàm thoại thành cuộc tranh luận giữa GV và học
sinh, giữa các thành viên của lớp với nhau.
Ví dụ minh hoạ
Để giúp HS biết được cách bảo vệ tài nguyên thiên nhiên
- Bước 1: GV nêu câu hỏi; sau mỗi câu hỏi gọi HS trả lời
+ Thế nào là tài nguyên thiên nhiên?
+ Tài nguyên thiên nhiên mang lại nhiều lợi ích cho cuộc sống con người.
+ Tại sao phải khai thác và sử dụng hợp lý nguồn TNTN?
+ Bảo vệ tài nguyên thiên nhiên là trách nhiệm của ai?
+ Kế một vài biện pháp bảo vệ TNTN?
- Bước 2: Giáo viên cùng học sinh tham gia nhận xét và có thể đặt câu hỏi trắc
nghiệm lại, hoặc mở sâu kiến thức
- Kết luận: Vai trò của TNTN và biện pháp bảo vệ TNTN
Tự đánh giá nhận xét
Khi nghiên cứu tài liệu bản thân tôi đã nắm vững các phương pháp dạy học; vận
dụng các phương pháp dạy học tích cực một cách nhuần nhuyễn trong việc soạn giảng
đạt hiệu quả cao.
Người thực hiện: Võ Thị Thúy – Giáo viên trường Tiểu học Hồng Thái

14


Tự chấm điểm: 9

Xếp loại: Giỏi


Người báo cáo

Võ Thanh Tuấn

Người thực hiện: Võ Thị Thúy – Giáo viên trường Tiểu học Hồng Thái

15



×