Đề tài:
LỜI NÓI ĐẦU
Quyết định và cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước là kết quả của
sự thể hiện ý chí, quyền lực của cơ quan hành chính nhà nước nhằm đảm bảo tính
nghiêm minh của pháp luật, sự công bằng, bình đẳng của công dân trong việc thực
hiện các quy định của pháp luật. Hiện nay với nhiệm vụ được giao, trên cơ sở các
quy định chung, có rất nhiều quyết định hành chính được các cơ quan hành chính
nhà nước ban hành để tăng cường các biện pháp quản lý xã hội, quản lý công dân.
Tuy vậy trong thực tế, không ít công dân , tổ chức vẫn chưa nghiêm túc thực hiện
các quyết định hành chính có liên quan, thậm chí còn có không ít trường hợp công
dân không những không tự giác chấp hành các quyết định hành chính đúng đắn
của cơ quan nhà nước mà còn cố tình khiếu kiện vượt cấp gây nhiều ảnh hưởng
xấu đến xã hội và cộng đồng, ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật. Chính vì lẽ
đó, đã có không ít trường hợp các cơ quan quản lý hành chính nhà nước đã phải ra
quyết định và tổ chức cưỡng chế hành chính để đảm bảo tính nghiêm minh và công
bằng của pháp luật.
Những năm gần đây, tình trạng khiếu nại, tố cáo luôn là vấn đề bức bách được
Đảng, Nhà nước và toàn xã hội quan tâm. Trong số đó phần lớn là các vụ khiếu
nại, tố cáo có nội dung liên quan đến đất đai giao cho các tổ chức, cá nhân để làm
các dự án phát triển kinh tế - xã hội, nhất là đất thu hồi để xây dựng công trình
công cộng, làm đường giao thông… Đảng và Nhà nước đã có nhiều Nghị quyết chỉ
thị và Chính phủ cũng đã ban hành các Nghị định, thông tư để triển khai thực hiện
vấn đề này, do đó nhiều vụ việc phức tạp về khiếu nại, tố cáo đã được giải quyết
kịp thời, góp phần làm ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của
đất nước nói chung và của Tỉnh Gia Lai nói riêng.
Trên cơ sở những kiến thức đã được học tập qua lớp bồi dưỡng kiến thức
quản lý hành chính nhà nước chương trình chuyên viên khóa 42 do Trường Chính
trị tỉnh tổ chức và qua những vụ việc cụ thể diễn ra trong cuộc sống . Tôi chọn một
tình huống “Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực trong lĩnh vực quản lý nhà nước
Người thực hiện:
Đề tài:
đối với các dự án đầu tư có liên quan đến đất đai” liên quan đến quyết định và
cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước để viết tiểu luận cuối khóa.
Do kiến thức quản lý nhà nước và kinh nghiệm thực tiễn cũng như thời gian
nghiên cứu tình huống của bản thân tôi còn hạn chế cho nên Tiểu luận này không
tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự góp ý của quý Thầy, Cô
giáo. Xin chân thành cảm ơn các Thầy, cô
PHẦN I
MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
Năm 1992, ông Nguyễn Văn T ở tổ dân phố x- Phường TB- thành phố
Pleiku có mua một lô đất và nhà ở tại khu vực tổ dân phố K – Phường TB thuộc
khu quy hoạch của tỉnh. Năm 2004 thực hiện việc quy hoạch để mở rộng quốc lộ
14 đoạn đi qua thành phố Pleiku, UBND tỉnh Gia Lai có quyết định số 386/ QĐUB về việc thu hồi đất đai và giải phóng mặt bằng tại khu vực tổ dân phố K trong
đó có diện tích đất và nhà ở của ông T. Căn cứ các quy định của pháp luật thì gia
đình ông T chưa thật đủ điều kiện để được nhận tiền đền bù thu hồi đất, nhưng xét
thấy việc mua bán đã diễn ra trước năm 1993 và giá trị tài sản nhà đất thời điểm
hiện tại cùng với hoàn cảnh thực tế của gia đình ông T, UBND tỉnh chấp nhận bồi
thường cho gia đình ông T số tiền trên 800 triệu đồng và bố trí 2 lô đất ở tại khu
tái định cư, đồng thời yêu cầu ông T tự tháo dỡ tài sản trên đất để bàn giao mặt
bằng cho đơn vị thi công. Trong lúc các cơ quan chức năng đang tiến hành các thủ
Người thực hiện:
Đề tài:
tục để đền bù và giải phóng mặt bằng ( Thời điểm giữa năm 2005), thì ông T nhận
được quyết định và giấy báo của cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Gia Lai về việc tự
nguyện thi hành án dân sự trong một vụ tranh chấp đất trồng cao su tại huyện Đăk
Đoa với gia đình ông Huỳnh văn B đã được tòa án nhân dân tỉnh Gia lai ra bản án
với số tiền phải thi hành là trên 250 triệu đồng. Thời gian kéo dài, gia đình ông T
không tự nguyện thi hành án dân sự. Trước yêu cầu của gia đình ông Huỳnh văn B,
căn cứ các quy định của pháp luật, tháng 5 năm 2006 cơ quan thi hành án đã ra
quyết định phong tỏa tài sản của gia đình ông T để bảo đảm việc thi hành án.
Không những không tự giác chấp hành các quyết định của cơ quan quản lý hành
chính nhà nước, vợ chồng ông T đã làm đơn khiếu kiện gửi đi nhiều nơi, nhiều cấp
về việc thi hành án và không chịu tháo dỡ tài sản trên đất để giao mặt bằng cho đơn
vị thi công với nhiều lý do không có có sở pháp lý. Sau khi phong tỏa tài sản , chấp
hành viên cơ quan thi hành án đã nhiều lần làm việc và thuyết phục gia đình ông T
thi hành án nhưng vợ chồng ông T vẫn cố tình trốn tránh, chây ì không thực hiện
( mặc dù ông T đã được biết mình có số tiền được đền bù khá lớn) . Sau khi được
biết Ông T đang có một số tiền lớn do Ban đền bù giải phóng mặt bằng quản lý để
chi trả, căn cứ vào các điều, khoản của pháp lệnh thi hành án dân sự , căn cứ nghị
định của Chính phủ về cưỡng chế thi hành án , cơ quan thi hành án tỉnh Gia Lai ra
quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự với tổng số tiền 269 triệu đồng ( tiền án
phí, tiền nợ và tiễn lãi chậm thi hành) đối với ông T. ( Số tiền này được lấy từ số
tiền gia đình ông T được đền bù do Ban đền bù giải phóng mặt bằng tỉnh đang tạm
giữ và đề nghị Ban đền bù giải phóng mặt bằng chuyển số tiền trên vào tài khoản
của cơ quan thi hành án). Lấy lý do không đồng tình với việc làm của cơ quan thi
hành án, vợ chồng ông T lại tiếp tục làm đơn khiếu kiện gửi nhiều cấp , nhiều nơi
và kiên quyết không chịu di dời chỗ ở và tháo dỡ tài sản trên đất bị thu hồi để bàn
giao mặt bằng cho đơn vị thi công theo quyết định của UBND tỉnh.
Rõ ràng qua những chi tiết nêu trên, với thái đội coi thường pháp luật, không
nghiêm chỉnh chấp hành các quyết định của cơ quan quản lý hành chính nhà nước
Người thực hiện:
Đề tài:
ở địa phương. Việc làm của vợ chồng ông T đã làm ảnh hưởng đến trật tự xã hội,
đến nhiệm vụ phát triển kinh tế tại địa phương và gây bức xúc trong dư luận quần
chúng nhân dân ở TP Pleiku trong một thời gian dài..
PHẦN II
XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
Vấn đề giải phóng mặt bằng, và vấn đề thi hành án dân sự là những nội
dung đang được dư luận xã hội rất quan tâm trong thời điểm hiện nay. Vì thực tế
cho thấy đây là những vấn đề luôn có diễn biến phức tạp thường xảy ra tranh chấp
và tỷ lệ tự giác thực hiện thường không cao. Tình huống trong vụ việc nêu trên
cũng là một vấn đề khá phức tạp và nhạy cảm, liên quan giữa một công dân với
nhiều cơ quan quản lý hành chính nhà nước khác nhau. Chính vì lẽ đó yêu cầu đặt
ra ở đây là việc thực thi quyết định hành chính của UBND tỉnh, cơ quan thi hành
án đối với ông T phải được triển khai một cách triệt để vừa đảm báo tính công bằng
trong thực hiện pháp luật, vừa giữ vững kỷ cương phép nước. Mặt khác việc áp
dụng các biện pháp cần thiết đối với ông T vừa đảm bảo lợi ích của nhà nước là
giải phóng mặt bằng phục vụ cho nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh mà
cụ thể ở đây là việc sớm hoàn thành dự án mở rộng quốc lộ 14 đoạn đi qua thành
phố Pleiku , vừa bảo vệ lợi ích chính đáng của công dân (ông Huỳnh văn B). Đồng
thời việc kiên quyết xử lý tốt vụ việc trên của các cơ quan hành chính nhà nước sẽ
Người thực hiện:
Đề tài:
tăng cường pháp chế XHCN, và cũng là bài học cho những ai còn cố tình chống
đối, không chấp hành các quy định của pháp luật.
Từ tình huống cụ thể nêu trên, theo tôi các cơ quan quản lý hành chính nhà
nước mà cụ thể ở đây là cơ quan thi hành án tỉnh Gia Lai và UBND thành phố
Pkleiku phải căn cứ vào các quy định của pháp luật , pháp lệnh , và nghị định của
Chính phủ để ra các quyết định và có biện pháp cụ thể buộc ông Nguyễn văn T
phải thi hành quyết định 386/QĐ-UB của UBND tỉnh Gia lai và các quyết định
của cơ quan thi hành án đã ban hành trước đó đối với ông Nguyễn văn T.
PHẦN III
PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ
1/ NGUYÊN NHÂN
Vấn đề thu hồi đất đai và giải phóng mặt bằng cũng như công tác thi hành án
dân sự hiện nay là những vấn đề luôn gặp nhiều khó khăn vướng mắc và còn khá
nhiều tồn tại. Nguyên nhân của tình trạng này là do ý thức chấp hành pháp luật của
người dân chưa cao; do trình độ người dân còn hạn chế nên chưa nắm rõ những
quy định của pháp luật; đặc biệt là do giá cả đất đai luôn có nhiều biến động nên
không ít người dân đã cố tình tìm mọi kẻ hỡ của pháp luật để trốn tránh việc thực
hiện nghĩa vụ của bản thâm đối với các quyết định của cơ quan quản lý hành chính
nhà nước và một nguyên nhân không thể không nói đến là các thủ tục ban hành văn
bản quy phạm pháp luật còn chậm đổi mới, văn bản ban hành còn chồng chéo, và
Người thực hiện:
Đề tài:
một bộ phận công chức còn hạn chế nghiệp vụ, còn gây phiền hà sách nhiễu nhân
dân . Tình huống mà tôi chọn trong bài viết này là một sự việc có thật đã diễn ra ở
thành phố Pleiku. Ông Nguyễn văn T, là người đã từng làm giám đốc ở một xí
nghiệp, có trình độ hiểu biết về pháp luật .
Vậy vì sao vụ việc trên lại phải kéo dài trong nhiều năm, gây mất uy tín của
các cơ quan nhà nước, nguyên nhân đầu tiên ở đây là ông Nguyễn văn T không tôn
trọng pháp luật, pháp chế XHCN, tìm mọi kẽ hở trong pháp luật để khiếu kiện vượt
cấp, khiếu kiện kéo dài gây nhiều khó khăn cho cơ quan nhà nước trong quá trình
giải quyết vụ việc, gây bất bình trong dư luận quần chúng ở địa phương.
- Nguyên nhân thứ hai là vụ việc trên có 2 nội dung khác nhau nhưng lại có
cùng liên quan vật chất đến một công dân và liên quan đến nhiều cơ quan hành
chính nhà nước, vì vậy đáng lẽ ra để giải quyết tốt vấn đề này các cơ quan có liên
quan phải cùng ngồi lại với nhau để thống nhất phương pháp, biện pháp và thời
gian xử lý vụ việc nhưng ở đây các cơ quan chưa thật sự có tiếng nói chung nên
dẫn tới tình trạng quyết định của cơ quan thi hành án ảnh hưởng đến việc thực hiện
quyết định của UBND tỉnh . Từ đó dẫn tới việc ông T lợi dụng tình hình để làm
đơn khiếu kiện gửi đi nhiều nơi.
- Nguyên nhân thứ ba là việc giải quyết đơn thư khiếu nại của công dân còn
khá nhiều bất cập. Như đã nêu ở trên, ông T đã gửi đơn thư đến rất nhiều nơi,
nhiều cấp nhưng việc giải quyết đơn , thư vẫn chưa rốt ráo triệt để làm cho vấn đề
lại càng trở nên phức tạp và kéo dài.
2/ HẬU QUẢ.
- Đây là một vụ việc khá điển hình ở thành phố Pleiku, làm ảnh hưởng trực
tiếp đến việc tăng cường pháp chế XHCN ở địa phương, đến lợi ích của nhà nước,
lợi ích của công dân. Vụ việc kéo dài không chỉ làm mất rất nhiều thời gian, công
sức của cán bộ công chức và của các cơ quan nhà nước mà còn ảnh hưởng đến tiến
độ thi công dự án mở rộng quốc lộ 14 đoạn qua thành phố Pleiku.
Người thực hiện:
Đề tài:
- Ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của công dân mà ở đây là quyền lợi của ông
Huỳnh Văn B, vì trong thời gian dài ông B vẫn không được hưởng quyền lợi vật
chất mà bản án của tòa án nhân dân tỉnh Gia lai đã ban hành buộc ông T phải chi
trả cho ông B.
- Không tự giác chấp hành các quyết định của cơ quan hành chính nhà nước,
bản thân vợ chồng ông T không chỉ đánh mất uy tín của mình trước cộng đồng dân
cư ở địa phương mà còn phải gánh chịu thêm hậu quả về kinh tế khi phải chịu lãi
suất số tiền chậm trả cho ông B theo quy định của pháp luật.
PHẦN IV
XÂY DỰNG PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
VÀ LỰC CHỌN PHƯƠNG ÁN
Tình huống xảy ra ở đây là khá phức tạp có liên quan đến quyền lợi và nghĩa
vụ của các tổ chức và công dân. Nếu như bình thường, vợ chồng ông nguyễn Văn
T tự giác chấp hành các quyết định của cơ quan nhà nước thì vụ việc sẽ được giải
Người thực hiện:
Đề tài:
quyết nhanh chóng và thuận lợi. Bản thân ông T cũng phải thấy rằng việc các cơ
quan nhà nước khi ban hành hành các quyết định đối với ông đều dựa trên các quy
định của pháp luật, có cơ sở pháp lý và thực tiễn. Nếu tự giác chấp hành các quyết
định này ông T không những giúp cơ quan nhà nước hoàn thành nhiệm vụ được
giao mà bản thân ông cũng tạo được sự đồng tình ủng hộ của chính quyền và nhân
dân địa phương. Nhưng vụ việc đã xảy ra một cách ngựoc lại , chính vì lẽ đó sẽ có
một số phương án được đặt ra để giải quyết vụ việc này.
1/ PHƯƠNG ÁN I
- Có thể tách 2 vụ việc liên quan đến ông Nguyễn văn T để giải quyết riêng
biệt .
* Thứ nhất cơ quan thi hành án sẽ căn cứ vào các quy định của nhà nước để
ra các quyết định thi hành án đối với ông T theo thứ tự - thứ nhất yêu cầu tự
nguyện thi hành án; thứ hai vận dodọng thuyết phục thi hành án; thứ ba nếu 2 bước
trên không thành thì ra quyết định phong tỏa tài sản và nếu vẫn không có kết quả
thì bước cuối cùng là sẽ ra quyết định và tổ chức cưỡng chế thi hành án đối với ông
Nguyễn Văn T.
* Thứ hai sau khi có quyết định của UBND tỉnh, ban giải phóng đền bù sẽ
tiến hành các bước về xác định số tiền ông T được nhận và tiến hành chi trả số tiền
này cho ông T, đồng thời yêu cầu ông T phải tự giác tháo dỡ nhà cửa, vật kiến trúc
và tài sản trên đất bị thu hồi để bàn giao mặt bằng cho ban quản lý đền bù và giải
phóng mặt để phục vụ cho công tác thi công. Nếu như sau khi nhận tiền ông
Nguyễn Văn T vẫn cương quyết khiếu kiện , không chịu tự giác chấp hành việc
giải tỏa mặt bằng thì Ban đền bù giải phóng mặt bằng yêu cầu UBND thành phố
Pleiku tiến hành các bước theo quy định để tổ chức cưỡng chế thi hành ( cụ thể
UBND thành phố Pleiku ra thông báo về thời gian cụ thể để ông T tự tháo dỡ, nếu
sau thời gian trên ông T không tự tháo dỡ thì các cơ quan chức năng sẽ tiến hành
cưỡng chế để giải phóng mặt bằng và ông T phải chịu toàn bộ các chi phí phát
sinh trong quá trình cướng chế.
Người thực hiện:
Đề tài:
Ở phương án I này chúng ta thấy sẽ có những ưu điểm cụ thể : Việc thu hồi ,
giải phóng mặt bằng đối với phần diện tích bị thu hồi của ông T sẽ được tiến hành
nhanh theo thời gian của luật định. Cơ quan chức năng cũng giảm bớt thời gian để
xử lý vụ việc và có thể sẽ giảm bớt tình trạng ông T lợi dụng sơ hở để làm đơn
khiếu kiện gửi đi nhiều nơi. Tuy vậy, qua thực tế vụ việc nếu áp dụng phương pháp
này thì việc thi hành án dân sự đối với ông Nguyễn văn T gặp rất nhiều khó khăn
và quyền lợi của ông Hùynh văn B sẽ không được bảo đảm thực hiện . Vì : thứ
nhất bản án dân sự đối với ông Nguyễn Văn T đã có hiệu lực thi hành, bản thân gia
đình ông T là người có khá nhiều tài sản ( Nhà cửa , đất ở , đất trồng cao su.. ), cơ
quan thi hành án đã nhiều lần gặp gỡ thuyết phục, vận động ông T tự giác chấp
hành việc thi hành án dân sự nhưng ông T vẫn kiên quyết từ chối , không những
thế còn gửi đơn khiếu kiện gây phức tạp vấn đề. Vì vậy để việc thi hành án mang
tính khả thi , đảm bảo tính nghiêm minh và công bằng của pháp luật thì các cơ
quan nhà nước có liên quan có quyền phối hợp để giải quyết vụ việc bảo đảm
quyền và lợi ích chính đáng của nhà nước và công dân. Vì vậy phương án này có
thể áp dụng được nhưng sẽ hạn chế , việc thi hành án dân sự đối với ông T sẽ còn
phức tạp và kéo dài , quyền lợi hợp pháp của ông B không được bảo đảm thực
hiện.
2/ PHƯƠNG ÁN II
- Trong tình huống này có 2 vụ việc cùng liên quan đến một công dân và
cùng diễn ra trong một thời điểm, vì vậy như đã phân tích ở phương án I , để bảo
đảm lợi ích hợp pháp của nhà nước và công dân các cơ quan quản lý hành chính
nhà nước có thể cùng phối hợp để giải quyết vụ việc một cách triệt để và thấu đáo
vừa có tình và có lý.
* Sau khi đã nhiều lần vận động và thuyết phục ông Nguyễn văn T tự giác
thực hiện bản án dân sự không có kết quả và tiến hành phong tỏa tài sản. Và đến
khi được biết ông T có một khoản tiền đền bù hơn 800 triệu đồng tại Ban đền bù và
giải phóng mặt bằng , cơ quan thi hành án làm việc với Ban đền bù GPMT , đồng
Người thực hiện:
Đề tài:
thời ra quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự với ông T và đề nghị Ban đền bù
giải phóng mặt bằng chuyển số tiền 269 triệu đồng trong tổng số hơn 800 triệu của
Ông T được đền bù vào tài khoản của thi hành án để chi trả theo quyết định của
pháp luật.
*Tiếp đó nếu ông T vẫn không chịu tự tháo dỡ nhà cửa, vật kiến trúc và tài
sản trên phần đất bị thu hồi thì UBND thành phố Pleiku sẽ tiến hành các bước theo
quy định của pháp luật để tổ chức cưỡng chế giải phóng mặt bằng.
- Qua phân tích ở những phần trên, rõ ràng ông nguyễn Văn T là người am
hiểu pháp luật nhưng lại cố tình không chấp hành pháp luật , nên phương án II này
sẽ giải quyết dứt điểm cả 2 vụ việc cùng liên quan đến ông Nguyễn văn T, bảo đảm
sự nghiêm minh của pháp luật và bảo đảm lợi ích của nhà nước và công dân.
PHẦN V
KẾ HOẠCH TỔ CHỨC PHƯƠNG ÁN LỰA CHỌN
Qua phân tích 2 phương án ở trên, thì phương án II là phương án có tính khả
thi và hiệu quả cao hơn vì vậy tôi chọn phương án II để giải quyết vụ việc này. Và
kế hoạch được triển khai cụ thể như sau.
- Căn cứ thời hạn luật định thi hành án dân sự, ngày 19/8/2005 Cơ quan thi
hành án dân sự tỉnh Gia Lai ra quyết định thi hành khoản tiền án phí dân sự trên 10
triệu đồng đối với ông Nguyễn văn T và yêu cầu trong 10 ngày ông T phải thi
hành dứt điểm. Hết thời hạn trên ông T không tự nguyện thi hành.
- Ngày 17/3/2006 Thi hành án dân sự tỉnh nhận được đơn yêu cầu thi hành án
của ông Huỳnh văn B, yêu cầu ông T phải trả số tiền theo quyết định của bản án
dân sự là trên 246 triệu đồng và số lãi trong thời gian chậm thi hành án.
- Sau khi xem xét đơn yêu cầu của ông B và nội dung bản án của tòa án tỉnh ,
ngày 20/3/2006 Thi hành án dân sự tỉnh ra quyết định và giấy báo tự nguyện thi
Người thực hiện:
Đề tài:
hành án đối với ông T, trong thời gian 10 ngày kể từ ngày 20/3/2006 phải thi hành
dứt điểm khoản tiền trên 246 triệu đồng và tiền lãi. Ông T vẫn viện dẫn nhiều lý do
không thỏa đáng để trốn tránh nghĩa vụ thực hiện quyết định của tòa án và quyết
định của thi hành án dân sự tỉnh.
- Để đảm bảo việc thi hành án, ngày 29/5/2006 chấp hành viên thi hành án
dân sự tỉnh Gia lai ra quyết định phong tỏa tài sản để đảm bảo việc thi hành án. Sau
khi đã phong tỏa tài sản , chấp hành viên thi hành án đã nhiều lần làm việc và
thuyết phục ông T thực hiện nghĩa vụ thi hành , nhưng ông T vẫn có tình trốn
tránh, chây ì không thực hiện.
- Qua xác minh được biết ông T được nhận một khoản tiền đền bù hơn 800
triệu đồng tại Ban đền bù giải phóng mặt bằng , chấp hành viên thi hành án dân sự
tỉnh căn cứ khỏan 3 điều 6, điều 7, điều 14; khoản 1 điều 37; khoản 2 điều 39 pháp
lệnh thi hành án dân sự năm 2004 và khoản 4 điều 21 Nghị định số 173/2004/ NĐCP ngày 30/9/2004 của Chính Phủ. Ngày 13/11/2006 chấp hành viên thi hành án
dân sự tỉnh ra quyết định cưỡng chế thi hành án đối với ông Nguyễn Văn T và yêu
cầu Ban đền bù giải phóng mặt bằng chuyển số tiền 269 triệu đồng vào tài của cơ
quan thi hành án để thi hành các khoản tiền án phí dân sự, tiền trả nợ và tiền lãi
chậm thi hành án. Cơ quan thi hành án đã thực hiện nộp ngân sách tiến án phí và
tiền cho ông B bên được thi hành theo đúng quy định của pháp luật.
- Không đồng tình với các quyết định trên ông T đã làm đơn khiếu kiện gửi đi
nhiều nơi trong đó có UBND tỉnh, Cơ quan thi hành án ... và không chịu tự giác
tháo dỡ tài sản, vật kiến trúc và di dời để giao mặt bằng cho đơn vị thi công.
Căn cứ các quy định của pháp luật , UBND tỉnh đã trả lời ông B nội dung
khiếu nại không thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND tỉnh. Trưởng thi hành án
dân sự tỉnh Gia lai có quyết định bác đơn khiếu nại của ông Nguyễn văn T.
- Để đảm bảo lợi ích công cộng, và phục vụ kịp thời việc thi công dự án mở
rộng quốc lộ 14 đoạn đi qua thành phố Pleiku, căn cứ chức năng nhiệm vụ và
Người thực hiện:
Đề tài:
quyền hạn theo luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, căn cứ các quyết định
của UBND tỉnh Gia lai ngày 16/5/2007 UBND thành phố Pleiku đã ra quyết định
số 188/QĐ-UB về việc cưỡng chế buộc thực hiện quyết định số 386/ QĐ-UB của
UBND tỉnh Gia lai yêu cầu ông T tự tháo dỡ nhà cửa, vật kiến trúc, và tài sản trên
đất bị thu hồi để bàn giao mặt bằng và nếu không tự tháo dỡ phải chịu mọi chi phí
trong quá trình tổ chức cưỡng chế.
- Ngày 24/5/2007 UBND thành phố Pleiku có thông báo số 80 đến ông
Nguyễn Văn T yêu cầu nghiêm túc thực hiện quyết định số 188 của UBND thành
phố về việc tự tháo dỡ tài sản , và ra hạn chậm nhất đến ngày 30/5/2007 nếu không
tự di dời cơ quan chức năng sẽ tiến hành cưỡng chế theo quy định của pháp luật.
- Đến hết thời hạn ngày 30/5/2007 ông T vẫn không chịu chấp hành và còn có
tư tướng thứch thức và chống đối quyết định của UBND thành phố Pkleiku.
-Căn cứ các quy định của pháp luật ngày 1/6/2007, Hội đồng cướng chế thành
phố Pleiku đã phải áp dụng biện pháp cướng chế tháo dỡ nhà cửa , vật kiến trúc và
tài sản trên đất bị thu hồi đối với ông Nguyễn văn T. Chi phí cho việc thực hiện
cưỡng chế này hết trên 10 triệu đồng do gia đình ông T phải chi trả.
Người thực hiện:
Đề tài:
PHẦN VI
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1/ KẾT LUẬN
- Quyết định và cưỡng chế là một nội dung quan trọng trong quản lý hành
chính nhà nước, là kết quả của ý chí , quyền lực của cơ quan hành chính nhà nước
nhằm đảm bảo tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật. Nói cách khác quyết
định quản lý hành chính là hành vi của các cơ quan hành chính nhà nước( hoặc cá
nhân, tổ chức được ủy quyền) nhằm đưa ra các quy định cụ thể, cá biệt cho công
dân hoặc tập thể công dân phải thực hiện. Để có quyết định đúng , các cơ quan
hành chính khi ra quyết định phải dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật, không
trái với các quyết định của cấp trên.
- Qua tình huống mà tôi đã phân tích ở trên và thực thế hiện nay cho thấy, các
quyết định và cưỡng chế có liên quan đến vấn đề thi hành án dân sự và đền bù giải
phóng mặt bằng nếu không hội đủ các điều kiện pháp lý và không có các biện
pháp áp dụng một cách phù hợp thì việc thực hiện các quyết định đó luôn gặp
nhiều khó khăn trắc trở.
- Qua vụ việc trên cũng cho thấy một vấn đề cần quan tâm hiện nay , là trong
khi còn không ít người dân do trình độ pháp luật hạn chế nên ý thức chấp hành
pháp luật không cao thì vẫn còn không ít người mặc dù hiểu rất rõ pháp luật nhưng
vẫn cố tình tìm mọi kẽ hở để trốn tránh nghĩa vụ đối với nhà nước, với công dân.
Chị chưa làm kiến nghị nên E bổ sung phần kiến nghị
KIẾN NGHỊ
Qua việc giải quyết tình huống hành chính này, nhằm góp phần hạn chế không
để cho các tình huống tương tự xảy ra, tôi xin đề xuất một số kiến nghị sau:
Người thực hiện:
Đề tài:
- Tăng cường công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư, đất đai, xây
dựng cơ bản.
- Đối với việc quản lý các dự án đầu tư có liên quan đến đất đai, các Sở,
ngành chức năng cần chủ động theo dõi, đôn đốc, đặc biệt là công tác thẩm định dự
án và năng lực nhà đầu tư, rà soát tiến độ triển khai các dự án, từ đó trình UBND
tỉnh xem xét hướng xử lý phù hợp;
- Các ngành, các cấp, các địa phương cần chủ động họp định kỳ, trao đổi, vận
động, hỗ trợ nhà đầu tư trong việc giải quyết các vấn đề khó khăn về vốn và có
chính sách ưu đãi đầu tư để thu hút đầu tư phát triển kinh tế - xã hội;
- Ban quản lý các công trình trọng điểm thường xuyên theo dõi, kiểm tra giúp
đỡ, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư hạ tầng thực hiện dự án, báo cáo định kỳ bằng
văn bản để UBND tỉnh theo dõi chỉ đạo.
- Đối với các doanh nghiệp, khi quyết định đầu tư thì cần cân nhắc, đảm bảo
quy mô dự án đầu tư phù hợp với năng lực thực sự của mình để đầu tư có hiệu quả,
mang lại lợi nhuận và uy tín cho doanh nghiệp. Tránh tình trạng dối tra, không
trung thực trong việc lập và xin dự án để chiếm dụng đất và huy động sử dụng
nguồn vốn không đúng mục đích gây lãng phí tài nguyên quốc gia.
Người thực hiện:
Đề tài:
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị định số: 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi
hành Luật Đất đai;
2. Luật Khiếu nại, tố cáo (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005);
3. Luật Đất đai năm 2003;
4. Nghị định số: 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 của Chính phủ về sửa đổi,
bổ sung một số điều của các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai;
5. Nghị định số: 136/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo và các Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo;
6. Nghị định số: 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định bổ
sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền
sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất và giải quyết khiếu nại về đất đai;
7. Tài liệu bồi dưỡng Quản lý nhà nước chương trình chuyên viên.
NHẬN XÉT CỦA GIÁM KHẢO
Người thực hiện:
Đề tài:
…………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
Giám khảo 1
Người thực hiện:
Giám khảo 2