Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Bệnh giun đũa và Bệnh giun móc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (775.38 KB, 7 trang )

TRƯỜNG CAO ĐẲNG CỘNG ĐỒNG VĨNH LONG
***
KHOA NÔNG NGHIỆP

MÔN

CHĂN NUÔI CHÓ MÈO
CHỦ ĐỀ: BỆNH

GIUN ĐŨA VÀ BỆNH GIUN MÓC

Giáo viên hướng dẫn: Phan Minh Duyên
Sinh viên: Nguyễn Thị Ngọc Nữ

VĨNH LONG, 2018


CHỦ ĐỀ: BỆNH
I.

GIUN ĐŨA VÀ BỆNH GIUN MÓC

Bệnh giun đũa
1. Giới thiệu:

Nhiễm giun đũa là một bệnh
nhiễm trùng do một loại giun ký sinh ở
ruột người, đặc biệt là ở trẻ em có tỷ lệ
nhiễm bệnh rất cao, đó là trẻ em chưa
hình thành được thói quen giữ gìn vệ
sinh. Loại giun tròn có kích thước lớn


này có thể nhìn thấy dễ dàng mà không
cần kính hiển vi. Có tên khoa học là
Ascaris lumbricoides.
Giun đũa sống ký sinh trong
đường ruột của trẻ em, thông thường
bệnh không có những triệu chứng rõ
ràng khác biệt, cho nên bố mẹ thường sơ ý không quan tâm. Vì vậy đối với những trẻ biếng ăn, hoặc
ăn nhiều nhưng bị xanh xao, gầy gò ốm yếu, thì tốt hơn hết hãy lấy mẫu phân của trẻ mang đi xét
nghiệm thử giun, kiểm tra trong phân của trẻ có trứng giun tồn tại hay không?
Giun đũa có màu trắng ngà hay hồng lợt. Thân dài đầu và đuôi có hình chóp nón. Miệng có 3
môi hình bầu dục, xếp cân đối gồm có 1 môi lưng và 2 môi bụng. Bờ môi có răng và các gai cảm
giác.
Giun đũa có kích thướt khá to, giun đực: 15 - 31 cm x 2- 4 mm, đuôi cong lại về phía bụng, có
2 gai giao hợp ở cuối đuôi.
Giun đũa cái dài 20 – 35 cm x 3 – 6 mm. Đuôi cái thẳng hình nón, có 2 gai nhú sau hậu môn.
Lỗ sinh dục nằm ở khoảng 1/3 trên, mặt bụng. Tại khoảng này giun cái có 1 vòng thắt quanh thân
có vai trò giữ giun đực trong khi thụ tinh.
2. Quy trình phát triển:
Giun đũa cái đẻ trứng ở ruột non, đẻ trung bình 200.000 trứng mỗi ngày. Trứng được thải ra
ngoài theo phân.
Ở trong đất ẩm, phôi trong vỏ trứng sẽ phát triển thành ấu trùng trong vòng từ 2 - 4 tháng ở
nhiệt độ 36 – 40 (tốt nhất là ở nhiệt độ 25 chỉ cần 3 tuần). Trứng có ấu trùng có khả năng gây nhiễm.
Khi được nước vào ở dạ dày, ấu trùng thoát ra khỏi vỏ trứng ở tá tràng, đi xuyên qua thành
ruột, vào mạch máu và đi theo dòng máu đến gan, đến tim phải và lên phổi.
Ở phổi, ấu trùng lột xác 2 lần sau 5 ngày và khoảng 10 ngày. Sau đó, ấu trùng có chiều dài
khoảng 1,5 – 2 mm, đường kính thân 0,02 mm. Ấu trùng làm vỡ các mau quản phổi và đi qua phế nang
để vào phế quản. Từ đây ấu trùng đi ngược lên đến khí quản và thực quản và được nuốt trở lại ruột non
và trưởng thành tại đây. Từ lúc người bị nhiễm đến khi giun trưởng thành cần khoảng 5- 12 tuần. Giun
đũa sống khoảng 12 – 18 tháng.
Trong quá trình chu du từ ruột non, đi qua các cơ quan khác rồi trở lại định cư ở ruột non, ấu

trùng có thể đi lạc sang các cơ quan khác, gây ra hiện tượng giun đi lạc chỗ.


3. Nguyên nhân:
Người mắc bệnh giun đũa là do ăn thực phẩm có lẫn các ấu trùng này, đặc biệt là khi ăn rau
sống bị vấy bẩn bởi phân bón hoặc nước tưới có phân, hoặc từ tay bẩn thường gặp ở trẻ em chơi trên
đất.
Những ấu trùng khi vào tới ruột non, sẽ di chuyển xuyên qua thành ruột vào trong hệ thống tĩnh mạch
tối tận tĩnh mạch chủ dưới, rồi qua tim phải để tối phổi, ấu trùng sẽ lưu lại 10 ngày trong các mao mạch
quanh phế nang, rồi theo đường hô hấp di chuyển ngược lên trên để tới họng (hầu), và người bị nhiễm
ấu trùng lại nuốt chúng xuống đường tiêu hoá. Các ấu trùng sẽ biến thể để trở thành giun trưởng thành
cái và đực và ký sinh ở đây có thể từ 12-18 tháng, thường với số lượng nhỏ. Giun cái đẻ trứng 2 tháng
sau khi người bị nhiễm, nhưng trứng này chưa trở thành phôi, do đó đối với giun đũa quá trình tự nhiễm
không thể xảy ra được.
Nguồn dự trữ lây lan đối với giun đũa chính là những người bị nhiễm giun.
Bệnh giun đũa rất phổ biến ở trẻ em. Bệnh lan tràn rộng rãi trên toàn thế giới, vì trứng giun đũa
đề kháng tốt đối với những thay đổi về nhiệt độ và độ khô. Tuy nhiên, bệnh giun đũa vẫn phổ biến hơn ở
các xứ nóng ẩm, đặc biệt là các nước khí hậu nóng ẩm như Việt Nam, tình trạng vệ sinh kém, loài giun
đũa thường phát tan rộng ở các khu vực vệ sinh kém như khu ổ chuột hoặc ở gần cống rãnh,……
4. Triệu chứng:
Những trường hợp nhiễm giun đũa không có triệu chứng lâm sàng là rất phổ biến, nhưng đôi khi
nhiễm 1 con giun duy nhất cũng có thể gây áp xe gan hay làm tắt ống dẫn mật. Triệu chứng cấp tính
tương ứng với lượng giun bị nhiễm và triệu chứng nặng có thể xảy ra khi số lượng giun bị nhiễm và
triệu chứng nặng có thể xãy ra khi số lượng giun lên tới hàng trăm con.
Thời kỳ ủ bệnh từ lúc trứng được nuốt vào cơ thể cho đến khi trứng bắt đầu xuất hiện trong phân là
60 – 70 ngày. Triệu chứng ở phổi do ấu trùng di chuyển xuất hiện vào ngày 4 -16 sau khi bị nhiễm.


- Bệnh do ấu trùng giun đũa
Trong quá trình di chuyển ấu trùng gây ra viên phổi vào này thứ 4 – 14 sau khi được nuốt vào, triệu

chứng gồm có sốt, ho, ho có đàm, thâm nhiễm ở phổi. Bạch cầu toan tính (BCTT) tăng cao và có thể tìm
thấy ấu trùng trong đàm hoặc dịch tá tràng. Viêm phổi không kéo dài chỉ khoảng 3 tuần (ngoặc lại với
tăng BCTT trong bệnh phổi nhiệt đới).
Trong quá trình chu du, ấu trùng có thể gây triệu chứng: rối loạn thần kinh (co giật, kích thích màng não
và động kinh...) phù mí mắt mất ngủ và nghiến răng ban đêm. Khi ấu trùng đi lạc lên não, nó gây rau
hạt, những nuốt nhỏ ở mắt, võng mạc hoặc não.
- Bệnh do giun đũa trưởng thành:
Tại ruột thường gặp rối loạn tiêu hóa, viêm ruột già và nôn ói. Nếu nhiễm nặng, biểu hiện chủ yếu là tắt
ruột, thường xảy ra ở trẻ em, có trường hợp bắt được 100 con giun ở 1 bệnh nhân.
Ngoài ruột, do giun di chuyển lạc chổ: Giun trưởng thành có khuynh hướng di chuyển khi môi trường
sống của nó bị xáo trộn. Bệnh nhân dùng thuốc tetrachloethylen, bị gây mê hay bị sốt, chúng di chuyển
và đi lạc chổ vào ống mật, bóng Vater, ruột thừa, xung quanh hậu môn gây ngứa và ống eustache. Chúng
có thể gây xoắn ruột và hoại thư ruột, thủng ruột và viên phúc mạc, viêm tụy viêm ống mật có mủ, áp xe
gan, viên túi mật cấp và vàng da tắt mật…..
5.

Điều trị:
Kê một trong các loại thuốc:
- Pyrantel: liều duy nhất uống một lần 10 mg/kg cân nặng cơ thể (tối đa: 1 g)

- Flubendazol: người lớn: 200 mg mỗi ngày chia hai lần sáng, chiều, uống trong 3 ngày liên tiếp.
Tránh sử dụng cho người có thai (3 tháng đầu).
- Mebendazol: có lợi đặc biệt trong những trường hợp bệnh giun sán phối hợp, liều lượng: 100 mg
mỗi ngày, chia hai lần, uống trong 2 đến 3 ngày liên tiếp.
6.

Biện pháp phòng bệnh:

Để phòng tránh bệnh giun đũa bố mẹ cần rèn luyện cho trẻ nếp sống vệ sinh, không để trẻ bò lê
trên đất cát, nhặt đồ chơi dưới đất, cần thường xuyên cắt móng tay, móng chân cho trẻ. Trước khi ăn và

sau khi đi vệ sinh phải rửa tay sạch sẽ (trực tiếp rửa bằng nước máy là tốt nhất). Hoa quả và rau ăn sống
cần phải rửa sạch sẽ trước khi ăn, đề phòng khả năng trứng giun bám dính vào hoa quả và rau sống xâm
nhập vào cơ thể. Ăn chính uống sôi vì trứng giun có thể bị phá huỷ khi nước đun sôi.
Ở những vùng ngoại ô và nông thôn cần làm tốt công tác vệ sinh trước và sau nhà ở, tăng cường
quản lý phân rác và nguồn nước, tránh bị trứng giun phát tán. Đồng thời tích cực tiêu diệt ruồi, gián,
không nên ăn những thức ăn mà chúng đã bò qua để đề phòng các bệnh truyền nhiễm.

II.

Bệnh giun móc


1. Giới thiệu:
Bệnh giun móc thuộc họ Ancylostoma Duodenale ký sinh ở người. Giun trưởng thành
màu trắng xám, xoang miệng có 2 đôi răng nhọn. Giun đực dài 8-11 mm, phần đuôi phình to
thành hình túi (burse), sườn lưng đến đuôi chia làm 2 nhánh, mỗi nhánh chẻ 3. Giun đực có 2
gai giao hợp tách rời. Giun cái dài 10-13 mm, đuôi cùn. Khi mắc bệnh giun móc nếu không
được phát hiện và điều trị kịp thời người bệnh sẽ lâm vào tình trạng thiếu máu đáng kể.
Giun móc ký sinh bằng cách ngoạm 2 đầu móc vào niêm mạc ruột để hút máu, gây ra
những vết loét, gây chảy máu rỉ rả nên người bị thiếu máu thiếu sắt. Thậm chí, có khi bội
nhiễm vi khuẩn xâm nhập gây vết loét thành ruột.

Đầu và miệng giun móc

Giun móc đang hút máu thành ruột

Trứng giun móc và ấu trùng giun móc chui qua da
2. Quy trình phát triển:
Trứng giun ở môi trường, gặp nhiệt độ 25-35 oC sau 1 ngày sẽ phát triển thành ấu trùng. Nhiệt
độ càng thấp thì thời gian phát triển càng dài. Ấu trùng sống trong phân hoặc đất phát triển đến kích

thước khoảng 0,5-0,7mm, có khả năng xâm nhập vào cơ thể người qua da và niêm mạc. Đặc điểm
của ấu trùng này rất hoạt động và có hướng động; hướng lên cao: như mũi đất, thân cây, ngọn cỏ, ấu
trùng có thể leo cao tới 2m; hướng tới nơi có độ ẩm cao; hướng tới vật chủ. Nước muối bão hoà giết
được ấu trùng sau 15-20 phút. Trong dung dịch clorua thuỷ ngân 1%, dung dịch focmalin và dung
dịch phenol, ấu trùng chỉ bị diệt sau 5-6 giờ.


Ấu trùng giun móc, xâm nhập vào cơ thể người qua da, niêm mạc (kẽ ngón chân, cẳng chân...)
theo tĩnh mạch về tim, phổi. Ở phổi, ấu trùng phát triển rồi lên họng hầu và được nuốt lại xuống ruột, ký
sinh ở tá tràng và phát triển thành giun móc trưởng thành. Ấu trùng giun móc cũng có thể vào cơ thể qua
đường ăn uống do thức ăn, nước có nhiễm ấu trùng. Tuy nhiên, bệnh không lây truyền trực tiếp từ người
sang người.
Thời gian ủ bệnh: tính từ khi ấu trùng xâm nhập vào cơ thể qua da, niêm mạc lên tim, phổi và bị
nuốt trở lại vào dạ dày, ruột non đến khi thành giun trưởng thành khoảng 42 - 45 ngày. Trường hợp ấu
trùng xâm nhập vào cơ thể qua đường thức ăn, nước uống thì chúng không di chuyển qua phổi mà ký
sinh trực tiếp tại tá tràng hoặc ruột non. Nhưng có một số ấu trùng giữ trạng thái tiềm tàng ở các tổ chức
tới 8 tháng sau mới phát triển thành giun trưởng thành.
3. Nguyên nhân:
Bệnh do giun móc phổ biến, ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, nhất là những người dân sống
thiếu vệ sinh (đi tiêu bừa bãi), có tục sử dụng phân người để bón cây, có tập quán đi chân đất, tay
tiếp xúc với đất trong khi lao động: ở vùng ôn đới, bệnh tập trung vào các vùng hầm mỏ, những kho
dưới đất. Bệnh có vẻ như một bệnh nghề nghiệp….
Tỷ lệ nhiễm giun chịu ảnh hưởng rõ rệt của các yếu tố- địa lý, thời tiết, tuổi, mức độ tiếp xúc
với đất. ở Việt Nam, tỷ lệ nhiễm giun ở miền Bắc là 10-15%, miền Nam khoảng 10% nói chung
nhưng cao hơn ở các vùng trồng rẫy, cao su, làm gạch ngói…
4.

Triệu chứng:

Giai đoạn ấu trùng qua da, phổi:

+ Ngứa da, mẩn đỏ ở chân, tay.
+ Ho, khó nuốt… không có hội chứng Loefer rõ như trường hợp giun đũa.


Giai đoạn giun trưởng thành:
- Rối loạn tiêu hoá:
+ Đau thượng vị (viêm tá tràng).
+ Nôn, ói.
+ Ăn không ngon.
+ Tiêu chảy.
- Hội chứng thiếu máu:
+ Mức độ trầm trọng tuỳ theo số lượng giun ký sinh và tình trạng dinh dưỡng của bệnh
nhân.
+ Da xanh xao, niêm mạc nhợt nhạt. Bệnh thiếu máu do giun móc là thiếu máu nhược
sắc: giảm protein toàn phần, bạch cầu ái toan tăng 5-12%. Giun móc hút khoảng
0,2-0,34ml máu/ngày. Giun móc tiết ra chất chống đông máu, chất độc ức chế cơ
quan tạo máu sản sinh hồng cầu làm cho người bệnh bị mất máu nhiều hơn, gây
bệnh thiếu máu trầm trọng hơn.
+ Khó thở, tim đập nhanh, huyết áp giảm, bóng tim to trên X quang.
5.

Điều trị :
Trong điều trị bệnh giun móc, giun mỏ, cần chọn thuốc có tác dụng với nhiều loại giun, ít độc,
dùng một liều duy nhất vẫn đạt hiệu quả cao. Nếu nhiễm nhẹ có thể dùng albendazole (biệt dược là
zentel, alzental,...) 400 mg liều duy nhất cho mọi lứa tuổi trên 2 tuổi. Thuốc Mebendazole (biệt
dược là vermox, fugaca,...) liều duy nhất 500 mg. Hoặc thuốc Pyrantel pamoate (combantrin,
embovin, helmex,...) liều duy nhất 10 mg/kg cân nặng. Trường hợp nhiễm nặng: albendazole 400
mg/ngày x 3 ngày; Mebendazole (vermox, fugaca,...) liều 500 mg/ngày x 3 ngày; Pyrantel pamoate
(combantrin, embovin, helmex,...) liều 10 mg/kg/ngày x 3 ngày.
Bù đủ sắt và bồi dưỡng cơ thể cho bệnh nhân. Khi nặng có thể truyền máu.

6.
Biện pháp phòng bệnh:
Hiện nay, theo chương trình “Tẩy giun cộng đồng 6116” đề xuất 2 ngày tẩy giun trong năm là
ngày 6/1 và ngày 1/6. Giữ vệ sinh cá nhân tốt như rửa tay trước khi ăn hoặc chuẩn bị thức ăn, không
ăn rau sống khi chưa rửa thật sạch. Không dùng phân tươi bón ruộng. Công nhân mỏ hàng năm phải
khám sức khoẻ và xét nghiệm giun móc ít nhất 1 lần/năm và điều trị triệt để cho những người nhiễm
giun móc.
Sử dụng bảo hộ lao động trong lao động sản xuất khi tiếp xúc với đất, đặc biệt là đất nhiễm
phân người. Vệ sinh môi trường gần nhà, trong nhà và khu vực vui chơi của trẻ em. Xây dựng nhà
tiêu hợp vệ sinh. Có thể xử lý phân bằng vôi bột 150 -200g/1kg phân (trứng giun chết sau 30 phút
đến 1 giờ).



×