MỤC LỤC
Trang
I.LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................................
II.NỘI
DUNG.............................................................................................................
1.Khái niệm quyền bào chữa.......................................................................................
2.Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa quy định trong hiến pháp 2013.....................
3.Các biện pháp quy định trong pháp luật hiện nay cơ bản đã đáp ứng được những
đòi hỏi để đãm bảo quyền con người trong Bộ luật TTHS năm 2015. Tuy nhiên các
quy định trên đang còn nhiều hạn chế và bất cập .......................................................
4.Một số kiến nghị cho Tòa án để đáp ứng quyền bào chữa của người dân................
III.LỜI
KẾT...............................................................................................................
IV.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................
I.LỜI MỞ ĐẦU
Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì vấn
đề hoàn thiện, nâng cao, cải cách nề nếp tư pháp đang là một trong những vấn đề
cấp bách và cần thiết. Kết quả của cuộc cải cách tư pháp đã ghi nhận được rất
nhiều những kết quả tốt, điều này được thể hiện qua lần mới đây nhất là cho ra đời
“Hiến pháp 2013 và Bộ luật TTHS năm 2015” lần đầu tiên pháp luật quy định rõ
và cụ thể “nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa” . Có thể nói trước đây quyền tự
bào chữa hoặc nhờ người bào chữa là rất mờ nhạt, mà chỉ tới Hiến pháp 2013 mới
quy định rõ ràng quyền bào chữa của các giới “Luật sư” . Đây được xem như là
một bước đột phá để bảo vệ quyền công dân, quyền con người, những tầng lớp xã
hội yếu thế khi mà những thân chủ của mình đa số đều là những người ít hiểu biết
về pháp luật không thể tự mình bảo vệ quyền và lợi ích hớp pháp cho mình. Tại
Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính Trị cũng đã có những quy định về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020 như sau:“Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính
trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đặt mục tiêu: Xây dựng nền tư
pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước
hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt
động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu
lực cao. Để đạt được mục tiêu này, nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp là phải nâng
cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt
động tư pháp. Theo đó, yêu cầu đầu tiên đối với hoạt động cải cách tư pháp là phải
đảm bảo cho bị can, bị cáo thực hiện được quyền tự mình bào chữa hoặc nhờ người
khác bào chữa.”
II. NỘI DUNG
1. Khái niệm quyền bào chữa
Một trong những hình thức đầu tiên và cơ bản nhất để đảm bảo thực hiện quyền
con người, đó chính là ghi nhận công dân có quyền tự bảo vệ mình trước bất kỳ sự
xâm phạm nào. Trong quan hệ pháp luật hình sự, mối quan hệ giữa một bên là
người bị tình nghi phạm tội hay người bị buộc tội và một bên là đại diện các cơ
quan tiến hành tố tụng, có nghĩa vụ chứng minh hành vi phạm tội của người bị tình
nghi là có hành vi phạm tội. Trong mối quan hệ này, n gười bị buộc tội là phạm
một tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi tội của người đó được
chứng minh theo pháp luật. Để chống lại xu hướng áp đặt của các cơ quan tiến
hành tố tụng, pháp luật đã dành cho người bị buộc tội quyền tự bảo vệ mình, chứng
minh mình vô tội trước các cáo buộc của các cơ quan tiến hành tố tụng, đó chính là
quyền bào chữa. Quyền này đã được chính thức ghi nhận trong Tuyên ngôn về
nhân quyền của Liên Hợp quốc: “bị cáo về một tội hình sự được suy đoán là vô tội
cho đến khi có đủ bằng chứng phạm pháp trong một phiên xử công khai với đầy đủ
bảo đảm cần thiết cho quyền biện hộ”. Quyền bào chữa được xem xét ở 3 khía
cạnh: chủ thể được hưởng quyền, nội dung của quyền, và giới hạn của chủ thể.
Như vậy, có thể khái quát quyền bào chữa là quyền của người bị bắt, tạm giữ, tạm
giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử dùng để bảo vệ trước các chủ thể tiến hành
tố tụng từ thời điểm bị buộc tội đến khi có quyết định của cơ quan tiến hành tố
tụng về việc có tội hay không có tội.
2. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa quy định trong Hiến pháp 2013
a) Người bị bắt, tạm giử. tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự
bào chữa, nhờ Luật sư hoặc người khác bào chữa (Khoản 4 điều 31 Hiến pháp năm
2013).
Nguyên tắc này được quy định tại khoản 4 điều 31 Hiến pháp năm 2013, bảo đảm
cho người bị buộc tội có quyền được tự mình bào chữa hoặc nhờ người khác bào
chữa. Quyền bào chữa, được bào chữa cho phép người bị buộc tội có chỗ dựa về
pháp lý, tinh thần, kiến thức, niềm tin để công khai đứng ra bảo vệ mình, chống lại
sự cáo buộc có tội của bên buộc tội. Người bị buộc tội có quyền bào chữa hoặc nhờ
người khác bào chữa kể từ khi bị tạm giữ, bị khởi tố về hình sự, tức là từ khi có
quyết định khởi tố bị can, trở thành bị can trong vụ án hình sự đến khi bị đưa ra xét
xử, trở thành bị cáo. Đối với những vụ án mà hành vi phạm tội của bị can, bị cáo bị
buộc vào tội phạm có mức hình phạt cao nhất là tử hình hoặc là người chưa thành
niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì bắt buộc phải có người
bào chữa cho họ, cả trong trường hợp họ không thuê người bào chữa. Trường hợp
này, trách nhiệm cử người bào chữa thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Ngoài
ra, việc áp dụng nguyên tắc này bảo đảm cho việc khởi tố, điều tra, truy tố và xét
xử của các cơ quan tiến hành tố tụng phải tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp
luật, việc buộc tội đối với bị can, bị cáo phải có căn cứ vững chắc và đúng pháp
luật, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội.
b) Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích của đương sự được đãm
bảo (Khoản 7 điều 103 Hiến pháp năm 2013)
Theo quy định trên thì Hiến pháp năm 2013 đã kế thừa và có bổ sung cho chính
xác, phù hợp với thực tiễn và tinh thần cải cách tư pháp một số nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của Tòa án nhân dân - cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp ở
nước ta.
Về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích
hợp pháp của đương sự. Để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền con người một cách
toàn diện, công bằng, Hiến pháp năm 2013 ngoài việc quy định quyền bào chữa
của bị can, bị cáo, còn bổ sung việc bảo đảm quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của
các đương sự khác như người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong hoạt động xét xử của Tòa án.
Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 bổ sung một số nguyên tắc quan trọng, bảo đảm
sự phù hợp với tinh thần Cải cách tư pháp, bảo vệ quyền con người và thông lệ
quốc tế. Nguyên tắc được bổ sung là nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo
đảm. Đây là nguyên tắc thể hiện nội dung rất quan trọng trong cải cách tư pháp ở
nước ta. Sự thật chỉ được xác định, công lý chỉ được thiết lập khi có sự tranh tụng
giữa các bên trong tố tụng tư pháp, nhất là trong xét xử các vụ
3. Các biện pháp quy định trong pháp luật hiện nay cơ bản đã đáp ứng được
những đòi hỏi để đãm bảo quyền con người trong Bộ luật TTHS năm 2015.
Tuy nhiên các quy định trên đang còn nhiều hạn chế và bất cập.
3.1. Những ưu điểm, thuận lợi
Trong Văn kiện Đại hội Đảng năm 2001, Đảng ta đã xác định tiếp tục đẩy mạnh
cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp
chế, đồng thời, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân.
Ngày 2-1-2002, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, trong đó nêu rõ: “đảm bảo
tranh tụng dân chủ giữa kiểm sát viên tại phiên tòa với luật sư, người bào chữa và
những người tham gia tố tụng khác”, “các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều
kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên
cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa...”.
Ngày 24-5-2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020, trong đó nêu rõ: “lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ
quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng
hoạt động tư pháp”.
Song song với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, Bộ Chính trị tiếp tục ban hành
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2-6-2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 về thực hiện chủ trương và triển khai các nhiệm vụ cải cách tư pháp (sau đây
gọi là Nghị quyết số 49). Theo đó, một trong các nhiệm vụ cải cách tư pháp đến
năm 2020 được xác định trong Nghị quyết 49 là phải “đổi mới việc tổ chức phiên
tòa xét xử,... Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là
khâu đột phá của hoạt động tư pháp”.
Các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 đều xếp quyền bào chữa trong chương
về cơ quan tư pháp. Hiến pháp năm 1992 quy định ghi nhận quyền bào chữa của bị
can, bị cáo như là yêu cầu và nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân khi thực
hiện việc xét xử. Điều 132 Hiến pháp năm 1992: Quyền bào chữa của bị cáo được
bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Tổ
chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình và góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Như vậy,
quyền bào chữa của người bị buộc tội chỉ được đảm bảo thực hiện trong phạm vi
của giai đoạn tại Tòa án (giai đoạn xét xử). Khắc phục hạn chế này, Hiến pháp năm
2013 không chỉ quy định quyền bào chữa của bị can, bị cáo là một nguyên tắc của
hoạt động xét xử mà quyền bào chữa còn được mở rộng đối với “Người bị bắt, tạm
giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử”. Quyền bào chữa trong Hiến pháp
2013 được sắp xếp trong nhóm quyền cơ bản của công dân, quyền con người. Như
vậy, Hiến pháp đã xác định rõ quyền bào chữa là quyền con người, quyền công dân
nên không chỉ cơ quan xét xử mà tất cả các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xã hội
phải có trách nhiệm tôn trọng và được Nhà nước đảm bảo thực hiện.
Thực hiện cải cách tư pháp và Hiến pháp năm 2013, nhiều văn bản luật ra đời
nhằm tạo cơ chế pháp lý bảo đảm thực hiện quyền bào chữa như: Bộ luật Tố tụng
hình sự, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát, Luật Luật sư,
Luật Trợ giúp pháp lý... và nhiều văn bản dưới luật khác. Đây vừa là cơ sở vừa là
căn cứ để thực hiện quyền bào chữa.
3.2.Những hạn chế, bất cập
Các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo về cơ bản đã đáp ứng được những đòi hỏi của các quy định
quốc tế về bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự, bao gồm quyền được
bào chữa, quyền được xét xử công bằng. Tuy nhiên, các quy định này còn có
những hạn chế, bất cập.
Theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2015 thì người bị buộc tội có quyền nhờ
người bào chữa, nhưng ngay cả khi người bị buộc tội được giải thích đầy đủ các
quy định của pháp luật về quyền bào chữa, họ vẫn khó tiếp cận được với người bào
chữa, bởi họ đang bị tạm giữ, tạm giam. Mặt khác, người bị buộc tội không có
người thân thích hoặc có người thân thích nhưng không đủ điều kiện về năng lực
dân sự thì cũng khó có thể liên hệ người bào chữa thay cho người bị buộc tội.
Việc thay thế thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa thành thủ tục đăng ký bào
chữa làm cho thủ tục tham gia tố tụng của người bào chữa được rút ngắn hơn. Tuy
nhiên, Bộ luật TTHS năm 2003 và Bộ luật TTHS năm 2015 đều không quy định
khoảng thời gian đủ để chuẩn bị cho công tác bào chữa. Vấn đề này thường gặp
trong giai đoạn xét xử, khi mà sau khi có quyết định xét xử (thậm chí đến ngày xử)
luật sư mới gửi các thủ tục tham gia tố tụng đến tòa án. Những trường hợp này là
quá ngắn để luật sư đủ thời gian để nghiên cứu hồ sơ, tiếp xúc với người bị buộc
tội nhằm đảm bảo cho việc bào chữa tại tòa. Những quy định của Bộ luật TTHS
năm 2003 và Bộ luật TTHS năm 2015 chỉ được hoãn phiên tòa khi: “Vắng mặt
người bào chữa lần thứ nhất mà không có lý do chính đáng” nên yêu cầu của người
bào chữa hoãn phiên tòa để có thời gian nghiên cứu hồ sơ và tiếp xúc với bị can, bị
cáo nhiều khi không được chấp nhận. Nên thực tế rất nhiều luật sư đã đề cập, đó là:
“cố tình” vắng mặt lần thứ nhất để hoãn phiên tòa để đảm bảo đủ thời gian tiếp xúc
với hồ sơ và bị can, bị cáo.
Trong các quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý, đối tượng được trợ giúp
pháp lý không nhiều và thủ tục trợ giúp pháp lý còn phức tạp. Theo Điều 10 Luật
Trợ giúp pháp lý, đối tượng trợ giúp pháp lý bao gồm: người nghèo; người có công
với cách mạng; người già cô đơn, người tàn tật và trẻ em không nơi nương tựa;
người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn vànạn nhân theo quy định của pháp luật phòng, chống mua bán người và các
đối tượng khác được trợ giúp pháp lý theo quy định tại điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên. Trong khi đó, để được trợ giúp pháp lý, người dân phải nộp
nhiều giấy tờ thủ tục tố tụng vốn chỉ được gửi cho bị can, bị cáo và người được trợ
giúp pháp lý còn phải có các loại giấy tờ chứng minh thuộc đối tượng được hưởng
trợ giúp pháp lý. Mặt khác, người bị tạm giữ sẽ khó có thể tìm được người bào
chữa thông qua trợ giúp pháp lý ngay từ khi bắt đầu hỏi cung (ở giai đoạn điều tra)
vì phải thực hiện một số thủ tục hành chính để có thể có được những giấy tờ nêu
trên. Hơn nữa, các văn bản tố tụng nêu trên thường chỉ giao cho người bị tạm giữ,
tạm giam mà không giao cho gia đình họ nên rất khó cho gia đình và bản thân
người bị buộc tội có thể tiếp cận được trợ giúp viên pháp lý. Mặt khác, các chủ thể
tiến hành tố tụng thường không chú trọng việc giải thích pháp luật về trợ giúp pháp
lý, cũng như không yêu cầu trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng.
Pháp luật Việt Nam quy định người bị buộc tội có thể tự mình bào chữa hoặc nhờ
người khác bào chữa, nhưng trên thực tế, phần lớn người phạm tội thiếu hiểu biết
về pháp luật. Do đó, người bị buộc tội khó có khả năng thực hiện việc tự bào chữa
tại phiên tòa. Đặc biệt, đối với người bị tạm giữ, tạm giam mà không có người thân
thích thì rất khó tiếp cận với các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt
động tố tụng hình sự và trách nhiệm hình sự đối với chính bản thân họ.
4. Một số kiến nghị cho Tòa án để đáp ứng quyền bào chữa của người dân
- Để đảm bảo cho việc áp dụng thống nhất pháp luật khi Bộ luật TTHS năm 2015
có hiệu lực, Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp cần ban hành Thông tư liên tịch về đảm bảo
quyền bào chữa trong tố tụng hình sự từ giai đoạn điều tra, truy tố đến xét xử.
- Nguyên tắc khi thực hiện quyền bào chữa cho người bị buộc tội là cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải có trách nhiệm giải thích đầy đủ các quy định về
quyền bào chữa. Để thực hiện tốt điều này, trong các giai đoạn tố tụng phải lập
biên bản về việc giải thích quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội, trong đó có
quyền bào chữa, người bị buộc tội phải ký xác nhận là đã được giải thích các
quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Các biên bản này phải được lưu tại
hồ sơ vụ án như một quy định bắt buộc.
- Để đảm bảo tốt nhất cho yêu cầu lựa chọn người bào chữa, các Đoàn luật sư,
Trung tâm trợ giúp pháp lý cần có danh sách các luật sư và trợ giúp viên pháp lý
(ghi rõ địa chỉ liên hệ, điện thoại, khái quát về năng lực...) gửi đến các cơ sở tạm
giữ, tạm giam, được niêm yết công khai.
- Để đảm bảo tốt nhất cho quyền bào chữa, các nhà tạm giữ, trại tạm giam cần có
phòng riêng cho việc tiếp xúc giữa người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam với
người bào chữa.
Xây dựng quy chế làm việc của người bào chữa khi tiếp xúc với người bị bắt,
người bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ, trại tạm giam hoặc cơ sở giam giữ
khác và được áp dụng thống nhất trên phạm vi cả nước.
- Cần có quy định hướng dẫn sau khi người bào chữa đăng ký bào chữa cho người
bị buộc tội thì họ có quyền đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng tạm hoãn các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử trong thời gian hợp lý để họ
có đủ thời gian nghiên cứu về vụ việc thực hiện quyền bào chữa.
- Trong trường hợp đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử, bị cáo mới lựa chọn
người bào chữa và người bào chữa có yêu cầu thì Hội đồng xét xử phải tạm hoãn
phiên tòa để người bào chữa có đủ thời gian tiếp xúc với bị cáo và nghiên cứu hồ
sơ vụ án.
- Để tăng cường việc bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự, Luật Trợ giúp
pháp lý cần mở rộng phạm vi hoạt động của Trợ giúp viên pháp lý. Đồng thời, cần
quy định trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng trợ giúp pháp lý miễn phí
hoặc là thành viên của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mà người bị buộc tội
không có yêu cầu lựa chọn luật sư bào chữa thì cơ quan tiến hành tố tụng phải có
văn bản đề nghị Trung tâm trợ giúp pháp lý (nếu thuộc đối tượng trợ giúp pháp lý)
hoặc Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (nếu thuộc thành viên Mặt trận) cử người
bào chữa cho họ. Trường hợp người bị buộc tội từ chối người bào chữa là trợ giúp
viên pháp lý hoặc bào chữa viên nhân dân thì vẫn tiếp tục các hoạt động tố tụng.
Nếu vi phạm thì tùy từng trường hợp có thể trả hồ sơ điều tra bổ sung hoặc hủy án
để xét xử lại.
- Trại tạm giam, nhà tạm giữ và cơ sở giam giữ cần tạo điều kiện cho người bị
buộc tội muốn tự mình bào chữa được tiếp xúc với các văn bản quy phạm pháp luật
liên quan. Hội đồng xét xử cần tạo điều kiện và cho phép bị cáo có quyền mang
các tài liệu, văn bản liên quan để thực hiện quyền bào chữa của mình.
III.LỜI KẾT
Trong quá trình thực hiện, mặc dù đang còn tồn tại rất nhiều những hạn chế, bất
cập cùng những khó khăn vướng mặc chưa được giải quyết kịp thời. Tuy nhiên kết
quả cải cách nền tư pháp đã ghi nhận quyền bào chữa trong “Hiến pháp 2013 và
BLTTHS 2015” là một thành công đáng ghi nhận. Bỡi lẽ Luật Sư vào cuộc sẽ phần
nào bảo vệ được tối đa quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ mình, pháp luật sẽ
ngày càng công minh hơn khi quyền và lợi ích hợp pháp của con người đặt ở vị trí
tối thượng, đồng nghĩa với việc oan sai ngày càng giảm đi. Tôi hi vọng trong quá
trình cải cách đổi mới sẽ còn có thêm nhiều những quyền và lợi ích khác để bảo vệ
con người nói chung và bảo vệ người yếu thế nói riêng.
IV.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp năm 2013
2. Bộ luật TTHS năm 2003
3. Bộ luật TTHS năm 2015
4. Luật luật sư 2012 (sửa đổi, bổ sung)
5. NQ 49-NQTW. BCT Quy định về chiến lược cải cách tư pháp
6. NQ 48-NQTW.BCT
7. Luật trợ giúp pháp lý 2006