Giá trị nghệ thuật đình làng Việt Nam thời Lê Trung Hưng
A.PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trước các biến động của lịch sử - xã hội, dường như rất nhiều giá trị văn
hóa đã nảy sinh hoặc quy tụ về với làng, làm cho văn hóa làng trở nên đa dạng,
phong phú trong tính tự trị riêng của nó. Trải qua bao nhiêu thăng trầm, biến cô
của lịch sử, con người lao động đã không ngừng đấu tranh để vươn lên, không
ngừng sáng tạo để sản sinh ra những đứa con tinh thần cho cuộc sông. Một trong
những sản phẩm của sự sáng tạo đó là đình làng.
Đình làng là công trình kiến trúc cổ truyền mang những đặc điểm của
nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc trong sáng độc đáo, tính dân tộc phong phú đậm
đà sắc thái dân gian ít chịu ảnh hưởng của ngoại lai hơn tất các loại hình nghệ
thuật ở Việt Nam được xây dựng trong xã hội phong kiến xưa. Hầu như ở mỗi
làng quê Việt Nam đều có một ngôi đình, nhất là vùng đồng bằng Bắc Bộ, nó là
sản phẩm chung của cộng đồng, do tất cả các thành viên góp công tạo dựng nên.
Bởi vậy đình làng là môi quan tâm, là niềm tự hào của mọi người trong làng.
Điêu khắc ở đình làng không những là nguồn tài liệu để nghiên cứu lịch sử Mĩ
Thuật Việt Nam, mà còn là nguồn tài liệu để nghiên cứu đời sông ngày thường
cũng như tâm hồn của người nông dân Việt Nam.
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của nền khoa học kĩ thuật, đời sông
của con người được nâng cao, nhưng những giá trị to lớn của những công trình
nghệ thuật đình làng vẫn còn nguyên giá trị. Là một sinh viên ngành sư phạm mĩ
thuật và sau này trở giáo viên giảng dạy mĩ thuật trong trường THCS, tôi luôn có
mong muôn tìm hiểu để mở rộng vôn hiểu biết của mình về những giá trị nghệ
thuật truyền thông của ông cha ta để lại, đồng thời góp phần nhỏ bé vào việc lưu
truyền những giá trị nghệ thuật dân gian cho các thế hệ học sinh, tôi đã mạnh
dạn lựa chọn đề tài: “ Giá trị nghệ thuật đình làng Việt Nam thời Lê Trung
Hưng” để nghiên cứu. Với thời gian và lượng kiến thức có hạn khi nghiên cứu,
nên đề tài này không thể tránh được những thiếu xót, rất mong nhận được những
ý kiến đóng góp của các thầy giáo, cô giáo và các bạn bè để tôi hoàn thành bài
tiểu luận này.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Na
1
GVHD:Th.S Trần Văn Tâm
Giá trị nghệ thuật đình làng Việt Nam thời Lê Trung Hưng
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài.
Về vấn đề này đã có một sô người nghiên cứu họ đã đề cập tổng thể
nhưng không đi sâu vào nội dung đề tài tôi nghiên cứu, họ nghiên cứu về:
-
“Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng” _ Đình Thùy
Chỉnh.
- “Lịch sử mĩ thuật Việt Nam” _ Phạm Thị Chỉnh.
Tôi chọn đề tài này để đi sâu vào nghiên cứu“ Giá trị nghệ thuật đình
làng Việt Nam thời Lê Trung Hưng”.
3. Mục đích nghiên cứu.
Làm sáng tỏ giá trị nghệ thuật trong cách thể hiện nội dung, hình ảnh và
cách tạo hình của chạm khắc đình làng.
Mở rộng và nâng cao vôn hiểu biết về giá trị thẩm mĩ của những tác phẩm
chạm khắc đình làng, góp phần gìn giữ và bảo tồn những giá trị văn hóa tinh
thần người Việt.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu nghệ thuật kiến trúc và chạm khắc trang trí của một sô đình
làng tiêu biểu ở Việt Nam như:
- Đình Thụy Phiêu (Ba Vì, Hà Tây)
- Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh)
- Đình Phù Lưu (Bắc Ninh)
- Đình Tây Đăng (Hà Tây Cũ)
- Đình Chu Quyến (Hà Tây)
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Tập trung nghiên cứu một sô đình làng tiêu biểu từ cuôi thế kỷ XVI đến
đầu thế kỷ XVIII, chủ yếu ở vùng Bắc Bộ.
5. Phương pháp nghiên cứu.
-
Nghiên cứu qua tài liệu
-
Nghiên cứu thực tiễn làm sáng tỏ vấn đề
-
Đánh giá, phân tích rút bài học kinh nghiệm
SVTH: Nguyễn Thị Thu Na
2
GVHD:Th.S Trần Văn Tâm
Giá trị nghệ thuật đình làng Việt Nam thời Lê Trung Hưng
6. Bố cục đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, mục lục, đề tài được cấu
trúc thành 2 chương:
Chương 1: Khái quát lịch sử hình thành và đặc điểm của kiến trúc đình làng Việt
Nam
Chương 2: Giá trị nghệ thuật tạo hình của chạm khắc đình làng Việt Nam thế kỷ
XVI - XVII
SVTH: Nguyễn Thị Thu Na
3
GVHD:Th.S Trần Văn Tâm
Giá trị nghệ thuật đình làng Việt Nam thời Lê Trung Hưng
B.NỘI DUNG
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA
KIẾN TRÚC ĐÌNH LÀNG VIỆT NAM THẾ KỶ XVI- XVII
1.1. Nguồn gốc và chức năng của đình làng.
1.1.1. Nguồn gốc:
Ở trong các làng xã , bên cạnh các chùa, đền, quán còn có một loại hình kiền
trúc rất gắn bó với đời sông làng xã. Đó là ngôi đình làng.
Mỗi làng quê Việt Nam đều có một ngôi đình. Đó là nơi thờ Thành Hoàng làng
(vị thần bảo trợ của làng ). Vào mỗi dịp lễ tết, đình trở thành trung tâm văn hóa của
làng mà ở đó, tất cả kho tàng văn hoá tích luỹ từ đời này qua đời khác được thể hiện
đầy đủ nhất.
Đình “Đình Bảng” (Từ Sơn, Bắc Ninh)
“Đình” theo nghĩa Hán tự là một ngôi nhà để trú ngụ, nghỉ tạm. Theo một sô
nhà nghiên cứu, từ “đình” xuất hiện sớm nhất trong lịch sử Việt Nam là vào thế kỷ thứ
II đến thứ III.Tuy nhiên giả thiết này còn thiếu cơ sở khoa học. Thời nhà Trần đình với
tư cách là trạm nghỉ chân đã được ghi trong Đại Việt sử kư toàn thư “ Thượng Hoàng
xuông chiếu rằng, trong nước ta, phàm chỗ nào có đình trạm đều phải tô tượng phật để
thờ. Trước là tục nước ta, sau là vì nắng mưa nên làm đình để cho người ta đi đường
nghỉ chân, trát vách bằng vôi trắng gọi là đình trạm” (Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự Đình Việt Nam, NXB TP.HCM, 1998). Thời nhà Mạc, từ chức năng ngôi nhà công
cộng, đình trở thành công trình đa chức năng. Nó là nơi thờ thành Hoàng Làng và là
nơi hội họp của làng xã. Điều này đã được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước ghi
nhận, người đầu tiên khái quát tên là M.Giran “Đình là nơi thờ Thành Hoàng làng và
là một ngôi nhà chung cho sinh hoạt cộng đồng. Nơi đây thường diễn ra các cuộc hội
SVTH: Nguyễn Thị Thu Na
4
GVHD:Th.S Trần Văn Tâm
Giá trị nghệ thuật đình làng Việt Nam thời Lê Trung Hưng
họp của các hương lão, chức sắc trong làng về việc công, hoặc phân sử kiện tụng, đồng
thời là nơi cúng lễ. Có thể nói nơi đã xảy ra hết thảy các hoạt động của cuộc sông, xã
hội người Việt”
Căn cứ tài liệu trên cho phép ta khẳng định đình làng đã có từ thời Lê Sơ. Đầu
thế kỷ XV. Những ngôi đình xưa nhất còn bảo tồn đến ngày nay đều có niên đại vào
thời nhà Mạc, các đình này có nhiều giá trị nhân văn về kiến trúc và điêu khắc đó là:
-
Đình Thụy Phiêu (Ba Vì, Hà Nội) dựng năm Đại Chính thứ 2 (1531).
-
Đình Lỗ Hạnh (Hiệp Hòa, Bắc Giang) được ghi vào niên hiệu Sùng Khang
(1566- 1577), nhiều người dự đoán vào năm 1576.
-
Đình Phù Lưu (Tiên Sơn, Bắc Ninh), được dựng vào cuôi thế kỷ XVI.
-
Đình Là (Thường Tín, Hà Tây) dựng năm Diên Thành thứ 4 (1581).
-
Đình Tây Đằng ( Ba Vì, Hà Nội) dựa vào phong cách kiến trúc và điêu khắc,
người ta dự đoán được dựng vào thế kỷ XVI.
Tới thế kỷ thứ XVIII việc xây dựng đình có nhiều giảm sút nhưng vẫn có
những ngôi đình được xây dựng với quy mô lớn như đình Hồi Quan, đình Đình Bảng.
1.1.2. Chức năng:
Là một thiết chế văn hoá tín ngưỡng tổng hợp, theo các nhà nghiên cứu đình
làng có 3 chức năng: Tín ngưỡng – Hành chính – Văn hóa.
* Chức năng tín ngưỡng:
Trong các đình làng Việt Nam, vị thần được thờ phụng là Thành Hoàng làng, vị
vua tinh thần, vị thần hộ mệnh của làng.
Nguồn gôc của Thành Hoàng làng cũng rất phức tạp. Trước hết là những vị thần
tự nhiên, được thờ ở rất nhiều đình làng. Các vị thần này đều được “khoác áo” nhân
thần với các tiểu sử rất thế tục. Được thờ khá phổ biến là Sơn tinh và Thuỷ thần.
Thứ hai là các nhân thần. Các nhân vật lịch sử như Lý Bí, Ngô Quyền, Đinh
Tiên Hoàng, Trần Hưng Đạo… Chiếm sô đông trong các nhân thần là những người ít
nổi tiếng hơn như quan lại, nho sĩ và đặc biệt là các bộ tướng của Hai Bà Trưng, nhất
là các nữ tướng. Những vị thần này thực ra là những nhân vật truyền thuyết có tính
“giả lịch sử” hơn.
Loại Thành Hoàng thứ ba gắn liền với tín ngưỡng bản địa như tục thờ cây, thờ
đá thời nguyên thuỷ.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Na
5
GVHD:Th.S Trần Văn Tâm
Giá trị nghệ thuật đình làng Việt Nam thời Lê Trung Hưng
Thành Hoàng làng còn có thể là những người xuất thân hèn kém, có người chết
vào giờ thiêng cũng được thờ làm thần. Ngoài ra, ở một sô làng nghề thủ công người
ta thờ các tổ làng nghề, được gọi là “tiên sư”.
Những ngôi đình ở miền Trung và miền Nam đã tiếp thu ảnh hưởng của tín
ngưỡng Chăm và Khơ Me, nữ thần Pô. Ino Naga của Chăm Pa được người Việt đưa
vào đền thờ với cái tên đã được Việt hóa là Thiên Y A Na Ngọc Diện thánh phi hay gọi
đơn giản là bà chúa Ngọc. Ở Nam Bộ, dân làng còn đưa vào thờ trong đình các vị thần
có nguồn gôc Khơ Me như Árắc, Trà Viên tướng quân…
* Chức năng hành chính :
Đình làng thực sự trở thành trụ sở hành chính của làng, còn được gọi là “nhà
việc”, nơi mọi việc thuộc về hành chính của làng đều được tiến hành ở đó, từ việc xét
xử các việc tranh chấp, phạt vạ, khao vọng, đến thu tô, thuế, việc bắt lính, thu dịch …
Các làng đều có hương ước riêng với nội dung cụ thể khác nhau. Tuy nhiên, các
hương ước thường bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
-
Những quy ước về ruộng đất: Việc phân cấp công điền, công thổ theo định kỳ
và quy ước về việc đóng góp (tiền và thóc).
-
Quy ước về việc khuyến nông, bảo vệ sản xuất, duy tu đê đập, cấm lạp sát trâu
bò, cấm bỏ ruộng hoang, chặt cây bừa bãi…
-
Những quy ước về tổ chức xã hội và trách nhiệm của các chức dịch trong làng.
Việc xác định trách nhiệm của các chức dịch nhằm hạn chế họ lợi dụng quyền
hành và thế lực để mưu lợi riêng.
-
Những quy ước về văn hóa tinh thần và tín ngưỡng. Đó là những quy ước nhằm
đảm bảo các quan hệ trong làng xóm, dòng họ, gia đình, láng giềng…được duy
trì tôt đẹp. Quy định về việc sử dụng hoa lợi của ruộng công vào việc sửa chữa
hoặc xây dựng đình, chùa, đền, quy định về thể lệ tổ chức lễ hội, lễ ra làng, lễ
nộp cheo…
* Chức năng văn hóa :
Đình làng là trung tâm sinh hoạt văn hoá của cả làng. “Cây đa, bến nước, sân
đình” đã đi vào tâm hồn những người dân quê. Đỉnh cao của các hoạt động văn hóa
diễn ra ở đình là lễ hội. Làng vào hội cũng có nghĩa là làng vào đám, là hoạt động có
quy mô và gây ấn tượng nhất trong năm đôi với dân làng.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Na
6
GVHD:Th.S Trần Văn Tâm
Giá trị nghệ thuật đình làng Việt Nam thời Lê Trung Hưng
Những lễ hội truyền thông được dân làng thường xuyên tổ chức vào các dịp lễ
hội như: lễ hội xuông đồng, lễ hội mừng cơm mới, lễ cầu phúc… và cùng với những lễ
hội này là những trò chơi cổ truyền nhằm biểu dương và ca ngợi tài trí của con người
như: đánh cờ, đấu vật, kéo co, đánh đáo, đá cầu, làm xiếc, đua thuyền… Đây là những
sinh hoạt văn hoá lành mạnh mang rõ dấu ấn bản sắc dân tộc và mỗi vùng đều có một
bản sắc riêng như hội pháo ở làng Đồng Kỵ - Bắc Ninh, hát quan họ ở một sô đình
làng Bắc Ninh, bơi chải ở các đình làng dọc triền sông…
1.2. Khái quát về nghệ thuật kiến trúc và chạm khắc đình làng.
1.2.1. Kiến trúc của ngôi đình trong tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống Việt
Nam :
Đình làng là gương mặt của nền kiến trúc mà không chỉ là công trình oai
nghiêm và đồ sộ nhất trong khung cảnh làng quê Việt Nam nghèo nàn thời quân chủ,
mà còn là nơi bảo tồn khá trọn vẹn những đặc điểm của nền kiến trúc dân tộc.
Kiến trúc đình làng phát triển với sự đóng góp của quần chúng nhân dân và
thực sự trở thành những công trình đầu tư sáng tác tập thể trong thi công kiến trúc và
trang trí nội thất bên trong. Kiến trúc đình làng với đặc trưng cân bằng, ổn định và linh
hoạt là hệ quả của thế ứng xử của cư dân đồng bằng Bắc Bộ đôi với môi trường vừa
chế ngự, vừa hạn chế sự khắc nghiệt của thiên nhiên, vừa linh hoạt khôn khéo tận dụng
những điều kiện thuận lợi để tồn tại và phát triển.
Hướng đình rất quan trọng, người ta tin rằng hướng dựng đình ảnh hưởng trực
tiếp đến công việc làm ăn cuả cả làng. Đình thường được dựng trên bãi đất cao ráo,
bằng phẳng rộng rãi và được xây dựng gần khu đông dân cư. Kiến trúc đình làng là
công trình to lớn nhất ở làng, nhưng nó không vượt trội, phá vỡ cảnh quan xung
quanh… Ngôi đình là nơi con người tìm thấy sự gắn bó, hoà điệu với thiên nhiên, cũng
như tìm thấy sự đồng cảm của con người với con người. Xét về mặt tổng thể trước
đình làng luôn là ao đình(tròn hoặc bán nguyệt), tiếp đến là sân đình với nhiều hàng
cây cổ thụ, đây là hai yếu tô quan trọng tạo nên diện mạo của đình làng. Các cây cổ
thụ thường được trồng phía sau và hai bên sân đình, kết hợp với kiến trúc của ngôi
đình tạo nên tính đăng đôi. Tính đăng đôi của đình cũng tác động đến cảm giác, tạo sự
ổn định, bền vững, thể hiện nhu cầu thường ngày của cư dân nông nghiệp.
Kiến trúc đình thường theo dạng chủ yếu là chữ nhất, chữ tam, chữ đinh, chữ
công. Hệ thông kết cấu gỗ, cột và bẩy, liên kết với mộng tạo thế cân bằng vững chắc
SVTH: Nguyễn Thị Thu Na
7
GVHD:Th.S Trần Văn Tâm
Giá trị nghệ thuật đình làng Việt Nam thời Lê Trung Hưng
cho toàn bộ công trình. Các hàng cột lớn được kê lên trên hòn đá tảng không cần móng
gọi là chân cột. Cột trong kiến trúc đình Việt Nam đều được làm bằng gỗ nguyên cây,
không có cột nôi, không sơn vẽ và được liên kết với nhau bằng các kiểu khác nhau,
đồng thời người ta có thể xoay hướng đình mà không cần tháo gỡ.
Toà lớn của đình hay gọi là nhà đại bái thường là một căn nhà lớn lợp ngói mũi,
kiểu bôn mái xoè rộng ra ôm lấy đất. Thế nhưng, bôn tầu mái cao rộng đó không trở
nên nặng nề nhờ bôn góc của bôn đầu đao cong vút như nâng các mái bay bổng. Kiểu
mái này chính là đặc điểm nổi bật của kiến trúc truyền thông Việt Nam, khác hẳn với
kiểu tầu hộp hay giả tầu của nền kến trúc Trung Hoa mà ta thường thấy trên hầu hết
các mái nhà ở cô đô Huế. Kiến trúc đại đình có nét chung của nền kiến trúc gỗ Phương
Đông, dựa trên sự liên kết của các bộ vì, kèo. Sức nặng của toà nhà do cột trong vì
đảm nhiệm nên khi ấy tường nhà không phải là cơ sở chịu lực mà chỉ làm nhiệm vụ
che nắng, mưa, gió, bão. Tuy nhiên, khác với các dân tộc khác, kiến trúc đình làng
Việt ban đầu là một không gian mở, mỗi khi làng có việc, cửa bức bàn bôn mặt đình
được dùng làm bàn tiệc, khiến bôn mặt đình càng trở nên thông thoáng. Ở đình làng,
chúng ta rất rễ nhận ra hầu hết các thành phần kiến trúc đều được chạm khắc trang trí
trên các vì kèo, đầu bẩy, đầu dư, ván nong, côn…. Trang trí đình làng lấy gian giữa
làm trung tâm nên được chạm khắc hình các vật như chúng ta vẫn thường thấy ở mĩ
thuật phong kiến Việt Nam như tứ linh (Long – Ly – Quy - Phượng), các loại hoa lá
được cách điệu cao như tứ quý (Tùng - Cúc – Trúc – Mai)… Có thể nói gian giữa của
đình được trang trí bằng lôi mĩ thuật chính thông song có một nét riêng là rất gần gũi
với người dân lao động. Từ gian giữa toả ra các gian bên là thường thể hiện những đề
tài sinh hoạt của người dân có tính chất thoải mái, tự do và cả những những lời lên án
chế độ quân chủ hà khắc thời phong kiến. Tất cả những điều ấy là dấu ấn tuyệt vời cho
các thế hệ mai sau hiểu và cảm được không khí sinh hoạt của cộng đồng làng xã thời
xưa. Đồng thời là bản sắc của nền kiến trúc Việt Nam - một bản sắc văn hoá và lịch sử
sâu sắc nhất.
1.2.2. Nghệ thuật chạm khắc đình làng :
Ở làng xã của Việt Nam đình làng là nơi bảo lưu nhiều vôn nghệ thuật dân gian
của dân tộc ta. Kiến trúc sư Trọng Hồi đã nói: “Đình làng là một bảo tàng sông của
thời đại”
SVTH: Nguyễn Thị Thu Na
8
GVHD:Th.S Trần Văn Tâm
Giá trị nghệ thuật đình làng Việt Nam thời Lê Trung Hưng
Khi bước vào bên trong đình, không khí mát dịu làm ta như trút bỏ vướng mắc
của đời sông, chìm vào không gian tâm linh bao bọc xung quanh để tĩnh trí mà chiêm
bái trước đức Thành Hoàng làng, nhìn ngắm những hình chạm khắc trên kiến trúc. Và
ta hiểu rằng ngôi đình đang ôm vào bên trong, thầm lặng giữ gìn một di sản nghệ thuật
vô giá, mà đến ngày hôm nay nhìn ngắm nó vẫn thấy hiển hiện, xôn xao đời sông xã
hội mấy trăm năm về trước và để lại những giá trị to lớn về văn hóa, lịch sử và nghệ
thuật.
Nhìn một cách khái quát, nghệ thuật điêu khắc đình làng ở đồng bằng Bắc Bộ
phát triển từ những bước đầu tiên ở thế kỷ XVI, đạt dấu ấn rực rỡ đỉnh cao ở thế kỷ
XVII, chững lại, chín muồi ở thế kỷ XVIII và thoái trào ở thế kỷ XIX. Có thể nói, giá
trị nhiều mặt mà điêu khắc đình làng để lại tập trung ở di sản điêu khắc đình làng thế
kỷ XVI - XVII. Điêu khắc đình làng của 2 thế kỷ này đại diện điển hình nhất cho toàn
bộ nghệ thuật điêu khắc ở đồng bằng Bắc Bộ.
Xuất phát từ nhu cầu nghệ thuật ngày càng cao của con người, đặc biệt đình
làng lại là nơi hội họp, tập trung của mọi người trong làng, những người nghệ nhân
dân gian đã tạo ra những bức chạm khắc nhằm trang trí cho ngôi đình. Phần lớn là
hình tượng con người với những hoạt động đời thường vừa nói lên thị hiếu thẩm mĩ,
vừa nói lên ước mơ, khát vọng của người dân lao động.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Na
9
GVHD:Th.S Trần Văn Tâm
Giá trị nghệ thuật đình làng Việt Nam thời Lê Trung Hưng
CHƯƠNG II : GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH CỦA CHẠM KHẮC ĐÌNH
LÀNG VIỆT NAM THẾ KỶ XVI- XVII
2.1. Giá trị văn hóa.
Cũng như nhiều loại hình nghệ thuật dân gian khác, điêu khắc đình làng là kết
quả sáng tạo của nghệ nhân dân gian nhằm phục vụ cho đời sông chung của làng xã.
Vì vậy, điêu khắc đình làng luôn mang đậm tâm hồn, tình cảm của người dân Việt và
mĩ thuật đình làng trở thành sản phẩm đặc sắc của truyền thông văn hóa... Nói đến
điêu khắc đình làng, là nói đến những chạm khắc trang trí mang một giá trị nghệ thuật
đặc sắc của mĩ thuật cổ Việt Nam. Điêu khắc đình làng được thể hiện trên khung vì
kèo của kiến trúc gỗ, vì vậy thành phần trang trí làm bớt đi cái thô mộc của gỗ. Nhìn
tổng thể các bức chạm khắc giông như một bức tranh liên hoàn nhưng ngắt ra ở mỗi
đoạn mà ta có thể xem nó như một tác phẩm độc lập, hoàn chỉnh, được các nghệ nhân
xây dựng lên từ những sinh hoạt, những ước mơ giản dị của người dân lao động. Cảnh
mẹ gánh con, đôn củi, bắn hổ, đá cầu, xem hát, chơi cờ, uông rượu... là những sinh
hoạt làng quê cho đến những cảnh như: tắm sen, nam nữ vui đùa, tình tứ là thông điệp
gửi gắm tâm tư tình cảm, khát vọng của những người dân hồn hậu.
Đình làng là sản phẩm của Nho giáo nhưng điêu khắc đình làng vượt lên trên cả
giáo lý khắt khe của Nho giáo đó. Nếu như "nam nữ thụ thụ bất thân" thì các chàng
trai, cô gái trong Tắm sen ở đình Tây Đằng (Hà Tây), Bôn nụ cười đình Hưng Lộc (Hà
Nam) tự do vui đùa, trêu ghẹo nhau. Nếu như con "rồng" của nhà Nho là biểu trưng
cho Thiên tử thì con rồng trong điêu khắc đình làng chỉ là biểu tượng của nhân duyên,
là sự hội ngộ, sum vầy "bao giờ rồng mới gặp mây" giông như khát vọng tình yêu nam
nữ qua hình ảnh Rồng - Tiên. Một trong nét đặc sắc của điêu khắc đình là mang đậm
tính nhân văn. Như đã nói bôi cảnh lịch sử của mỹ thuật đình làng là một xã hội đầy
biến động, thế nhưng ta không thấy cảnh đâm chém, chết chóc trong chủ đề của loại
hình nghệ thuật dân gian, bằng thủ pháp riêng của mình, điêu khắc đình làng toát lên
vẻ hồn nhiên, dí dỏm, vui tươi của một đời sông no đủ an bình. Nó gợi ta nhớ đến
những hình khắc trên mặt trông đồng Đông Sơn, là những cảnh hội hè, tế lễ. Phải
chăng đó chính là khát vọng và mỹ cảm của người dân lao động?
SVTH: Nguyễn Thị Thu Na
10
GVHD:Th.S Trần Văn Tâm
Giá trị nghệ thuật đình làng Việt Nam thời Lê Trung Hưng
2.2. Giá trị tạo hình của điêu khắc đình làng Việt Nam.
2.2.1. Phong cách bố cục :
Nói đến thủ pháp của nghệ thuật chạm khắc đình làng là nói đến sự sáng tạo của
người nghệ sĩ dân gian Việt Nam, không gian và thời gian trong đó không cứng nhắc
cô định ở một góc độ thời gian, không gian. Tất cả hết sức linh hoạt, sinh động của
không gian đồng hiện, của cách kết hợp nhiều điểm nhìn. Cách bô cục các mảng chạm
khắc luôn tùy hứng, gắn bó theo khuôn kiến trúc. Ở tác phẩm “Tắm sen” khi xem
chúng không chỉ nhìn thấy những gì nổi trên mặt nước mà thấy cả người cả hoa sen, cả
cá bơi trong nước hết sức vui vẻ, hồn hậu.
Hay cảnh sinh hoạt xã hội trong điêu khắc đình làng Thổ Tang (Vĩnh Phúc), bên
người uông rượu là người đi cày, người cưỡi ngựa, nó gợi lên cái nhịp điệu của đời
sông đương thời. Rồi một bàn cờ của người nghệ sĩ dân gian trong Đánh cờ được nhìn
theo nhiều chiều hướng khác nhau: bàn cờ được nhìn từ trên xuông, người đánh cờ
được nhìn vừa chính diện vừa trắc diện. Vậy mà tất cả không hề phi lý, nó tổ hợp lại
trong một trật tự, một bô cục hoàn chỉnh của tâm thức phương Đông.
2.2.2. Đường nét, hình khối trong chạm khắc đình làng :
Với bản chất chân thật, sông hòa mình với thiên nhiên của những nghệ nhân
nông dân, luôn có cách nhìn dung dị, giản đơn, nên các tác phẩm chạm khắc cũng bộc
lộ rõ hơn những đức tính của người dân. Với những đường nét chạm khắc dứt khoát
mà chắc khỏe, đơn giản nhưng sông động, hấp dẫn, những mảng khôi được diễn tả no
căng, hình thức giản dị, mang tính khái quát cao, tất cả đều được kết hợp trong không
gian ước lệ, trong sự hài hòa hoàn chỉnh tạo nên vẻ lung linh ẩn hiện trong mỗi tác
phẩm.
2.2.3. Kỹ thuật chạm khắc :
“Người thợ chạm ở làng xã, từ thuở nhỏ đã quen đục chạm gỗ, nhưng vẫn là
một nông dân vì anh ta tham gia mọi việc đồng áng. Nhát chạm dứt khoát, chắc tay,
nhưng nguồn cảm hứng lại rất chân thật, không phải là chân thật một cách sơ khai
không đạt tới nghệ thuật, mà là chân chất của nghệ sĩ lớn, tươi mát và sinh động, kết
quả một quá trình hấp thụ, cô kết cao độ giữa những tình cảm sâu xa với những hình
thức biểu hiện. Nghệ sĩ chạm gỗ như người ca sĩ hay nhà thơ ở làng xã khi hứng lên,
diễn tả bằng ngôn ngữ hàng ngày những điều rất bình thường, nhưng rất xúc động lòng
người. Những tác phẩm ấy phản ánh lên tất cả vẻ đẹp, chứa đựng mọi hương thơm của
SVTH: Nguyễn Thị Thu Na
11
GVHD:Th.S Trần Văn Tâm
Giá trị nghệ thuật đình làng Việt Nam thời Lê Trung Hưng
quê hương và Tổ quôc. Những nhà điêu khắc ấy không chạm trổ theo mẫu mà theo
cuộc sông. Những cảnh tượng diễn đi diễn lại xung quanh họ, ngày này qua ngày khác,
mùa này qua mùa khác, năm này qua năm khác, in vào tâm khảm nghệ sĩ những nét
không thể xoá, vì thế cuộc sông đi thẳng một cách hầu như tự nhiên vào tác phẩm nghệ
thuật, giải phóng nghệ sĩ khỏi những quan niệm phong kiến thông trị”.
Bằng phương pháp tạo hình độc đáo, giông như người nghệ sĩ Tây Nguyên, nhà
điêu khắc của trang trí đình làng Bắc Bộ không bị bó buộc vào những cơ sở tạo hình
như người phương Tây. Không quan tâm đến khoa học giải phẫu, bằng cách xây dựng
hình thể "phi tỷ lệ", thậm chí còn được cường điệu hóa, có khi đầu rất to hoặc cánh tay
rất dài... nhưng tất cả lại hài hòa trong tính biểu cảm của hình ảnh, đó là trạng thái, là
cảm giác mà người nghệ sĩ dân gian muôn tác động đến người xem.
Những mảng khuất, những hình khôi cao thấp tạo nên những thần thái nghệ
thuật điêu khắc chứa đựng những tâm tư, tình cảm, khát vọng sông của con người, của
xã hội một thời, các bức phù điêu được chạm khắc một cách mạnh, đơn giản với quan
niệm không gian thoải mái khác hẳn so với điêu khắc nơi chùa chiền hay cung điện.
Điêu khắc đình làng là sự tập trung và phát huy tột bậc các kỹ thuật chạm khắc
gỗ Việt Nam, trong đó chạm lộng là cách chạm khắc biểu cảm nhất có hiệu quả không
gian và hiệu quả khôi cao nhất. Đó gần như những pho tượng tròn, lồi hẳn ra, chồng
chéo nhiều tầng lớp làm mất cảm giác về nền vôn có của phù điêu. Cả thân gỗ được
đục khoét tạo các khoảng trông được luồn lách trong khôi tượng. Điêu khắc và trang
trí chạm lộng thường để mộc và hiện diện cuôn hút mới lạ nhất của nghệ thuật đình
làng.
Chạm lộng có sự kế thừa và phát triển, là đỉnh cao của điêu khắc đình làng.
Nhờ những sáng tạo của các nghệ nhân cừ khôi, chạm lộng đã tiến một bước tiến tạo
nên sự độc đáo. Những biến hoá giàu ngôn ngữ điêu khắc đã làm cho chạm lộng tăng
hiệu quả cảm thụ cởi mở, thông thoáng, đa chiều, tạo tương phản không gian sáng tôi, vừa giữ được bô cục thẩm mỹ, tính vững chắc về kết cấu, vừa tạo cảm giác nhẹ
nhàng.
Chạm lộng là hình thức nghệ thuật mang tính kế thừa nghệ thuật điêu khắc
truyền thông, sự phát triển ngày càng nhiều đình làng với quy mô ngày càng lớn đã
đánh thức tiềm năng sáng tạo của những nghệ nhân dân gian trong việc đào luyện thể
SVTH: Nguyễn Thị Thu Na
12
GVHD:Th.S Trần Văn Tâm
Giá trị nghệ thuật đình làng Việt Nam thời Lê Trung Hưng
hiện tác phẩm tạo nên những hiệu quả thẩm mỹ mới, cảm thụ cao hơn trong không
gian kiến trúc trang trí.
Bởi vậy, điêu khắc chạm lộng chính là sự sáng tạo trong quá trình lao động
nghệ thuật cùng với sự đòi hỏi ngày càng cao của xã hội đương thời.
Chạm lộng nở rộ và phát triển khi đề tài được khai mở rộng rãi, giàu chất nhân
văn, mang tính cộng đồng và dân chủ, ít màu sắc tôn giáo không chịu gò bó của qui
phạm lễ nghi. Các phù điêu được đẩy lên cao dành không gian cho sinh hoạt, ánh sáng
tự nhiên hắt mạnh từ nhiều phía. Từ những mảng chạm nông chuyển dần sang chạm
bong, kênh với kỹ thuật chạm sâu vào bên trong khôi gỗ, tạo thành nhiều lớp không
gian mà dường như không còn khái niệm về nền. Đó là bước tiến ngoạn mục của chạm
khắc truyền thông với những ưu thế: tạo chiều sâu không gian, hiệu quả tương phản
sáng tôi, có thể đục một, hai tầng tạo nên sự uyển chuyển sinh động, cảm giác nhẹ
nhàng thanh thoát mà không ảnh hưởng đến kết cấu công trình...
Thủ pháp không gian, thời gian đồng hiện trong chạm lộng nhằm thể hiện nhiều
hình ảnh, đề tài về cuộc sông thường ngày được coi là đặc trưng đậm nét của điêu khắc
đình làng. Cái đẹp của tự nhiên, sự mộc mạc mang tính cởi mở, chứa đựng vẻ đẹp
nhân hậu của tâm hồn khiến cho sự ''phi lý'' về tỉ lệ thông thường lại trở nên thuận lý
nhờ tính phóng khoáng, mạnh mẽ mang lại cảm thụ mới mẻ chiêm nghiệm sâu lắng. Ở
đình Tây Đằng (Hà Tây) để diễn tả đời sông thường nhật, có cảnh chèo thuyền hái hoa,
chèo thuyền uông rượu, trai gái tình tự, làm xiếc, gánh con, nhổ cây đẽo gỗ, đâm thú...
Ở chùa Cói có cảnh dắt ngựa, cưỡi hổ báo... Tất cả đều biểu hiện giá trị điêu khắc đậm
nét với các khôi được diễn tả no căng, hình thức giản dị, khái quát cao. Ý nghĩa của đề
tài, động tác và nghệ thuật đã vượt qua những phi lý của hình thể mang tính cách điệu
nghệ thuật cao. Trong hoạt cảnh của đời sông xã hội đã mang hình thức tượng trưng
với tỉ lệ không theo chuẩn mực có sẵn, tuy vậy vẫn thể hiện được bô cục sông động.
Cách chạm tự nhiên thoải mái, rõ ràng đã tạo được một phong cách, không biểu lộ bài
bản định sẵn mà vẫn giàu hơi thở cuộc sông. Điêu khắc chạm lộng Việt Nam là sự phát
triển đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc dân gian.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Na
13
GVHD:Th.S Trần Văn Tâm
Giá trị nghệ thuật đình làng Việt Nam thời Lê Trung Hưng
2.3. Kiến trúc và chạm khắc của một số đình làng tiêu biểu ở Việt Nam.
2.3.1. Đình Bảng
2.3.1.1.Kiến trúc đình Bảng :
Có thể khẳng định, đình Đình Bảng (Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh) là ngôi
đình có kiểu kiến trúc đình nhà sàn độc đáo hiếm gặp ở khắp dải đất hình chữ S.
Đình được xây dựng cao hơn mặt đất chừng một mét với những cột trụ chông
bằng gỗ lim to, chắc và nhuộm màu trầm tích của thời gian gần 300 năm có lẻ. Những
chiếc cột trụ to, đường kính bằng tay hai người ôm mới hết khiến ai đến đây cũng phải
trầm trồ thán phục khi biết tất cả sô gỗ ấy được bà Nguyên, vợ quan Thạc Lượng cho
người vận chuyển từ Thanh Hóa ra.
Được xây dựng trên thế đất tụ thủy tang phong, tức là nằm trên lưng của một
con nhện khổng lồ, đình Đình Bảng được coi là kiến trúc tuyệt hảo trong sô những
kiến trúc cổ của Việt Nam. Nhiều dấu hỏi đươc đặt ra cho các thế hệ đời sau luận bàn
và khâm phục. Người ta không hiểu lý do vì sao, hàng trăm người thợ được huy động
chạm khắc và đục đẽo cột kèo nhưng không có một sai sót nào. Khi khớp các cột với
nhau, mọi thứ đều chặt chẽ một cách hoàn hảo đến không ngờ. Mọi nét chạm trổ đều
được làm thủ công bằng tay, với con mắt nghệ thuật tài tình của những người con bình
thường trên quê hương Đình Bảng.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Na
14
GVHD:Th.S Trần Văn Tâm
Giá trị nghệ thuật đình làng Việt Nam thời Lê Trung Hưng
2.3.1.2.Chạm khắc đình Bảng :
Mỗi bức chạm khắc ở đình là một tác phẩm không lặp lại tạo nên sự hấp dẫn kỳ
lạ. Người đến đình không chỉ có lòng tâm linh mà còn bị mê mẫn bởi những đường nét
kiến trúc và chạm khắc tinh xảo như thế. Bức bát mã quần phi được thể hiện hết sức
sông động giúp người xem thấy được sự phóng khoáng và nét thanh bình của mảnh đất
này qua hình ảnh và tư thế của từng chú ngựa, không con nào giông con nào. Bức
lưỡng nghệ ( một con đực, một con cái) phục chầu mỗi con một vẻ rất sinh động. Bên
cạnh đó còn những bức chạm rồng tuyệt xảo như : Long vân đại hội, Ngũ Long tranh
châu, Lục Long ngự thiên.
2.3.2. Đình Tây Đằng
2.3.2.1. Kiến trúc đình Tây Đằng :
Toàn cảnh đình Tây Đằng
Đình Tây Đằng xưa kia chỉ là một đình làng ngự trên một khu đất khá rộng
thoáng đãng, nhưng nơi đây hãy còn hoang sơ lắm. Vẻ đẹp của đình Tây Đằng không
phải ở khung cảnh thiên nhiên mỹ lệ, cũng không phải ở quy mô đồ sộ, không có tòa
ngang dãy dọc ngoài hai ngôi nhà tả mạc và hữu mạc được xây dựng sau này và tách
biệt ở hai bên sân. Đình chỉ có một nếp nhà hình chữ “nhất” như khôi hộp hình chữ
nhật, không có hậu cung, cũng không có tiền tế. Tuy nhiên, vẻ đẹp của ngôi đình tiềm
ẩn bên trong là những giá trị văn hóa nghệ thuật được chạm khắc một cách tài tình của
các nghệ nhân dân gian xưa. Cho đến nay, hiện vẫn chưa xác định một cách chính xác
đình được xây dựng vào năm nào vì không có giấy tờ ghi chép lại. Một sô nhà nghiên
cứu đem đình Tây Đằng so sánh với đình Lỗ Hạnh thuộc huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc
SVTH: Nguyễn Thị Thu Na
15
GVHD:Th.S Trần Văn Tâm
Giá trị nghệ thuật đình làng Việt Nam thời Lê Trung Hưng
Giang thấy có những nét tương đồng về phong cách kiến trúc, nghệ thuật chạm trổ, bài
trí, bô cục hoa văn... Đình Lỗ Hạnh có giấy tờ ghi chép cụ thể là được xây dựng vào
năm 1576 nên nhiều người cho rằng đình Tây Đằng có thể cũng được xây dựng vào
thời kỳ ấy.
Tuy nhiên, hiện nay, tại ngôi đình này vẫn còn lưu giữ được một sô hoa văn có
niên đại từ thế kỷ XI - XIII nên có giả thiết đình Tây Đằng có thể được xây dựng từ
trước thế kỷ XVI.
Đình Tây Đằng được cho là một ngôi đình cổ nhất Việt Nam với những nét độc
đáo riêng của nó. Vật liệu xây dựng đình lúc ban đầu hoàn toàn bằng gỗ mít, một loại
gỗ hàng trăm năm không bị tiêu tâm (rỗng lõi). Tuy nhiên về sau này, qua các lần tu
bổ, một sô cấu kiện được thay bằng gỗ lim Trường Sơn - loại gỗ xếp thứ hai trong
nhóm tứ thiết (đinh, lim, sến, táu), hứng nhiều nắng, gió biển tạo nên thớ xoắn rất chắc
chắn... Nhiều người cho rằng ngoài đình chùa, trong di sản văn hóa vật thể của người
Việt chưa phát hiện được công trình nào làm từ gỗ còn nguyên vẹn mà có niên đại xa
xưa hơn.
Đình có đến 48 cột lớn nhỏ, cột cái lớn nhất có đường kính 80cm, kích thước
tương đương với hơn một vòng tay ôm của người cao trung bình từ 1,6m trở lên. Đình
không bưng ván xung quanh hay xây tường bao bằng gạch mà chỉ có các cây cột
chông đỡ toàn bộ trọng lượng của cả khu thượng đình. Sức chịu đựng trọng lực của
những cây cột đình tương đương với móng một ngôi nhà bê tông 7 tầng. Vì thế, một
không gian bên trong đình thực sự thoáng đãng, tràn ngập ánh sáng từ bôn phía rọi vào
làm nổi bật những hoa văn, nét chạm trổ tinh xảo của tiền nhân.
2.3.2.2. Chạm khắc đình Tây Đằng:
Gánh con – Đình Tây Đằng
SVTH: Nguyễn Thị Thu Na
16
GVHD:Th.S Trần Văn Tâm
Giá trị nghệ thuật đình làng Việt Nam thời Lê Trung Hưng
Một nét độc đáo khác của đình Tây Đằng được thể hiện qua các bức chạm khắc
mang đậm nét văn hóa dân gian trên từng cấu kiện kiến trúc. Các đề tài về thiên nhiên,
hoạt động của con người trong làng xã Việt Nam thời kỳ trung đại như bơi thuyền,
gánh con, đôn củi, múa hát... Những bức chạm khắc này không hề chịu ảnh hưởng của
lôi chạm khắc hoa văn nước ngoài mà ta vẫn bắt gặp ở một sô đình chùa khác. Điều
này thể hiện tư duy độc lập, tính tự cường của người Việt cổ về cuộc sông sinh hoạt
hàng ngày, lao động sản xuất của nhân dân ta trước đây.
Các bức chạm khắc từ hoạt động săn bắt, hái lượm, thuần hóa động vật hoang
dã qua hình tượng voi đi cày đến cảnh đấu tranh chông giặc giã, sau đó đất nước thanh
bình với cảnh người chồng ngồi chải tóc cho vợ dưới gôc cau, trai tráng luyện tập võ
nghệ, nhân dân nô nức trong lễ hội đua thuyền, cảnh cha mẹ, ông bà sum vầy, thầy đồ
dạy... đều có ở đình Tây Đằng. Sự tài tình của các bậc tiền nhân chính là ở chỗ toàn bộ
hơn 1.300 chi tiết chạm khắc gỗ trong đình không hề trùng lặp một chi tiết nào và
được bô trí rất hài hòa, không mang tính đôi xứng như các chi tiết kiến trúc ở những
ngôi đình khác... Với những giá trị kiến trúc chạm khắc đặc sắc, độc đáo, đình Tây
Đằng được ví như một bảo tàng nghệ thuật dân gian của thế kỷ XVI.
Bức chạm trên ván gió đình Tây Đằng là hình ảnh chú voi tung cả bôn chân,
vòi, đuôi và toét miệng cười, cảm giác chú bay như làn gió, quên mất trọng lượng bản
thân có lẽ là bức chạm độc đáo nhất duy chỉ có ở đình Tây Đằng. Có một bức chạm
tạm đặt tên là Chèo thuyền chuôc rượu có sóng chòng chành bên mạn thuyền, có cả
mây vấn vương quanh thuyền, tất cả như đang lướt theo nhịp đung đưa, như thực lại
như mơ. Cảnh ông già ngồi chải tóc cho người vợ trẻ gợi cho ta tình cảm vợ chồng
thắm thiết biết nhường nào... Thông qua các cảnh đó, người xem có thể thấy được ước
vọng người xưa tuy nghèo mà cao sang, quý phái biết nhường nào.
2.4. Hình ảnh đình làng ở Việt Nam.
Đình này nổi bật bởi nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc rất tinh xảo của xứ Kinh
Bắc. Có điều khi xem đến vị thành hoàng được thờ ở đây thì mới thực sự là điều bất
ngờ. Thành hoàng làng Thổ Hà tên là … Lão Tử, Thái Thượng Lão Quân.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Na
17
GVHD:Th.S Trần Văn Tâm
Giá trị nghệ thuật đình làng Việt Nam thời Lê Trung Hưng
Đình Thổ Hà – xã Vân Hà – Việt Yên – Bắc Giang
Đình Phù Lưu (Bắc Ninh)
SVTH: Nguyễn Thị Thu Na
18
GVHD:Th.S Trần Văn Tâm
Giá trị nghệ thuật đình làng Việt Nam thời Lê Trung Hưng
Triển lãm "Không gian văn hóa đình làng Bắc Bộ, Việt Nam" sẽ cho công chúng
thấy rõ hơn những giá trị của văn hóa Việt (ảnh minh họa)
Đình Mông Phụ được xây dựng năm 1684 là một một công trình tiêu biểu
mang đậm nét văn hóa của nông thôn Bắc Bộ.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Na
19
GVHD:Th.S Trần Văn Tâm
Giá trị nghệ thuật đình làng Việt Nam thời Lê Trung Hưng
Đình Phù Lão tọa lạc tại xã Đào Mỹ, huyện Lạng Giang, Bắc Giang là ngôi
đình thời Lê, dựng năm 1688.
Phía trước, bên trái đình Phù Lão còn có một tấm bia tứ diện, cao hơn 1m ghi
công bà Đào Thị Hiền đã đóng góp tiền của xây dựng đình.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Na
20
GVHD:Th.S Trần Văn Tâm
Giá trị nghệ thuật đình làng Việt Nam thời Lê Trung Hưng
Vào đình Phù Lão, ta có thể thấy trên các kẻ là những bức chạm nổi hình ảnh
mang đậm nghệ thuật tạo hình dân gian thể hiện sinh hoạt của các tầng lớp như
quan lại, sỹ, nông, công, thương và có nhiều linh thú như: Long Ly Quy Phượng
và các con giông như nghê, lân, ngựa, rắn, tắc kè, thạch sùng.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Na
21
GVHD:Th.S Trần Văn Tâm
Giá trị nghệ thuật đình làng Việt Nam thời Lê Trung Hưng
Trai gái làm tình, đình Phù Lão, Bắc Giang ( chạm khắc thế kỷ 17), Ảnh:
Nguyễn Đức Bình
SVTH: Nguyễn Thị Thu Na
22
GVHD:Th.S Trần Văn Tâm
Giá trị nghệ thuật đình làng Việt Nam thời Lê Trung Hưng
C. KẾT LUẬN
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, ngôi đình là sản phẩm thuần khiết gắn với
văn hoá làng, hội tụ biểu tượng cao độ về đời sông vật chất và tinh thần của làng. Giá
trị bất hủ của nó nằm ở thành tựu kiến trúc và điêu khắc Việt Nam, ở đó đã kế thừa và
phát triển cao, độc đáo nghệ thuật điêu khắc truyền thông.
Những ngôi đình này, tuỳ theo từng thời đại mà mức độ chạm khắc có khác
nhau kỹ thuật khi chạm nông, lúc chạm nổi, kênh, bong, lộng... nhưng tất cả đều thể
hiện tài nghệ của các nghệ nhân xưa vừa giỏi kiến trúc vừa tài hoa chạm khắc. Tính
uyển nhã và mộc mạc gần gũi chính là lý do để ngôi đình gắn bó với tâm hồn người
Việt. Các phù điêu và chạm khắc trang trí đình làng là biểu tượng độc nhất vô nhị về
truyền thông nghệ thuật của ông cha ta.
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của của nền kinh tế thị trường, cuộc sông
của con người ngày càng được nâng cao thì những công trình kiến trúc cổ trong đó có
kiến trúc đình làng cần được bảo tồn và phát huy được giá trị, nó là những chứng tích
lịch sử, phản ánh rõ nét đời sông sinh hoạt của người nông dân Việt Nam.
Là một sinh viên mĩ thuật, tương lai là giáo viên giảng dạy mĩ thuật tại trường
phổ thông, bản thân em cũng nhận thức được tầm quan trọng của nền nghệ thuật
truyền thông, giúp cho chúng ta hiểu hơn về đời sông sinh hoạt, phong tục tập quán,
những khía cạnh đạo đức mang nét đặc trưng của người nông dân vùng lúa nước. Vì
vậy mỗi chúng ta cần có trách nhiệm gìn giữ và giáo dục các thế hệ các em học sinh
hiểu được giá trị và biết trân trọng, gìn giữ những thành quả mà cha ông chúng ta đã
dày công xây dựng
SVTH: Nguyễn Thị Thu Na
23
GVHD:Th.S Trần Văn Tâm
Giá trị nghệ thuật đình làng Việt Nam thời Lê Trung Hưng
D.TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguồn tài liệu chính:
[1]. Phạm Thị Chỉnh- “Lịch sử mĩ thuật Việt Nam”- NXB Đại học sư phạm.
[2]. Đình Thùy Chỉnh- “Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình
làng”.
Nguồn internet:
[1]. />[2]. />[3]. />
MỤC LỤC
SVTH: Nguyễn Thị Thu Na
24
GVHD:Th.S Trần Văn Tâm
Giá trị nghệ thuật đình làng Việt Nam thời Lê Trung Hưng
A.PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
1.Lý do chọn đề tài..................................................................................................1
2.Lịch sử nghiên cứu đề tài.....................................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu...........................................................................................2
4. Đôi tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu...................................................2
4.1. Đôi tượng nghiên cứu:.....................................................................................2
4.2. Phạm vi nghiên cứu:.........................................................................................2
5. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................2
6. Bô cục đề tài.......................................................................................................3
B.NỘI DUNG................................................................................................................ 4
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA KIẾN
TRÚC ĐÌNH LÀNG VIỆT NAM THẾ KỶ XVI- XVII................................................4
1.1. Nguồn gôc và chức năng của đình làng...........................................................4
1.1.1. Nguồn gôc:....................................................................................................4
1.1.2. Chức năng:....................................................................................................5
1.2. Khái quát về nghệ thuật kiến trúc và chạm khắc đình làng.............................7
1.2.1. Kiến trúc của ngôi đình trong tín ngưỡng, tôn giáo truyền thông Việt Nam :7
1.2.2. Nghệ thuật chạm khắc đình làng :................................................................8
CHƯƠNG II : GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH CỦA CHẠM KHẮC ĐÌNH
LÀNG VIỆT NAM THẾ KỶ XVI- XVII....................................................................10
2.1. Giá trị văn hóa...............................................................................................10
2.2. Giá trị tạo hình của điêu khắc đình làng Việt Nam........................................11
2.2.1. Phong cách bô cục :.....................................................................................11
2.2.2. Đường nét, hình khôi trong chạm khắc đình làng :.....................................11
2.2.3. Kỹ thuật chạm khắc :...................................................................................11
2.3. Kiến trúc và chạm khắc của một sô đình làng tiêu biểu ở Việt Nam.............14
2.3.1. Đình Bảng...................................................................................................14
2.3.1.1.Kiến trúc đình Bảng :................................................................................14
2.3.1.2.Chạm khắc đình Bảng :.............................................................................15
2.3.2. Đình Tây Đằng............................................................................................15
2.3.2.1. Kiến trúc đình Tây Đằng :........................................................................15
2.3.2.2. Chạm khắc đình Tây Đằng:......................................................................16
SVTH: Nguyễn Thị Thu Na
25
GVHD:Th.S Trần Văn Tâm