Luật Kinh tế
KHOA KINH TẾ
ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN
BÀI GIẢNG
LUẬT KINH TẾ
BUÔN MA THUỘT 2012
-2-
Luật Kinh tế
CHƯƠNG I
GIỚI THIỆU VỀ LUẬT KINH TẾ
I. KHÁI QUÁT VỀ LUẬT KINH TẾ
l. Luật Kinh tế trong khoa học pháp lý
a. Cơ sở thực tiễn của ngành Luật kinh tế
Ngành Luật Kinh tế đã hình thành tại các nước tư bản từ đầu thế kỷ XX. Tới những năm 60, 70 ở
Liên Xô (cũ) ngành luật này cũng đã được hình thành. Tại Việt Nam, để thực hiện thắng lợi sự nghiệp
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước đòi hỏi nhà nước phải trực tiếp tham gia tổ chức, điều hành các
hoạt động kinh tế, Luật Kinh tế với tư cách là ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam cũng
được hình thành từ những năm 70 của thế kỷ XX. Cho tới những năm gần đây, trong quá trình hội nhập
với nền kinh tế thế giới, quan điểm của nhà nước Việt Nam về quản lý các hoạt động kinh tế thay đổi.
Theo đó, nhà nước không can thiệp sâu vào các quá trình kinh tế cụ thể mà xây dựng một hệ thống pháp
luật hoàn chỉnh, tạo một môi trường pháp lý, một hành lang pháp luật nhằm bảo đảm tính tự chủ, tự do
kinh doanh, tự định đoạt của các chủ thể kinh doanh. Quan điểm này hoàn toàn phù hợp với mục tiêu xây
dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà
nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính vì thế nội dung của pháp luật trong lĩnh vực kinh tế có
nhiều thay đổi. Ở góc độ lý luận, ngày càng đông đảo các nhà khoa học pháp lý cho rằng, với nội dung
đó tên gọi ngành Luật Kinh tế không còn phù hợp, ngành luật này cần được gọi là ngành Luật Thương
mại. Bên cạnh đó, từ lâu nay, tại Việt Nam vẫn tồn tại một tên gọi khác đối với các quy định của pháp về
lĩnh vực kinh tế là Luật Kinh doanh. Tuy nhiên, tên gọi này chủ yếu được hiểu với danh nghĩa một môn
học.
b. Một số vấn đề cơ bản của ngành Luật Kinh tế
* Chủ thể tham gia quan hệ kinh tế
- Cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế.
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện quản lý mọi mặt của đời sống xã hội,
trong đó có lĩnh vực kinh tế. Cơ quan có chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực này là hệ thống cơ
quan hành chính nhà nước gồm Chính phủ vả Uỷ ban nhân nhân các cấp. Trong quan hệ giữa cơ quan
quản lý nhà nước về kinh tế với các chủ thể kinh doanh thì các cơ quan hành chính nhà nước có quyền
lực nhà nước giữ vai trò quản lý, các chủ thể kinh doanh là đối tượng chịu sự quản lý.
- Chủ thể kinh doanh.
Trong nền kinh tế tập trung trước đây ở Việt Nam chỉ có hai loại chủ thể kinh doanh là doanh
nghiệp quốc doanh, tổ chức kinh tế tập thể. Khi xây dựng nền kinh tế thị trường có thêm một số chủ thể
kinh doanh. Hiện nay chủ thể kinh doanh gồm các thương nhân theo quy định của Luật Thương Mại (tổ
chức kinh tế, cá nhân có đăng ký kinh doanh, tổ hợp tác, hộ gia đình, thương nhân nước ngoài). Trong đó
chủ thể kinh doanh cơ bản là các doanh nghiệp, vì chúng tiến hành thường xuyên, liên tục các hoạt động
kinh doanh, thương mại thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Kinh tế.
- Chủ thể khác.
Bao gồm các tổ chức, cá nhân Việt nam, các tổ chức, cá nhân nước ngoài có quan hệ với thương
nhân trong quá trình thương nhân thực hiện hành vi thương mại và lựa chọn điều chỉnh quan hệ này bằng
Luật Thương Mại. Ngoài ra là các tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam và các hoạt
động đầu tư ra nước ngoài theo Luật Đầu tư. Đây là các chủ thể không thường xuyên tiến hành các hoạt
động kinh doanh, tuy nhiên lại có số lượng khá lớn.
* Quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Kinh tế
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật nói chung là các quan hệ xã hội mà pháp luật tác động tới.
Luật Kinh tế tác động tới các quan hệ sau đây:
- Quan hệ phát sinh giữa cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về kinh tế với các chủ thể
kinh doanh:
Trong quan hệ này, một bên là cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện có chức năng quản lý,
một bên là các tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý nên có địa vị pháp lý không bình đẳng. Căn cứ pháp lý
của quan hệ giữa cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về kinh tế với các chủ thể kinh doanh là văn
bản pháp luật do nhà nước ban hành.
- Quan hệ giữa các chủ thể kinh doanh với nhau:
-3-
Luật Kinh tế
Để thực hiện hoạt động kinh tế, thương mại, các chủ thể kinh doanh cần thiết lập quan hệ kinh tế
với nhau. Trong quan hệ này, các chủ thể kinh doanh bình đẳng với nhau về địa vị pháp lý. Cơ sở pháp lý
của quan hệ này là hợp đồng được giao kết giữa các bên.
- Quan hệ trong nội bộ chủ thể kinh doanh:
Để tiến hành các hoạt động thương mại các chủ thể kinh doanh cần lập ra nhiều phân xưởng, tổ
đội sản xuất, phòng, ban chuyên môn, thậm chí lập nhiều đơn vị kinh doanh độc lập... Như vậy, quan hệ
nội bộ của các chủ thể kinh doanh khá đa dạng, trong đó gồm quan hệ quản lý, điều phối và quan hệ hợp
tác, hỗ trợ. Cơ sở pháp lý của quan hệ này là các văn bản do chính chủ thể kinh doanh xây dựng như
Điều lệ, nội quy, quy chế ...
2. Một số khái niệm của pháp luật trong lĩnh vực kinh tế
a. Khái niệm Luật Kinh tế
Là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa cơ quan quản lý
nhà nước về kinh tế với các chủ thể kinh doanh, quan hệ giữa các chủ thể kinh doanh với nhau và quan
hệ giữa các chủ thể kinh doanh với các tổ chức, cá nhân khác trong quá trình các chủ thể kinh doanh thực
hiện các hành vi đầu tư, thương mại vì mục đích phát sinh lợi nhuận.
b. Khái niệm Luật Thương mại
Là tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động thương mại giữa các thương nhân với
nhau và với các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.
c. Khái niệm Luật Kinh doanh
Là tổng thể các quy phạm điều chỉnh các quan hệ gắn liền với hoạt động sản xuất, kinh doanh
của các chủ thể kinh doanh.
Ngoài ra, trong thực tiễn còn tồn tại một khái niệm liên quan đến nội dung này là pháp luật kinh
tế. Đây không phải là một ngành luật mà là một khái niệm tổng hợp bao gồm tổng thể các quy phạm
pháp luật liên quan đến quá trình tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất, kinh doanh gồm nhiều ngành luật
khác nhau như Luật Kinh tế, Luật Lao động, Luật Đất đai...
II. GIỚI THIỆU VỀ MÔN HỌC LUẬT KINH TÊ
1. Quan điểm về môn học Luật Kinh tế
Đối với bậc đại học, ngoài việc trang bị kiến thức pháp lý chung còn cần trang bị kiến thức
chuyên môn theo chuyên ngành đào tạo của sinh viên sau khi ra trường để phục vụ cho hoạt động nghề
nghiệp của họ, cần được trang bị đầy đủ kiến thức pháp lý liên quan đến lĩnh vực kinh tế theo nghĩa rộng
để phù hợp với tất cả các chuyên ngành hẹp mà người học được đào tạo là kinh tế, kế toán, quản trị kinh
doanh.
Đây là yêu cầu mang tính khoa học thuộc khoa học ngành giáo dục. Mục tiêu đào tạo trên sẽ chi
phối, quyết định nội dung của môn học Luật Kinh tế. Từ căn cứ trên cần xác định:
- Luật kinh tế là một môn học được xây dựng theo tiêu chí của khoa học giáo dục, không xây
dựng theo tiêu chí ngành luật của khoa học pháp lý.
- Nội dung của môn học Luật kinh tế là các quy định của pháp luật hiện hành trong lĩnh vực kinh
tế phù hợp với đối tượng và định hướng đào tạo, trong đó nội dung ngành Luật Kinh tế là chủ đạo.
2. Nội dung của môn học Luật Kinh tế
Phù hợp với mục tiêu đào tạo, với các quy định của pháp luật hiện hành trong lĩnh vực kinh tế,
nội dung môn học luật kinh tế gồm:
a. Quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của các chủ thể
Hoạt động kinh tế rất phức tạp nên có nhiều loại chủ thể tham gia. Trong đó, mỗi chủ thể có một
vị trí, vai trò riêng và luật kinh tế cần phải xác định được địa vị pháp lý của từng loại chủ thể đó để thiết
lập một cơ sở pháp lý cho chúng hoạt động. Qua đó sẽ duy trì một trật tự trong quan hệ kinh tế, quan hệ
kinh doanh, thương mại và bảo đảm sự ổn định của môi trường đầu tư, kinh doanh cũng như sự phát triển
của nền kinh tế. Các văn bản quy định về nội dung pháp lý này là Luật Tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức
Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã,...
b. Quy định của pháp luật về hành vi kinh doanh của chủ thể kinh doanh
Với tư cách là chủ thể cơ bản nên Luật Kinh tế đã có nhiều quy định về các chủ thể kinh doanh.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần của Việt Nam hiện nay có nhiều loại chủ thể kinh doanh hoạt động
-4-
Luật Kinh tế
trên nhiều địa bàn, lĩnh vực, ngành nghề và theo nhiều hình thức tổ chức kinh doanh... khác nhau. Luật
Kinh tế xác định rõ hành vi kinh doanh cho mỗi chủ thể kinh doanh phù hợp với mỗi yếu tố đó nhằm tạo
lập môi trường đầu tư, kinh doanh tốt bảo đảm an toàn cho các chủ thể kinh doanh và sự phát triển của
nền kinh tế. Các văn bản quan trọng quy định về nội dung pháp lý này là Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp
tác xã, Luật Đầu tư, Luật cạnh tranh...
c. Quy định của pháp luật về môi trường đầu tư, kinh doanh
Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, ngoài các lợi ích kinh tế chung, mỗi chủ thể
kinh doanh đều có lợi ích kinh tế riêng, do đó dẫn đến các xung đột về lợi ích làm phát sinh tình trạng
cạnh tranh không lành mạnh và các tranh chấp kinh tế. Để hạn chế những yếu tố tiêu cực tất yếu sẽ diễn
ra trong nền kinh tế thị trường như vừa nêu trên, nhà nước đã sử dụng quyền "có sự quản lý của nhà
nước" trong lĩnh vực kinh tế để ban hành các văn băn pháp luật về nội dung này mà cơ bản là Luật Đầu
tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Cạnh tranh...
d. Quy định của pháp luật về tài phán trong kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường vận hành theo quy luật cạnh tranh tất yếu dẫn đến những mâu thuẫn
làm nảy sinh tranh chấp kinh tế giữa các chủ thể kinh doanh và những tranh chấp này ngày càng trở lên
phức tạp. Vì lợi ích của chủ thể kinh doanh, đồng thời vì lợi ích của cả nền kinh tế, nhà nước tham gia
giải quyết tranh chấp kinh tế giữa các chủ thể kinh doanh. Luật kinh tế quy định rõ các cơ quan có quyền
tài phán và trình tự, thủ tục thực hiện việc tài phán trong kinh doanh... Hiện nay, các văn bản pháp luật
quan trọng quy định nội dung pháp lý này là Luật Thương Mại, Bộ Luật Tố tụng dân sự, Pháp lệnh Trọng
tài thương mại...
đ. Quy định của pháp luật về phá sản tổ chức kinh tế và cá nhân có đăng ký kinh doanh
Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt tất yếu dẫn đến hiện tượng có chức kinh tế và cá
nhân có đăng ký kinh doanh phát triển nhanh chóng, ngược lại có thể lâm vào tình trạng xấu về tài chính.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, như tổ chức kinh tế và cá nhân có đăng ký kinh doanh
không kịp thích ứng với thị trường, do yếu kém trong quản lý kinh tế... Trước thực tế đó, nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích về tài sản của chủ nợ, bảo vệ người lao động, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội... và bảo vệ
chính tổ chức kinh tế và cá nhân có đăng ký kinh doanh lâm vào tình trạng phá sản, thông qua Luật kinh
tế nhà nước quy định về cơ quan có thẩm quyền, điều kiện, trình tự thủ tục phá sản tổ chức kinh tế. Hiện
nay, văn bản pháp luật quy định về nội dung này là Luật phá sản.
-5-
Luật Kinh tế
Chương II
PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN CỦA CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ
I GIỚI THIỆU VỀ QUÀN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ VÀ CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NUỚC
VỀ KINH TẾ
1. Khái niệm quản lý nhà nước về kinh tế
Quản lý nhà nước nói chung, quản lý nhà nước về kinh tế nói riêng được nhiều môn khoa học nghiên
cứu nên có nhiều khái niệm khác nhau. Dưới góc độ kinh tế - pháp lý, quản lý nhà nước về kinh tế được hiểu
như sau:
Quản lý Nhà nước về kinh tế là sự tác động về mặt tổ chức và điều chỉnh mang tính chất quyền
lực của nhà nước lên các quá trình kinh tế làm cho quá trình ấy phát triển phù hợp với các quy luật kinh
tế nhằm đạt tới những mục tiêu đã định trước.
2. Cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế
Bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm 4 hệ thống cơ quan nhà nước. Mỗi
hệ thống đó có chức năng, nhiệm vụ riêng, trong đó hệ thống cơ quan hành chính nhà nước có chức năng
quản lý mọi mặt đời sống xã hội, đây cũng là hệ thống cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về kinh
tế.
Như vậy, cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế của Việt Nam gồm Chính Phủ và Uỷ ban nhân dân
các cấp.
Do tính chất phức tạp của hoạt động quản lý nhà nước nói chung, quản lý nhà nước về kinh tế
nói riêng, Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp lập các cơ quan quản lý chuyên môn để thực hiện chức
năng quản lý theo từng ngành, lĩnh vực. Do vậy, cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế ở Việt nam hiện
nay được chia thành hai loại như sau:
- Cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế có thẩm quyền chung: gồm Chính phủ và Uỷ ban nhân
dân các cấp.
- Cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế có thẩm quyền chuyên môn: gồm các Bộ, sở, phòng...
Tuy nhiên, không phải tất các cơ quan chuyên môn của Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp
(Bộ, Sở, Phòng...) đều có thẩm quyền trực tiếp tham gia quản lý nhà nước về kinh tế.
II. THẨM QUYỀN CỦA CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ
1. Thẩm quyền của cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế có thẩm quyền chung
a. Thẩm quyền quản lý nhà nước về kinh tế của Chính phủ
Theo Luật Tổ chức Chính phủ được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam thông
qua ngày 25 tháng 12 năm 2001, với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế có thẩm quyền
chung ở cấp trung ương, Chính phủ có nhiệm vụ và quyền hạn sau:
- Thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa; củng cố và phát triển kinh tế nhà nước, chú trọng các ngành và lĩnh vực then chốt để bảo đảm
vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể tạo thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; quyết
định chính sách cụ thể để phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, thúc đẩy sự hình thành, phát
triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là nội dung quản
lý được Chính phủ thực hiện phù hợp với đường lối phát triển nền kinh tế được đề ra từ Đại hội Đại biểu
toàn quốc của Đảng lần thứ VI, năm 1986.
- Quyết định chính sách cụ thể thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, chú trọng công
nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
được tiến hành trong một phần tư thế kỷ là chặng đường dài với nhiều công việc cần phải thực hiện. Phù
hợp với từng bước đi, từng giai đoạn thực hiện sự nghiệp lớn này, Chính phủ cần đưa ra các quyết định
cụ thể.
- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện các dự án chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
dài hạn, năm năm, hàng năm đã trình và được Quốc hội thông qua. Là cơ quan quản lý nhà nước cao nhất
trong bộ máy nhà nước, Chính phủ xây dựng các dự án chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội trình cơ quan quyền lực tối cao là Quốc Hội thông qua. Sau khi đã được thông qua, Chính phủ phải bảo
đảm thực hiện chúng.
-6-
Luật Kinh tế
- Trình Quốc hội dự toán ngân sách nhà nước, dự kiến phân bổ ngân sách trung ương và mức bổ
sung từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương, tổng quyết toán ngân sách nhà nước hàng năm;
tổ chức và điều hành thực hiện ngân sách nhà nước được Quốc hội quyết định. Chính phủ cần bảo đảm
sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn tài chính của nhà nước. Luật Ngân sách nhà nước đã quy định cụ thể
nội dung này.
- Quyết định chính sách cụ thể, các biện pháp về tài chính, tiền tệ tiền lương, giá cả. Đây là các
vấn đề liên quan trực tiếp đến nhiều đối tượng, đến sự ổn định của đời sống xã hội. Thực hiện các công
việc này là các cơ quan chuyên môn giúp việc cho Chính phủ. Tuy nhiên, Chính phủ phải đưa ra các
chính sách, các biện pháp về các nội dung này trong các trường hợp cần thiết làm căn cứ để các cơ quan
chuyên môn tiến hành tổ chức thực hiện.
- Thống nhất quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc sở hữu toàn dân, tài nguyên quốc gia;
thi hành chính sách tiết kiệm; thực hiện chức năng chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp
có vốn nhà nước theo quy định của pháp luật. Thi hành chính sách bảo vệ, cải tạo, tái sinh và sử dụng
hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Toàn bộ tài nguyên của quốc gia gồm đất đai, khoáng sản trong
lòng đất, lòng biển và các tài sản khác thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước là đại diện chủ sở hữu cần
được bảo vệ, quản lý chặt chẽ, sử dụng hiệu quả vì lợi ích của nhà nước, của cộng đồng để khai thác sử
dụng lâu dài phục vụ sự phát triển bền vững của đất nước.
- Thống nhất quản lý hoạt động kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trên cơ sở
phát huy nội lực của đất nước, phát triển các hình thức quan hệ kinh tế với các quốc gia, tổ chức quốc tế
trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và cùng có lợi, hỗ trợ và thúc đẩy sản xuất trong nước.
Chính phủ quyết định chính sách cụ thể khuyến khích doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham
gia hoạt động kinh tế đối ngoại; khuyến khích đầu tư nước ngoài và tạo điều kiện thuận lợi để người Việt
Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước. Nội dung này phù hợp với chủ trương Việt Nam muốn là bạn
và trở thành đối tác tin cậy của tất cả các nước đã được Đảng Cộng sản đề ra từ Đại hội đại biểu Đảng
toàn quốc lần thứ VI, năm 1986. Trong đó, cả hai nội dung cơ bản là hoạt động đầu tư và hoạt động ngoại
thương thời gian qua được Chính phủ lãnh đạo thực hiện thành công. Đây là tiền đề để Nhà nước đẩy
mạnh hội nhập kinh tế quốc tế nhằm thu được các thành tựu lớn hơn trong hoạt động kinh tế đối ngoại.
- Tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước. Để thực hiện công việc quan
trọng này, Chính phủ lập các cơ quan chuyên môn tham mưu và chỉ đạo hoạt động của các cơ quan này.
Trong lĩnh vực kinh tế, số liệu thống kê, kiểm kê giúp Chính phủ nắm được tình trạng và thực lực của
nền kinh tế, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp, xây dựng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
kinh tế phù hợp.
b. Thẩm quyền quản lý nhà nước về kinh tế của Uỷ ban nhân dân
Theo Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003, với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước về
kinh tế có thẩm quyền chung ở địa phương, Uỷ ban nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau:
- Xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm trình Hội đồng nhân dân cùng cấp
thông qua để trình cơ quan quản lý nhà nước cấp trên phê duyệt và tổ chức, kiểm tra việc thực hiện kế
hoạch đó. Trên cơ sở nắm chắc tình hình của địa phương, phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội,
nhằm khai thác thế mạnh riêng của địa phương mình, Uỷ ban nhân dân các cấp xây dựng kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội hàng năm trình các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và tổ chức, kiểm tra việc thực
hiện.
- Lập dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân sách địa phương,
phương án phân bổ dự toán ngân sách cấp mình; quyết toán ngân sách địa phương; lập, điều chỉnh ngân
sách địa phương trong trường hợp cần thiết trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định và báo cáo cơ
quan quản lý cấp trên, cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp. Tổ chức thực hiện ngân sách địa phương;
hướng dẫn, kiểm tra Uỷ ban nhân dân cấp dưới xây dựng, thực hiện ngân sách và kiểm tra nghị quyết của
Hội đồng nhân dân cấp dưới về thực hiện ngân sách địa phương theo quy định của pháp luật. Đây là nội
dung quan trọng nhằm thống nhất quản lý nhà nước để sử dụng hiệu quả nguồn tài chính nhà nước của
địa phương. Công tác quản lý tài chính đã được quy định cụ thể trong Luật Ngân sách và các văn bản luật
liên quan.
-7-
Luật Kinh tế
Ngoài thẩm quyền chung nêu trên, trong lĩnh vực kinh tế, cấp quản lý nhà nước cao nhất và cấp quản
lý nhà nước thấp nhất ở địa phương, do đặc thù về thẩm quyền quản lý của mình còn có thẩm quyền riêng cụ
thể như sau:
* Thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh
+ Xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, phát triển ngành, phát triển đô thị và nông
thôn trong phạm vi quản lý; xây dựng kế hoạch dài hạn và hàng năm về phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh trình Hội đồng nhân dân thông qua để trình Chính phủ phê duyệt.
+ Tham gia với các bộ, ngành trung ương trong việc phân vùng kinh tế, xây dựng các chương trình, dự án
của bộ, ngành trung ương trên địa bàn tỉnh; tổ chức và kiểm tra việc thực hiện các nhiệm vụ thuộc
chương trình, dự án được giao.
+ Xây dựng đề án thu phí, lệ phí, các khoản đóng góp của nhân dân và mức huy động vốn trình Hội đồng
nhân dân quyết định.
+ Xây dựng đề án phân cấp chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của địa
phương theo quy định của pháp luật để trình Hội đồng nhân dân quyết định; tổ chức, chỉ đạo thực hiện đề
án sau khi được Hội đồng nhân dân thông qua.
+ Lập quỹ dự trữ tài chính theo quy định của pháp luật trình Hội đồng nhân dân cùng cấp và báo cáo cơ
quan tài chính cấp trên.
+ Thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu phần vốn góp của nhà nước tại doanh nghiệp và quyền đại diện
chủ sở hữu về đất đai tại địa phương theo quy định của pháp luật.
* Thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân cấp xã
+ Quản lý và sử dụng hợp lý, có hiệu quả quỹ đất được để lại phục vụ các nhu cầu công ích ở địa
phương; xây dựng và quản lý các công trình công cộng, đường giao thông, trụ sở, trường học, trạm y tế,
công trình điện, nước theo quy định của pháp luật.
+ Huy động sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân để đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng của
địa phương trên nguyên tắc dân chủ, tự nguyện. Việc quản lý các khoản đóng góp này phải công khai, có
kiểm tra, kiểm soát và bảo đảm sử dụng đúng mục đích, đúng chế độ theo quy định của pháp luật.
2. Thẩm quyền của cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế có thẩm quyền chuyên môn
a. Thẩm quyền quản lý nhà nước về kinh tế của Bộ, cơ quan ngang bộ
Là cơ quan thuộc Chính phủ, có chức năng quản lý nhà nước đối với một ngành kinh tế trên
phạm vi cả nước, thẩm quyền quản lý nhà nước về kinh tế của các bộ, cơ quan ngang bộ bao gồm:
- Trình Chính phủ chiến lược, quy hoạch phát triển, kế hoạch dài hạn, năm năm và hàng năm, các
công trình quan trọng của ngành, lĩnh vực; tổ chức và chỉ đạo thực hiện khi được phê duyệt. Là cơ quan
chuyên môn, hiểu rõ điều kiện và yêu cẩu phát triển của ngành mình, các Bộ, cơ quan ngang bộ xây dựng
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch... của ngành, lĩnh vực mình trình Chính phủ và trực tiếp tổ chức, chỉ đạo
thực hiện. Các nội dung này phải phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển tổng thể, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội chung do Chính phủ xây dựng.
- Chuẩn bị các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác theo sự phân công của Chính phủ. Trình
Chính phủ việc ký kết, gia nhập, phê duyệt các điều ước quốc tế thuộc ngành, lĩnh vực; tổ chức và chỉ
đạo thực hiện kế hoạch hợp tác quốc tế, điều ước quốc tế theo quy định của Chính phủ. Nắm chắc các
vấn đề chuyên môn thuộc ngành và lĩnh vực quản lý của mình, để hội nhập nhanh chóng vào nền kinh tế
thế giới... các Bộ, cơ quan ngang bộ chuẩn bị các dự án luật, pháp lệnh theo sự phân công và tham mưu
về việc ký kết, gia nhập, phê duyệt các điều ước quốc tế thuộc ngành, lĩnh vực chuyên môn.
- Tổ chức và chỉ đạo thực hiện kế hoạch nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ khoa học, công
nghệ; Quyết định các tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm và các định mức kinh tế - kỹ thuật của ngành.
Khoa học, công nghệ đã trở thành Quốc sách, việc áp dụng khoa học, cộng nghệ quyết định sự sống còn
của cả nền kinh tế trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới. Do
vậy, phát triển khoa học là một sự nghiệp nên các Bộ, cơ quan ngang bộ phải coi trọng công tác này trong
ngành, lĩnh vực quản lý của mình.
- Tổ chức bộ máy quản lý ngành, lĩnh vực theo quy định của Chính phủ; trình Chính phủ quyết
định phân cấp nhiệm vụ quản lý nhà nước cho Uỷ ban nhân dân địa phương về nội dung quản lý ngành,
lĩnh vực để tiến hành khoa học, hiệu quả hoạt động quản lý thông qua sự phân công, phối hợp; bảo đảm
thông suốt, nhịp nhàng, đồng bộ giữa các bộ phận trong nội bộ các cơ quan này và giữa các cấp quản lý.
-8-
Luật Kinh tế
- Quản lý nhà nước các tổ chức sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước thuộc ngành, lĩnh vực, bảo
đảm quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của các cơ sở theo quy định của pháp luật; bảo
đảm sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc sở hữu toàn dân do ngành, lĩnh vực mình phụ trách; thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể thuộc quyền đại diện chủ sở hữu phần vốn của nhà nước tại doanh nghiệp có
vốn nhà nước theo quy định của pháp luật. Đồng thời các Bộ và cơ quan ngang bộ có thẩm quyền quản lý
nhà nước đối với các tổ chức kinh tế, hội, tổ chức phi chính phủ thuộc ngành, lĩnh vực.
- Quản lý và tổ chức thực hiện ngân sách được phân bổ bảo đảm sử dụng đúng mục đích, hiệu
quả ngân sách nhà nước. Nội dung này được các Bộ, cơ quan ngang bộ tiến hành theo quy định của Luật
Ngân sách và đề án phân bổ ngân sách đã được Chính phủ phê duyệt.
b. Thẩm quyền quản lý nhà nước về kinh tế của sở, ban ngành
Là cơ quan do UBND thành lập, giúp UBND thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Đây
chính là các cơ quan trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ cụ thể (kể cả các hoạt động tác nghiệp kỹ thuật) về
kinh tế thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân các cấp như: thu thuế, quản lý tài chính, cấp giấy phép
đăng ký kinh doanh, đăng ký đầu tư, giải thể doanh nghiệp... Trong quá trình thực hiện quản lý nhà nước
về kinh tế, các cơ quan có thẩm quyền chuyên môn còn chịu sự quản lý của cơ quan quản lý chuyên môn
cấp trên trực tiếp.
-9-
Luật Kinh tế
CHƯƠNG III
PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ
I. GIỚI THIỆU VỀ PHÁP LUẬT VÊ ĐẦU TƯ
1. Pháp luật về đầu tư của Việt Nam
a. Pháp luật về đầu tư của Việt Nam trước năm 2006
Trong thời kỳ xây dựng nền kinh tế tập trung, trách nhiệm đầu tư phát triển các lĩnh vực của đời sống
xã hội thuộc về nhà nước. Nhà nước không khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong đời sống xã hội đầu tư
phát triển sản xuất. Thậm chí, nhà nước nghiêm cấm hoặc hạn chế việc đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh
của nhiều đối tượng trong xã hội, kể cả tổ chức, cá nhân nước ngoài. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường,
Nhà nước Việt Nam đã thực hiện đa dạng hoá các nguồn đầu tư. Trong giai đoạn đầu, nhà nước Việt Nam
thực thi hai chính sách đầu tư riêng biệt là chính sách khuyến khích đầu tư trong nước và chính sách khuyến
khích đầu tư nước ngoài.
* Đối với đầu tư trong nước
Ngày 22/6/1994 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành Luật khuyến
khích đầu tư trong nước sau đó là Luật sửa đổi Luật khuyến khích đầu tư trong nước ngày 20/5/1998.
Luật này nhằm bảo hộ, khuyến khích, đối xử bình đẳng và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá
nhân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài định cư tại Việt Nam đầu tư
vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội trên lãnh thổ Việt Nam. Tại các Luật này quy định về các hình thức đầu
tư, các chính sách hỗ trợ, ưu đãi đầu tư, quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư, quyền và nghĩa vụ của nhà
nước đối với việc khuyến khích đầu tư trong nước... Luật khuyến khích đầu tư trong nước đã thể hiện đầy
đủ, toàn diện quan điểm của nhà nước Việt Nam về đầu tư trong nước nói riêng nhằm khơi dậy nguồn lực
tài chính trong dân cư, một trong các nguồn nội lực quan trọng phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau Luật này đã không có nhiều giá trị trong thực
tiễn.
* Đối với đầu tư nước ngoài
Ngày 29/12/1987 Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam. Ngày 12/11/1996, Quốc Hội ban hành Luật đầu tư nước ngoài thay thế. Ngoài
ra, Quốc Hội nhiều lần sửa đổi, bổ sung các văn bản Luật đầu tư nước ngoài nêu trên vào ngày
30/6/1990; 23/12/1992 và ngày 9/6/2000. Các văn bản Luật và Luật sửa đổi, bổ sung Luật đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam ngày càng có nội dung thông thoáng và gần với thông lệ quốc tế, luật pháp quốc tế về
đầu tư. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cũng đã quán triệt được chính sách Việt Nam muốn là bạn
và trở thành đối tác tin cậy của tất cả các nước do Đảng và Nhà nước Việt Nam đề ra. Kết hợp với môi
trường đầu tư thuận lợi, tuy có nhiều bước thăng trầm nhưng nói chung hoạt động đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam đã đạt được thành quả to lớn.
b. Pháp luật về đầu tư của Việt Nam hiện nay
Với quyết tâm đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tích cực và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế, trên cơ sở phát huy giá trị các chính sách đầu tư và phát huy thành tựu của hoạt
động đầu tư, ngày 29 tháng 11 năm 2005 Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban
hành Luật đầu tư thay thế cho Luật đầu tư trong nước năm 1994 được sửa đổi năm 1998 và Luật đầu tư
nước ngoài năm 1996 được sửa đổi năm 2000. Như vậy, hiện nay Việt Nam thực hiện thống nhất một
chính sách đầu tư chung, không phân biệt đầu tư trong nước với đầu tư nước ngoài. Đây là căn cứ pháp
lý quan trọng thúc đẩy hoạt động đầu tư trong nước, hoạt động đầu tư nước ngoài, đặc biệt là hoạt động
đầu tư ra nước ngoài của các nhà đầu tư Việt Nam. Bằng chính sách này, nhà nước Việt Nam mong muốn
thực hiện hiệu quả hơn hoạt động đầu tư để góp phần huy động nguồn tài chính và khoa học, công nghệ
cho phát triển kinh tế của đất nước qua đó góp phần xác định vị thế của Việt Nam trong nền kinh tế quốc
tế và khu vực.
2. Chính sách của Nhà nước Việt Nam về đầu tư
Luật đầu tư năm 2005 ghi nhận chính sách đầu tư của nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam như sau:
- Nhà đầu tư được đầu tư trong các lĩnh vực và ngành, nghề mà pháp luật không cấm; được tự
chủ và quyết định hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam.
- 10 -
Luật Kinh tế
- Thừa nhận sự tồn tại và phát triển lâu dài của các hoạt động đầu tư của nhà đầu tư trong nước
cũng như nhà đầu tư nước ngoài.
- Đối xử bình đẳng trước pháp luật đối với các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, giữa đầu
tư trong nước và đầu tư nước ngoài; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư.
- Khuyến khích và có chính sách ưu đãi đối với đầu tư vào các lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư.
Các lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư được ghi nhận trong Luật đầu tư năm 2005.
- Công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập và các quyền, lợi ích hợp pháp
khác của nhà đầu tư.
- Cam kết thực hiện các điều ước quốc tế liên quan đến đầu tư mà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên.
Chính sách đầu tư của Nhà nước Việt Nam được ghi nhận trong Luật Đầu tư năm 2005 rất rõ
ràng và đầy đủ, đáp ứng được mong mỏi và làm thoả mãn tâm lý của các nhà đầu tư trong nước, đặc biệt
nhà đầu tư ngoài nước. Bởi chính sách này đã tạo ra môi trường pháp lý, môi trường đầu tư ổn định,
thông thoáng cho hoạt động đầu tư nói chung. Mặt khác, thực thi chính sách này vẫn bảo đảm vai trò
quản lý của nhà nước Việt Nam về đầu tư phù hợp định hướng phát triển nền kinh tế của đất nước.
3. Chính sách về đầu tư kinh doanh vốn nhà nước
Vốn nhà nước là vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do Nhà nước bảo
lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn đầu tư khác của Nhà nước. Do tầm quan trọng
và tính chất riêng của hoạt động đầu tư vốn của nhà nước, trước đây nhà nước Việt Nam xác lập khung
pháp lý riêng cho nội dung này. Hiện nay, Luật đầu tư năm 2005 chỉ còn ghi nhận chính sách đối với hoạt
động đầu tư kinh doanh vốn của nhà nước như sau:
- Đầu tư kinh doanh vốn nhà nước phải phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.
- Đầu tư kinh doanh vốn nhà nước phải đúng mục tiêu và có hiệu quả, bảo đảm có phương thức
quản lý phù hợp đối với từng nguồn vốn từng loại dự án đầu tư, quá trình đầu tư được thực hiện công
khai, minh bạch.
- Nhà nước phân định rõ trách nhiệm, quyền của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong từng khâu
của quá trình đầu tư, thực hiện phân công, phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư, kinh doanh sử dụng vốn
nhà nước. Trong đó vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước vào tổ chức kinh tế được thực hiện thông qua
Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước. Đây là tổ chức thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu
vốn nhà nước tại tổ chức kinh tế có vốn nhà nước có trách nhiệm bảo toàn, phát triển và sử dụng vốn có
hiệu quả.
- Dự án đầu tư thuộc một số ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn có hiệu quả
kinh tế - xã hội, có khả năng hoàn trả vốn vay được sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
- Nhà nước đầu tư vào sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thông qua hình thức giao
kế hoạch, đặt hàng hoặc đấu thầu. Các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế được bình đẳng
tham gia lĩnh vực này (trừ trường hợp đặc biệt) và hưởng các chính sách hỗ trợ của nhà nước.
- Đầu tư đúng pháp luật, đúng tiến độ, bảo đảm chất lượng, chống dàn trải, lãng phí, thất thoát,
khép kín.
- Đấu thầu các dự án đầu tư có sử dụng vốn nhà nước; việc đầu tư hoặc liên doanh, liên kết với
các thành phần kinh tế khác phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định đầu tư thẩm định và
chấp thuận.
Những chính sách nêu trên của nhà nước Việt Nam trong hoạt động đầu tư, kinh doanh vốn của
nhà nước đã thể hiện cách nhìn mới, cách làm mới trong hoạt động đầu tư nguồn vốn quan trọng này.
Thông qua chính sách đó không chỉ bảo đảm nhà nước vẫn quản lý được nguồn vốn của nhà nước khi
đưa vào đầu tư, kinh doanh mà còn bảo đảm nguồn vốn đó được đầu tư, kinh doanh hiệu quả hơn.
III. LĨNH VỰC, ĐỊA BÀN VÀ HÌNH THỨC ĐẦU TƯ
1. Lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư
a. Lĩnh vực ưu đãi đầu tư
+ Sản xuất vật liệu mới, năng lượng mới; sản xuất sản phẩm công nghệ cao, công nghệ sinh học, công
nghệ thông tin; cơ khí chế tạo.
- 11 -
Luật Kinh tế
+ Sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại; bảo vệ môi trường sinh thái; nghiên cứu, phát triển và ươm
tạo công nghệ cao.
+ Sử dụng nhiều lao động.
+ Nuôi trồng, chế biến nông, lâm, thủy sản; làm muối; sản xuất giống nhân tạo, giống cây trồng và giống
vật nuôi mới.
+ Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng, dự án quan trọng, có quy mô lớn.
+ Phát triển giáo dục, đào tạo, y tế, thể dục, thể thao và văn hóa dân tộc.
+ Phát triển ngành, nghề truyền thống.
Như vậy, đáp ứng yêu cầu của Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, lĩnh vực, ngành nghề nhà nước
Việt Nam quan tâm khuyến khích đầu tư chủ yếu là sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao phục vụ nhu cầu
của người Việt Nam cũng như phục vụ xuất khẩu. Bên cạnh đó là các lĩnh vực yêu cầu đầu tư vốn lớn,
khả năng sinh lợi thấp và các lĩnh vực văn hoá - xã hội nhà Nước Việt Nam đang tiến hành xã hội hóa
nhằm nâng cao trí tuệ, nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần của người Việt Nam...
b. Địa bàn ưu đãi đầu tư
* Địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn.
- Địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn là địa bàn vùng dân tộc thiểu số; miền núi; vùng
có kết cấu hạ tầng chưa phát triển; vùng có điều kiện tự nhiên không thuận lợi.
- Địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn là địa bàn vùng dân tộc thiểu số ở miền
núi cao; hải đảo; vùng có kết cấu hạ tầng yếu kém; vùng có điều kiện tự nhiên rất không thuận lợi.
Trong điều kiện nguồn vốn đầu tư của nhà nước hạn chế, nguồn vốn của địa phương và dân cư
không đáp ứng được yêu cầu đầu tư cho phát triển, để đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội trong sự
nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa việc khuyến khích đầu tư vào các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã
hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn là cần thiết và là một chính sách
đúng đắn của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
* Khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế.
+ Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công
nghiệp.
+ Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng
xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu.
+ Khu công nghệ cao là khu chuyên nghiên cứu phát triển, ứng dụng công nghệ cao, ươm tạo doanh
nghiệp công nghệ cao, đào tạo nhân lực công nghệ cao, sản xuất và kinh doanh sản phẩm công nghệ cao.
+ Khu kinh tế là khu vực có không gian kinh tế riêng biệt với môi trường đầu tư và kinh doanh đặc biệt
thuận lợi cho các nhà đầu tư.
Phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước các khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế hình thành ngày càng nhiều ở khắp các địa phương trên cả nước.
Việc đầu tư vào địa bàn này rất thuận lợi cho nhà đầu tư do đã có sẵn cơ sở hạ tầng tốt phục vụ sản xuất,
kinh doanh. Nhà nước Việt Nam vẫn khuyến khích các nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư trong các địa
bàn này vì chính sự thuận lợi trên của nhà đầu tư cũng đem lại lợi ích cho nhà nước Việt Nam trong công
tác quản lý cũng như các lợi ích kinh tế, xã hội khác.
2. Lĩnh vực đầu tư có điều kiện
Là các lĩnh vực nhà đầu tư chỉ được thực hiện đầu tư với các điều kiện cụ thể như có giấy phép
kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng nhận bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp, yêu cầu về vốn pháp định hoặc yêu cầu khác. Đây là các ngành nghề nhà nước cần
kiểm soát chặt chẽ nhằm bảo vệ chính nhà đầu tư và các lợi ích chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước,
của cộng đồng. Luật đầu tư năm 2005 quy định gồm các lĩnh vực sau:
+ Tác động đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; sức khỏe cộng đồng.
+ Tài chính, ngân hàng; kinh doanh bất động sản; khảo sát tìm kiếm, thăm dò, khai thác tài nguyên thiên
nhiên; môi trường sinh thái.
+ Văn hóa, thông tin, báo chí, xuất bản.
+ Phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
+ Dịch vụ giải trí.
- 12 -
Luật Kinh tế
Đối với nhà đầu tư nước ngoài, các lĩnh vực đầu tư có điều kiện còn phải phù hợp với lộ trình
thực hiện cam kết quốc tế trong các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên.
Như vậy nhà nước Việt Nam kiểm soát chặt chẽ các hoạt động đầu tư vào các lĩnh vực có khả
năng ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh, quốc phòng chính trị, xã hội và sự phát triển của nền kinh tế quốc
gia. Pháp luật của các nước khác cũng có những quy định tương tự như quy định này.
3. Lĩnh vực cấm đầu tư
+ Phương hại quốc phòng, an ninh quốc gia và lợi ích công cộng.
+ Phương hại di tích lịch sử, văn hoá, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam.
+ Tổn hại sức khoẻ nhân dân,
+ Hủy hoại tài nguyên, phá hủy môi trường.
+ Xử lý phế thải độc hại đưa từ bên ngoài vào Việt Nam; sản xuất các loại hóa chất độc hại hoặc sử dụng
tác nhân độc hại bị quốc tế cấm.
Luật Đầu tư quy định nghiêm cấm các nhà đầu tư thực hiện đầu tư vào các lĩnh vực trên không
nhằm hạn chế môi trường đầu tư của nhà đầu tư, ảnh hưởng đến quyền lợi của nhà đầu tư mà chủ yếu
hướng tới lợi ích của xã hội, của cộng đồng Việt Nam. Quy định này phù hợp luật pháp quốc tế và tương
tự như pháp luật các quốc gia khác.
Căn cứ vào quy hoạch, định hướng phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ và cam kết trong
các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, Chính phủ Việt Nam
sẽ ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung Danh mục lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư; đầu tư có điều kiện và cấm
đầu tư. Các bộ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh không được ban hành quy định trong lĩnh vực này cũng như
các quy định hướng dẫn vượt khung làm ảnh hưởng môi trường đầu tư chung và gây nên các tổn thất
khác cho nhà nước và địa phương.
4. Hình thức đầu tư
a. Đầu tư trực tiếp
Là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Hình thức
đầu tư này rất phổ biến và đa dạng. Các nhà đầu tư có thể thực hiện đầu tư bằng các cách sau đây:
* Thông qua Thương nhân: Gồm:
- Lập Thương nhân: Doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, c á nhân có đăng ký kinh
doanh, hộ kinh doanh… Nhà đầu tư độc lập hoặc hợp tác với các nhà đầu tư trong nước, nước ngoài lập
thương nhân. Trong số đó, một số loại hình thương nhân nhà đầu tư nước ngoài không được tham gia
thành lập.
- Góp vốn, mua cổ phần, sáp nhập, mua lại công ty, chi nhánh tại Việt Nam: Nhà đầu tư thực hiện
đầu tư vào các một số loại thương nhân đang tồn tại, trong đó tỷ lệ góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư
nước ngoài đối với một số lĩnh vực, ngành, nghề do pháp luật. Điều kiện sáp nhập, mua lại công ty, chi
nhánh theo quy định của Luật Đầu tư, pháp luật về cạnh tranh và các quy định của pháp luật có liên quan.
* Thông qua hợp đồng: Các nhà đầu tư hợp tác, liên kết tiến hành hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ chung nhưng không dẫn đến lập pháp nhân mới. Trong đó gồm:
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) là hình thức đầu tư được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp
tác sản xuất phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm và các hình thức hợp tác kinh doanh khác. Đối
tượng, nội dung hợp tác, thời hạn kinh doanh, quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi bên, quan hệ hợp
tác giữa các bên và tổ chức quản lý do các bên thỏa thuận và ghi trong hợp đồng. Trong lĩnh vực tìm
kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí và một số tài nguyên khác dưới hình thức hợp đồng phân chia sản phẩm
còn được các luật chuyên ngành quy định.
- Hợp đồng đầu tư kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng có sự tham gia của nhà nước gồm hợp
đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT); hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh
(BTO); hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT). Kết cấu hạ tầng gồm việc xây dựng mới, mở rộng, hiện
đại hóa và vận hành các dự án kết cấu hạ tầng trong lĩnh vực giao thông, sản xuất và kinh doanh điện,
cấp thoát nước, xử lý chất thải và các lĩnh vực khác. Điều kiện, trình tự, thủ tục và phương thức thực hiện
dự án đầu tư, quyền và nghĩa vụ của các bên… do Chính phủ quy định.
* Đầu tư phát triển kinh doanh
- 13 -
Luật Kinh tế
Là hình thức đầu tư phát sinh sau khi nhà đầu tư đã đầu tư và có nhu cầu phát triển kinh doanh.
Đây cũng là hình thức đầu tư phổ biến và tất yếu khi môi trường đầu tư và nhà đầu tư có tình trạng kinh
doanh tốt. Nhà đầu tư thực hiện đầu tư phát triển kinh doanh thông qua hai hình thức sau đây:
+ Mở rộng quy mô, nâng cao công suất, năng lực kinh doanh.
+ Đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm ô nhiễm môi trường.
b. Đầu tư gián tiếp
Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động
đầu tư. Hiện nay, hình thức đầu tư này đang trở nên phổ biến, trong đó gồm các hình thức đầu tư cụ thể
như sau:
+ Mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác.
+ Thông qua quỹ đầu tư chứng khoán.
+ Thông qua các định chế tài chính trung gian khác.
Hình thức đầu tư gián tiếp ảnh hưởng rất nhiều tới thị trường tài chính Việt Nam, đặc biệt là thị
trường chứng khoán. Việc đầu tư thông qua mua, bán cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác
của tổ chức, cá nhân và thủ tục thực hiện hoạt động đầu tư gián tiếp theo quy định của pháp luật về
chứng khoán và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
III. QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NHÀ ĐẦU TƯ
l. Quyền của nhà đầu tư
a. Quyền tự chủ đầu tư, kinh doanh
Nhà đầu tư được lựa chọn lĩnh vực đầu tư, hình thức đầu tư, phương thức huy động vốn, địa bàn,
quy mô đầu tư, đối tác đầu tư và thời hạn hoạt động của dự án mà không bị hạn chế, ngăn cấm hay ép
buộc của bất cứ tổ chức, cơ quan, cá nhân nào. Tuy nhiên, sự lựa chọn của nhà đầu tư phải trong khuôn
khổ pháp luật. Nhà đầu tư được đăng ký kinh doanh một hoặc nhiều ngành, nghề và tự quyết định về hoạt
động đầu tư, kinh doanh đã đăng ký. Nhà đầu tư có thể tiến hành kinh doanh thông qua một thương nhân
hoặc thông qua nhiều thương nhân khác nhau. Trường hợp kinh doanh nhiều ngành, nghề thông qua một
thương nhân thì các ngành nghề đó phải cùng một lĩnh vực đầu tư. Trong quá trình thực hiện dự án đầu
tư, thương nhân được toàn quyền quyết định các vấn đề liên quan như chọn thị trường, bạn hàng, ký hợp
đồng; quyết định giá mua bán hoá, nguyên, nhiên liệu; tổ chức sản xuất kinh doanh...
b. Quyền tiếp cận, sử dụng nguồn lực đầu tư
Trong quá trình thực hiện dự án đầu tư, nhà đầu tư không thể có đủ các nguồn lực nên cần tiếp
cận nhiều nguồn lực khác nhau. Trước tiên là nguồn nhân lực, nhà đầu tư được thuê lao động trong nước;
thuê lao động nước ngoài làm công việc quản lý, lao động kỹ thuật, chuyên gia theo nhu cầu sản xuất,
kinh doanh. Nhà nước Việt Nam quan tâm phát triển thị trường sức lao động để đáp ứng nhu cầu về nhân
lực của nhà đầu tư.
Về nguồn lực tài chính, nhà đầu tư bình đẳng trong việc tiếp cận, sử dụng các nguồn vốn tín
dụng, quỹ hỗ trợ; sử dụng đất đai và tài nguyên theo quy định của pháp luật. Trong đó bao gồm cả vốn tín
dụng và quỹ hỗ trợ của nhà nước cũng như các nguồn vốn tín dụng tự do khác trong và ngoài nước.
Quyền năng này của nhà đầu tư chịu tác động nhiều bởi sự phát triển của thị trường tài chính.
Một nguồn lực quan trọng khác là trang thiết bị sản xuất, kinh doanh, nhà đầu tư được thuê hoặc
mua từ trong nước và nước ngoài. Nhà nước khuyến khích nhà đầu tư nhập khẩu các dây truyền sản xuất
hiện đại công nghệ cao. Nhà đầu tư có thể thông qua pháp nhân của mình trực tiếp nhập khẩu thiết bị,
máy móc từ nước ngoài.
c. Quyền xuất khẩu, nhập khẩu, quảng cáo, tiếp thị, gia công và gia công lại liên quan đến hoạt động
đầu tư
Trong nền kinh tế mở nhà đầu tư được khuyến khích tìm kiếm thị trường, bạn hàng ở nước ngoài
và trực tiếp hoặc uỷ thác nhập khẩu sản phẩm công nghệ cao, xuất khẩu hàng hoá để thu ngoại tệ về cho
đất nước...
Quảng cáo, tiếp thị sản phẩm, dịch vụ của mình và trực tiếp ký hợp đồng quảng cáo với tổ chức
được quyền hoạt động quảng cáo trong và ngoài nước. Đây là các hình thức xúc tiến thương mại chủ yếu
của thương nhân nhằm tìm kiếm khách hàng, mở rộng thị trường. Khi thực hiện quyền năng này, nhà đầu
tư tuân thủ các quy định của Luật Thương mại.
- 14 -
Luật Kinh tế
Hoạt động gia công, gia công lại sản phẩm; đặt gia công và gia công lại trong nước, đặt gia công
ở nước ngoài là một hình thức của hoạt động liên doanh, liên kết của nhà đầu tư. Trong điều kiện khả
năng tài chính, trình độ công nghệ sản xuất của các nhà đầu tư và trình độ lao động của Việt Nam còn
thấp, hoạt động này trở nên phổ biến và cần thiết.
d. Tiếp cận, sử dụng dịch vụ công theo nguyên tắc không phân biệt đối xử
Khi thực hiện các hoạt động đầu tư, nhà đầu tư cần sử dụng nhiều dịch vụ công do nhà nước Việt
Nam cung cấp. Một thời gian dài trước đây vì nhiều lý do khác nhau vẫn có hiện tượng các nhà đầu tư
không bình đẳng với nhau khi tiếp cận, sử dụng các dịch vụ công. Biểu hiện rõ nhất là về giá và thứ tự ưu
tiên sử dụng dịch vụ công. Thời gian gần đây những khác biệt này đang dần được khắc phục.
đ. Quyền thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất
Nhà đầu tư có dự án đầu tư được thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại tổ
chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam để vay vốn thực hiện dự án theo quy định của pháp luật.
Quy định này phù hợp với quy định của pháp luật đất đai và nhằm đáp ứng quy định của pháp luật tài
chính, ngân hàng về thế chấp, cầm cố, bảo lãnh tài sản khi vay vốn. Tuy nhiên, phù hợp với từng loại đất
và hình thức được giao, thuê đất có nhà đầu tư có thể không được hưởng quyền năng quan trọng này.
e. Quyền mua ngoại tệ
Nhà đầu tư được mua ngoại tệ tại tổ chức tín dụng được quyền kinh doanh ngoại tệ để đáp ứng cho
giao dịch vãng lai, giao dịch vốn và các giao dịch khác theo quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối.
Chính phủ sẽ bảo đảm cân đối hoặc hỗ trợ cân đối ngoại tệ đối với một số dự án quan trọng trong lĩnh vực
năng lượng, kết cấu hạ tầng giao thông, xử lý chất thải. Đây cũng là quyền năng mang đặc trưng của nền kinh
tế mở của Việt Nam, trong đó các nhà đầu tư lớn, nhà đầu tư nước ngoài coi là quyền năng quan trọng.
f. Quyền chuyển nhượng, điều chỉnh vốn hoặc dự án đầu tư
Nhà đầu tư có quyền chuyển nhượng, điều chỉnh vốn hoặc dự án đầu tư. Trường hợp chuyển
nhượng có phát sinh lợi nhuận thì bên chuyển nhượng phải nộp thuế thu nhập theo quy định của pháp
luật về thuế. Một số trường hợp khi thực hiện quyền năng này nhà đầu tư phải tuân thủ các điều kiện theo
quy định của Chính phủ. Quy định này bảo đảm tính tự chủ cao của nhà đầu tư và tính linh hoạt của hoạt
động đâu tư gắn với điều kiện, nguyện vọng và các tính toán của nhà đầu tư.
g. Quyền hưởng các ưu đãi đầu tư
Nhằm thu hút đầu tư vào một số ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn, nhà nước Việt Nam dành cho nhà
đầu tư một số ưu đãi về thuế, đất đai... khi đầu tư vào các ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn đó. Các nhà đầu
tư sẽ phải bổ sung giấy tờ trong hồ sơ đăng ký đầu tư hay đăng ký kinh doanh để được hưởng các ưu đãi
này. Nội dung này dã được quy định trong Luật Đầu tư năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thực hiện
luật này.
h. Quyền được thông tin về pháp lý, kinh tế
Nhà đầu tư được tiếp cận các văn bản pháp luật, chính sách liên quan đến đầu tư, các dữ liệu của
nền kinh tế quốc dân, của từng khu vực kinh tế và các thông tin kinh tế - xã hội khác có liên quan đến
hoạt động đầu tư. Trong giai đoạn nền kinh tế Việt Nam đang vận động nhanh chóng, những thông tin
này liên tục thay đổi, nhà đầu tư rất cần cập nhật. Khi thực hiện quyền năng này, nhà đầu tư không chỉ
phục vụ trực tiếp hoạt động đầu tư của mình mà còn tham gia xây dựng môi trường đầu tư, kinh doanh
thông qua góp ý kiến về pháp luật, chính sách liên quan đến đầu tư.
k. Khiếu nại, tố cáo hoặc khởi kiện tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về đầu tư
Khi phát hiện các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền cũng như các tổ chức, cá nhân khác,
các đối tác… có hành vi vi phạm pháp luật đầu tư ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của mình hoặc của
người khác, của xã hội… nhà đầu tư được khiếu nại, tố cáo theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo
hoặc khởi kiện theo quy định của Luật Tố tụng dân sự, Pháp lệnh Trọng tài Thương mại và các văn bản
pháp luật liên quan. Kết quả thực hiện quyền năng này của nhà đầu tư có thể là một vụ việc hành chính,
dân sự, kinh tế…
2. Nghĩa vụ của nhà đầu tư
a. Tuân thủ quy định của pháp luật về thủ tục đầu tư, nội dung đầu tư
Nhà đầu tư phải thực hiện đầy đủ thủ tục đầu tư trước khi tiến hành các hoạt động đầu tư, thực
hiện hoạt động đầu tư theo đúng nội dung đăng ký đầu tư, nội dung tại Giấy chứng nhận đầu tư. Nhà đầu
tư phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của nội dung đăng ký đầu tư, hồ sơ dự án đầu tư và
tính hợp pháp của các văn bản xác nhận trong các hồ sơ mà nhà đầu tư gửi tới cơ quan có thẩm quyền
- 15 -
Luật Kinh tế
làm thủ tục đăng ký đầu tư. Đây là nghĩa vụ hàng đầu của nhà đầu tư, qua đó nhà nước Việt Nam quản lý
được hoạt động tuân theo pháp luật của nhà đầu tư nhằm bảo đảm duy trì trật tự đầu tư, kinh doanh, thiết
lập môi trường đầu tư, kinh doanh lành mạnh và quản lý được nền kinh tế.
b. Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính
Khi nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình tiến hành các hoạt
động đầu tư với mục đích phát sinh lợi nhuận nhà đầu tư phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế cho
nhà nước. Ngoài các loại thuế phổ biến như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế VAT... phù hợp với từng
loại hoạt động đầu tư, nhà đầu tư phải nộp các loại thuế khác. Ngoài ra, nhà đầu tư còn phải thực hiện
nhiều nghĩa vụ tài chính liên quan đến thủ tục đầu tư, thuê đất, sử dụng các dịch vụ công... Nhằm bảo
đảm nhà đầu tư thực hiện đầy đủ nghĩa vụ này, nhà nước Việt Nam tổ chức hệ thống các cơ quan chuyên
môn và hoàn thiện khung pháp luật liên quan.
c. Thực hiện quy định của pháp luật về kế toán, kiểm toán và thống kê
Thực hiện tốt nghĩa vụ này, trước hết các nhà đầu tư sẽ kiểm soát được hoạt động tài chính, hoạt
động sản xuất - kinh doanh và hiệu quả của nó để xây dựng kế hoạch, phương hướng hoạt động chuẩn
xác hơn. Mặt khác nhà nước cũng quản lý được hoạt động của mỗi nhà đầu tư, bảo đảm các nhà đầu tư
thực hiện nghĩa vụ tài chính chính xác, bình đẳng; quản lý được nền kinh tế, kiểm soát môi trường đầu tư
để bổ sung, sửa đổi chính sách cho phù hợp. Đồng thời kết quả của các hoạt động này cũng có ý nghĩa
lớn đối với các nhà đầu tư khác khi lựa chọn đối tác, bạn hàng.
d. Thực hiện nghĩa vụ đối với ngươi lao động
Nhà đầu tư phải tôn trọng danh dự, nhân phẩm; tôn trọng, tạo điều kiện thuận lợi để người lao
động thành lập, tham gia tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và các quyền lợi hợp pháp khác về
tiền lương, thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi, bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội… của người lao
động theo quy định của pháp luật về bảo hiểm, lao động. Thực hiện tốt nghĩa vụ này đem lại lợi ích cho
cả người lao động, cho xã hội cho cả nhà đầu tư.
đ. Thực hiện quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường
Các hoạt động đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất - kinh doanh công nghiệp là lĩnh vực ảnh
hưởng mạnh đến các yếu tố môi trường. Nhà đầu tư phải quan tâm thực hiện các giải pháp bảo vệ môi
trường như trang bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại, xử lý chất thải công nghiệp... Nhà nước sẽ kiểm soát
chặt chẽ nội dung này ngay từ khi nhà đầu tư thực hiện thủ tục đăng ký đầu tư. Hiện nay tiêu chuẩn về
môi trường là một trong các yếu tố cấu thành trong thương hiệu và giá trị hàng hoá, dịch vụ… của nhà
đầu tư.
IV. THỦ TỤC ĐẦU TƯ
1. Thủ tục đăng ký đầu tư và thẩm tra đầu tư
a. Đăng ký đầu tư
* Đối với nhà đầu tư trong nước
- Trường hợp không đăng ký đầu tư:
Dự án đầu tư có quy mô vốn đầu tư dưới 15 (mười lăm) tỷ đồng thì nhà đầu tư không phải làm
thủ tục đăng ký đầu tư. Quy định này nhằm đơn giản hoá thủ tục đầu tư khi nhà nước xét thấy không cần
thiết phải kiểm soát đối với các dự án đầu tư có giá trị không cao.
- Trường hợp đăng ký nội dung đầu tư:
Đối với dự án đầu tư có quy mô vốn đầu tư từ mười lăm tỷ đồng đến dưới ba trăm tỷ đồng thì
nhà đầu tư làm thủ tục đăng ký đầu tư theo mẫu tại cơ quan nhà nước quản lý đầu tư cấp tỉnh với nội
dung sau:
+ Tư cách pháp lý của nhà đầu tư (bản sao Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá
nhân hợp pháp khác; bản sao quyết định thành lập, Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc tài liệu
tương đương khác của tổ chức; văn bản uỷ quyền, Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực
cá nhân hợp pháp khác của người đại diện theo uỷ quyền).
+ Mục tiêu, quy mô và địa điểm thực hiện dự án đầu tư.
+ Vốn đầu tư, tiến độ thực hiện dự án.
+ Nhu cầu sử dụng đất và cam kết về bảo vệ môi trường.
+ Kiến nghị ưu đãi đầu tư (nếu có).
- 16 -
Luật Kinh tế
Nếu nhà đầu tư có yêu cầu cấp Giấy chứng nhận đầu tư thì cơ quan đăng ký đầu tư cấp Giấy
chứng nhận đầu tư.
* Đối với nhà đầu tư nước ngoài
Đối với dự án có vốn đầu tư nước ngoài có quy mô vốn đầu tư dưới ba trăm tỷ đồng thì nhà đầu
tư làm thủ tục đăng ký đầu tư tại cơ quan nhà nước quản lý đầu tư cấp tỉnh để được cấp Giấy chứng nhận
đầu tư.
Hồ sơ đăng ký đầu tư bao gồm:
+ Văn bản xác nhận tư cách pháp lý của nhà đầu tư (Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác;
bản sao Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nơi tổ chức có trụ sở trong thời gian 3 tháng).
+ Văn bản giải trình mục tiêu, quy mô và địa điểm thực hiện dự án đầu tư.
+ Văn bản xác nhận vốn đầu tư, tiến độ thực hiện dự án.
+ Văn bản về nhu cầu sử dụng đất và cam kết về bảo vệ môi trường.
+ Văn bản kiến nghị ưu đãi đầu tư (nếu có).
+ Báo cáo năng lực tài chính của nhà đầu tư.
+ Hợp đồng liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh, Điều lệ doanh nghiệp (nếu có).
Thời hạn đăng ký đầu tư và cấp Giấy chứng nhận đầu tư tối đa là mười lăm ngày kể từ ngày nhận
đủ hồ sơ đăng ký đầu tư hợp lệ.
Như vậy trong mọi trường hợp nhà đầu tư nước ngoài đều phải thực hiện đăng ký đầu tư và thủ
tục này cũng chặt chẽ hơn nhà đầu tư trong nước khi luôn phải tiến hành thông qua bộ hồ sơ gồm nhiều
loại giấy tờ thể hiện nhiều nội dung hơn. Tuy nhiên đó không phải là sự phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư
trong nước và nhà đầu tư nước ngoài của nhà nước Việt Nam bởi nó cũng tương tự như quy định của luật
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trước đây và tương đồng với pháp luật của các nước.
b. Thẩm tra dự án đầu tư
Đối với dự án đầu tư trong nước, dự án có vốn đầu tư nước ngoài có quy mô vốn đầu tư từ ba
trăm tỷ đồng trở lên thì phải thực hiện tục thẩm tra để được cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Nhà đầu tư lập
hồ sơ dự án bao gồm:
+ Văn bản đề nghị cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
+ Văn bản xác nhận tư cách pháp lý của nhà đầu tư.
+ Báo cáo năng lực tài chính của nhà đầu tư.
+ Giải trình kinh tế - kỹ thuật với các nội dung về mục tiêu, địa điểm đầu tư, nhu cầu sử dụng đất, quy
mô đầu tư, vốn đầu tư, tiến độ thực hiện dự án, giải pháp công nghệ, giải pháp về môi trường.
Đối với nhà đầu tư nước ngoài, hồ sơ còn bao gồm hợp đồng liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh
doanh, Điều lệ doanh nghiệp (nếu có).
Thời hạn thẩm tra đầu tư không quá ba mươi ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ; trường hợp
cần thiết, thời hạn trên có thể kéo dài nhưng không quá bốn mươi lăm ngày.
Như vậy đối với các dự án có quy mô lớn, để nhà nước kiểm soát được các hoạt động đầu tư, nhà
đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài thực hiện chung thủ tục thẩm tra đầu tư và thủ tục này chặt
chẽ hơn thủ tục đăng ký đầu tư.
c. Thủ tục đầu tư đặc biệt
* Đối với dự án thuộc Danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện
Đối với dự án thuộc Danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện, các nhà đầu tư (trong nước và nước
ngoài) phải tiến hành thủ tục thẩm tra đầu tư với bộ hồ sơ được bổ sung thêm giải trình điều kiện mà dự án
đầu tư phải đáp ứng.
* Đối với dự án đầu tư gắn với thành lập tổ chức kinh tế
Nhà đầu tư nước ngoài lần đầu đầu tư vào Việt Nam phải có dự án đầu tư và làm thủ tục đăng ký
đầu tư hoặc thẩm tra đầu tư tại cơ quan nhà nước quản lý đầu tư để được cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Như vậy, sau khi nhà đầu tư
nước ngoài được cấp Giấy chứng nhận đầu tư, tổ chức kinh tế của nhà đầu tư có tư cách pháp nhân. Quy
định này tương tự như quy định của Luật đầu tư nước ngoài trước đây. Trong khi đó nhà đầu tư trong
nước ngoài thực hiện đăng ký đầu tư hoặc thẩm tra đầu tư theo quy định của Luật đầu tư còn phải thực
hiện thủ tục đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2005.
* Đối với dự án sử dụng vốn của nhà nước
- 17 -
Luật Kinh tế
Các dự án này phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thẩm định và chấp thuận đầu tư.
Riêng với các dự án quan trọng quốc gia thì phải được Quốc Hội quyết định chủ trương đầu tư. Đối với
dự án quan trọng được xác định trong quy hoạch ngành có từ hai nhà đầu tư trở lên quan tâm thì việc lựa
chọn nhà đầu tư thực hiện dự án phải tổ chức đấu thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu.
Như vậy khi tiến hành đầu tư, nhà đầu tư tiến hành các thủ tục đầu tư khác nhau phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khác nhau như quốc tịch của nhà đầu tư, quy mô vốn, nguồn vốn, ngành nghề, lĩnh vực đầu
tư. Tuy nhiên, hai tiêu chí quốc tịch của nhà đầu tư và quy mô vốn đầu tư có tính quyết định cao hơn cả
đến việc tiến hành thủ tục đầu tư của nhà đầu tư.
2. Chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư
Dự án đầu tư chấm dứt hoạt động trong các trường hợp sau đây:
- Hết thời hạn hoạt động ghi trong Giấy chứng nhận đầu tư.
- Theo các điều kiện chấm dứt hoạt động được quy định trong hợp đồng, Điều lệ doanh nghiệp
hoặc thỏa thuận, cam kết của các nhà đầu tư về tiến độ thực hiện dự án.
- Nhà đầu tư quyết định chấm dứt hoạt động của dự án.
- Chấm dứt hoạt động theo quyết định của cơ quan nhà nước quản lý đầu tư hoặc theo bản án, quyết
định của tòa án, trọng tài do vi phạm pháp luật.
Trong trường hợp dự án được cấp Giấy chứng nhận đầu tư sau mười hai tháng mà nhà đầu tư
không triển khai hoặc không có khả năng thực hiện theo tiến độ độ cam kết và không có lý do chính đáng
thì bị thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư và dự án đầu tư cũng chấm dứt hoạt động.
Như vậy việc chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư nói chung xảy ra theo hai trường hợp:
Thứ nhất nhà đầu tư tự quyết định chấp dứt hoạt động của dự án đầu tư.
Thứ hai, nhà đầu tư buộc chấm dứt hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật hoặc theo quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Quy định này phù hợp với các quy định của các luật khác liên quan, đặc biệt là quy định của
Luật Doanh nghiệp.
V. ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI
Phù hợp với qúa trình hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, lân đầu tiên Luật Đầu tư năm 2005
chính thức ghi nhận hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nhà đầu tư Việt Nam với các nội dung cơ bản
như sau:
1. Chính sách của nhà nước Việt Nam về đầu tư ra nước ngoài
- Nhà đầu tư được đầu tư ra nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam và của nước tiếp
nhận đầu tư.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài, kể cả tiếp cận các nguồn vốn tín
dụng trên cơ sở bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế; bảo lãnh vay vốn đối với
các dự án đầu tư ra nước ngoài trong các lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư
- Bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư Việt Nam ở nước ngoài.
- Khuyến khích đầu tư ra nước ngoài đối với những lĩnh vực xuất khẩu nhiều lao động; phát huy
có hiệu quả các ngành, nghề truyền thống của Việt Nam; mở rộng thị trường, khai thác nguồn tài nguyên
thiên nhiên tại nước đầu tư tăng khả năng xuất khẩu, thu ngoại tệ.
- Không cấp phép đầu tư ra nước ngoài đối với những dự án gây phương hại đến bí mật, an ninh
quốc gia, quốc phòng, lịch sử, văn hoá, thuần phong mỹ tục của Việt Nam.
Chính sách của nhà nước Việt Nam về đầu tư ra nước ngoài khá thông thoáng nhằm khuyến
khích hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nhà đầu tư Việt Nam tương ứng với hoạt động đầu tư trong
nước và hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Mặt khác chính sách này bảo đảm
được rằng hoạt động đầu tư ra nước ngoài của nhà đầu tư Việt Nam không chỉ vì lợi ích của nhà đầu tư,
vì lợi ích của nhà nước, công đồng Việt Nam mà còn vì lợi ích của các nước tiếp nhận đầu tư. Mặt khác,
nhà nước Việt Nam vẫn quản lý được hoạt động đầu tư của nhà đầu tư, kể cả khi nhà đầu tư đang hoạt
động đầu tư ở nước ngoài.
2. Chủ thể thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài
- Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.
- 18 -
Luật Kinh tế
- Cơ sở dịch vụ y tế, giáo dục, khoa học, văn hoá, thể thao và các cơ sở dịch vụ khác có hoạt
động đầu tư sinh lợi.
- Hộ kinh doanh.
- Cá nhân Việt Nam.
Thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư của các tổ chức, cá nhân Việt Nam ra nước ngoài,
ngoài các loại thương nhân chủ yếu, mọi cá nhân Việt Nam đều được tiến hành hoạt động đầu tư nếu đáp
ứng đủ các điều kiện đầu tư ra nước ngoài và các quy định khác của pháp luật.
3. Điều kiện đầu tư ra nước ngoài
Để được đầu tư ra nước ngoài, nhà đầu tư phải đạt một số điều kiện theo quy định của pháp luật
Việt Nam phù hợp với từng hình thức đầu tư.
a. Trường hợp đầu tư trực tiếp
+ Có dự án đầu tư ra nước ngoài.
+ Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam.
+ Được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
Ngoài ra, đối với các trường hợp sử dụng vốn của nhà nước để đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
phải tuân thủ các quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng vốn nhà nước.
b. Trường hợp đầu tư gián tiếp
Nhà đầu tư Việt Nam được đầu tư ra nước ngoài theo hình thức gián tiếp như mua cổ phần, cổ
phiếu, đăng ký quỹ đầu tư chứng khoán hoặc các chế định tài chính trung gian khác phải tuân thủ các quy
định của pháp luật về ngân hàng, chứng khoán và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Việc sử dụng vốn nhà nước để đầu tư ra nước ngoài phải tuân thủ quy định của pháp luật về quản lý, sử
dụng vốn nhà nước.
4. Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư ra nước ngoài
Phù hợp với chính sách đầu tư ra nước ngoài, với luật pháp Việt Nam và luật pháp của nước
ngoài, Luật đầu tư năm 2005 quy định nhà đầu tư ra nước ngoài từ khi tiến hành những bước đầu tiên của
hoạt động đầu tư đến khi kết thúc hoạt động đầu tư ở nước ngoài có các quyền, nghĩa vụ sau đây:
a. Quyền của nhà đầu tư ra nước ngoài
+ Chuyển vốn đầu tư bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác ra nước ngoài để thực hiện đầu tư.
+ Được hưởng các ưu đãi về đầu tư.
+ Tuyển dụng lao động Việt Nam sang làm việc tại cơ sở sản xuất kinh doanh ở nước ngoài.
b. Nghĩa vụ của nhà đầu tư ra nước ngoài
+ Tuân thủ pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư.
+ Chuyển lợi nhuận và các khoản thu nhập từ việc đầu tư ra nước ngoài về nước; khi kết thúc đầu tư ở
nước ngoài, chuyển toàn bộ vốn, tài sản hợp pháp về nước, trường hợp chưa chuyển về thì phải được sự
đồng ý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
+ Thực hiện chế độ báo cáo định kỳ về tài chính và hoạt động đầu tư ở nước ngoài; thực hiện đầy đủ các
nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam.
5. Thủ tục đầu tư ra nước ngoài
a. Đăng ký đầu tư
Đối với dự án có quy mô vốn đầu tư dưới mười lăm tỷ đồng thì nhà đầu tư lập hồ sơ dự án đầu tư
gồm:
+ Văn bản đăng ký dự án đầu tư.
+ Văn bản xác định tư cách pháp lý của nhà đầu tư.
+ Hợp đồng hoặc văn bản thoả thuận với đối tác nước ngoài.
Đối với nhà đầu tư là các tổ chức kinh tế Việt Nam thì hồ sơ còn bao gồm văn bản của các bộ
phận lãnh đạo cao nhất của tổ chức kinh tế đó.
Bộ hồ sơ này được gửi tới Bộ Kế hoạch - Đầu tư, trong thời hạn 15 ngày làm việc, cơ quan này
xem xét và cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho nhà đầu tư. Trong trường hợp hồ sơ đầu tư không được chấp
thuận thì Bộ Kế hoạch - Đầu tư sẽ trả lời bằng văn bản cho nhà đầu tư.
b. Thẩm tra đầu tư
Đối với dự án có quy mô vốn đầu tư từ mười lăm tỷ đồng trở lên, nhà đầu tư lập hồ sơ dự án đầu
tư gồm:
+ Văn bản đề nghị thẩm tra dự án đầu tư.
- 19 -
Luật Kinh tế
+ Văn bản xác định tư cách pháp lý của nhà đầu tư.
+ Hợp đồng hoặc văn bản thoả thuận với đối tác nước ngoài.
+ Văn bản giải trình về dự án đầu tư gồm nội dung về mục tiêu đầu tư, địa điểm đầu tư, quy mô đầu tư,
nguồn vốn đầu tư, việc sử dụng lao động Việt Nam, lao động nước ngoài (nếu có); tiến độ thực hiện dự
án đầu tư.
+ Văn bản của các bộ phận lãnh đạo cao nhất của tổ chức kinh tế (Nếu nhà đầu tư là các tổ chức kinh tế).
Nhà đầu tư gửi hồ sơ về Bộ Kế hoạch - Đầu tư, trong thời hạn tối đa là 30 ngày, Bộ Kế hoạch - Đầu tư cấp
Giấy chứng nhận đầu tư cho nhà đầu tư. Trong đó, trách nhiệm thẩm tra dự án đầu tư thuộc về các Bộ, ngành liên
quan và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi nhà đầu tư đặt trụ sở chính. Các cơ quan này tiến hành thẩm tra và nêu ý kiến
của mình trong thời hạn 15 ngày và gởi về Bộ Kế hoạch - Đầu tư làm căn cứ cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho nhà
đầu tư.
c. Thủ tục đầu tư đặc biệt
* Dự án thực hiện thủ tục thẩm tra đặc biệt
- Dự án đầu tư có sử dụng vốn của nhà nước từ 300 tỷ đồng Việt Nam trở lên hoặc vốn của các
thành phần kinh tế từ 600 tỷ đồng trở lên.
- Dự án đầu tư thuộc lĩnh vực ngân hàng, kinh doanh bảo hiểm, tài chính, tín dụng, báo chí, phát
thanh, truyền hình, viễn thông có sử dụng vốn nhà nước từ 150 tỷ đồng Việt Nam trở lên hoặc vốn của
các thành phần kinh tế từ 300 tỷ đồng Việt Nam trở lên.
* Trình tự thẩm tra đầu tư
Thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đầu tư là Bộ Kế hoạch - Đầu tư. Nhưng trong thời hạn 25
ngày, kể từ ngày nhận được bộ hồ sơ hợp lệ, Bộ Kế hoạch - Đầu tư phải gửi toàn bộ hồ sơ thẩm tra đầu
tư, trong đó có ý kiến bằng văn bản của các Bộ, ngành liên quan, Uỷ ban nhân nhân cấp tỉnh nơi nhà đầu
tư đặt trụ sở để xin ý kiến chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ.
Như vậy, thủ tục đầu tư ra nước ngoài của các nhà đầu tư Việt Nam tương tự thủ tục nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư vào Việt nam. Tuy nhiên, đi vào cụ thể có nội dung thể hiện sự chặt chẽ hơn, ngược lại có nội dung
đơn giản hơn. Thậm chí cũng như thủ tục đầu tư tại Việt Nam, thủ tục đầu tư ra nước ngoài của nhà đầu tư không
đồng nhất, điều đó phụ thuộc vào quy mô đầu tư, nguồn vốn cũng như ngành nghề, lĩnh vực đầu tư. Mặt khác, bên
cạnh thủ tục đầu tư trên, nhà đầu tư Việt Nam phải thực hiện thủ tục đầu tư theo quy định của nước nhận dự án đầu
tư.
- 20 -
Luật Kinh tế
CHƯƠNG IV
PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP
I. GIỚI THIỆU VỀ DOANH NGHIỆP
1. Giới thiệu chung về doanh nghiệp và pháp luật về doanh nghiệp
Trong nền kinh tế tập trung, ở Việt Nam có hai thành phần kinh tế cơ bản là kinh tế quốc doanh
và kinh tế tập thể. Từ sau năm 1986, Việt Nam xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trường, từ thời điểm này nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật ghi nhận sự tồn
tại của nhiều loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế.
a. Doanh nghiệp nhà nước
Được ra đời theo sắc lệnh số 104, ngày 1/1/1948 với tên gọi ban đầu là Doanh nghiệp quốc gia.
Trong nền kinh tế tập trung loại hình doanh nghiệp này được ghi nhận là mục tiêu của Chế độ xã hội chủ
nghĩa do vậy đã được phát triển mạnh mẽ trên mọi nghề nghề, lĩnh vực địa bàn với số lượng lên tới gần
12.000 doanh nghiệp và tạo ra phần lớn GDP quốc gia, đóng góp phần quan trọng vào Ngân sách nhà
nước. Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách về loại hình doanh nghiệp này, tuy nhiên đó chỉ
là những văn bản dưới luật. Năm 1995, Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành
Luật Doanh nghiệp nhà nước, năm 2003 văn bản luật này được thay thế bởi văn bản luật cùng tên. Dù
khung pháp lý về doanh nghiệp nhà nước được hoàn thiện dần, song với sự thay đổi về cách nhìn nhận về
loại hình doanh nghiệp này và mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp nhà nước đã có
nhiều thay đổi. Về vai trò, Doanh nghiệp nhà nước được xác định là cùng với kinh tế tập thể giữ vai trò
chủ đạo để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế nhiều thành phần của Việt Nam. Doanh
nghiệp nhà nước phải thực hiện sứ mệnh này trong điều kiện được đối xử bình đẳng với các thành phần
kinh tế khác trong nền kinh tế. Hiện nay chỉ còn lại khoảng hơn 1/3 số doanh nghiệp nhà nước so với
trước đây, tạo ra chưa tới 40% GDP và đóng góp hơn một nửa ngân sách nhà nước.
b. Công ty
Xuất hiện từ thế kỷ thứ XIII ở Châu Âu, tại Việt Nam, các nhà nước Bảo hộ Pháp, nhà nước
Phong kiến và Chính quyền Cộng hoà miền Nam Việt Nam đã ban hành Luật quy định về công ty vào
các năm 1931, 1942 và 1972. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không thừa nhận sự tồn tại
của loại hình doanh nghiệp này trong nền kinh tế tập trung. Từ năm 1986, xây dựng nền kinh tế thị
trường, nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản luật quy định về công ty. Luật Công ty năm 1990
(Luật sửa đổi, bổ sung năm 1994): Quy định về 2 loại công ty là công ty cổ phần (tối thiểu 7 thành viên);
công ty trách nhiệm hữu hạn (từ 2 thành viên trở lên). Luật Doanh nghiệp năm 1999 quy định về công ty
cổ phần (tối thiểu là 3 thành viên); công ty trách nhiệm hữu hạn ngoài loại hình có nhiều thành viên (tối
thiểu 2 thành viên), ghi nhận thêm loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (do một tổ chức
thành lập). Ngoài ra còn ghi nhận thêm một loại hình công ty mới là công ty hợp danh (do từ 2 cá nhân
hợp danh trở lên thành lập). Luật Doanh nghiệp năm 2005: Quy định về các loại công ty thuộc mọi thành
phần kinh tế.
Do nhà nước chưa thực sự quan tâm đến thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và những quy định
chặt chẽ của Luật Công ty năm 1990, những năm 90 của thế kỷ XX loại hình công ty phát triển chậm.
Chỉ sau Luật Doanh nghiệp năm 1999, có hiệu lực ngày 1/1/2000 loại hình công ty mới phát triển mạnh
mẽ. Hiện nay đã có gần 4000 công ty cổ phần, loại hình công ty quan trọng quyết định sự ra đời, tồn tại
và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam. Song nhiều nhất về số lượng lại là loại hình công ty
trách nhiệm hữu hạn. Công ty hợp danh, không chỉ số lượng còn hạn chế mà giá trị vốn đầu tư, giải quyết
việc làm, giá trị tạo ra trong GDP... còn nhỏ.
c. Doanh nghiệp tư nhân
Phù hợp với mục tiêu “dân giầu, nước mạnh", năm 1990 nhà nước Việt Nam đã ban hành Luật
Doanh nghiệp tư nhân (Luật này được sửa đổi, bổ sung năm 1994). Đến năm 1999 và 2005 Luật Doanh
nghiệp đã quy định về loại hình doanh nghiệp này. Dù có một số quy định của pháp luật về doanh nghiệp
tư nhân gây bất lợi cho chủ doanh nghiệp và không có được sự đón nhận hồ hởi từ xã hội, loại hình
doanh nghiệp tư nhân vẫn phát triển nhanh về số lượng. Hiện nay, loại hình doanh nghiệp này vẫn chiếm
hơn một nửa trong số gần 300.000 tổ chức kinh tế tại Việt Nam. Tuy nhiên, quy mô của doanh nghiệp tư
nhân còn nhỏ, giá trị sản xuất chưa lớn, số lao động sử dụng ngoài lao động gia đình chưa nhiều...
d. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
- 21 -
Luật Kinh tế
Ngay từ những năm đầu sau khi thống nhất đất nước nhà nước Việt Nam đã có văn bản quy định
về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên vì nhiều lý do, chính sách này không phát huy giá trị trong
thực tiễn. Ngay sau khi thực hiện đường lối đổi mới kinh tế, năm 1987 nhà nước Việt Nam đã ban hành
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Đây là văn bản luật đầu tiên quy định về tổ chức kinh tế ngoài
quốc doanh ở Việt Nam. Theo văn bản Luật này, nhà đầu tư nước ngoài được thành lập doanh nghiệp
100% vốn đầu tư nước ngoài hoặc doanh nghiệp Liên doanh tại Việt Nam. Với thiện chí cao đối với hoạt
động thu hút vốn đầu tư, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam liên tục được ban hành mới thay thế và sửa
đổi, bổ sung vào các năm 1990, 1992, 1996 và 2000. Bằng các quy định thông thoáng, phù hợp thông lệ
quốc tế và sức hấp dẫn của môi trường đầu tư hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đạt
kết quả bất ngờ vào các năm 1994 - 1997, những năm 1999 - 2003 hoạt động này giảm xuống và đang
tăng trưởng trở lại từ năm 2005. Hiện nay, với hơn 6000 dự án đầu tư, tổng số vốn đăng ký trên 60 tỷ đô
la, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tạo ra
ngày càng lớn giá trị trong thu nhập quốc dân và đóng góp vào Ngân sách nhà nước, đặc biệt loại hình
doanh nghiệp này đã tạo ra trên 50% giá trị xuất khẩu của Việt Nam.
2. Các loại doanh nghiệp
Dựa vào nhiều căn cứ khác nhau có thể chia doanh nghiệp thành nhiều loại khác nhau như sau:
a. Căn cứ vào sở hữu: Có các loại doanh nghiệp sau
+ Doanh nghiệp nhà nước: Do nhà nước đầu tư và nắm giữ toàn bộ hoặc phần vốn chi phối.
+ Công ty: Do một tổ chức, cá nhân hoặc nhiều tổ chức, cá nhân hùn vốn để thực hiện các hoạt động sản
xuất - kinh doanh.
+ Doanh nghiệp tư nhân: Do một cá nhân đầu tư vốn thành lập và làm chủ .
+ Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Do nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn thành lập, liên
doanh với bên Việt Nam thành lập hoặc mua lại, sáp nhập, mua cổ phần của doanh nghiệp Việt Nam.
Trước đây, pháp luật Việt Nam lấy căn cứ này để phân chia các loại hình doanh nghiệp. Pháp luật
về doanh nghiệp nói riêng, các tổ chức kinh tế nói chung đều quy định theo tiêu chí này, do đó đã hình
thành các văn bản Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân... như đã giới
thiệu tại phần trên.
b. Căn cứ vào hình thức tổ chức: Có các loại doanh nghiệp sau:
+ Công ty: Gồm Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và nhóm công ty.
+ Doanh nghiệp tư nhân (DN tư nhân có thể được nhìn nhận là cá nhân có đăng ký kinh doanh).
Hiện nay, theo quy định của Luật Doanh nghiệp và các văn bản liên quan, địa vị pháp lý của doanh
nghiệp được quy định cho từng loại hình doanh nghiệp dựa theo tiêu chí này. Do vậy, các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế của Việt Nam đã được quy định chung trong một văn bản luật.
c. Căn cứ vào chức năng hoạt động: Có các loại doanh nghiệp sau:
+ Doanh nghiệp hoạt động sản xuất - kinh doanh: Thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các công đoạn từ
đầu tư đến tiêu thụ sản phẩm, cung ứng dịch vụ nhằm mục đích phát sinh lợi nhuận.
+ Doanh nghiệp hoạt động công ích: Hoạt động trong các lĩnh vực an ninh, quốc phòng, dịch vụ công
cộng không vì mục đích phát sinh lợi nhuận.
d. Căn cứ vào quy mô: Có các loại doanh nghiệp:
+ Doanh nghiệp có quy mô lớn.
+ Doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ.
Thông thường ở Việt Nam cũng như các nước trên thế giới lấy các tiêu chí vốn đầu tư, doanh thu,
số lao động thường xuyên, nộp ngân sách... để phân loại doanh nghiệp theo tiêu chí này.
3. Các loại doanh nghiệp theo quy định của pháp luật hiện hành
Theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2005, trong nền kinh tế Việt Nam có các loại doanh
nghiệp sau:
a. Công ty trách nhiệm hữu hạn
* Về thành viên:
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên: Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng
thành viên không vượt quá năm mươi.
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu.
* Về vốn: Vốn của công ty do chủ sở hữu đầu tư hoặc các thành viên góp thể hiện bằng giá trị tính ra
thành tiền.
- 22 -
Luật Kinh tế
* Về trách nhiệm đối với các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác: Chủ sở hữu, các thành viên của công ty
chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn điều lệ
của công ty.
* Về khả năng chuyển nhượng vốn của chủ sở hữu công ty và các thành viên: Chủ sở hữu của công ty
được chuyển một phần vốn cho tổ chức, cá nhân khác; các thành viên của công ty bị hạn chế quyền
chuyển vốn khi phải ưu tiên chuyển vốn của mình cho thành viên của công ty.
* Về khả năng phát hành chứng khoán: Trong quá trình hoạt động, công ty trách nhiệm hữu hạn không
được phát hành cổ phiếu.
* Về tư cách pháp nhân: Công ty có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh (Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư).
b. Công ty cổ phần
* Về thành viên: Gọi là cổ đông; cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba,
không hạn chế số lượng tối đa.
* Về vốn của công ty: Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.
* Về trách nhiệm đối với các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác: Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm trong
phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
* Về khả năng chuyển vốn: Cổ đông tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ một số
trường hợp pháp luật hạn chế quyền chuyển vốn.
* Về khả năng phát hành chứng khoán: Trong quá trình hoạt động, công ty cổ phần có quyền phát hành
tất cả các loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, quỹ đầu tư...) để huy động vốn trong công chúng.
* Về tư cách pháp nhân: Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh (Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư).
c. Công ty hợp danh
* Về thành viên: Tối thiểu hai thành viên hợp danh, thành viên hợp danh phải là cá nhân; có thể có thành
viên góp vốn.
* Về vốn của công ty: Phần vốn chủ yếu của thành viên hợp danh là danh được thể hiện bằng uy tín và
trình độ tay nghề; thành viên hợp vốn góp vốn thể hiện bằng giá trị tính thành tiền.
* Về khả năng chuyển vốn: Thành viên hợp danh không được quyền chuyển một phần hoặc toàn bộ phần
vốn góp của mình tại công ty cho người khác nếu không được sự chấp thuận của tối thiểu 3/4 số thành
viên hợp danh của công ty. Thành viên hợp vốn được quyền chuyển vốn cho người khác.
* Về trách nhiệm đối với các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác: Thành viên hợp danh chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty; thành viên hợp vốn chỉ chịu trách nhiệm về
các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
* Về khả năng phát hành chứng khoán: Trong quá trình hoạt động công ty hợp danh không được phát
hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
* Về tư cách pháp nhân: Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh (Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư).
d. Doanh nghiệp tư nhân
* Về thành viên: Do một cá nhân làm chủ.
* Về vốn: Thể hiện bằng giá trị tính thành tiền.
* Về chuyển vốn: Chủ doanh nghiệp tư nhân không được chuyển vốn cho tổ chức, cá nhân khác nhưng
được quyền bán, cho thuê doanh nghiệp và các tài sản của doanh nghiệp.
* Về trách nhiệm đối với các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác: Chủ doanh nghiệp phải chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
* Về khả năng phát hành chứng khoán: Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp tư nhân không được
phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
* Về tư cách pháp nhân: Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân.
đ. Nhóm công ty
Là tập hợp các công ty có mối quan hệ gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị
trường và các dịch vụ kinh doanh khác.
Nhóm công ty bao gồm các hình thức sau đây:
- Công ty mẹ - công ty con.
- Tập đoàn kinh tế.
- 23 -
Luật Kinh tế
- Các hình thức khác.
Trong đó tập đoàn kinh tế là nhóm công ty có quy mô lớn.
II. THÀNH LẬP, TỔ CHỨC LẠI VÀ GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP
1. Thành lập doanh nghiệp
Mọi tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có quyền thành lập và quản lý
doanh nghiệp tại Việt Nam trừ các trường hợp sau đây:
- Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước thành lập
doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng.
- Cán bộ, công chức; sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng thuộc
Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp thuộc Công an nhân dân.
- Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp 100% vốn sở hữu nhà nước (trừ
trường hợp được cử tham gia).
- Người chưa thành niên; người bị hạn chế hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự; người đang chấp
hành hình phạt tù hoặc đang bị cấm hành nghề kinh doanh.
- Các trường hợp theo quy định của pháp luật về phá sản.
Để thành lập doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân phải thực hiện thủ tục sau đây:
a. Đăng ký kinh doanh
Các tổ chức, cá nhân lập bộ hồ sơ đăng ký kinh doanh gồm các loại giấy tờ sau:
+ Giấy đề nghị đăng ký kinh doanh theo mẫu thống nhất do cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền
quy định.
+ Dự thảo Điều lệ công ty (trừ doanh nghiệp tư nhân).
+ Danh sách thành viên và các giấy tờ kèm theo giấy tờ chứng minh tư cách pháp lý của thành viên (bản
sao Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác; bản sao quyết định
thành lập, Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc tài liệu tương đương khác của tổ chức; văn bản uỷ
quyền, Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của người đại diện
theo uỷ quyền).
+ Văn bản xác nhận vốn pháp định (nếu pháp luật quy định).
+ Chứng chỉ hành nghề của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và cá nhân khác (nếu pháp luật quy định),
riêng công ty hợp danh phải có chứng chỉ hành nghề của tất cả các thành viên hợp danh.
Bộ hồ sơ này được gửi tới Sở Kế hoạch và Đầu tư cấp tỉnh nơi doanh nghiệp đặt trụ sở. Cơ quan
này có trách nhiệm xem xét hồ sơ đăng ký kinh doanh và cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong
thời hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ. Nếu từ chối cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh thì cơ quan đăng ký kinh doanh phải thông báo bằng văn bản cho người thành lập doanh nghiệp.
Doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh khi có đủ các điều kiện là ngành,
nghề đăng ký kinh doanh không thuộc lĩnh vực cấm kinh doanh; có tên, trụ sở chính, hồ sơ đăng ký kinh
doanh và nộp đủ lệ phí đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Từ thời điểm được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh doanh nghiệp có tư cách pháp nhân.
Trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cơ quan
đăng ký kinh doanh phải thông báo nội dung giấy chứng nhận đó cho cơ quan thuế, cơ quan thống kê, Uỷ
ban nhân dân các cấp nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính.
b. Công bố nội dung đăng ký kinh doanh
Để nhanh chóng hoà nhập với thương trường, trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày được cấp
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp phải đăng trên mạng thông tin doanh nghiệp của cơ
quan đăng ký kinh doanh hoặc một trong các loại tờ báo viết hoặc báo điện tử trong ba số liên tiếp về các
nội dung chủ yếu sau đây:
+ Tên doanh nghiệp.
+ Địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện.
+ Ngành, nghề kinh doanh.
+ Vốn điều lệ đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh; số cổ phần và giá trị vốn cổ phần
đã góp và số cổ phần được quyền phát hành đối với công ty cổ phần; vốn đầu tư ban đầu đối với doanh
nghiệp tư nhân; vốn pháp định (nếu có).
- 24 -
Luật Kinh tế
+ Họ, tên, địa chỉ, quốc tịch, số Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp
khác, số quyết định thành lập hoặc số đăng ký kinh doanh của chủ sở hữu, của thành viên hoặc cổ đông
sáng lập.
+ Họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá
nhân hợp pháp khác của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
+ Nơi đăng ký kinh doanh.
Các tổ chức, cá nhân nước ngoài khi thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam không phải thực hiện thủ tục Đăng ký kinh doanh mà chỉ thực hiện thủ tục đăng ký hoặc thẩm tra
đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư năm 2005. Trong khi các tổ chức, cá nhân trong nước, ngoài việc
đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp còn phải tiến hành đăng ký đầu tư hoặc thẩm
tra đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư năm 2005.
2. Tổ chức lại doanh nghiệp
a. Các hình thức tổ chức lại doanh nghiệp
* Chia doanh nghiệp: Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần có thể được chia thành một
số công ty cùng loại bằng cách chuyển toàn bộ phần tài sản của công ty hiện có để thành lập một số công
ty mới cùng loại; chuyển toàn bộ quyền và nghĩa vụ của công ty bị chia sang các công ty được chia, sau
đó công ty bị chia chấm dứt hoạt động của mình.
* Tách doanh nghiệp: Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần có thể tách bằng cách
chuyển một phần tài sản của công ty hiện có để thành lập một hoặc một số công ty mới cùng loại; chuyển
một phần quyền và nghĩa vụ của công ty bị tách sang công ty được tách mà không chấm dứt tồn tại của
công ty bị tách.
* Hợp nhất doanh nghiệp: Hai hoặc một số công ty cùng loại có thể hợp nhất thành một công ty
mới bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty hợp nhất, đồng
thời chấm dứt tồn tại của các công ty bị hợp nhất.
* Sáp nhập doanh nghiệp: Một hoặc một số công ty cùng loại có thể sáp nhập vào một công ty
khác bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty nhận sáp nhập,
đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhập.
* Chuyển đổi công ty
- Công ty trách nhiệm hữu hạn có thể được chuyển đổi thành công ty cổ phần hoặc ngược lại.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành
viên trở lên.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn là một tổ chức chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một cá
nhân.
b. Thủ tục tổ chức lại doanh nghiệp
* Chuẩn bị tổ chức lại doanh nghiệp
Chủ sở hữu công ty hoặc bộ phận lãnh đạo của công ty thông qua quyết định chia, tách công ty;
các công ty liên quan chuẩn bị hợp đồng hợp nhất, sáp nhập và dự thảo Điều lệ công ty hợp nhất, sáp
nhập.
Các thành viên, chủ sở hữu công ty hoặc các cổ đông của các công ty mới được thành lập sau khi
chia, tách, hợp nhất, sáp nhập thông qua Điều lệ, bầu hoặc bổ nhiệm Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ
tịch công ty, Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.
* Đăng ký kinh doanh
Các công ty mới thực hiện thủ tục đăng ký kinh doanh như trường hợp doanh nghiệp được thành
lập mới. Sau khi các công ty mới được đăng ký kinh doanh các công ty bị chia, bị sáp nhập, bị hợp nhất,
bị sáp nhập chấm dứt hoạt động.
* Một số chú ý:
- Trường hợp chuyển đổi công ty, công ty và tổ chức, cá nhân nhận chuyển nhượng vốn chỉ cần thoả
thuận và thực hiện đăng ký kinh doanh như trường hợp thành lập mới doanh nghiệp mà không cần thực hiện
bước chuẩn bị.
- Trường hợp hợp nhất và sáp nhập doanh nghiệp phải tuân thủ quy định của pháp luật cạnh tranh
về thống lĩnh thị trường.
3. Giải thể doanh nghiệp
a. Các trường hợp doanh nghiệp giải thể
- 25 -
Luật Kinh tế
- Kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi trong Điều lệ công ty mà không có quyết định gia hạn.
- Theo quyết định của chủ doanh nghiệp, chủ sở hữu, thành viên hoặc của bộ phận lãnh đạo cao
nhất của doanh nghiệp.
- Công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định của pháp luật trong thời hạn
sáu tháng liên tục.
- Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Như vậy doanh nghiệp có thể tự nguyện giải thể hoặc bắt buộc phải giải thể trong một số trường
hợp nhất định.
Để bảo đảm quyền lợi của các bạn hàng và sự ổn định của nền kinh tế, Luật Doanh nghiệp còn
quy định doanh nghiệp chỉ được giải thể khi bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản
khác. Đây là điều khác biệt giữa giải thể với phá sản doanh nghiệp.
b. Thủ tục giải thể doanh nghiệp
* Thông qua, quyết định giải thể doanh nghiệp
Chủ doanh nghiệp, các thành viên của công ty thông qua quyết định giải thể doanh nghiệp với
các nội dung chủ yếu là tên, địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp; lý do giải thể; thời hạn, thủ tục thanh
lý hợp đồng và thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp; thời hạn thanh toán nợ, thanh lý hợp đồng
không được vượt quá sáu tháng, kể từ ngày thông qua quyết định giải thể; phương án xử lý các nghĩa vụ
phát sinh từ hợp đồng lao động; họ, tên, chữ ký của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
* Thanh lý tài sản doanh nghiệp
Chủ doanh nghiệp, Hội đồng thành viên hoặc chủ sở hữu công ty, Hội đồng quản trị hoặc Tổ
chức thanh lý thực hiện thanh lý tài sản doanh nghiệp. Doanh nghiệp thanh toán theo thứ tự ưu tiên sau
đây:
+ Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội và các quyền lợi khác của người lao động.
+ Nợ thuế và các khoản nợ khác.
Sau khi đã thanh toán hết các khoản nợ và chi phí giải thể doanh nghiệp, phần còn lại thuộc về
chủ doanh nghiệp tư nhân, các thành viên, cổ đông hoặc chủ sở hữu công ty.
* Công khai giải thể
Trong thời hạn bảy ngày làm việc kể từ ngày thông qua, quyết định giải thể phải được gửi đến cơ
quan đăng ký kinh doanh, tất cả các chủ nợ, người có quyền, nghĩa vụ và lợi ích liên quan, người lao
động trong doanh nghiệp và niêm yết công khai tại trụ sở chính, chi nhánh của doanh nghiệp. Trường hợp
pháp luật yêu cầu thì doanh nghiệp phải đăng báo quyết định này ít nhất trên một tờ báo viết hoặc báo
điện tử trong ba số liên tiếp.
Sau khi thanh toán hết các khoản nợ, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp gửi hồ sơ
giải thể doanh nghiệp đến cơ quan đăng ký kinh doanh. Trong thời hạn bảy ngày làm việc kể từ ngày
nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan này xoá tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký kinh doanh.
Trường hợp doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp phải
giải thể trong thời hạn sáu tháng. Sau thời hạn sáu tháng mà cơ quan đăng ký kinh doanh không nhận
được hồ sơ giải thể doanh nghiệp thì doanh nghiệp đó coi như đã được giải thể và cơ quan đăng ký kinh
doanh xoá tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký kinh doanh và người đại diện, người quản lý, các thành
viên liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác chưa thanh toán.
III. QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA DOANH NGHIỆP
1. Quyền của doanh nghiệp
a. Tự chủ kinh doanh; chủ động lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh, đầu tư, chủ
động mở rộng quy mô và ngành, nghề kinh doanh; được Nhà nước khuyến khích, ưu đãi và tạo điều
kiện thuận lợi tham gia sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích
Doanh nghiệp được toàn quyền thực hiện các hành vi kinh doanh từ việc xây dựng phương
hướng, kế hoạch sản xuất kinh doanh đến những giải pháp tổ chức thực hiện. Trong việc lựa chọn ngành,
nghề kinh doanh, doanh nghiệp không được lựa chọn các ngành nghề, lĩnh vực mà pháp luật cấm. Khi
mở rộng quy mô và ngành nghề kinh doanh, doanh nghiệp phải thực hiện thủ tục đăng ký bổ sung và thủ
tục đầu tư. Việc sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích trước đây thường được giao cho doanh
nghiệp nhà nước, hiện nay nhà nước Việt Nam khuyến khích, ưu đãi và tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia.
- 26 -