Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Đặc sắc ngôn ngữ trong tiểu thuyết SBC là săn bắt chuột của Hồ Anh Thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.9 KB, 28 trang )

Sinh viên: Đào Thị Yến
Lớp: Văn D – K60

ĐỀ TÀI:
NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRONG TIỂU THUYẾT
“SBC LÀ SĂN BẮT CHUỘT” CỦA HỒ ANH THÁI.
Chương 1: Mở đầu.

I. Lí do chọn đề tài.
“Văn học là nghệ thuật của ngôn từ”
II. Lịch sử vấn đề.
Trong văn học Việt Nam hiện đại, Hồ Anh Thái là một cây bút thu hút được nhiều sự
quan tâm của các nhà phê bình và bạn đọc. Các tác phẩm của ông trở thành mảnh đất
nghiên cứu cho không ít người, từ vấn đề nội dung, đến nghệ thuật, so sánh sự đổi mới
hay khẳng định một vài yếu tố trong tác phẩm như huyền ảo, hiện thực, cảm hứng
giễu nhại, … . Do tiểu thuyết “SBC là săn bắt chuột” mới ra đời chưa lâu, xuất bản
lần đầu tiên năm 2012 nên trong nhiều đề tài trước đó, các nhà nghiên cứu chưa đề
cập tới, hoặc có, nhưng ít và chỉ đặt nó trong hệ thống các tác phẩm của Hồ Anh Thái
sử dụng làm dẫn chứng.
Đề tài của chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu ngôn ngữ và giọng điệu của tác phẩm này,
một cách độc lập. Có thể nói, đây là những khía cạnh đặc sắc nhất của “SBC là săn
bắt chuột”. Nó thể hiện sự hiện đại, sáng tạo của Hồ Anh Thái và cho ta cái nhìn
thống nhất hơn, toàn diện hơn về phong cách nghệ thuật của ông.
III. Mục đích nghiên cứu.
1|Page


Qua đề tài này, tôi muốn làm rõ đặc trưng ngôn ngữ và giọng điệu trong tiểu thuyết
“SBC là săn bắt chuột” của Hồ Anh Thái, đồng thời, khẳng định sự thống nhất trong
phong cách nghệ thuật của nhà văn như chính ông từng chia sẻ: “người có phong cách
chính là không khư khư bám lấy một phong cách cố định, bất biến. Có phong cách tức


là là phải đa giọng điệu, dù anh có đổi giọng điệu đến thế nào thì vẫn là trên cái nền
tảng văn hóa của anh, trên tầm nhìn của anh vào thế giới và nhân sinh mà thôi”.
Trong “SBC là săn bắt chuột”, Hồ Anh Thái đã thể hiện được vốn ngôn ngữ phong
phú và hiện đại cuả bản thân, kết hợp với giọng điệu mới mẻ, đầy hài hước, giễu nhại.
Người đọc, đi qua “hai chiếc cầu” ấy, bước vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm, và
thấm thía những bài học nhân sinh sâu sắc.

Chương 2: Hồ Anh Thái và tiểu thuyết “SBC là săn bắt chuột”.
I. Về tác giả Hồ Anh Thái.
M. Gorky từng chia sẻ rằng "Các bạn hãy học viết ở tất cả các nhà văn có phong
cách điêu luyện, nhưng các bạn hãy tìm lấy nốt nhạc và lời ca của chính mình". Văn
chương cũng như mọi loại hình nghệ thuật khác, trong lãnh địa của nó không có chỗ
dành cho sự “lặp lại”, sự mờ nhạt. Muốn tồn tại, muốn thoát khỏi quy luật của sự
“băng hoại”, các cây bút phải tạo được phong cách riêng, tiếng nói riêng.
Thấu hiểu quy luật muôn đời ấy, ngay từ khi bước vào văn đàn, Hồ Anh Thái đã có
ý thức xây dựng nên phong cách riêng, và gặt hái được không ít thành công. Sinh năm
1960 tại Hà Nội, sau khi tốt nghiệp ngành Quan hệ quốc tế, ông làm việc ở Bộ ngoại
giao. Do điều kiện công việc, ông được đi nhiều nơi, gặp gỡ nhiều người với những
màu da khác nhau trên thế giới. Chính điều này, đã góp phần cung cấp cho ông vốn
văn hóa và vốn hiểu biết giàu có và đa dạng. Tuy không phải một người được đào tạo
chuyên nghiệp về văn chương, nhưng Hồ Anh Thái lại bén duyên với nghệ thuật từ
khá sớm (năm 27 tuổi đã có tác phẩm gây được tiếng vang). Ông cũng là một nhà văn
có tinh thần lao động văn chương nghiêm túc và đầy đam mê. Các tác phẩm của ông
vì thế đã tạo được dấu ấn riêng trong nền văn học Việt Nam đương đại. Một số sáng
tác tiêu biểu như:
- Tiểu thuyết:
+ Người và xe chạy dưới ánh trăng
+ Cõi người rung chuông tận thế
2|Page



+ Mười lẻ một đêm, …
- Các tập truyện ngắn:
+ Tiếng thở dài qua rừng kim tước
+ Tự sự 265 ngày
+ Bốn lối vào nhà cười, …
Mỗi một nhà văn khi đã “trót dính vào duyên bút mực” đều mang theo vào sáng
tác của mình một cách nhìn, một quan niệm nghệ thuật nhất định. Hồ Anh Thái cũng
vậy. Nhà văn tâm sự: “Với tôi, tiểu thuyết là một giấc mơ dài, nó vừa thuộc về thế giới
này nhưng lại như ở đâu đó xa xôi lắm. Tôi thường ví nó là một giấc mơ mà khi tỉnh
dậy người ta vừa mừng như thoát được cơn ác mộng, lại vừa tiếc nuối vì phải chia tay
với những điều đời thực không thể có”. Trong giấc mơ ấy, Hồ Anh Thái không bao
giờ đánh mất mình, nhưng cũng không chịu lặp lại mình. Bởi lẽ ông cho rằng: “người
có phong cách chính là không khư khư bám lấy một phong cách cố định, bất biến. Có
phong cách tức là là phải đa giọng điệu, dù anh có đổi giọng điệu đến thế nào thì vẫn
là trên cái nền tảng văn hóa của anh, trên tầm nhìn của anh vào thế giới và nhân sinh
mà thôi”.
Mang trong mình những quan niệm đúng đắn và cấp tiến đó về sáng tạo nghệ
thuật, cùng lòng đam mê và tinh thần trách nhiệm, Hồ Anh Thái đã xây dựng cho
mình một phong cách riêng độc đáo. Đó là tính hiện thực kết hợp huyền ảo, ngôn ngữ
hiện đại, chất giọng đa thanh, mà nổi lên là giọng điệu hài hước, giễu nhại, châm
biếm. Cùng với nhiều nhà văn hiện đại như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài,
Nguyễn Bình Phương, …, Hồ Anh Thái đã góp phần đưa văn học Việt Nam ngày càng
gần hơn với văn chương thế giới.
II. Về tác phẩm “SBC là săn bắt chuột”.
Hồ Anh Thái là một cây bút nổi lên trong nền văn chương đương đại Việt Nam. Từ
những năm 1986, khi phong trào Đổi mới diễn ra, Hồ Anh Thái với cảm quan nhạy
bén cùng sự nỗ lực tìm tòi và cách tân đã cho ra đời nhiều tác phẩm gây được sự chú ý
như: Người và xe chạy dưới ánh trăng (1987), Tiếng thở dài qua rừng kim tước
(1998), Cõi người rung chuông tận thế (2002), Bốn lối vào nhà cười (2005), … Gần

đây nhất, ông có hai tác phẩm là “SBC là săn bắt chuột” (2011) và “Dấu về gió xóa”
(2012), trong đó phải nói tiểu thuyết “SBC là săn bắt chuột” được nhiều bạn đọc đón
nhận một cách đầy hứng thú. Thoát ra khỏi ánh hào quang của văn học sử thi, Hồ Anh
3|Page


Thái nắm bắt được một cách tinh nhạy những biến động, rạn vỡ của cuộc sống đương
đại với muôn vàn những cái phức tạp, nhố nhăng, cũng như những cái bi hài, trái
khoáy của nó. Các tác phẩm của ông ngoài việc cho chúng ta cái nhìn chân thực về sự
sống còn lôi cuốn chúng ta bằng thứ ngôn ngữ hiện đại, suồng sã và chất giọng giễu
nhại, hài hước khó mà nhầm lẫn với ai được.
“SBC là săn bắt chuột” kể về cuộc chiến đấu giữa Người và Chuột mang màu sắc
huyền hảo được kể bằng một nghệ thuật trần thuật độc đáo. Qua đó, Hồ Anh Thái đã
chỉ ra bộ mặt của hiện thực xã hội đầy những phức tạp, thói tật, xấu xa. Đó là chuyện
về đủ loại người: Giáo sư, ông Cốp, Đại Gia, Luật Sư, Thư Ký, cô Báo, anh Thơ,
doanh nhân (như Nàng), … với đủ vấn đề nhức nhối của cuộc sống đương đại như:
lấy đất làm sân gôn, đại gia và chân dài, đút lót quan chức, phá biệt thự cổ, buôn ma
túy, đổi tình lấy điểm, nữ doanh nhân kén chọn rồi lỡ thì, …v…v… Sự xâm phạm của
con người tới thế giới của loài Chuột đã góp phần vạch ra những “bộ mặt thật” bình
thường được giấu dưới lớp vỏ đẹp đẽ, hào nhoáng; chỉ ra cái vô thường của cuộc đời,
và gợi cho chúng ta nhiều suy ngẫm.
Chia sẻ cảm xúc của mình khi đọc “SBC là săn bắt chuột”, nhà văn Ma Văn
Kháng bày tỏ: ông đã đọc một mạch tiểu thuyết này “trọn vẹn trong một ngày. Gấp
sách lại, thở phào, khoan khoái, thỏa mãn và thích thú.[..] Người đọc trăn trở với
những vấn đề của đời sống hôm nay, trăn trở với hướng đi đổi mới cho văn học chắc
sẽ thú vị với cuốn tiểu thuyết này”.
Như vậy, có thể nói, tác phẩm này đã một lần nữa khẳng định được sức hấp dẫn và
mới lạ về mặt ngôn ngữ và giọng điệu trong phong cách Hồ Anh Thái, khẳng định vị
trí của ông trong quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam.


Chương 3:
Ngôn ngữ và giọng điệu trong tiểu thuyết “SBC là săn bắt chuột”.
I. Đôi nét khái quát về ngôn ngữ và giọng điệu trong văn học.
1. Ngôn ngữ văn học.
Macxin Gorky cho rằng: ““Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học, không có
người nghệ sĩ chân chính nào lại không gắn quá trình lao động nghệ thuật của mình
4|Page


với quá trình sáng tạo câu chữ ngôn từ trong văn học.” . Đúng vậy, khi tiếp xúc với
một tác phẩm văn chương, cái trực tiếp tác động vào giác quan của chúng ta chính là
ngôn từ. Chính “ma trận” chữ nghĩa trên trang giấy vẽ ra trước mắt ta những hình
tượng nhân vật sống động, truyền tải những bức thông điệp mà nhà văn gửi gắm. Và
một nhà văn thành công, phải là một “phù thủy ngôn từ”. Khả năng sử dụng ngôn ngữ
thể hiện tài năng, sự dụng công và khả năng ngụp lặn trong đời sống của tác giả. Ngôn
ngữ văn học xuất phát từ ngôn ngữ đời sống, nhà văn là người biết “nhặt lấy chữ” của
“đời rơi vãi” để “góp lên trang”. Nhưng ngôn ngữ văn chương không phải thứ ngôn
ngữ “thô” mà là thứ ngôn ngữ đã được chọn lọc, tinh luyện, mang dấu ấn riêng của
người sáng tạo.
Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: “Ngôn ngữ văn học là ngôn ngữ mang tính
nghệ thuật dùng trong tác phẩm văn học,…là một trong những yếu tố quan trọng thể
hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn, … là hình thái hoạt động
ngôn ngữ mang ý nghĩa thẩm mỹ …”. Không chỉ là “dấu triện” của phong cách, ngôn
ngữ còn có vai trò to lớn trong việc kiến tạo nên thế giới xúc cảm của người viết cũng
như người đọc. Mỗi từ, mỗi câu như những phép màu thần kì, mở ra một khoảng trời
khác, mênh mông, rợn ngợp. “Các tiểu thuyết của tôi thường xuất phát từ những chữ
đầu tiên, nhân vật, cốt truyện, lời văn, ý tưởng, kết cấu … ra đời sau đó, câu đầu tiên
đã viết ra rồi thì các câu khác cứ thế mà xuất hiện: câu đầu tiên là cánh cửa mở dẫn
dắt ngòi bút của tôi đi đến tận cùng của tác phẩm, câu đầu tiên là cái lỗ khóa để ông
ghé mắt nhìn vào cánh cửa diệu kỳ ..” (Aragong).

Nguyễn Tuân từng phát biểu: “Nghề văn là nghề của chữ - chữ chơi với tất cả mọi
nghĩa mà mỗi chữ phải có được trong một câu, nhiều câu. Nó là nghề dùng chữ nghĩa
mà sinh sự để sự sinh”. Chính vì thế, mà trong quá trình phát triển của văn học, có
một sự phát triển khác cũng ngấm ngầm diễn ra, đó là quá trình phát triển, làm mới
ngôn ngữ văn chương. Đã một thời, ngôn ngữ ước lệ, công thức, tượng trưng đứng ở
vị trí thống soái của văn học Việt Nam. Đã một thời, những lời tuyên truyền, cổ vũ,
khẩu hiệu hào hùng vang lên giục giã trong mỗi trang văn. Nhưng khi hòa bình lập lại,
khi quá trình hiện đại hóa – toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới, văn
chương Việt Nam cũng có những cái “vặn mình” đáng kể. Trong đó, phải kể đến sự
kiện Đổi mới văn học được phát động từ những năm 1986. Ngôn ngữ của các nhà văn
ngày càng trở nên gần gũi với đời sống thường nhật, sống động như chính hơi thở của
sự sống đang diễn ra ngoài kia.

5|Page


Hồ Anh Thái nổi lên như một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn học Việt
Nam đương đại. Ngôn ngữ trong tay ông được lựa chọn, tổ chức theo một cách riêng.
Ma Văn Kháng trong bài viết “Cái mà văn chương ta còn thiếu” đã chỉ ra: “Nghệ
thuật thật sự luôn làm nên cái bất ngờ. Truyện ngắn, tiểu thuyết của Hồ Anh Thái,
nhất là những cái gần đây, thú vị trước hết ở chỗ đó, ở từng con chữ có đời sống là
lạ; ở mỗi tình tiết giàu sức khám phá, ở các mối liên tưởng lạ lùng và gần gũi; ở tổng
thể câu chuyện, nó mở ra một góc nhìn nhân sinh, nó cho ta thấy tính đa tầng, những
thực tại nhìn thấy và không nhìn thấy, những ấn tượng đặc sắc thông qua chủ đề của
nó, ở chính cuộc đời này, hôm nay …”. Rõ ràng, các nhà văn hiện đại đều có ý thức
làm mới văn chương, nhưng không hề có sự trùng lặp, bắt chước, giữa những cây bút
có tài năng và phong cách. Không ai có thể quên được một Nguyễn Huy Thiệp với
giọng văn khinh bạc, vô âm sắc; hay một giọng văn chua cay, chát chúa của Phạm Thị
Hoài, … Hồ Anh Thái cũng có ngôn ngữ và giọng văn riêng. Ấy là thứ ngôn ngữ nhại,
hiện đại và chẳng kém phần nhộn nhạo như đủ mọi loại người ngoài đời, cùng chất

giọng giễu nhại, châm biếm đầy hóm hỉnh khó mà nhầm lẫn với ai được.
2. Giọng điệu.
Mọi tác phẩm văn chương đều có một nguồn phát khởi, ấy chính là tình cảm của
nhà văn. Mỗi nhà văn khi đưa vào tác phẩm của mình bất cứ một sự kiện gì của đời
sống, đều tất yếu mang theo trong đó một thái độ, tình cảm nhất định. Dấu ấn của
những xúc cảm, thái độ ấy trong đứa con tinh thần của nhà văn được thể hiện rõ nhất
ở giọng điệu.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì giọng điệu là “thái độ, tình cảm, lập trường,
tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn,
quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa, gần,
thân, sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm …”. Chính vì mang đậm
màu sắc quan điểm cá nhân như vậy, nên giọng điệu gắn bó mật thiết với phong cách
tác giả. Như Khrachenco từng khẳng định trong “Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự
phát triển của văn học” rằng: “Do chỗ giọng điệu gắn liền với việc dùng hình tượng
để miêu tả đối tượng của sáng tác, cho nên nó có những đặc điểm của cách nhìn nhận
riêng của cá nhân đối với cuộc sống. Những người sành sỏi về văn học có thể căn cứ
vào những đặc điểm về giọng điệu của một đoạn văn tự sự nhất định mà họ chưa hề
biết hoặc căn cứ vào mấy dòng của một bài thơ mới lạ để xác định tác giả của những
tác phẩm ấy”.

6|Page


Giọng điệu trong văn chương rất đa dạng, không chỉ có một sắc thái đơn nhất, mà
có khi nó là “đa thanh, phức điệu”, phản ánh thế giới cảm quan phong phú của nhà
văn và thái độ của nhà văn đó trước cuộc sống. Trong thực tế sáng tác qua các thời kỳ,
ta thấy có rất nhiều kiểu giọng điệu như: giọng tâm tình cảm thương, giọng châm
biếm, giọng hài hước, giọng triết lý, giọng lạnh lùng, giọng hoài nghi, giễu nhại, …
Tuy nhiên, mỗi nhà văn thường có một giọng điệu chủ đạo nhất định, những giọng
điệu khác khi đó như những “bè”, “hợp âm”, hay như những vì sao vây quanh tinh tú

sáng nhất trên bầu trời “giọng điệu” mà thôi! Lựa chọn được một giọng điệu riêng phù
hợp, chính là một trong những yếu tố quyết định giúp tác giả thành công trong sáng
tạo nghệ thuật.
Hồ Anh Thái cũng đã tạo ra được một dấu ấn riêng với giọng điệu của mình. Như
tác giả Lê Hồng Lâm đã viết: “Ngay từ khi mới xuất hiện, anh đã phả vào văn học
một giọng điệu tươi mới, trẻ trung hiện đại khi văn chương Việt Nam vẫn chưa đi qua
khỏi sự ám ảnh và nỗi buồn của chiến tranh”. Trong văn học 1945 – 1975, khi dân tộc
ta đang phải đương đầu với hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp và chống Mỹ,
nhà văn cũng trở thành chiến sĩ, và khi ấy, cả đất nước chung một gương mặt. Văn
chương cất lên những bài ca hào hùng, bất khuất, thúc giục con người ta tiến lên chiến
đấu với quân thù:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai
Tuy nhiên, sau 1975 thì vầng hào quang của văn học Cách Mạng đã dần mờ đi,
nhường chỗ cho những bụi bặm đời thường. Chẳng còn nhiều những giọng ngợi ca, cổ
vũ nữa, con người lắng lại với giọng triết lý, suy tư; giọng hoài nghi; giọng tỉnh táo,
sắc lạnh hay giọng tâm tình sâu lắng, … Một trong những xu hướng mới nổi bật của
văn học thời kì Đổi mới không thể không nhắc đến chính là giọng giễu nhại - mà Hồ
Anh Thái là một đại diện khá tiêu biểu. Giọng châm biếm của ông có sắc điệu riêng
của một người “chán đời” mà vẫn tha thiết với đời, một người thấy rõ những cái lố
lăng của xã hội hiện đại, nhưng vẫn nhìn nó với cái nhìn bao dung. Ông không loại bỏ
nó, mà nhìn nó bằng cái nhìn chế giễu, hóm hỉnh. Vì thế đọc Hồ Anh Thái, ta thấy
thấp thoáng sau những câu văn hiện đại, hài hước, là bóng dáng chân thực của cuộc
sống đương đại. Người đọc được cười và đồng thời, cũng được thức tỉnh!
Như chính mình từng tâm niệm: ““Hiện thực và không gian nghệ thuật của mỗi
cuốn sách đòi hỏi một cách xử lí riêng, một giọng điệu riêng. Tôi tránh lặp lại người
7|Page


khác và lặp lại chính mình. Tôi cho rằng người có phong cách chính là không khư

khư bám lấy một phong cách cố định, bất biến. Có phong cách tức là là phải đa giọng
điệu, dù anh có đổi giọng điệu đến thế nào thì vẫn là trên cái nền tảng văn hóa của
anh, trên tầm nhìn của anh vào thế giới và nhân sinh mà thôi. Cho rằng thay đổi
giọng điệu sẽ làm loãng phong cách của chính mình là một cách hiểu đơn giản và làm
cho người sáng tạo lười biếng, ngại làm mới mình”, Hồ Anh Thái luôn tìm cách đổi
mới bản thân, mà vẫn không đánh mất mình. Trong hành trình hơn 30 tác phẩm của
mình, anh đã khẳng định rằng, mình là một nhà văn có phong cách. Người đọc bất
ngờ, ngỡ ngàng một chút thôi, nhưng cuối cùng vẫn chẳng thể nhầm anh với ai, bởi
thứ ngôn ngữ tự nhiên, nóng hổi hơi thở đời sống kia; bởi chất giọng châm biếm, giễu
nhại mà không hề lạnh lùng, khinh bạc của anh.
II. Ngôn ngữ trong tiểu thuyết “SBC là săn bắt chuột”.
1. Ngôn ngữ hiện đại, mới mẻ, nóng hổi hơi thở của đời sống đương đại.
Ngôn ngữ là sản phẩm của quá trình giao tiếp của con người, nó bao giờ cũng gắn
bó chặt chẽ với hiện thực đời sống. Mỗi thời kỳ, mỗi lĩnh vực đều có ngôn ngữ riêng
của nó. Nói như GS. Trần Đình Sử thì: “ngôn ngữ văn học một thời kỳ luôn gắn với
đặc trưng tư duy hình tượng của thời ấy”. Cũng như “mỗi chữ đều soi bóng hoàn
cảnh và tình hình XH lúc chữ ấy ra đời … Người viết văn ko thể ngồi bóp óc nghĩ ra
cách trau dồi câu chữ mà phải đi vào thực tế đời sống mới bồi bổ được chữ nghĩa cho
ngòi bút” (Tô Hoài – “Công việc viết văn”).
Nếu như trong văn học trung đại, ngôn ngữ mang đậm tính ước lệ tượng trưng thì
văn học hiện đại mang tới một hệ thống ngôn ngữ mới lạ, phong phú và sống động
như chính cuộc sống phức tạp dang diễn ra ngoài kia. Nhà văn là người “mở hồn ra
đón lấy những vang động của đời” để “viết lên trang”.
a. Ngôn ngữ suồng sã, thô nhám, tính thị dân hiện đại.
Trong “SBC là săn bắt chuột”, Hồ Anh Thái đã thể hiện một vốn từ ngữ vô cùng
phong phú và hiện đại. Rõ ràng, ngôn ngữ ở đây hoàn toàn theo kịp những biến đổi
không ngừng của hệ thống ngôn ngữ của người Việt. Nó xù xì, thô nhám, nó lai căng,
chắp vá, thậm chí thô tục và mang đậm tính cá tính người nói.
Trong tiểu thuyết này, sự kiện nhân vật Đại Gia phất lên, có tiền đầu tư vào bất
động sản, trong đó có việc thu mua bãi rác của bệnh viện để xây khu nghỉ mát, đã dẫn

tới việc đang dồn băng Chuột Trùm vào con đường phải đi tìm một địa bàn sinh sống
khác. Để tạo móng cho công trình của mình, Đại Gia đã phải phá rừng, phá núi, lấy
8|Page


đất để san lấp, tân trang khu bãi rác. Hành động phá hoại thiên nhiên ấy, dưới góc nhìn
phê phán và không kém phần hóm hỉnh của Hồ Anh Thái, chẳng khác gì việc người ta
đang “phẫu thuật thẩm mĩ” cho một người muốn thay đổi “bộ mặt” trời cho của mình.
“Cái mặt thiên nhiên không được giữ nguyên lành mà phải mỹ viện, cắt mắt bơm
môi, nâng mũi kẹp hàm”.
Những thuật ngữ như “mỹ viện”, “cắt mắt”, “bơm môi”, “nâng mũi”, “kẹp hàm”
là sản phẩm của xã hội hiện đại, khi mà công nghệ ngày càng xâm nhập sâu vào từng
góc của đời sống. Hiện tượng “chỉnh sửa” nhan sắc tự nhiên đã trở thành cái gì vô
cùng quen thuộc, đặc biệt với những người không may có nhan sắc “xấu xí” hay với
những người cho rằng, sự hoàn hảo chỉ có khi có sự can thiệp từ bên ngoài!
Xã hội hiện đại, đời sống vật chất của con người tăng lên, nhưng cùng với nó là sự
lên ngôi của vật chất, của đồng tiền. Nó làm suy đồi đạo đức con người. Nó khiến
người ta thành những người có thể vì tiền mà bán rẻ lòng tự trọng, bỏ qua tình cảm.
Hồ Anh Thái đã chỉ thẳng mặt những “anh chàng đào mỏ muốn được cha thì phải yêu
con gái xấu”. Cô gái chỉ là phương tiện để những anh chàng này thực hiện mục đích
của mình.
“Gã đã quyết. Trong đám con gái theo gã như một tiểu đoàn, gã chọn. Chọn ra
như chọn cá. Con cá tươi nhất là con một ông tướng. Muốn con hay chữ thì yêu lấy
thầy. Tức là thầy mới là mục đích, còn yêu là biện pháp để đạt mục đích. Yêu cha mà
lấy con. Con là phương tiện.”
Đó là những “trăn trở” của anh chàng đẹp mã - anh trai của ông Cốp, nhằm tìm
cho mình một người “nâng khăn sửa ví” suốt cả cuộc đời. Hóa ra, với người đàn ông
này, phẩm chất cần của một người vợ không phải cô ấy có nết na không? Biết chăm lo
gia đình không? Anh ta chỉ cần biết, cha cô ta làm chức gì? Có chức quyền to không?
Ngoài ra, là người hiện đại, ta sẽ thấy thú vị khi bắt gặp những từ ngữ của đời sống

thường nhật được đưa vào tác phẩm một cách tự nhiên. Như “tí tỉn”, “luộc lại”, bôi
trơn, vượt rào, bồ non, bồ nhí … Hồ Anh Thái đã đưa chúng vào đúng những tình
huống đắt giá, để nó phát huy hết khả năng của mình.
Như khi miêu tả chiến lược của Đại gia trong việc tạo dựng và giữ gìn mối quan hệ
với những ông to như ông Vip, ông Cốp: “Bánh ngon mỗi người bẻ một miếng. Đại
Gia phải biếu con gái ông Cốp một căn chung cư, coi như biếu ông. Mấy ông Vip mỗi
oong một căn. Làm đối ngoại bôi trơn khắp lượt”.
9|Page


Hay từ “vượt rào” trong đời sống hiện nay, mang nhiều ý nghĩa rất ý nhị. Nó thể
hiện sứ phá luật, dám làm những điều trái lẽ thường. Đặc biệt, nó thường sử dụng khi
đôi trai gái yêu nhau, đi quá giới hạn của những người chưa kết hôn. Trong SBC là
săn bắt chuột, tác giả đã qua lời của ông sếp cũ của Thư Kí đúc kết một quy luật rằng:
“Làm người mà không biết vượt rào thì chỉ có húp nước rửa bát mà sống. Thời buổi
này” . Vượt rào đã vươn sang lĩnh vực khác, khi con người dám bước qua mọi ranh
giới. Có người cha nào lại chọn con rể theo tiêu chí “vượt rào”? Thế mà người cha ở
SBC là săn bắt chuột lại đánh trượt Thư Ký chỉ vì anh ta đã đàng hoàng bấm chuông
vào nhà nói chuyện đàng hoàng cùng gia đình bạn gái, thay vì trèo tường vào phòng
ngủ của con gái ông? Chi tiết ấy khiến người đọc bật cười, và cũng lắc đầu chán nản,
vì sự sa sút về cách đánh giá con người của thời hiện đại.
Trong văn học trước Đổi mới, người ta có xu hướng thánh hóa mọi thứ, tránh cách
nói thô tục, gọi tên trực tiếp mà hay nói ước lệ, hay bóng gió. Ví như, trong Truyện
Kiều, chuyện trai gái được tác giả dùng cụm từ “trận gió táp mưa sa” hay Chinh phụ
ngâm lại dùng hình ảnh “hoa – nguyệt”:
“Hoa dãi nguyệt nguyệt in một tấm
Nguyệt lồng hoa hoa thắm từng bông
Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau”
Tiểu thuyết đương đại nói chung, trong đó có tiểu thuyết Hồ Anh Thái đã hòa vào

xu hướng giải thiêng, giải huyền thoại của văn học hiện đại. Nó chẳng ngần ngại gọi
tên những bộ phận kín đáo trên cơ thể con người, cùng không mỹ lệ hóa cách ăn nói,
cư xử của con người mà phản ánh nó như chính nó trong hiện thực.
Giáo sư là người mà nhắc tới chúng ta sẽ liên tưởng tới người đạo mạo, đáng kính,
có học vấn uyên thâm. Nhưng ở “SBC là săn bắt chuột”, Hồ Anh Thái đã vẽ ra một vị
Giáo sư đi lên bằng sự may mắn, và khôn lỏi, đặc biệt cái găm lại trong tâm trí ta là
một vị giáo sư cuồng dâm, phong tình. “Chim to không lo chết đói” – ông ta tự hào
với cái “của quý” trời cho của mình và khai thác nó triệt để từ khi chưa vợ, cho tới
khi con cái đã lớn hết, vẫn không bỏ thói. Ông cũng chẳng ngần ngại khoe với gã lái
xe trải nghiệm của mình trong vườn chuối: “vùng này đàn bà ngon thế mà gái góa bỏ
không cũng phí”. Trơ trẽn, suy đồi đến thế là cùng! Chính bởi những kẻ như thế này,
10 | P a g e


mà nền giáo dục nước nhà mới có những vụ “đổi tình lấy điểm” xôn xao dư luận suốt
một thời gian dài.
Trong tiểu thuyết này, nhà thơ cũng không ngại thuật lại lời chửi nhau, hằn học của
một con người đại diện cho công lý, đó là Luật Sư. Anh ta nói thẳng vào mặt đồng
nghiệp như tát:
“…Nếu chị là bạn tôi thì chị phải nhét cứt vào mồm nó chứ!”
Hay lời vàng ngọc phát ra từ một nhà thơ, cứ tưởng lãng mạn thế nào, nhưng cũng
chỉ tầm thường như ai:
“Ông ngủ với thằng ấy hay sao mà khen cứt nó thơm, tôi sẽ vạch mặt ông ra cho
thiên hạ cùng biết!”
Các bộ phận nhạy cảm trên cơ thể người không còn bị né tránh nữa, mà nhà văn
nói ra trực tiếp. Ngôn ngữ khi đi vào văn học không bị tô hồng lên, giấu kín đi, mà
hiện ra như chính nó trong đời sống thường nhật.
Lời miêu tả của ông trường đoàn văn công với ông Cốp về anh trai ông:
“Thằng anh mày chỉ gái. Lúc nào cũng nhắng lên như con chó dái”.
Cảnh tổng kết chiến dịch phòng chống tệ nạn ma túy giữa Đại Gia và á hậu kim

tiêm:
“Nhờ em cả đấy. Ông đặt tay lên bộ ngực trần của á hậu kim tiêm. Mọi sự là nhờ
anh. Á hậu dịch tay xuống dưới cái mông trần của ông. Họ tổng kết chiến dịch trên
những khu vực bỏ ngỏ, trong căn hộ chung cư cao cấp gần Bờ Hồ mà ông tặng cô”.
Hay cảnh người ta lao vào giải cứu cho cô Báo và anh nhà thơ Lửa, thì được chứng
kiến một cảnh có một không hai:
“… người ta phá cửa xông vào phòng cặp bài trùng thơ và báo. Nhà thơ Lửa và cô
Báo sồn sồn đang quấn lấy nhau. Hai thân người trần trụi chết cứng. Như đôi sam.
Phải bóc tách mãi mới lôi được thân thể này ra khỏi thân thể kia. Bóc ra. Tách ra”.
Có một thời bất cứ bụi bặm gì của đời bay vào văn chương cũng bị phủi đi, quét đi
cho sạch sẽ, không thì cũng bị xa lánh, bài trừ. Nhưng tới văn học hiện đại thì khác,
cái đời thường phồn tạp, thô nhám đi vào văn chương như chính bản chất của nó. Hồ
Anh Thái không ngần ngại nhắc tới cái xấu, cái tục. Người ta thường nói “tầm
11 | P a g e


thường là cõi chết của văn chương”, nhưng ở đây nhà văn suồng sã mà không tầm
thường. Bởi đặt vào văn cảnh, chỉ những từ ngữ ấy mới hợp, mới đắc địa và mang lại
những rung cảm chân thực nhất đối với người đọc khi hình dung về đời sống đương
đại. Cuộc sống không phải một giấc mơ như cổ tích, mà là những mảnh vỡ tranh sáng
tranh tối. Nó giúp người đọc thấy rõ hơn bộ mặt thật của đời sống.
b. Ngôn ngữ chêm xen nhiều từ nước ngoài, tiếng lóng.
Thế kỉ XX, cùng với sự du nhập mạnh mẽ của văn hóa phương Tây, ngôn ngữ có
sự phát triển theo hướng tiếp nhận vào kho ngôn ngữ những từ mới, những cách sử
dụng mới. Có khi trong một câu nói, người nói sử dụng hai ngôn ngữ cùng lúc, có khi
lại phiên âm thẳng ngoại ngữ sang cách đọc của tiếng Việt và đưa vào sử dụng.
Trong “SBC là săn bắt chuột”, Hồ Anh Thái đưa vào những từ nước ngoài, từ
lóng, tuy không nhiều lắm, nhưng nó cũng cho thấy một hướng sử dụng ngôn ngữ phổ
biến hiện nay, đặc biệt là trong giới trẻ.
Ta có thể thấy điều này ngay trong cách gọi tên nhân vật. Ông Vip hay ông Cốp

vốn có nguồn gốc từ tiếng Anh. Vip là viết tắt của Very important person trong tiếng
Anh, chỉ những người có địa vị xã hội, có tiếng tăm, được trọng vọng. Còn Cốp là
cách gọi từ tiếng lóng “cop” chỉ cảnh sát trong tiếng Anh. Hồ Anh Thái đã sáng tạo
khi sử dụng cách gọi tên nhân vật theo địa vị xã hội như thế. Nó làm cho nhân vật trở
thành cái điển hình, đại diện cho một hạng người, một vai trong xã hội.
Ngôn ngữ nước ngoài có khi được mượn nguyên văn:
“Cặp bài trùng giờ gặp lại anh. Nói liên thanh, cười hi hí trước cáu mauvais gout
thị hiếu lùn của khách sạn, trước cái nouveau riche giàu xổi của ông chủ khách sạn”.
Các từ ngữ in đậm đều có nguồn gốc là tiếng Pháp. Chúng làm câu văn như một sự
châm biếm nhẹ, hình như người ta chêm xen ngoại ngữ vào chỉ nhằm mục đích thể
hiện ta đây biết ngoại ngữ, chứ chẳng phải là tiếng Việt nghèo nàn! Bằng chứng là
ngay sau từ “mauvais gout” – tác giả đã “phiên dịch” ngay bằng từ “thị hiếu lùn”. Nó
cũng gián tiếp cho chúng ta thấy thái độ của Chàng trước cái dinh cơ khổng lồ của Đại
Gia ở vùng biên. Ông ta trang trí khu khách sạn hồ bơi bằng hàng loạt các bức tượng
của đủ nền văn minh:
“Ở gốc cây này là một đôi trai gái sơn cước , lấy tích chàng Bốc nàng Bông cổ
tích địa phương. Chàng nàng đều đội mũ lông chim theo kiểu người Việt thời vua
12 | P a g e


Hùng, trai mình trần đóng khố, gái ngực trần quấn lá quanh hông như cái nơm úp
cá”.
Rồi tượng thần Vệ nữ Mi - lô - cô gái cụt tay có thân hình tuyệt mỹ, đặt bên cạnh
tượng “mấy anh chàng thổ dân đội mũ lông chim đang chày cối giã gạo kiểu Hùng
Vương”.
Chỉ hình dung trong đầu thôi, ta đã thấy ngay sự tạp nham, và thiếu hiểu biết thẩm
mỹ của chủ khách sạn này. Cứ tưởng mình sẽ mang văn minh tới bằng các bức tượng
đại diện cho văn hóa, nhưng sự xếp đặt ấy đã tố cáo thị hiếu tầm thường của Đại Gia –
một kẻ “giàu xổi” – phất lên nhanh chóng bằng con đường phi pháp – một kẻ “giàu”
nhưng không “sang”, cứ tưởng dùng tiền là đắp lên mình cái vẻ sang trọng được,

nhưng chỉ là vạch rõ hơn cái lố lăng của bản thân mà thôi!
Không chỉ mượn nguyên bản, trong tiểu thuyết này, Hồ Anh Thái còn đưa và
những từ ngữ nước ngoài đã được phiên âm ra tiếng Việt. Như: “ơ rê ka, pít tông, xi
líp, Mi lô, Cốp, Pơ giô, Sen – kô, …”
“Một yêu anh có Sen – kô
Hai yêu anh có Pơ giô cá vàng”
Là một người Việt, nhưng Hồ Anh Thái làm việc ở nước ngoài rất nhiều, những từ
ngữ hiện đại này cho thấy sự vốn văn hóa của nhà văn. Ông có vốn từ phong phú,
cũng như sự cập nhật nhanh nhạy. Đặc biệt, khi đặt trong văn cảnh, những từ ngữ này
kết hợp với giọng điệu châm biếm, giễu nhại, đã giúp nhà văn phản ánh hiện thực một
cách hài hước. Nó cho ta thấy phần nào thực trạng văn hóa – tinh thần của người Việt
Nam hiện đại. Quá trình hội nhập, giao lưu, làm kho tàng ngôn ngữ của ta mở rộng,
nhưng nó cũng là nguy cơ làm giảm sự trong sáng của tiếng Việt, làm con người đi
chệch hướng, ra khỏi đường ray của cái gọi là bản sắc dân tộc.
2. Ngôn ngữ vận dụng linh hoạt, sáng tạo thành ngữ, tục ngữ.
"Những chữ xơ xác nhất mà chúng ta đã nói đến cạn cùng, mất sạch tính chất hình
tượng đối với chúng ta, những chữ ấy trong thơ ca lại lấp lánh, lại kêu giòn và tỏa
hương" (Pauxtoxky). Ngôn ngữ văn học có nguồn gốc từ ngôn ngữ của đời sống,
nhưng qua bàn tay của người nghệ sĩ, nó được khoác lên mình những ý nghĩa mới.
Trong “SBC là săn bắt chuột”, các thành ngữ, tục ngữ được Hồ Anh Thái vận
dụng với tần suất dày đặc. Tuy nhiên, nhà văn không bê nguyên xi chúng vào trong
13 | P a g e


tác phẩm, mà có sự sáng tạo, biến tấu đi theo những dụng ý nhất định. Có khi, nhà văn
chêm xen thêm vế nữa, có khi lại tách ra, diễn đạt theo kiểu hiện đại. Những “biến
tấu” thêm đó đã mở rộng nghĩa cho thành ngữ, tục ngữ, đồng thời nó gắn bó mật thiết
với những từ ngữ, đồ vật của đời sống đương đại. Từ đó, những câu thành ngữ, tục
ngữ tưởng như rất xưa, rất thâm thúy ấy, trở nên gần gũi hơn và pha sắc thái hài hước.
Trước giờ khi nói về chuyện duyên tình bị cản trở, chia rẽ, người ta hay dùng thành

ngữ: Chia uyên rẽ thúy, hay Chia loan rẽ phượng. Nhưng “Chia sim rẽ dế” thì phải
thời hiện đại mới có! Không phải là bụi sim và con dế mà “sim” và “dế” ở đây là sim
điện thoại và điện thoại – sản phẩm của khoa học công nghệ tiên tiến. Sim và dế cũng
đi liền với nhau, cùng nhau làm thành một chỉnh thể, phát huy được tính năng liên lạc
của điện thoại. Chính vì thế mà Hồ Anh Thái đã “biến tấu” thêm một vế mới vào bên
cạnh thành ngữ mà chúng ta vẫn quen dùng. Nó tạo nên sự hứng thú cho người đọc.
Mỗi câu nói dân gian qua Hồ Anh Thái đều trở thành một tiền đề sáng tạo. Nhà thơ
luôn mở rộng nó ra bằng lời của riêng mình.
Có khi là liên tưởng, sáng tạo ra ý mới tương tự:
- “Buôn có bạn, bán có phường. Ăn một mình đau tức, làm một mình cực thân.
Hành trình viễn xứ lẻ loi thì buồn. Người chết rủ đi. Đi với nhau cho vui. Đi”.
Có khi nêu ra để làm tiền đề, đối lập với thực tế, gây bất ngờ cho tâm thế chờ đợi
của người đọc:
- “Hai chị em bán cà phê gái Tuyên. Chè Thái gái Tuyên. Chắc là chè đã nhạt và
gái Tuyên đã nhạt. Không có gì sắc nước hương trời như lời đồn đại”.
- “Xin ra khỏi hợp tác, riêng lẻ khỏe ăn. Ăn thì khỏe mà năng suất ko khỏe”
Có khi là sự tăng tiến, nhấn mạnh, sáng tạo bằng cách “nhại” cấu trúc vế trước, để
sáng tạo vế mới tương tự, nhưng mang đậm cách nói của người hiện đại:
- “Vỏ quýt dày có móng tay nhọn. móng tay nhọn có bấm móng tay sắc”…
Quy luật được đúc kết của dân gian được “hiện đại hóa” bằng sự sáng tạo của nhà
văn. “Móng tay nhọn có bấm móng tay sắc”. Chỉ thêm sự xuất hiện của cái “bấm
móng tay” thôi, câu tục ngữ của cha ông đã trở thành câu nói vui nhộn, hóm hỉnh và ý
vị của những con người của thế kỉ XXI!

14 | P a g e


Hàng loạt các câu tục ngữ, thành ngữ được sử dụng một cách vô cùng sáng tạo. Hồ
Anh Thái đã vận dụng thành thạo thủ pháp “nhại” (parody). Đây là một thủ pháp
được nhiều nhà văn hiện đại sử dụng. Nó khiến người đọc cảm thấy thú vị và bất ngờ

khi nhìn ngắm lại, ngẫm nghĩ lại những thứ vốn đã được coi là chân lý, là những quy
luật đã được con người công nhận từ lâu. Con người hiện đại là con người của sự hoài
nghi, và thủ pháp “nhại” phản ánh phần nào tâm lý đó. Ngoài ra, “nhại” tạo nên một
bầu không khí hài hước cho tác phẩm.
Có một đặc điểm nữa, ta cần chú ý trong “SBC là săn bắt chuột”, đó là dấu hiệu
trong ngôn ngữ trần thuật. Ngôn ngữ của người kể chuyện và ngôn ngữ của nhân vật
trong tiểu thuyết này, (cũng như một số tiểu thuyết gần đây của ông như Mười lẻ một
đêm, Bốn lối vào nhà cười) gần như bị loại bỏ các dấu hiệu phân tách. Hồ Anh Thái
không xuống dòng, hai chấm, không mở ngoặc kép hay gạch đầu dòng. Ngôn ngữ của
người kể chuyện và của nhân vật được viết tiếp nối liền nhau, người đọc sẽ là người
phân tách chúng trong trí óc. Hãy đọc thử một đoạn đối thoại giữa Luật Sư và mẹ của
anh ta về việc bán nhà:
“Tao thấy rất phù hợp. Thế thì có thể phù hợp với mẹ nhưng không hợp với chúng
con và cháu. Không phù hợp thì đi đi. Vâng, đấy đúng là ý con, gia đình ta sẽ chuyển
đến một biệt thự mới xây, tiện nghi hơn, môi trường tốt hơn. Gia đình mày đi cứ đi,
không phải gia đình tao” …
Trong khi Luật Sư muốn bán tòa biệt thự gia đình đã sinh sống từ xưa đi, thì bà mẹ
nhất quyết không đồng ý. Bà đã gắn bó với nơi này, và không muốn rời xa nó. Bà có
quyền thừa kế nửa tòa nhà, nên Luật Sư muốn bán thì phải được bà đồng ý mới bán
được. Tuy các lời đối thoại của hai nhân vật được viết nối tiếp nhau như một đoạn văn
liền mạch, không có dấu hiệu phân tách về hình thức, không có lời dẫn hay lời miêu tả
thái độ của người nói, nhưng chúng ta – những người đọc hiện đại vẫn hoàn toàn có
thể hiểu được vai giao tiếp cũng như nội dung giao tiếp của mỗi nhân vật.
Như vậy, việc bỏ đi dấu hiệu phân tách giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ người
kể chuyện không làm giảm tính tường minh của câu chuyện. Ngược lại, nó làm cho
người đọc có cái nhìn khách quan hơn về thái độ của người nói, ngoài ra, còn tiết kiệm
thời gian cho độc giả, mang tới cho người đọc lượng thông tin đủ trong thời gian ngắn
hơn bình thường. Có lẽ chăng, nó cũng là một phẩm chất đáp ứng nhu cầu của đời
sống đương đại?


15 | P a g e


Nhà văn Nam Cao quan niệm: “Văn chương không cần tới những người thợ khéo
tay, chỉ biết làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương cần những người biết
đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Sáng
tạo là cội nguồn của nghệ thuật. Và Hồ Anh Thái với sự tìm tòi, thể nghiệm của mình,
đã có được những cái “mới” đáng được kể đến trong văn học Việt Nam hiện đại.
3. Ngôn ngữ vận dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật mới lạ, độc đáo như: nhại, nói
lái, tái cấu trúc, …
Đọc “SBC là săn bắt chuột”, chúng ta luôn thấy thấp thoáng trong đó cái cười
mỉm rất hóm hỉnh của Hồ Anh Thái. Và chính chúng ta, trong quá trình tiếp nhận tác
phẩm, cũng không ít lần bật lên tiếng cười thoải mái và thú vị. Để tạo nên tiếng cười
ấy, không thể không kể tới những thủ pháp nghệ thuật độc đáo mà Hồ Anh Thái đã sử
dụng một cách rất tài tình như: thủ pháp nhại, thủ pháp chơi chữ (nói lái, chiết tách từ
ngữ, …)
Nhại (parody) theo nguồn gốc tiến Hy Lạp có nghĩa là “một bài hát được hát cùng
bài hát khác”. Trong văn học, nhại là hình thức phê bình châm biếm hoặc là hình thức
chế giễu khôi hài bằng cách bắt chước phong cách và bút pháp. Đây là một thủ pháp
được sử dụng khá phổ biến trong văn học đương đại, do sự xuất hiện của con người
hoài nghi, con người nhận thức lại thế giới.
Trong “SBC là săn bắt chuột”, Hồ Anh Thái đã “nhại” rất nhiều đối tượng: thành
ngữ, tục ngữ, bài hát, ca dao, … Đây là thủ pháp khá thành công của nhà văn. Ồng
từng chia sẻ: “Tôi thích nhại giọng thị dân, đúng hơn là giọng điệu tiểu thị dân bởi vì
hầu như người ta đang bê nguyên lối sống tiểu thị dân và quê mùa vào đô thị”.
Ta có thể thấy thủ pháp này ngay từ nhan đề tác phẩm: “SBC là săn bắt chuột”.
Trong xã hội hiện đại của chúng ta, khi nhắc đến từ “SBC” cái người ta nghĩ đến ngay
đội “săn bắt cướp” của cảnh sát. Đó là lực lượng có sứ mệnh bảo vệ sự an bình của
nhân dân. Thế mà ở đây tác giả lại đặt là “săn bắt chuột”. Nó tạo ra sự bất ngờ trong
tầm đón nhận của độc giả, và thoáng chút giễu cợt, châm biếm. Bởi cái từ “SBC” vốn

gắn với lực lượng oai vệ, quyền uy đó nay lại gắn với đối tượng tầm thường, nhỏ bé là
“chuột”. Và người ta chắc chắn sẽ hoài nghi về cái nhiệm vụ cao cả của biệt đội
“SBC” ở ngoài đời: liệu nó có khôi hài như trong tác phẩm không?
Câu nói “kẻ cắp gặp bà già” lâu nay chúng ta vẫn dùng chỉ những trường hợp
những kẻ gian xảo, thâm thúy gặp nhau. Nay có thêm “cao thủ gặp cao nhân” của Hồ
Anh Thái. Vẫn nguyên cấu trúc ấy, hàm ý của câu văn hầu như không đổi, nhưng từ
16 | P a g e


ngữ thì rất mới, rất hiện đại “cao thủ”, “cao nhân” – nó ám chỉ những kẻ đều ở trình
độ cao – không chỉ trong kinh nghiệm, mưu kế mà còn trong chức danh, chức phận xã
hội. Sự đối đầu giữa họ, chắc cũng tương xứng chẳng khác gì “kẻ cắp” và “bà già”!
Hay hàng loạt các câu thành ngữ, tục ngữ khác như:
“Vỏ quýt dày có móng tay nhọn”, nhại lại ngay vế tiếp “Móng tay nhọn có bấm
móng tay sắc”;
“Buôn có bạn, bán có phường. Ăn một mình đau tức, làm một mình cực thân” - là
những câu thành ngữ, châm ngôn đã khá quen thuộc trong văn hóa Việt Nam. Từ ý
nghĩa khái quát của chúng, nhà văn đã nhại lại ở bề mặt ý nghĩa là chính, để viết
“Hành trình viễn xứ lẻ loi thì buồn” – có giá trị đúc kết nhất định. “Người chết rủ đi.
Đi với nhau cho vui. Đi”. Nhà văn “nhại” không phải để chế giễu chân lý của dân
gian, mà qua thành ngữ hiện đại ấy, để chế giễu cái thói ích kỷ của con người. Khi gặp
hoạn nạn thì không muốn chịu một mình, mà muốn kéo theo người khác cùng chìm –
khác hẳn sự đoàn kết trong “buôn có bạn, bán có phường” trên kia!
Thành ngữ “chia uyên rẽ thúy, chia loan rẽ phượng” ở mục trên, tôi cũng đã nói
qua. Hồ Anh Thái đã nhại thêm một vế mới là “chia sim rẽ dế” mang đậm dấu ấn của
thời đại công nghệ thông tin là “sim điện thoại” (sim) và “điện thoại” (Dế).
Xã hội dù có bình đẳng tới đâu, bao giờ cũng có sự phân biệt trên dưới. Xưa nay,
thành ngữ “nói có người nghe, đe có người sợ” thường được sử dụng để chỉ uy quyền
và sức ảnh hưởng của những người có vai vế trong xã hội. Nay Hồ Anh Thái cho ra lò
thêm 5 vế nữa, tạo thành cái gọi là “thất quyền” mà những kẻ như nhân vật ông Cốp,

Đại Gia trong tác phẩm có được: “nói có người nghe, đe có người sợ, vợ có người
chăm, nằm có người bóp, họp có người ghi, chi có người bù, đi tù có người chạy”.
Những vế sau sử dụng lại cấu trúc và vần điệu của những thành ngữ có sẵn, để nhại
lại. Nó mở rộng ý nghĩa, và cũng cụ thể hóa ý nghĩa của thành ngữ gốc. Đồng thời, chỉ
ra cho chúng ta những “tệ nạn” của xã hội hiện đại – nơi mà sức mạnh của đồng tiền
đã chạm tới mọi ngõ ngách. Sự cung phụng, lép vế của kẻ “thấp cổ bé họng”, sự gian
lận, lách luật, … của những kẻ quyền thế. Qua đó, ta thấy thái độ phê phán mạnh mẽ
của tác giả trước những cái xấu xa của đời sống.
Nhiều câu ca dao hiện đại, thơ hiện đại trong bài là hình bóng của nhiều câu ca
dao, như:
“Một yêu anh có Sen – kô
17 | P a g e


Hai yêu anh có Pơ – giô cá vàng”
Có lẽ chăng lại sự “nhại” lại bài ca dao quen thuộc:
“Một yêu tóc bỏ đuôi gà
Hai yêu ăn nói mặn mà có duyên
Ba yêu má lúm đồng tiền
Bốn yêu răng nhánh hạt huyền kém thua”
Cùng cấu trúc cả đấy, nhưng nếu ngày xưa, người ta yêu vì cái đẹp đơn sơ, bình dị
và nết na thì nay, cái người ta hướng tới là những giá trị vật chất thực dụng: xe Sen –
kô, xe Pơ – giô. Tình yêu đã được đong đếm bằng các giá trị vật chất – đó là thực tế
đáng buồn vô cùng! Người đọc cười, nhưng cũng chua xót khi nhận ra, đó chẳng phải
câu “chế” vui của một anh hay thơ, mà chính là chuyện bày ra trước mắt!
Trong “SBC là săn bắt chuột” rất nhiều bài hát (Hà Nội mùa vắng những cơn
mưa, Mừng tuổi mẹ, Để gió cuốn đi) cũng bị nhại lại một cách linh hoạt, tự nhiên.
Người hiện đại có xu hướng mượn giai điệu của những cái có sẵn, để nói những cái
đang nảy sinh trong đời sống thực tại.
Mở đầu tác phẩm này, ta đã bắt gặp bài hát “nhại” lại bài hát “Hà Nội mùa vắng

những cơn mưa” của nhạc sĩ Trương Quý Hải, phổ thơ Bùi Thanh Tuấn. Tuy nhiên,
khi “nhại” bài hát này, tác giả không hề có thái độ chế giễu, hay châm biếm, chỉ đơn
giản là đưa ra một bài ca mới, phản ánh hiện thực là trận lụt lịch sử ở Hà Nội hồi năm
2010. Nó góp phần mang lại không khí hài hước và mới mẻ cho toàn bộ tác phẩm.
“Hà Nội mùa này phố cũng như sông
Cái rét đầu đông, chân em thâm vì ngâm nước lạnh
Hoa sữa thôi rơi, em tôi bơi cả chiều trên phố
Đường Cổ Ngư xưa tràn ngập nước sông Hồng …”
Bài hát với ngôn từ trẻ trung, cách nói suồng sã và có phần ngoa dụ khiến chúng ta
phải bật cười. Bài hát này, một lần nữa được nhại khi kết thúc tác phẩm, với một số
yếu tố khác, tạo thành kết cấu vòng tròn thú vị cho câu chuyện “SBC là săn bắt
chuột” mà người đọc sẽ khó mà quên được.
18 | P a g e


Nếu như, nhại bài hát “Hà Nội mùa vắng những cơn mưa” nhằm phản ánh hiện
thực và tạo nên tiếng cười, thì khi “nhại” bài hát “Mừng tuổi mẹ” (tác giả là nhạc sĩ
Trần Long Ẩn), Hồ Anh Thái khiến chúng ta “cười ra nước mắt”. Trong đám tang rất
to của mẹ Luật sư, trong tiếng kèn trống inh ỏi, đình đám, lời hát nhại của bọn hàng
xóm nhà Luật Sư khiến chúng ta phải giật mình:
“Mẹ già như chuối chín cây
Gió lay mẹ rụng lăn quay ra vườn”
Bao nhiêu sự tôn kính, bao nhiêu sự thiêng liêng của tình hiếu nghĩa tan biến. Lời
xuyên tạc bài hát của những người ngoài ấy, hé lộ cho chúng ta về cái chết của bà mẹ
tội nghiệp. Bà ngã vì cảm lạnh, hay chính Luật Sư đã xô bà từ ban công xuống? Đứa
con trai từ nhỏ đã thích đám ma, có sở thích chặt đầu đồ chơi trong nhà, … đó có thể
là thủ phạm gây ra cái chết của bà mẹ không? Có thể lắm chứ! Đám ma rất lớn, nhưng
tình người thì trống hoác. Như thể, chương “Hạnh phúc của một tang gia” trong “Số
đỏ” của Vũ Trọng Phụng lại hiện hữu. Tiếng cười châm biếm càng đẩy lên cao khi
một năm sau khi mẹ chết, Luật Sư lại thể hiện “sự hiếu thảo” của mình bằng buổi triển

lãm những bức tranh học đòi, tập tọe mà ông vẽ mẹ, những bài thơ chắp vá từ những
sáng tác của người khác. Tình mẹ con chẳng thấy đâu, ta chỉ thấy ở đó sự lố lăng,
thích thể hiện của một kẻ hám danh và giả dối mà thôi!
Ngoài thủ pháp “nhại”, Hồ Anh Thái còn sáng tạo về mặt từ ngữ. Ông sử dụng
phép nói lái, như khi kể câu chuyện về cô phó chủ nhiệm câu lạc bộ nữ quyền – tên
gọi khác chính là câu lạc bộ phụ nữ quá lứa lỡ thì. Điều gì làm cho người phụ nữ có
nhan sắc, công việc ổn định đó lỡ thì, khi mà cô cũng có không ít người theo đuổi còn
son trẻ? Một anh chàng tán cô đã phán: cô minh hồi cực kỳ! Chẳng phải tên cô là
Minh, mà “minh hồi” là “hôi mình”! Đơn giản thế thôi!
Tuy nhiên, thủ pháp này trong “SBC là săn bắt chuột” được sử dụng rất ít. Ở đây,
nhà văn có ý thức “chơi” với ngôn từ nhiều hơn. Ông khiến người đọc thú vị với
những cách chiết tách ngôn từ rất riêng của riêng mình. Có lẽ chưa ai định nghĩa “vô
duyên” và “vô tư” độc đáo như Hồ Anh Thái:
+ “Vô tư duyên dáng gọi tắt là vô duyên”
+ “Vô tư hồn nhiên gọi tắt là vô hồn”

19 | P a g e


Chỉ có người hiện đại mới có những cách nói, cách vận dụng ngôn từ không tuân
theo bất cứ quy luật nào đến vậy! “Vô tư, duyên dáng” và “vô duyên” không thể là
một. “Vô tư hồn nhiên” và “vô hồn” cũng vậy. Nhưng người đọc lại chẳng quan tâm
đến logic nghĩa ấy, mà chỉ bị “trò chơi ngôn ngữ” của Hồ Anh Thái làm cho thích
thú!
Ngay từ cái biệt danh nhân vật cũng gây được sự bất ngờ. Nhà thơ Lửa – nghe thế,
chắc hầu hết người đọc đều nghĩ hẳn nhà thơ này có những vần thơ lửa cháy, tràn đầy
nhiệt huyết. Nhưng hóa ra biệt danh ấy, anh nhà thơ có được do một lần say rượu, làm
thơ xong tiện tay châm lửa đốt, chẳng may bén vào rèm, suýt cháy cả nhà, chứ thơ anh
thì “hay” tới mức phải mang đi chào mời ở cả các quán nước vỉa hè! Thủ đô, là trung
tâm đất nước thì Hồ Anh Thái cắt nghĩa là “đầu to” theo chiết tự: thủ là đầu, đô là to.

Bệnh HIV thì được gọi rất vui nhộn bằng cụm từ “có ết có hát”. Người đọc không
cẩn thận lại nghĩ ngay cái con xe SH có giá thành khá đắt đỏ trong đời sống hiện nay!
Như vậy, có thể thấy, Hồ Anh Thái có sự tiếp thu, và vận dụng rất sáng tạo ngôn
ngữ của đời sống. Ông chắt lọc những gì đặc trưng của đời sống phồn tạp đang diễn ra
ngoài kia, đồng thời nhào nặn nó bằng bàn tay tài hoa của mình, để nó tỏa sáng trong
trang văn.
4. Ngôn ngữ đa nghĩa, giàu sức gợi.
“Thơ là mở ra được một cái gì mà trước câu thơ đó, trước nhà thơ đó như vẫn còn
phong kín” (Nguyễn Tuân). Thơ nói riêng hay văn chương nói chung, nếu chỉ là cái ta
đọc ra được ngay trên bề mặt câu chữ thì ta tin rằng, nó sẽ chẳng thể có sức sống
mạnh mẽ tới ngày nay. Tính đa nghĩa chính là một đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật.
Tác phẩm văn chương đích thực nào cũng vậy, nhưng ở SBC là săn bắt chuột, có điều
thú vị là Hồ Anh Thái đã có một số hình thức ngôn ngữ mới mẻ, gợi cho chúng ta tới
thứ nằm ngoài cái hiển hiện của câu chữ.
Đó là những hình ảnh nhà văn sử dụng, những thuật ngữ nhà văn đưa vào. Nó gợi
cho chúng ta về những hiện tượng nóng hổi trong cuộc sống hiện đại. Vì thế, nó hấp
dẫn hơn, khơi gợi được sự hứng thú từ người đọc hơn.
Khi nói về mong muốn tiếp cận Đại Gia của cô Báo và anh nhà thơ Lửa, nhằm tìm
ra giới tính thật của ông ta. Mượn suy nghĩ của nhân vật Chàng, Hồ Anh Thái viết:
“Và họ chỉ nhặt được cái áo mưa của ông lớn vứt lại, ướt nhoẹt, căn cứ vào kích
thước mà biết được rằng nó lớn. Nhưng với họ như thế là đủ, cái áo mưa của ông lớn
chính là ông lớn”.
20 | P a g e


Hình ảnh “cái áo mưa” và cách gọi phiếm dụ “nó” ở đây gợi ra trong óc liên
tưởng của người đọc đủ cách hiểu, từ trong sáng tới đen tối. Bởi lẽ, “áo mưa” trong
đời sống hiện đại, không chỉ là dụng cụ con người sử dụng khi đi trời mưa, mà còn có
ý nghĩa khác! Tôi xin phép không nói cụ thể ra, vì hẳn là ai cũng đã biết đáp án thứ
hai đó.

Trong tên gọi các chương, mà thực chất là gắn với các nhân vật trong tác phẩm, Hồ
Anh Thái cũng sử dụng những từ ngữ đa nghĩa. Như “ăn đất”, “rào giậu”. Ông Cốp
thích “ăn đất” không chỉ nói việc quê ông ta có đặc sản “đất sét thịt” rất ngon, mà
còn ám chỉ ông ta là người mê “đất cát”, bất động sản, và gợi ta tới sự tham lam mà
một “thành ngữ hiện đại” nhắc tới: “Ăn giày, ăn tất, ăn cả đất xung quanh”. Cụm từ
“rào giậu” gắn với nhân vật Thư Ký. Anh ta có sở thích làm hàng rào từ khi còn nhỏ.
Và trong cương vị thư kí ông Cốp, anh ta thực sự trở thành một “hàng rào” – “bảo
vệ” ông Cốp khỏi những kiến nghị, những nỗi niềm của người dân. Chính vì Thư Ký,
mà không biết bao nhiêu đơn từ của người dân đều bị ném vào sọt rác một cách không
thương tiếc!
Những từ ngữ ấy, chỉ ra bản chất của nhân vật. Đồng thời, qua đó, hé lộ cho chúng
ta những vấn nạn và những bất cập của đời sống.
Nói về đam mê cả đời của Đại Gia, nhà văn viết:
“… cả đời ông chỉ có hai đam mê, một là chân dài. Hai là nuôi cá cảnh. … Cả hai
thứ đều phải nuôi. .. Mỗi cô một vốn liếng, cho là cho, cứ thế mà lối nhỏ vào đời”.
Là một người sinh ra trong thế kỉ XX, chúng ta sẽ hiểu ngay phạm vi biểu hiện của
từ “nuôi” trong câu văn này. Hiện tượng “đại gia – chân dài” bây giờ có thể xem là
“mốt” trong xã hội. Và cái “lối nhỏ vào đời” mà Đại Gia vẽ ra cho những cô gái chân
dài có cái giá riêng của nó, mà người ngoài cuộc cũng có thể hình dung ra phần nào!
Rõ ràng, cái đa nghĩa của ngôn ngữ văn học là hiển nhiên, nhưng Hồ Anh Thái đã
thổi vào đó hơi thở nóng hổi của đời sống đương đại và giọng điệu châm biếm của
riêng mình.
III. Giọng điệu trong tiểu thuyết “SBC là săn bắt chuột”.
1. Giọng hài hước, châm biếm.
Trong một bài viết, Nguyễn Đăng Điệp khẳng định: “Trong truyện Hồ Anh Thái,
nhất là giai đoạn sau, ta bắt gặp khá nhiều chất giễu nhại. Sự xuất hiện của loại
21 | P a g e


giọng điệu này hiếm khi xuất hiện trong tư duy nghệ thuật sử thi. Cái nụ cười chua

chát về cõi nhân sinh, khả năng lật tẩy những sự trớ trêu nghịch cảnh trong đời chỉ có
thể đo được khi nhà văn không nhìn đời bằng cảm hứng lãng mạn thuần túy màu
hồng mà nhìn nó như những mảnh vỡ”.
Trong một tác phẩm văn học, có thể có nhiều giọng điệu nhưng bao giờ cũng có
một giọng chủ đạo, với “SBC là săn bắt chuột”, giọng điệu chủ đạo chính là giọng
hài hước, châm biếm.
Giọng điệu đó được thể hiện bằng hệ thống ngôn ngữ hiện đại, với những câu văn
lặp cấu trúc, sử dụng nhiều từ tình thái; câu văn khá ngắn, ngắt liên tục, đồng thời
chêm xen lời bình giá của chính người kể chuyện, mà nhiều khi chúng ta không tách
bạch được đó là lời người kể chuyện hay của nhân vật.
Cái chết đột ngột của Đại Gia gây nên một chấn động không nhỏ. Đám ma hoành
tráng của ông ta có sự góp mặt của biết bao người tai to mặt lớn. Và một thủ tục trong
đám tang là mọi người xếp hàng đi qua quan tài, nhìn mặt người chết lần cuối thay
cho lời từ biệt. Lẽ ra đó phải là giây phút vô cùng thiêng liêng, nhưng hình như nó lại
xa lạ với Đại Gia:
“Nhòm một cái. Ăn cho lắm vào, giờ thì chán cơm thèm đất, nằm ở dưới đấy cho
cá trê nó sục nhé. Nhòm một cái. Ngủ yên đi, yên luôn cả những kế hoạch chỉ chúng
mình biết với nhau”.
Những người bạn thân tín với ông khi nhìn mặt ông trong quan tài đâu phải để xót
xa mà là để cảm thấy hả hê, nhẹ người. Họ nhìn là để kiểm chứng lại sự thật là những
công việc bất chính sẽ bị chôn sâu, hoặc để tiếc rẻ về một khoản phân chia chưa thành.
Câu văn điệp cấu trúc, như những cái thở phào của những người bạn làm ăn đích thực.
Nó không phải lời nhắn nhủ của một người, mà của nhiều người, đang gửi tới người
đã khuất. “Ăn cho lắm vào”, “ngủ yên đi” - Chua xót và khôi hài biết mấy! Những
câu văn của Hồ Anh Thái đã giải thiêng cho một phong tục mang tính tâm linh của
người Việt. Nó khiến chúng ta phải suy nghĩ về cái thật và giả về tình người trong xã
hội thực dụng ngày nay.
Trong một bài trả lời phỏng vấn, Hồ Anh Thái đã chia sẻ: “Tôi không đặt văn
chương vào tháp ngà mà để cho nó chung sống với những vấn đề nhạy cảm của xã
hội”.Ông chẳng né tránh mà đối diện với mọi vấn nạn của thời đại, dám đề cập tới

nhiều khía cạnh đen tối của cuộc đời, bằng một thái độ châm biếm, giễu nhại.
22 | P a g e


Các nhà lãnh đạo luôn hô hào phải vì nhân dân, muốn đất nước mạnh thì mỗi gia
đình phải mạnh, muốn gia đình mạnh thì mỗi cá nhân phải nỗ lực, phải được chăm lo,
… Chính ông Cốp cũng đứng trước nhân dân mà dõng dạc nói như thể đó là những lời
tâm can của mình. Nhưng bao nhiêu đơn từ của dân, ông cho thư ký lọc, và đa phần
đều rơi vào sọt rác hết cả!
“Kính gửi ông, vùng biển quê tôi nước biển đang lấn dần vào bờ, tôi có sáng kiến
trồng cây ở vùng ngập mặn để cứu đất. Việc này thì ông ta chỉ cần nói với chính
quyền địa phương là xong. Púp. Lá thư bay xuống cái sọt tre. Kính gửi bác, chúng
cháu là lực lượng thanh niên tình nguyện phườn, mỗi khi triều cường chúng cháu huy
động anh em ra hướng dẫn giao thông trong khu vực, nhưng phường lại cho là chúng
cháu cản trở giao thông. Việc này mà phải viết thư cho sếp thì mỗi ngày sếp phải
nhận cả triệu lá thư. Púp. Vào sọt nhựa. …”
Ông cũng mặc kệ đám vệ sĩ lôi ngay người phụ nữ tội nghiệp đội đơn trước mặt
ông trên đường đi. Cái điệp khúc “Púp”- “Púp” ấy khiến người đọc lắc đầu. Đó là
thói “quan liêu” mà rất nhiều quan chức ngày nay mắc phải. Nói hay, và thích đẹp
mặt, tạo ra vẻ ngoài hào nhoáng, giả dối: “Đẹp mặt mình, đẹp mặt quần chúng. Cứ thế
dần dà, ông Cốp cũng quen với việc sáng ra được tướng bà sơn vẽ kẻ biển. … ông
biết cách kín đáo cắn môi cho đỏ thêm một tí, láng ướt một tí”. Câu văn nghe đầy chế
giễu khi tác giả nhấn mạnh vào hai từ “một tí”. Chân dung ông Cốp hiện ra khôi hài
như một thằng hề đỏm dáng, giỏi giả bộ, giỏi nói mà làm thì ít!
Không những động tới chính trị, Hồ Anh Thái còn tạo tiếng cười hài hước, khi gắn
cho mỗi nhân vật một câu chuyện riêng lắt léo.
Chắc hẳn không ai quên câu chuyện về ba trái tim đầy châm biếm khi tác giả phác
họa nên chân dung anh Luật Sư. “Một người bệnh cần thay tim. Bác sĩ cho anh ta ba
khả năng lựa chọn. Có ba quả tim. Thứ nhất là tim của một lực sĩ cử tạ bị tai nạn
trong lúc tập luyện. Thứ hai là tim của một chàng thủy thủ tuổi hai mươi. Thứ ba là

tim của một luật sư đã hành nghề ba chục năm. Ngay lập tức bệnh nhân nói luôn, tôi
chọn quả tim của luật sư. Vì sao? Vì chắc chắn đó là quả tim không hề sử dụng, còn
nguyên như mới”. Chỉ là một câu chuyện tiếu lâm nghề nghiệp nhưng nó đã cảnh báo
cho ta về sự lí trí đến lạnh lùng, vô cảm của những Luật sư – kẻ được coi là đại diện
cho công lý.
Cô Á khôi toàn quốc gây ấn tượng bằng cái tên “Á hậu kim tiêm” có xuất phát
điểm là một cô thôn nữ có nghĩa cử cao đẹp: đi nhặt kim tiêm quanh làng mình, tránh
23 | P a g e


cho mọi người dẫm phải. Nhưng sau cái ngày gặp Đại Gia, được ông “đầu tư” cho
một “lối nhỏ vào đời” thì sao? Chỉ một lát cắt nhỏ trong sự gắn bó giữa cô và Đại Gia
cũng đã đủ cho chúng ta thấy, cái giá cho ánh hào quang của danh hiệu hoa khôi kia:
“Nhờ em cả đấy. Ông đặt tay lên bộ ngực trần của á hậu kim tiêm. Mọi sự là nhờ
anh. Á hậu dịch tay xuống dưới cái mông trần của ông. Họ tổng kết chiến dịch trên
những khu vực bỏ ngỏ, trong căn hộ chung cư cao cấp gần Bờ Hồ mà ông tặng cô”.
Sự thật trần trụi đó đã trút bỏ toàn bộ vẻ lấp lánh của chiếc vương miện hoa khôi
mà lẽ ra vô cùng cao quý với bất cứ người con gái nào. Hồ Anh Thái đã chỉ cho chúng
ta thấy không ít những điểm nóng nhức nhối của xã hội.
Giọng điệu châm biếm của ông còn thể hiện ở việc ông “nhại” các câu ca, bài hát
hay sáng tạo những câu thơ “chế” theo kiểu hiện đại. Như:
“Không mê học thức công danh, trên đời em chỉ mê tranh Bác Hồ”.
Câu thơ sử dụng triệt để phép đối lập: “không mê” >< “chỉ mê”. “Học thức,
công danh” >< “tranh Bác Hồ”. Cách nói hóm hỉnh: xưng “em” và hình ảnh “tranh
Bác Hồ” khiến ta bật cười! Tranh ở đây nào phải hội họa, mà là tiền – thứ mà xã hội
hiện đại vẫn phong cho nó quyền năng kì diệu “có tiền mua tiên cũng được”. Trong
“SBC là ăn bắt chuột”, sự chi phối của đồng tiền được khắc họa rõ qua nhiều nhân
vật, trong đó có Luật Sư. Có lẽ chưa có ai như anh ta, đòi cả tiền mừng tuổi của mẹ,
sẵn sàng lừa mẹ để bán biệt thự cho Đại Gia. Tiền hút cạn tình cảm của Luật Sư, hắn
cư xử như một kẻ máu lạnh, bất kể cả thứ tình cảm thiêng liêng nhất là “tình mẫu tử”.

Thật là cái cười chua chát!
Giọng điệu hài hước còn toát ra trong khi nhà văn miêu tả các nhân vật. Giọng điệu
rất khách quan mà tưng tửng, như dạo chơi, như đang kể chuyện vui vậy. Hồ Anh Thái
đưa vào nhiều khẩu ngữ, những tình thái từ khiến câu văn tự nhiên, suồng sã và tự
nhiên như đang đối thoại trực tiếp với người đọc: “Ấy thế”, “có nghĩa là”, “rồi
cũng”, “thế kia mà”, … Hơn nữa, cái cười toát ra từ chính sự mâu thuẫn, trái khoáy
giữa nội dung và hình thức của nhân vật, giữa cái thật và giả, …
2. Giọng điệu chua xót, chán chường.
Bên cạnh giọng điệu hài hước, châm biếm, chúng ta thấy nhiều khi nhà thơ không
giấu được sự chán chường, chua xót trước hiện thực. Thái độ ấy của nhà thơ có khi ẩn
phía sau tiếng cười. Đặc biệt là phía sau lời nhại. Nhà văn nhại không chỉ để giễu mà
còn để giúp chúng ta biết xấu hổ, biết chua xót mà nhìn lại bản thân.
24 | P a g e


Theo lời kể của nhà văn Lê Minh Khuê, Hồ Anh Thái rất hay kêu “chán quá”. “Có
lẽ nó là sự tức tối, là nỗi tuyệt vọng trước những điều mình muốn tốt đẹp mà không
được”. Điều đó chứng tỏ, Hồ Anh Thái dành cho cuộc đời rất nhiều tình cảm, chứ
chẳng hề “chán” đời chút nào! Nhưng chính vì càng khám phá ra những góc khuất,
nhìn ra những cái xấu của đời sống hiện tại mà ông buồn chán, bởi chẳng đủ sức thay
đổi nó. Phải chăng, ông viết văn, cũng là một trong những nỗ lực để làm thế giới này
tốt đẹp hơn lên?
Trước những hiện tượng của xã hội, Hồ Anh Thái chỉ ra một cách thẳng thắn. Tuy
nhiên, thái độ của nhà văn không bộc lộ một cách lộ liễu, mà ta chỉ có thể thấy kín
đáo, qua những câu văn khách quan, tỉnh táo.
“Gã đã quyết. Trong đám con gái theo gã như một tiểu đoàn, gã chọn. Chọn ra
như chọn cá. Con cá tươi nhất là con một ông tướng. Muốn con hay chữ thì yêu lấy
thầy. Tức là thầy mới là mục đích, còn yêu là biện pháp để đạt mục đích. Yêu cha mà
lấy con. Con là phương tiện.”
Nhà văn nêu ra một cách thản nhiên tình trạng thực dụng của con người. Đâu chỉ

anh trai ông Cốp, mà cả Giáo Sư cũng chọn cho mình con đường tiến thân nhàn nhã
ấy. Dường như nó đã thành con đường mòn vậy. “Yêu cha mà lấy con”. Sự lười biếng,
lợi ích của bản thân đã khiến con người tha hóa, coi rẻ tình yêu cũng như hạnh phúc
gia đình.
Chua chát hơn, phải là cảnh gia đình Luật Sư. Có người con nào như anh ta không?
Đối xử với mẹ như cỗ máy, đem lí lẽ ra nói với mẹ, mắng mỏ, thậm chí tranh thủ khi
mẹ đột quỵ, lừa mẹ kí vào giấy bán nhà, … Sống chẳng hiếu nghĩa với mẹ. Thế mà
sau khi mẹ chết một năm, anh ta lại dăng ra những bài thơ chắp vá, những bức tranh
tập tọe thành triển lãm tưởng nhớ mẹ. Bi hài biết mấy! Có lẽ đúng là trái tim của hắn
cũng chẳng hề được sử dụng suốt bao năm hành nghề, như câu chuyện kia.
Ghê rợn nhất, khiến người đọc cũng phải rùng mình chính là vụ tai nạn do gã đại
gia miền Trung thích thể hiện tay lái gây ra. Với gã “Một mạng người thời nay đền
đúng giá chỉ có một nghìn đô, nhiều thì nghìn rưởi. Đấy là phải biết làm luật, không
để gia quyến khổ nạn hét giá”. Gã biết suy nghĩ, tính toán thiệt hơn, nhưng đau lòng
thay, đó là suy nghĩ và hành động của một kẻ vô nhân tính!“Thà rằng đền một cục” –
Nghĩ thế, hắn bỏ qua lời gào thét của những người xung quanh, bảo gã lùi lại vì cậu
thanh niên đang nằm ngay trước bánh xe. “Gã làm như không hiểu ý. Gã nhấn ga lên
một tí. Rốp một cái. Bánh phải hơi nảy lên. Lùi lùi lùi. Lùi à, thì lùi. Gã lùi xe lại, một
25 | P a g e


×