Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Một số tình huống trong quản lý nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.68 KB, 26 trang )

Bài 13: Một số tình huống trong quản lý Nhà nước
A. NHÓM TÌNH HUỐNG PHÂN CẤP THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
* Tình huống 1:
MỘT QUYẾT ĐỊNH ĐƯỢC BAN HÀNH KHÔNG ĐÚNG
THỦ TỤC
1. Mô tả tình huống:
Trong quá trình thực hiện quản lý hành chính do UBND tỉnh A ban
hành đều đảm bảo về thể thức và nội dung. Trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ quản lý toàn diện đời sống kinh tế xã hội ở địa
phương, UBND tỉnh A đã ban hành rất nhiều các quyết định quản lý
hành chính. Phần lớn các quyết định, có tính khả thi cao. Nhưng
ngày 20 tháng 2 năm 2000, UBND tỉnh A đã ra quyết định số 30/
QĐ-UB “Về việc ban hành bản quy định đơn giá bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất” có những sai sót khá lớn.
Sau một thời gian ban hành quyết định nêu trên, rất nhiều dư luận
trong nhân dân không đồng tình với mức quy định về hỗ trợ và đền
bù quá thấp của UBND tỉnh khi thu hồi đất. Sở dĩ có hiện tượng trên
là vì quá trình xây dựng và ban hành quyết định số 30/ QĐ-UB của
UBND tỉnh không được làm theo trình tự, thủ tục luật định. Văn
phòng UBND tỉnh soạn thảo quyết định trên mà không thu thập các
tài liệu về giá đất, không sát thực tế, chủ tịch UBND tỉnh cũng
không thẩm định kỹ trước khi ký ban hành.
2. Phân tích tình huống:
Việc xây dựng và ban hành văn bản quản lý Nhà nước đòi hỏi tuân
theo trình tự thủ tục rất chặt chẽ để đảm bảo cho quyết định quản
lý Nhà nước có hiệu lực và tác dụng tốt đến các quá trình xã hội.
Xuất phát từ ý đồ chủ quan, quan liêu nên bộ phận tham mưu văn
phòng và chủ tịch UBND tỉnh A đã có nhiều sai sót về trình tự, thủ
tục khi xây dựng và ban hành văn bản quản lý Nhà nước dẫn tới
việc văn bản không những không phát huy hiệu lực, tác dụng tích
cực mà còn ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các tổ chức, công


dân ở địa phương , ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều mặt đời sống kinh
tế - xã hội của tỉnh
3. Phương án giải quyết:
Sau khi phát hiện ra tính bất hợp lý 0000
cùng những sai phạm trong quá trình ban hành quyết định số 30 /
QĐ - UB nêu trên, sở Tư pháp nhanh chóng báo cáo và đề xuất với
chủ tịch UBND tỉnh hủy bỏ quyết định số 30/QĐ-UB ngày 20 tháng 2
năm 2000 đồng thời xin ý kiến chỉ đạo tiến hành khảo sát toàn diện
các yếu tố thực tiễn trên địa bàn tỉnh làm cơ sở để xây dựng và ban
hành văn bản mới . Văn phòng UBND tỉnh phải nhanh chóng xây
dựng văn bản đảm bảo về thể thức và nội dung, phải phản ánh
trong hồ sơ trình chủ tịch ký những căn cứ pháp lý và căn cứ thực
tiễn đã được khảo sát khách quan để đảm bảo cho những văn bản
mới ban hành sẽ phát huy được hiệu lực, hiệu quả tốt trên thực tế.
Chủ tịch UBND tỉnh cần tự phê bình, đồng thời chỉ đạo văn phòng
UBND tỉnh kiểm điểm làm rõ trách nhiệm và rút kinh nghiệm

1


nghiêm túc.
* Tình huống 2:
HƠN HAI TUẦN MỚI HOÀN THÀNH THỦ TỤC ĐĂNG KÝ
XE MÁY
1. Mô tả tình huống.
Ngày 02/ 01/ 2006 anh A mua một chiếc xe máy nhãn hiệu wave
RS của một cửa hàng đại lý do HonDa uỷ nhiệm. Để hợp thức hoá
tài sản và thuận tiện cho việc đi lại , anh A đã đến chi cục thuế thị
xã H để làm thủ tục xin đăng ký chiếc xe máy đã mua. Ngày 06/ 01/
2006 anh đến chi cục thị xã V làm thủ tục nộp lệ phí trước bạ, nộp

thuế xin đăng ký xe máy song vì quá đông nên anh A không làm thủ
tục được đành phải quay về. Đến lần thứ 3, anh A mới làm xong các
thủ tục nộp thuế, phí trước bạ đăng ký xe. Ngày 12/ 01/ 06 anh A
sang kho bạc nộp tiền thì cũng gặp khó khăn như đã làm thủ tục tại
chi cục thuế.
Sau khi đã hoàn tất giấy tờ, thủ tục đăng ký xe máy, anh A đến
phòng cảnh sát giao thông tỉnh nộp hồ sơ xin đăng ký xe và cũng
phải mất 2 buổi nữa anh A mới đăng ký xong chiếc xe mới mua của
mình.
2. Phân tích tình huống:
Thủ tục liên quan đến lệ phí trước bạ hiện nay còn khá phức tạp,
rườm rà lãng phí thời gian, công sức của công dân đồng thời tạo
điều kiện cho một số cán bộ công chức Nhà nước nhũng nhiễu, hạch
sách khi công dân đến liên hệ làm thủ tục. Để đăng ký được một
chiếc xe thuộc quyền sở hữu của mình, anh A đã phải mất cả tuần
chờ đợi, làm thủ tục chạy từ cơ quan thuế sang kho bạc, từ kho bạc
sang cơ quan cảnh sát giao thông rất lãng phí thời gian và gây ức
chế cho anh A.
Về thủ tục trước bạ, sau khi nghị quyết 38/ CP ngày 4/5/1994 của
Chính phủ được ban hành đã có nhiều cải tiến đáng kể. Các loại giấy
tờ cho hồ sơ nộp thuế đã được quy định công khai rõ ràng, mẫu giấy
tờ đơn giản hơn trước, thái độ phục vụ của cán bộ công chức làm
thủ tục cũng mềm mỏng và nhiệt tình hơn,tuy nhiên trên thực tế
việc làm thủ tục trước bạ vẫn còn tồn tại nhiều bất cập cần khắc
phục trong thời gian tới.Tình huống trên là một ví dụ về sự bất cập
đó.
3. Phương án giải quyết:
Nhà nước ta cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính
trong đó có nội dung về cải các thủ tục lệ phí trước bạ. Đối với các
công việc thủ tục lệ phí trước bạ làm sao Nhà nước quy định giảm

thủ tục thuận lợi hơn nữa để công dân , tổ chức khi mua tài sản làm
thủ tục lệ phí trước bạ và trả một lần ở hoá đơn mua hàng hoá. Sau
đó trách nhiệm nộp lệ phí trước bạ cho tài sản thuộc về nơi bán
hàng hoá như vậy sẽ rất thuận tiện.Các tỉnh( thành) nên nhanh
chóng thành lập bộ phận “một cửa” để làm thủ tục đăng ký mô tô ,
xe máy, cung cấp dịch vụ công nhanh chóng và thuận tiện cho công
dân.

2


Mặt khác, để tránh phiền nhiễu cửa quyền từ phía các cán bộ,
công chức làm thủ tục lệ phí trước bạ, cần xây dựng quy chế, quy
định mức độ sai phạm và hình thức xử lý đối với cán bộ, công chức
làm thủ tục lệ phí trước bạ và kiên quyết thực hiện các quy định
này.
* Tình huống 3:
LÀM THẾ NÀO ĐỂ ĐƯỢC NHẬN NUÔI TRẺ BỊ BỎ RƠI
1. Mô tả tình huống
Chị Mai Thu H và anh Vũ Quốc B kết hôn với nhau đã nhiều năm,
tình nghĩa gắn bó nhưng lại hiếm muộn đường con cái. Một buổi
sáng, chị H đi làm tình cờ nhìn thấy 1 bé sơ sinh khoảng 1 đến 2
tháng tuổi được bọc trong một tấm tã bên đường không có giấy tờ
hay vật gì khác kèm theo. Đứa trẻ do bị nhiễm lạnh đã sốt cao, chị
H vội đưa cháu vào bệnh viện điều trị một thời gian rồi đưa về
nhà.Từ đó, anh chị thương yêu cậu bé kháu khỉnh như con ruột và
muốn nhận nuôi cháu, nhưng không biết làm thủ tục đăng ký khai
sinh và nhận con nuôi như thế nào. Hơn thế, hàng xóm có người
khuyên anh chị nên đến chính quyền nhờ giúp đỡ, có người lại nói
không nên đi, vì sợ gia đình đứa bé đến xin lại....

Không muốn xa cậu bé, nhưng anh chị cũng không thể để cháu
lớn lên mà không có giấy khai sinh và hộ khẩu, anh chị B đã tìm
nhiều cách :
- Dời đến một nơi khác để không ai biết cậu bé là ai và sẽ hợp
thức hoá chuyện nuôi con nuôi của mình
- Cố gắng” chạy chọt” để cháu bé được làm giấy khai sinh và sổ
hộ khẩu.
Tuy nhiên, bé vẫn chưa có tên và cha mẹ hợp pháp. Cuối cùng anh
chị đã nhờ UBND phường hướng dẫn
2. Phân tích tình huống
Việc cháu bé chưa được đăng ký khai sinh và đăng ký hộ khẩu vào
gia đình anh chị B và H là do nhận thức pháp luật của anh chị và
ngay cả của những người hàng xóm của anh chị chưa cao.Vì vậy đã
không làm thủ tục đăng ký khai sinh và nhận trẻ bị bỏ rơi là con
nuôi . Hơn thế , anh chị còn có một số hành vi trái pháp luật.
Về phía các cơ quan hành chính nhà nước, do chưa thực hiện tốt
công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật trong dân nên người dân
không được biết những thủ tục hành chính tưởng như rất quen
thuộc ấy.
Anh B và chị H đã do dự không đến cơ quan nhà nước có thẩm
quyền làm thủ tục hợp pháp cho cháu bé để cháu được sinh ra mà
chưa được hưởng những quyền lợi tất yếu của mình theo quy định
của pháp luật. Nếu không có giấy khai sinh, cháu bé sẽ không được
nhập hộ khẩu, không có tên gọi hợp pháp và không được đi học khi
đủ tuổi như các bạn, sẽ rất thiệt thòi cho cháu bé.
3. Phương án giải quyết
Căn cứ Hiếp pháp 1992 (sđbs năm 2001), Luật Dân sự năm 2005,
luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Nghị định 83 /1998/ NĐ- CP

3



của Chính phủ và một số văn bản pháp luật khác có liên quan, có
thể giải quyết tình huống trên như sau:
- UBND xã nơi anh B và chị H cư trú cử cán bộ tư pháp có trình
độ, nhận thức pháp luật và nghiệp vụ hướng dẫn hai anh chị làm
thủ tục nhận nuôi con nuôi.
- UBND xã cử cán bộ giải thích , phân tích cho anh B và chị H
hiểu những hành vi sai trái của mình và hậu quả của hành vi sai trái
đó.
- Tuyên truyền, giáo dục pháp luật và niêm yết các thủ tục
hành chính trong giải quyết công việc của UBND xã theo quy định
của pháp luật.
* Tình huống 4:
VIỆC BÁN NHÀ VÀ VIẾT GIẤY ĐẶT CỌC
1. Mô tả tình huống
Ông Nguyễn Văn A có một căn nhà ở phường NQ thị xã X với các
giấy tờ hợp lệ :
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và nhà ở do UBND thị xã
X cấp
- Tờ khai đóng thuế trước bạ
- Tờ xác nhận tình trạng hiện không có tranh chấp, không nằm
trong khu vực quy hoạch hay giải toả (có xác nhận của địa phương)
Vợ ông đã chết, ông có 4 người con đã trưởng thành. Do hoàn cảnh
khó khăn, ông đã bán đất của mình cho ông B ngụ cùng phường với
giá thoả thuận, hợp đồng mua bán nhà có các điều khoản thoả
thuận.Trước khi đem hợp đồng đến UBND phường xác nhận, ông A
yêu cầu ông B trả trước 50% giá trị căn nhà, khi nào ông B chuyển
đến hẳn sẽ trả nốt phần còn lại.
Nhưng ông B không đồng ý với lý do hợp đồng mới chỉ là dự thảo,

nếu các con ông A sau khi ông B đặt cọc lại ngăn cản việc bán nhà
của ông A thì ông B sẽ mất đi 50% đó.Vì vậy ông B yêu cầu phải có
giấy đặt cọc xác nhận của chính quyền địa phương. Ông A lại khẳng
định mình có toàn quyền quyết định bán ngôi nhà ấy mà không cần
giấy đặt cọc có xác nhận của chính quyền địa phương. Hai bên
không thống nhất với nhau nên đã ra UBND phường nhờ giải quyết.
2. Phân tích tình huống
Có lẽ do tính độc đoán, gia trưởng của ông A với gia đình nên ông
nghĩ rằng không cần hỏi ý kiến những người con của mình, mặc dù
các con ông đều đã trưởng thành.
Ông A cũng chưa hiểu hết những quy định của Luật Dân sự năm
2005 về hàng thừa kế thứ nhất và những quy định về hợp đồng bán
nhà thuộc quyền sở hữu chung của nhiều chủ sở hữu nên giao dịch
giữa ông A và ông B đã gặp khó khăn.
Hợp đồng mua bán trên có thể gây bất hoà ngay trong gia đình
ông A và ảnh hưởng xấu đến quan hệ láng giềng.
3. Phương án giải quyết
Căn cứ Luật Dân sự 2005, Nghị định 75/2000/NĐ-CP của Chính
phủ Về công chứng , chứng thực có thể giải quyết tình huống trên

4


như sau:
- Sau khi bàn bạc thống nhất trong gia đình về việc bán nhà và
nhận tiền của ông B, ông A viết giấy đặt cọc (có xác nhận của
chính quyền địa phương) cho ông B.
Hợp đồng mua bán nhà phải theo đúng quy định của Luật Dân
sự 2005.
Hợp đồng phải được lập thành văn bản có chứng thực của UBND

cấp có thẩm quyền hoặc chứng nhận của công chứng nhà nước.
Sau khi hợp đồng bán nhà được chứng thực, ông B đóng thuế trước
bạ và thực hiện chuyển quyền sử dụng theo quy định của pháp luật.
* Tình huống 5:
NGƯỜI CHẾT ĐÃ NHIỀU NGÀY MÀ CHƯA ĐƯỢC ĐĂNG
KÝ KHAI TỬ
1. Mô tả tình huống
HC là một làng quê nghèo thuộc xã TK. Đời sống của người dân ở
đây dựa vào cây lúa, đất đai lại bạc màu, cuộc sống đã nghèo lại
càng nghèo hơn.Vì thế, khi nhà nước có chủ trương di dân đến vùng
kinh tế mới ở Tây Nguyên, đã có rất nhiều gia đình hăm hở đi khai
hoang, với niềm tin thay đổi được cuộc sống, anh P cũng vậy. Nhưng
khác với những gia đình khác, anh chỉ có thể đi một mình vì bố mẹ
anh đã già yếu, các em còn nhỏ, chưa thể dãi dầu được như anh. Bù
lại khi vào trong đó, anh P làm ăn rất chăm chỉ, lại khéo tay và sáng
dạ, nên chẳng bao lâu anh được ông chủ tịch xã gả con gái cho. Hai
vợ chồng cứ thế khấm khá dần. Công việc bận rộn cuốn hút người
đàn ông cần mẫn, song không vì thế mà anh nguôi ngoai nỗi nhớ
nhà. Năm 2005, khi gia đình ngoài Bắc đã khấm khá về kinh tế, các
em đều trưởng thành anh P bàn với vợ chuyển về quê nội, mang
theo cả tài sản mà vợ chồng anh đã dành dụm được suốt thời gian
qua. Nhưng ngày 2 tháng 6 năm 2005, một vụ tai nạn xe máy đã
cướp đi mạng sống của anh P. Thực hiện ước nguyện cuối cùng của
anh, gia đình đưa anh về mai táng tại làng quê cũ.
Ngày 5/6/2005, gia đình anh P đến UBND xã TK làm thủ tục khai tử
cho anh, anh Q, cán bộ xã được phân công tiếp đã không giải quyết
do trong lúc bối rối, vợ anh P đã quên không mang theo chứng minh
thư nhân dân của anh ra Bắc, nên không đủ căn cứ pháp lý làm thủ
tục khai tử.
Chị liền nhờ người quen đang ở Tây Nguyên tìm lại và gửi ra cho.

17 giờ ngày 17/6/2005, gia đình anh P mang chứng minh thư của
anh ra UBND xã TK cùng toàn bộ giấy tờ cần thiết, nhưng các cán
bộ trong xã đã nghỉ làm việc và nhất định không giải quyết cho gia
đình anh P với lý do đã quá thời hạn. Gia đình anh P những ngày sau
đó lâm vào bối rối, không biết phải làm thế nào để khai tử được cho
anh.
2. Phân tích tình huống
Cái chết là sự kiện pháp lý cuối cùng về hộ tịch của mỗi cá nhân,
nhưng cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề pháp lý khác. Chính vì vậy,
việc đăng ký khai tử cho người chết cũng là một nội dung quan

5


trọng trong quản lý hành chính nhà nước. trong tình huống này,anh
P không được khai tử mặc dù anh đã được mai táng hơn nửa tháng.
Khi vợ anh mang được chứng minh nhân dân của anh ra UBND ,
thời hạn đăng ký khai tử chưa hết, song do anh Q , cán bộ xã TK làm
việc chưa hết trách nhiệm của mình, nên đã phó mặc. Anh Q cũng
không hướng dẫn gia đình anh P thực hiện thủ tục đăng ký khai tử
quá hạn.
Chính việc không tôn trọng thủ tục khai tử cho anh P của anh Q đã
vô tình làm cho thủ tục vốn rất quen thuộc này trở thành rắc rối,
gây tâm lý ngại đến cơ quan nhà nước của nhân dân.
3.Phương án giải quyết
Căn cứ Nghị định 158 /2005/NĐ-CP của Chính Phủ về đăng ký và
quản lý hộ tịch ngày 27 tháng 12 năm 2005 , có thể giải quyết tình
huống trên như sau:
- UBND xã TK cử cán bộ hướng dẫn gia đình anh P làm thủ tục
đăng ký khai tử quá hạn cho anh.

- Gia đình anh P phải nộp giấy báo tử, chứng minh nhân dân, sổ
hộ
khẩu gia đình cho cán bộ có trách nhiệm giải quyết.
- Sau khi nhận đủ các giấy tờ hợp lệ, cán bộ tư pháp hộ tịch có
trách nhiệm: Ghi đầy đủ các nội dung vào sổ đăng ký khai tử và
giấy chứng tử ; ghi vào cột ghi chú là “đăng ký quá hạn”; trình chủ
tịch UBND xã ký giấy chứng tử; cấp cho người đi đăng ký khai tử
một bản chính giấy đăng ký chứng tử.
- UBND xã TK họp rút kinh nghiệm kiểm điểm anh Q.
B. NHÓM TÌNH HUỐNG PHÂN CẤP VỀ TỔ CHỨC CÁN BỘ
TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
* Tình huống 1:
MỘT QUYẾT ĐỊNH KỶ LUẬT CÁN BỘ
1.1 Mô tả tình huống:
Anh Hoàng Văn B là cán bộ, giữ chức vụ trưởng Phòng Khoa học ở
cơ quan D thuộc Sở A của tỉnh V. Tháng 9 năm 2005 anh B xin cơ
quan nghỉ phép năm và lãnh đạo cơ quan đã nhất trí. Trong thời
gian nghỉ phép vợ anh bị ngã xe máy, anh phải đưa vợ đi cấp cứu
tại bệnh viện Việt Đức Hà Nội. Anh đã không kịp tới cơ quan xin
phép lãnh đạo nghỉ thêm phép và anh đã nghỉ quá phép 10 ngày.
Trong thời gian anh B nghỉ, cơ quan D phải báo cáo nghiệm thu đề
tài khoa học cho tỉnh. Một trong các đề tài khoa học của tỉnh do cơ
quan D đảm nhận lại do anh Hoàng Văn B làm chủ nhiệm đề tài,
nên đề tài này không được báo cáo nghiệm thu đúng tiến độ đã
định. Khi anh lên cơ quan, anh đã báo cáo lãnh đạo và trình bày,
nộp bản kiểm điểm cá nhân về những khuyết điểm của mình và
cam đoan sẽ không vi phạm lần sau. Nhưng ông Nguyễn Văn C là
thủ trưởng cơ quan đã cho họp đột xuất toàn thể cơ quan và quyết
định xử lý kỷ luật anh Hoàng Văn B bằng văn bản vì không hoàn
thành nhiệm vụ, làm ảnh hưởng đến hoạt động của cơ quan với

hình thức kỷ luật:

6


+ Phạt nửa tháng lương và cách chức trưởng Phòng Khoa Học của
anh.
+ Quyết định bổ nhiệm anh Trần Thanh T nguyên là phó Phòng
Khoa Học làm trưởng Phòng Khoa Học.
Sau khi nhận được quyết định bằng văn bản kỷ luật mình anh
Hoàng Văn B đã nhờ các tổ chức Công đoàn, Hội phụ nữ, Đoàn
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh cơ quan can thiệp. Đồng thời đề
nghị lãnh đạo cơ quan xem xét lại nhưng không được nên anh B làm
đơn khiếu nại đề nghị lãnh đạo Sở A can thiệp để đòi lại sự công
bằng cho anh.
1.2 Phân tích tình huống:
Việc anh Hoàng văn B nghỉ 10 ngày không lý do thì việc kỷ luật
anh là cần thiết nhưng không được vượt quyền vượt cấp. Kỷ luật
phạt nửa tháng lương và cách chức trưởng phòng của anh Hoàng
Văn B cần phải căn cứ vào các quy định của pháp luật. Để xử lý tình
huống này cần căn cứ vào quy định tại điều 8 Nghị định số
35/2005/NĐ-CP ngày 17/03/2005 của Chính phủ về việc kỷ luật và
trách nhiệm vật chất đối với cán bộ công chức, căn cứ các quy định
của UBND tỉnh về quy trình bổ nhiệm, và xử lý kỷ luật cán bộ.
1.3 Phương án giải quyết:
Lãnh đạo Sở A giao cho Phòng Tổ chức cán bộ Sở chỉ đạo Cơ
quan D thành lập Hội đồng kỷ luật theo khoản 2 Điều 5 của nghị
định số 35/2005/NĐ-CP của chính phủ. Hội đồng kỷ luật lấy ý kiến
của các tổ chức công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ của cơ
quan để kiểm điểm, đánh giá mức độ phạm lỗi của anh Hoàng văn B

và xử lý kỷ luật bằng hình thức khiển trách. Yêu cầu anh Hoàng Văn
B có trách nhiệm khẩn trương hoàn thành báo cáo nghiệm thu đề
tài khoa học với Hội đồng khoa học tỉnh trong thời gian ngắn nhất.
Ban giám đốc sở A ra quyết định huỷ bỏ hai quyết định trái thẩm
quyền là cách chức anh Hoàng Văn B và bổ nhiệm anh Trần Thanh T
là trưởng Phòng Khoa học của ông Nguyễn Văn C. Đồng thời xem
xét trách nhiệm của ông Nguyễn Văn C thủ trưởng cơ quan D về
việc ban hành hai quyết định vượt quyền, vượt cấp của mình. Ban
giám đốc sở A cũng yêu cầu lãnh đạo cơ quan D khôi phục danh dự
và trả 50% tháng lương bị phạt cho anh Hoàng Văn B.
* Tình huống 2:
VỀ MỘT QUYẾT ĐỊNH BỔ NHIỆM CÁN BỘ
2.1. Mô tả tình huống:
Anh Nguyễn Văn A và anh Nguyễn Văn B là cán bộ công chức của
Sở X tỉnh Z. Anh A là người thẳng thắn, trung thực, thật thà và có
năng lực chuyên môn giỏi được nhiều người trong cơ quan tín
nhiệm, tin tưởng. Anh B là người cơ hội, năng lực chuyên môn trung
bình nhưng lại được lòng Giám đốc. Do yêu cầu về công tác chuyên
môn và công tác quản lý. Tại cuộc họp giao ban cuối tháng 9 có
nhiều ý kiến đề bạt anh Nguyễn Văn A làm trưởng Phòng Khoa học,
nhưng cũng có một số ít ý kiến đề bạt anh Nguyễn Văn B làm
trưởng Phòng Khoa học đó. Do được lòng lãnh đạo nên ông Giám

7


đốc Sở X đã bổ nhiệm anh Nguyễn Văn B làm trưởng phòng khoa
học. Vì năng lực hạn chế nên sau 6 tháng anh B lên làm trưởng
phòng công việc của phòng không tiến triển mà trái lại còn tồn
đọng rất nhiều. Đã có nhiều ý kiến cho rằng việc đề bạt anh Nguyên

Văn B là không dân chủ, công bằng, đã có người làm đơn đề nghị
lên UBND tỉnh xem xét lại quá trình đề bạt anh Nguyễn Văn B làm
trưởng phòng.
2.2.Phân tích tình huống:
Công tác cán bộ là công tác quan trọng và then chốt của Đảng vì
vậy việc đề bạt cán bộ cần phải được thực hiện dân chủ công khai
theo đúng quy định của pháp luật. Việc đề bạt anh Nguyễn Văn B
lên làm trưởng phòng của Giám đốc Sở X là không dân chủ, đặc biệt
là đã không làm đúng quy trình bổ nhiệm cán bộ mà pháp lệnh cán
bộ công chức năm 2002 đã qui định nên đã gây ra hậu quả xấu về
nhiều mặt.
2.3. Phương án giải quyết:
Lãnh đạo Sở X phải đưa ra tiêu chí bổ nhiệm cán bộ, lấy đó làm
căn cứ đề bạt cán bộ vào vị trí trưởng phòng khoa học. Để đề bạt
cán bộ, lãnh đạo sở X phải làm đúng quy trình, cần lấy phiếu thăm
dò của các tổ chức cơ sở Đảng, đoàn thể và chính quyền nơi cán bộ
dự định đề bạt công tác. Căn cứ kết quả lấy phiếu tín nhiệm ở cơ sở,
đối chiếu với các tiêu chí về phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực
công tác của cán bộ và lãnh đạo sở A bàn bạc dân chủ, công khai
sau đó mới đi đến quyết định bổ nhiệm cán bộ. Trong tình huống
này việc bổ nhiệm cán bộ của sở X đã không đảm bảo yêu cầu. Nếu
anh B đã được bổ nhiệm mà không đảm nhiệm được vị trí trưởng
phòng thì lãnh đạo sở phải ra quyết định miễn nhiệm hoặc bãi
nhiệm trưởng phòng đối với anh B và tiến hành bổ nhiệm lại chức vụ
trưởng phòng theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo dân chủ,
công khai, bổ nhiệm đúng người có đức, có tài.
* Tình huống 3
CHỊ H BỊ BUỘC THÔI VIỆC DO ĐÂU
3.1 Mô tả tình huồng:
Chị Nguyễn Thị H là cán bộ thuộc sở A tỉnh B. Tháng 10 năm

2005 chị H bị ốm phải nghỉ việc để điều trị mất 14 ngày. Trong thời
gian nghỉ điều trị, công việc của phòng nhiều không giải quyết kịp
nên Trưởng phòng đề nghị Giám đốc sở cho bổ xung người để làm
thay công việc của chị Nguyễn Thị H nhưng không có người thay
thế. Vì công việc mang tính đặc thù chỉ có chị H mới làm được nên
Giám đốc sở A đã gửi thông báo 2 lần cho chị Nguyễn Thị H với nội
dung yêu cầu chị H đi làm nếu không sẽ kỷ luật. Do sức khoẻ của
chị vẫn yếu nên chị đã làm đơn trình bày lý do và báo cáo với lãnh
đạo sở cho chị được phép nghỉ (chị đã trình giấy xác nhận của cơ
quan y tế với lãnh đạo sở ). Khi không thấy chị Nguyễn Thị H đi làm
ông Giám đốc sở A đã ra quyết định buộc thôi việc đối với chị
Nguyễn Thị H. Khi nhận được quyết định này chị Nguyễn Thị H đã
phản đối quyết liệt và đã làm đơn yêu cầu ông Giám đốc sở A xem

8


xét lại nhưng không được chấp nhận. Quá bức xúc với quyết định
của Giám đốc chị Nguyễn Thị H đã làm đơn khiếu nại lên UBND tỉnh
đề bảo vệ quyền lợi của mình.
3.2. Phân tích tình huống:
Quyết định buộc chị H thôi việc của ông Giám đốc sở A là sai, trái
với quy định của Pháp lệnh cán bộ công chức năm 2003, vi phạm
quy định của bộ luật lao động năm 1998. Quyết định trên của ông
Giám đốc sở A cũng vi phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích
chính đáng của người lao động.
3.3. Phương án giải quyết:
UBND tỉnh ra quyết định Huỷ bỏ quyết định của Giám đốc Sở A
tỉnh B về buộc thôi việc đối với chị Nguyễn Thị H. Chỉ đạo Sở A
thành lập hội đồng kỷ luật theo khoản 2 Điều 5 của nghị định số

35/2005/NĐ-CP của chính phủ. Hội đồng kỷ luật sở A xem xét lại
toàn bộ sự việc và ra kết luận cuối cùng về vụ việc. Rõ ràng chị H
không vi phạm kỷ luật lao động, do vậy không thể tiến hành kỷ luật
chị H. UBND tỉnh cũng yêu cầu ông giám đốc sở A kiểm điểm về
việc làm sai trái của mình và áp dụng hình thức kỷ luật cần thiết đối
với ông giám đốc sở A.
* Tình huống 4
ANH A, ANH B AI ĐÚNG AI SAI?
4.1. Mô tả tình huống:
Ông Nguyễn Văn A là đội trưởng đội quản lý thị trường số X
thuộc Chi cục quản lý thị trường tỉnh T. Ngày 5 tháng 12 năm 2005
nhận được giấy mời của UBND thị xã đến dự buổi “tổng kết công tác
phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại trên địa bàn tỉnh”. Đang
trong tình trạng say rượu ông Nguyễn Văn A đã cho gọi anh Nguyễn
Văn B là đội phó lên phòng và uỷ quyền cho anh Nguyễn Văn B đến
dự thay. Nhưng vì giấy mời ghi rõ ràng là mời ông Nguyễn Văn A đội
trưởng đội quản lý thị trường số X cùng thành phần khách mời khác.
Thấy mình không đúng thành phần được mời họp nên anh Nguyễn
Văn B đã báo cáo lại đội trưởng và không đến dự buổi tổng kết. Đến
ngày 10 tháng 12 năm 2005 ông Nguyễn Văn A đi họp ở chi cục,
lãnh đạo Chi cục quản lý thị trường khiển trách anh A trước Chi cục
về hành vi không tham dự buổi tổng kết. Khi về đến đội ông Nguyễn
Văn A đã nặng lời với anh Nguyễn Văn B, cho là anh B không hoàn
thành nhiệm vụ mà cấp trên giao cho.
4.2. Phân tích tình huống:
Việc anh Nguyễn Văn B không đi họp vì không đúng thành phần
(có báo cáo lại đội trưởng) là đúng. Việc anh Nguyễn Văn A say rượu
không đi họp là vi phạm kỷ luật lao động phải bị phê bình, rút kinh
nghiệm làm gương cho toàn đội.
4.3. Phương án giải quyết:

Chi cục QLTT chỉ đạo đội QLTT X tiến hành họp kiểm điểm rút
kinh nghiệm về những sai trái trong điều hành đội QLTT X và quá
trình đảm trách công vụ của đội trưởng đội QLTT X. Sau khi làm rõ
sai phạm của anh A lãnh đạo chi cục QLTT phê bình anh A trước

9


toàn thể chi cục để giữ nghiêm kỷ luật lao động.
* Tình huống 5
VỀ MỘT QUYẾT ĐỊNH CỬ CÁN BỘ ĐI HỌC
5.1 Mô tả tình huống:
Nhận rõ vai trò con người đối với quá trình xây dựng và phát triển
tỉnh nhà, tỉnh V thực hiện chủ trương đẩy mạnh công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ. Thực hiện chủ trương của tỉnh, Sở A đã tiến hành
phân loại và bình xét để cử cán bộ đi học cao học. Sở A chọn ra 2
người để bình chọn.
Người thứ nhất là anh Hoàng Văn T là người thẳng thắn, trung
thực, sôi nổi, nhiệt tình trong các công tác của Sở, luôn hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao, có trình độ chuyên môn giỏi và là đảng viên
Đảng cộng sản được mọi người rất tin tưởng.
Người thứ hai là anh Nguyễn Văn H là con ông phó giám đốc sở,
là Đảng viên trẻ, mới ra trường, cũng tích cực trong các hoạt động,
phòng trào của Sở, nhưng có trình độ chuyên môn trung bình.
Nhưng không hiểu vì sao ông giám đốc sở A quyết định anh
Nguyễn Văn H được đi học cao học, mọi người trong Sở đều rất bất
ngờ trước quyết định nay. Vì giám đốc không cử người có trình độ
chuyên môn giỏi đi học lại cử người mới ra trường và có trình độ
chuyên môn trung bình đi học. Việc này đã gây ra sự phản đối khá
gay gắt trong tập thể cán bộ công chức trông cơ quan.

5.2.Phân tích tình huồng:
Chủ trương đẩy mạnh công tác bồi dưỡng đào tạo cán bộ là chủ
trương rất đúng đắn của tỉnh B. Tuy nhiên việc triển khai chủ trương
đó của tỉnh ở Sở A có vẻ công khai và dân chủ nhưng thực chất là
không dân chủ, không công bằng nên đã dẫn đến việc cử cán bộ
không xứng đáng đi đào tạo gây bất bình và dư luận không tốt trong
cơ quan.
5.3.Phương án giải quyết:
Để đánh giá bình xét đúng năng lực và phẩm chất cán bộ, lấy đó
làm tiêu chí trong quy hoạch, đề bạt, sử dụng cán bộ cũng như để
bình chọn cán bộ cử đi học, lãnh đạo sở A phải lấy phiếu tín nhiệm
cán bộ của toàn thể cơ quan một cách dân chủ công khai. Ngoài ra
cần thu thập các ý kiến nhận xét về năng lực, tư cách, phẩm chất
đạo đức cán bộ của các đoàn thể trong cơ quan như: Cấp uỷ đảng,
công đoàn, thanh niên, phụ nữ… Căn cứ các ý kiến đánh giá khách
quan, toàn diện đó lành đạo sở A ra quyết định cử anh Hoàng Văn T
đi học đợt sau, để đảm bảo công khai dân chủ thực sự trong quy
hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
C. NHÓM TÌNH HUỐNG PHÂN CẤP VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
* Tình huống 1
VỀ VIỆC LẤN CHIẾM ĐẤT CÔNG CỦA ÔNG D
1. Mô tả tình huống:
Xã A là một xã thuộc vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng thuộc
huyện B, tỉnh C.
Năm 1989 tại địa phận thôn C thuộc xã A có một mảnh đất rộng

10


khoảng 300m2 đã bỏ hoang từ lâu. Thấy mảnh đất bỏ hoang đã lâu,

gia đình ông D đã tự ý khai hoang, cải tạo mảnh đất để trồng lúa,
sau đó làm nhà để ở.
Tới thng 1 năm 1990, nhận được phản ánh của nhân dân về việc
lấn chiếm đất của gia đình ông D, UBND xã A đã tiến hành kiểm tra
và xử phạt gia đình ông D một khoản tiền là 100.000 đồng. Đến
tháng 5/1990 gia đình ông D đã làm đơn gửi ông chủ tịch UBND xã
A đề nghị UBND xã giao mảnh đất gia đình ông đã có công khai
hoang nêu trên đó gia đình ông đã sử dụng làm đất thổ cư.
Chủ tịch UBND xã A căn cứ vào công khai hoang của gia đình ông
D, ngày 20/6/1990 đã ra quyết định giao mảnh đất trên cho gia đình
ông D. Sau khi UBND xã A quyết định giao đất cho gia đình ông D,
nhân dân thôn C, xã A rất bức xúc đã gửi đơn phản đối việc làm sai
thẩm quyền của UBND xã A tới các cơ quan chức năng của huyện B,
tỉnh C. Vì các cơ quan chính quyền xã A, huyện B, tỉnh C không tập
trung giải quyết dứt điểm nên vụ việc kéo dài. Gia đình ông D vẫn
sinh sống trên mảnh đất 300m2 đã lấn chiếm bất hợp pháp. Các
cán bộ UBND xã A liên quan đến việc giao đất vượt thẩm quyền vẫn
không bị xử lý nên gây phản ứng và dư luận không tốt, uy tín chính
quyền địa phương bị giảm sút nghiêm trọng.
2. Phân tích tình huống:
Tình huống nêu trên đề cập tới hành vi lấn chiếm đất công của
công dân, cấp đất sai thẩm quyền của chính quyền cấp xã ở nông
thôn là hiện tượng khá phổ biến hiện nay. Hơn nữa, trước các sai
phạm đó các cơ quan chức năng cấp trên không tích cực
vào cuộc giải quyết vụ việc triệt để, trên cơ sở pháp luật nên hiệu
lực, hiệu quả QLNN về đất đai ở địa phương bị ảnh hưởng nghiêm
trọng. Nguyên nhân của hiện tượng trên là do sự yếu kém, buông
lỏng quản lý của chính quyền địa phương. Do ý thức chấp hành
pháp luật hạn chế trong một bộ phận không nhỏ nhân dân hiện nay.
3. Phương án giải quyết:

Trên cơ sở những quy định của luật đất đai năm 1993(sửa đổi các
năm 1998,2001,2003) và một số văn bản pháp luật khác có liên
quan.
UBND huyện B lập t kiểm tra, xem xét toàn bộ sự việc, sau khi
thu thập đầy đủ các chứng cứ về việc lấn chiếm đất của gia đình
ông D và việc giao đất vượt thẩm quyền của UBND xã A thỡ khẩn
trương và kiên quyết:
Xem xét nếu diện tích đất ông D sử dụng phù hợp với khu dân cư
thì cho phép hợp thức hóa, nếu không phù hợp thì bồi thường cho
ông D và giao đất cho ông ở vị trí khác.
- Xem xét mức độ sai phạm của các cán bộ địa chính, của ông chủ
tịch UBND xã A về việc giao đất vượt thẩm quyền tiến hành kỷ luật
ở mức độ tương xứng đối với các cá nhân liên quan.
- Tiến hành tuyên truyền đường lối, chủ trương của đảng, pháp
luật của Nhà nước, đặc biệt là tăng cường giáo dục và tuyên truyền
về luật đất đai cho nhân dân trong vùng.

11


* Tình huống 2

ÔNG A SỬ DỤNG ĐẤT SAI MỤC ĐÍCH
1. Mô tả tình huống:
Năm 1989 Gia đình ông A ở xã B, huyện C, tỉnh D (một tỉnh đồng
bằng trung du bắc bộ) được giao một mảnh đất 3000m2 ven bờ một
con sông để trồng lúa, trồng mầu.
Ông A và gia đình đã dùng mảnh đất được giao trên để trồng một
vụ lúa, một vụ màu trong một năm. Hàng năm, gia đình ông A luôn
đóng thuế nông nghiệp đầy đủ cho nhà nước. Tới năm 2003 tỉnh,

huyện và xã sở tại chủ trương phát triển mô hình VAC để nâng cao
hiệu quả sử dụng đất, chuyển đổi ngành nghề tăng thu nhập cho
ngân sách nhà nước và tăng thu nhập cho bà con nông dân. Ông A
đã bàn cùng gia đình cải tạo mảnh đất 3000m2 đã được HTX nông
nghiệp giao để triển khai sản xuất theo mô hình VAC. Gia đình ông
A đã tự ý đào một mảnh ao 500m2, xây các công trình phục vụ ăn ở
cho gia đình trên diện tích đất 3000m2. Số diện tích đất còn lại, một
phần đất trũng ông để trồng lúa, một phần đất gò ông A cùng gia
đình dùng để trồng cây ăn quả lâu năm. Trên bờ ao mới đào ông A
xây 2 dãy nhà nuôi lợn cao sản cùng một dãy chuồng vịt. Việc thay
đổi phương án sản xuất, chuyển mục đích sử dụng đất của ông A
cùn gia đình đã thu được những kết quả rất phấn khởi. Năm 2004,
gia đình ông A đã thu về hơn 50.000 triệu đồng sau khi đã trừ hết
các khoản chi phí đầu vào cho sản xuất trên mảnh đất 3.000m2.
Nhưng tới đầu năm 2005 UBND xã cùng UBND huyện C đã thành lập
tổ công tác tới kiểm tra việc sử dụng diện tích đất 3.000m2 mà gia
đình ông A đã nhận khoán của HTX nông nghiệp xã A. Sau khi kiểm
tra tổ kiểm tra đã tiến hành lập biên bản kết luận gia đình ông A đã
sử dụng đất sai mục đích, yêu cầu gia đình ông A đình chỉ sản xuất
VAC trên diện tích 3.000m2 đất nông nghiệp đã nhận khoán đồng
thời khôi phục lại hiện trạng ban đầu cho diện tích đất nói trên. Ông
A cùng gia đình đã phản ứng rất quyết liệt với lập luận: Gia đình ông
vẫn đóng thuế nông nghiệp cho HTX đầy đủ, gia đình ông sản xuất
VAC theo đúng chủ trương của xã, của Huyện, của Tỉnhvì vậy, cho
đến nay, đầu tháng 7/2006 vụ việc vẫn chưa được giải quyết dứt
điểm.
2. Phân tích tình huống:
Tình huống nêu trên là thực tế thường gặp ở các địa phương nông
thôn hiện nay. Chủ trương của Đảng nhà nước, của các cấp chính
quyền phát triển sản xuất VAC, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, chuyển

đổi mục đích sử dụng đất với mục tiêu tăng cao hiệu quả sử dụng
đất mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nhà nước, cho bà con nông
dân. Tuy nhiên quá trình phát triển VAC phải đặt trong quản lý nhà
nước về đất đai chặt chẽ của các cấp chính quyền. Do vậy, người
nông dân không thể tự ý, tuỳ tiện chuyển đổi mục đích sử dụng đất
đã nhận khoán. Việc làm tuỳ tiện của gia đình ông A trong tình
huống vừa nêu sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến công tác quản lý nhà
nước vò đất đai tại địa phương và dẫn tới hậu quả không tốt. Do vậy

12


khi phát hiện sai phạm của gia đình ông A, các cơ quan chức năng ở
địa phương cần dựa trên cơ sở các quy định pháp luật về đất đai sử
lý vụ việc một cách tích cực, triệt để.
3. Phương án giải quyết:
Trên cơ sở những quy định của luật đất đai năm 1993 (sửa đổi các
năm 1998,2001,2003) và một số văn bản pháp luật khác có liên
quan.
UBND huyện C và xã B thành lập tổ kiểm tra xuống điều tra việc
sử dụng đất nông nghiệp của gia đình ông A.
Sau khi phát hiện các sai phạm tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng
đất, xây công trình kiến trúc trái phép trên đất nông nghiệp, của gia
đình ông A. Tổ kiểm tra làm kết luận báo cáo UBND huyện C.
Căn cứ vào tính chất, mức độ sai phạm mà gia đình ông A UBND
huyện C sẽ tiến hành sử phạt hành chính đối với hành vi tự ý
chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Đối với diện tích đất mà gia đình
ông A đang sản xuất VAC nếu nằm trong quy hoạch phát triển sản
xuất VAC của xã B thì yêu cầu ông A làm đơn xin chuyển mục đích
sử dụng đất và tiếp tục cho phép gia đình ông A sản xuất VAC trên

diện tích đó. Nếu diện tích đất gia đình ông A đang sản xuất VAC
không thuộc quy hoạch phát triển kinh tế trang trại thì UBND huyện
C yêu cầu gia đình ông A tháo dỡ công trình kiến trúctrả lại trạng
thái ban đầu cho mảnh đất.
* Tình huống 3
ĐẤT ĐÃ THUÊ, NGƯỜI THUÊ ĐẤT LÀM GÌ
1.Mô tả tình huống:
Tỉnh A làmột tỉnh thuộc đồng bằng trung du bắc bộ. Những năm
1990 trở về trước tỉnh A là một tỉnh thuần nông, sản xuất công
nghiệp hầu như chưa có gì.
Thực hiện đường lối chủ trương đổi mới của Đảng và với sự chủ
động, sáng tạo trong công tác quản lý mọi mặt đời sống kinh tế, xã
hội, phát triển sản xuất, kinh doanh trên địa bàn tới năm 2000 tỉnh
A đã phát triển sản xuất công nghiệp rất mạnh mẽ.
Sự tăng trưởng mạnh mẽ trong sản xuất công nghiệp ở tỉnh A ngoài
sự đóng góp của các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài còn có
phần đóng góp quan trọng của các doanh nghiệp tư nhân.
Hiện nay, đi dọc quốc lộ 2 chúng ta thấy rất nhiều cơ sở sản xuất
công nghiệp vừa và nhỏ đang triển khai sản xuất nhưng chúng ta
cũng thấy có nhiều lô đất rộng hàng chôc ha bỏ hoang đã lâu. Khi
chúng tôi tới tìm hiểu thì được biết một số lô đất rộng nằm sát quốc
lộ 2 là đất UBND tỉnh cho một số doanh nghiệp thuê 50 năm để sản
xuất công nghiệp. Mặc dù đất đã được UBND tỉnh giao cho thuê đất
từ năm 2000 nhưng đến nay, năm 2005 khá nhiều người đứng tên
thuê đất của nhà nước vẫn chưa xây dựng, mua sắm trang thiết
bịtriển khai hoạt động sản xuất kinh doanh triên diện tích đất đã
thuê. Một số lô đất thuê vẫn bỏ trống, một số lô đất thuê để sản
xuất công nghiệp thì giờ đây được sử dụng để xây dựng khách sạn
và nhà nghỉ? vậy nguyên nhân của hiện tượng trên là do đâu?


13


2. Phân tích tình huống:
Tất nhiên, các doanh nghiệp muốn triển khai hoạt động sản xuất
kinh doanh phải có mặt bằng. Đối với các doanh nghiệp tư nhân có
quy mô vừa và nhỏ UBND tỉnh A chủ trương cho họ thuê đất với thời
hạn là 50 năm để các doanh nghiệp có mặt bằng triển khai sản
xuất. Sau khi được thuê đất, rất ít các doanh nghiệp triển khai được
sản xuất nhanh chóng như đề án xin thuê đất một là do các khó
khăn về vốn,hai là cố ý sử dụng đất thuê vào mục đích khác làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của
tỉnh.
3. Phương án giải quyết:
Trên cơ sở những quy định của luật đất đai năm 1993(sửa đổi các
năm 1998,2001, 2003 và một số văn bản pháp luật khác có liên
quan.
UBND tỉnh cựng với chớnh quyền nơi cú đất cho thuờ thành lập
đoàn kiểm tra xuống điều tra tỡnh hỡnh sử dụng đất đó thuờ của
nhà nước của cỏc doanh nghiệp vừa và nhỏ trờn địa bàn. Sau khi
đối chiếu với mục đớch sử dụng đất đó được trỡnh bày tại đề ỏn xin
thuờ đất của cỏc doanh nghiệp nếu phỏt hiện thấy cỏc doanh
nghiệp chưa Sử dụng diện tích đất đã được thuê hoặc sử dụng diện
tích đất sai mục đích thì đoàn kiểm tra kết luận sự việc và báo cáo
UBND tỉnh xử lý theo hai hướng:
Một là: Đối với diện tích đất đã được thuê mà các doanh nghiệp
bỏ hoang, chưa sử dụng từ năm 2000 đến nay 2005 nếu người thuê
đất không có điều kiện, không cam kết triển khai sản xuất kinh
doanh như trình bày tại đề án thuê đất thì trong thời hạn 3 đến 6
tháng UBND tỉnh ra quyết định thu hồi đất.

Hai là: Đối với một số diện tích đất mà người được thuê sử dụng
sai mục đích thì:
- Sử phạt hành chính;
- Doanh nghiệp báo cáo đề nghị UBND tỉnh tiếp tục sử dụng
diện tích đất đã được thuê, nếu UBND tỉnh chấp nhận thì tiếp tục
được sử dụng, nếu UBND tỉnh không chấp nhận thì thu hồi đất.
* Tình huống 4
VỀ VIỆC ANH A THUÊ ĐẤT
1. Mô tả tình huống:
Gia đình anh A ở xã B, huyện C, tỉnh D. Từ ngày tỉnh D chủ trương
phát triển sản xuất công nghiệp, rất nhiều hộ gia đình ở địa phương
đã vay vốn, thuê đất mở xưởng sản xuất công nghiệp với quy mô
vừa và nhỏ. Gia đình anh A cũng vậy. Năm 2000 anh A được UBND
tỉnh cho thuê 3ha đất nằm sát quốc lộ 2. Sau khi được thuê diện
tích đất 3ha nằm sát quốc lộ 2, một phần đất anh A dùng để mở
xưởng cán thép, một phần dùng làm bãi chứa phế liệu. Hàng ngày,
hoạt động của xưởng sản xuất thép thải vào không khí một lượng
lớn khí độc hại, các loại rác thải rắn hình thành trong quá trình sản
xuất cũng không được xử lý mà bị đổ bừa bãi ra môi trường xung
quanh gây ôi nhiễm nặng cho môi trường.

14


Diện tích đất còn lại khoảng gần 1ha anh A cho ông B thuê lại để
ông B mở xưởng sản xuất gạch gói. Trong quá trình triển khai sản
xuất gạch ngói tại diện tích đất đã thuê lại anh A.Ông B đã tự khai
thác nguyên liệu sản xuất gạch vì vậy trên diện tích đất thuê lại của
anh A một thời gian sau loan lổ những hố, những mảnh ruộng sâu
hoắm chứa đầy nước.

2. Phân tích tình huống:
Chủ trương cho thuê đất để phát triển sản xuất công nghiệp tiểu
thủ công nghiệp vừa và nhỏ là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn
của tỉnh D. Tuy nhiên việc xem xét và đi đến quyết định cho thuê
đất là một quá trình cần được làm rất chặt chẽ để vừa đảm bảo cho
công tác quản lý, vừa tạo những thuận lợi nhất cho hoạt động sản
xuất kinh doanh. Những sai phạm trong việc sử dụng đất được thuê
của anh A trong tình huống này cho thấy quá trình xem xét, thẩm
định hồ sơ xin thuê đất của các cơ quan chức năng chưa được làm
thật tốt. Hơn nữa sự thiếu hiểu biết pháp luật cùng những thói
quyên tuỳ tiện là nguyên nhân của các hành vi sử dụng đất sai mục
đích, làm ôi nhiềm môi trường, suy thoái đất đai. Rõ ràng việc sử
dụng đất thuê của Nhà nước của anh A đẫ không đảm bảo các điều
kiện bảo vệ môi trường gây ô nhiễm nghiêm trọng cho diện tích đât
được thuê. Việc ông B thuê lại diện tích đất thuê của Nhà nước của
anh A và sử dụng đất không đúng mục đích, khai thác đất bừa bãi là
việc làm vi phạm những qui định của Nhà nước về quản lý, sử dụng
đất đai, vi phạm qui định pháp luật về bảo vệ môi trường.
3. Phương án giải quyết:
Trên cơ sở những quy định của luật đất đai năm 1993(sửa đổi các
năm 1998,2001,2003) và một số văn bản pháp luật khác có liên
quan.
Trước những việc làm sai phạm của anh A, ông B đối với diện tích
đất đã được thuê của Nhà nước, UBND tỉnh D ,UBND huyện C và các
Sở tài nguyên môi trường, Sở khoa học công nghệ… lập đoàn kiểm
tra tiến hành kiểm tra toàn bộ quá trình lập hồ sơ xin thuê đất và
quá trình sử dụng đất của anh A. Sau khi xem xét khách quan, toàn
diện nội dung vụ việc, nếu thấy có đầy đủ tài liệu khẳng định những
sai phạm về mục đích sử dụng đất, làm ôi nhiễm môi trường, suy
thoái đất đai của anh A, ông B, đoàn kiểm tra làm kết luận đề nghị

chủ tịch UBND tỉnh tiến hành sử phạt hành chính ở hình thức và
mức độ thích đáng. Nếu anh A, ông B có thái độ tích cực, nhanh
chóng khắc phục những sai phạm đó UBND tỉnh có thể tiếp tục cho
anh A thuê diện tích đất trên theo đề nghị của anh A. Nếu anh A,
ông B không nhanh chóng sửa chữa sai phạm, không tích cực nhận
lỗi thì UBND tỉnh D ra quyết định thu hồi đất buộc anh A khôi phục
lại tình trạng ban đầu cho mảnh đất đã thuê của Nhà nước.
* Tình huống 5
VỀ VIỆC QUY HOẠCH VÀ SỬ DỤNG ĐẤT CỦA TỈNH
A
1 Mô tả tình huống:

15


Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước của Đảng và Nhà nước tỉnh A đã tiến hành qui
họach và lên kế hoạch sử dụng đất đai giai đoạn 2000- 2005, 2005
– 2010.
Huyện B thuộc tỉnh A có một khu di tích có giá trị lịch sử rất quan
trọng nằm sát một làng nghề truyền thống, sát gần khu dân cư và
mạng dưới giao thông nội tỉnh.Thực hiện chủ trương CNH- HĐH tỉnh
nhà, UBND tỉnh A cùng một số cơ quan chức năng và UBND huyện B
đã tiến hành đo đạc, khảo sát lập quy hoạch, kế hoạch sử đất đai
trên địa bàn huyện B. Do vị trí địa lý thuận lợi của khu di tích lịch sử
và một số vùng phụ cận, các cơ quan chức năng của tỉnh A đã quy
hoạch, lên kế hoạch sử dụng diện tích đất có khu di tích lịch sử
thuộc huyện B để phát triển khu công nghiệp.
Sau khi đề án quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đai được HĐND
tỉnh A thông qua, UBND tỉnh A đã chỉ đạo UBND huyện A cùng một

số ban ngành chức năng, tiến hành xác định mốc giới khu công
nghiệp tại huyện A. Do nhiều nguyên nhân , khi cắm mốc giới khu
công nghiệp các cơ quan chức năng của tỉnh A của huyện B đã cắm
mốc khu công nghiệp lấn sang 1 phần hạng mục rất quan trọng của
khu di tích lịch sử. Việc làm này làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến
công tác bảo tồn khu di tích và có thể gây ra những hậu quả khôn
lường về nhiều mặt.
2. Phân tích tình huống:
Trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai, công tác quy hoạch,
lập kế hoạch sử dụng đất là một việc làm đặc biệt quan trọng. Tuy
nhiên do nhận thức, tầm nhìn hạn chế nên các cơ quan chức năng
của tỉnh A huyện B đã quy hoạch khu công nghiệp lấn sang cả diện
tích đất thuộc di tích lịch sử cấp quốc gia. Điều này là không thể
chấp nhận được, việc làm này vừa vi phạm các quy định trong quản
lý sử dụng đất mà còn vi phạm vào các quy định của pháp luật về
bảo vệ di tích lỉch sử. Việc làm này có nguy cơ dẫn đến những hậu
quả xấu rất khó lường về nhiều mặt.
Rõ ràng công tác quy hoạch, lập kế hoạch sử dụng đất đai, tài
nguyên hiện nay của Nhà nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế về tầm
nhìn, về yêu cầu khoa học, hợp lý… mà hiện tượng trình bày trên
chỉ là một biểu hiện nhỏ. Trong thời gian tới, yêu cầu đặt ra cho
công tác quản lý Nhà nước về đất đai là Nhà nước ta phải xây dựng
và triển khai thực hiện cho được các giải pháp đồng bộ và toàn diện
để khắc phục nhanh chóng các yếu kém khuyết điểm trên trong
công tác QLNN về đất đai.
3. Phương án giải quyết:
Trên cơ sở những quy định của luật đất đai năm 1993(sửa đổi các
năm 1998, 2001, 2003) và một số văn bản pháp luật khác có liên
quan.
Trước những khuyết điểm của các cơ quan chức năng của tỉnh A

và của huyện B về quy hoạch và lập kế hoạch sử dụng đất. UBND
tỉnh A cần lập tổ công tác nghiên cứu, khảo sát thật kỹ lưỡng khách

16


quan, toàn diện về thực trạng công tác QLNN nói chung, thực trạng
công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai trên địa bàn toàn tỉnh
nói riêng. UBND tỉnh cần mở hội nghị chuyên đề về công tác quy
hoạch kế hoạch sử dụng đất đai của tỉnh trong đó có mời các
chuyên gia về công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai ở
trung ương và mời đại diện các địa phương. Trên cơ sở kết luận hội
nghị chuyên đề và kết quả khảo sát thực tế UBND tỉnh A ra quyết
định điều chỉnh diện tích và địa giới khu công nghiệp sao cho đảm
bảo không ảnh hưởng đến khu di tích lịch sử cũng như ảnh hưởng
đến các quy hoạch khác đồng thời vẫn triển khai thực hiện được chủ
trương CNH-HĐH, phát huy được các mặt thuận lợi về con người, vị
trí địa lý của tỉnh nhà.
Những vấn đề đặt ra về phân cấp quản lý Nhà nước về đất đai
1. Phân cấp trong lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đât
2. Phân cấp trong thẩm quyền giao đất
3. Phân cấp trong việc kiểm tra và xử lý các vi phạm, pháp luật
về đât đai
D. NHÓM TÌNH HUỐNG PHÂN CẤP VỀ QUẢN LÝ ĐẦU TƯ
* Tình huống 1
VẤN ĐỀ ĐỀN BÙ GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG CỦA DOANH
NGHIỆP A
1. Mô tả tình huống.
Để triển khai dự án đầu tư xây dựng khu sản xuất giống gia cầm
cung cấp cho toàn bộ khu vực Đông Nam á. Doanh nghiệp A chọn

khu đất tại thôn P, xã D, Huyện T, tỉnh V. UBND tỉnh đã ra Quyết
định số 45/QĐ-UB ngày 25/4/2005 phê duyệt địa điểm đầu tư xây
dựng trại giống gia cầm tại thôn P, xã D, huyện T cho doanh nghiệp
A.
Sau khi tiến hành các thủ tục ban đầu, ban quản lý dự án tiến hành
làm việc với hội đồng đền bù GPMB do UBND tỉnh quyết định để lập
kế hoạch cụ thể cho các công việc tiếp theo.
Ngày 7/5/2005 hội đồng đền bù GPMB cùng với đại diện Ban quản
lý dự án, đại diện chính quyền địa phương họp với các chủ hộ có đất
trong diện tích GPMB. Tại cuộc họp, Chủ tịch Hội đồng đền bù GPMB
đã thông báo về:
+ Quyết định của UBND tỉnh thành lập Hội đồng đền bù giải
phóng mặt bằng;
+ Bản đồ quy hoạch mốc giới dự án đã được UBND tỉnh phê
duyệt;
+ Các hộ gia đình có đất trong diện giải phóng mặt bằng;
+ Những căn cứ pháp lý để xác định giá biểu cho một đơn vị
diện tích được đền bù;
+ Kế hoạch triển khai đến nhân dân gồm các nội dung:
- Nhận tờ khai.
- Làm tờ khai.
- Xác nhận tờ khai của ban địa chính xã D.
- Nộp tờ khai cho Hội đồng đền bù.

17


Chủ tịch Hội đồng đền bù đã lưu ý với các chủ hộ có đất trong khu
vực dự án: Phải tôn trọng hiện trạng của thửa đất nằm trong diện
giải toả, không được phép làm thay đổi hình dạng, cấu trúc cũng

như trồng cấy trên diện tích đất đã được quy hoạch. Hộ nào vi phạm
sẽ bị xử lý theo quy định của Pháp luật.
Trong khi các hộ gia đình tiến hành làm tờ khai thì có một số hộ
trong thôn đã tiến hành trồng thêm nhiều cây con trên diện tích đã
quy hoạch. Và những cây trồng mới cũng được viết vào tờ khai của
Hội đồng đền bù, Ban địa chính xã cũng xác nhận cho những tờ khai
đó. Do vậy số hộ dân trồng cây con mới trên diện tích đã được quy
hoạch ngày càng nhiều thêm. Qua kiểm tra, đại diện Ban quản lý dự
án đề nghị UBND xã kiểm điểm nghiêm túc đối với ban địa chính xã,
đồng thời yêu cầu bà con ngừng ngay việc trồng mới để đảm bảo
tiến độ GPMB.
2. Phân tích tình huống.
Dự án đầu tư của Doanh nghiệp A vào thôn P, xã D với mức đầu tư
50 triệu USD. Đây là dự án lớn sẽ giải quyết việc làm cho một số
lượng lớn lao động tại địa phương và các vùng xung quanh.
Việc trồng mới cây con của các chủ hộ là vi phạm pháp luật, thiếu
tinh thần hợp tác và việc ban địa chính xã D là cơ quan chính
quyền địa phương có hành vi bao che các sai phạm trên cần phải xử
lý nghiêm túc.
3. phương án giải quyết
Căn cứ vào Nghị định số 197/2004/NĐ-CP về bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Thông tư 116/2004/TT-BTC
hướng dẫn về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất. Căn cứ vào Pháp lệnh cán bộ công chức năm 1998 và pháp
lệnh bổ sung một số điều của pháp lệnh cán bộ công chức năm
2001. Căn cứ vào các Quyết định của UBND tỉnh và bản thông báo
của Hội đồng đền bù GPMB. Rà soát lại các hộ dân trồng mới cây
con (không chấp đền bù cho những cây không hợp pháp). Đối với
cán bộ địa chính xã căn cứ vào mức độ vi phạm để tiến hành xử lý
nghiêm. Hội đồng đền bù kết hợp cùng UBND xã, với các tổ chức

đoàn thể tuyên truyền chế độ, chính sách đền bù giải phóng mặt
bằng. Tổ chức họp các hộ dân nằm trong diện đền bù GPMB và lợi
ích mà dự án đem lại cho địa phương, giúp họ hiểu và đồng tình ủng
hộ dự án, đồng thời phê phán những hành động sai trái, tạo điều
kiện cho việc giải phóng mặt bằng nhanh chóng.
* Tình huống 2
MỘT SAI SÓT TRONG TỔ CHỨC ĐẤU THẦU
1. Nội dung tình huống:
Cuối năm 1997, đơn vị C được UBND tỉnh Vĩnh Phúc phê duyệt dự
án đầu tư xây dựng trụ sở làm việc với quy mô gồm: Nhà làm việc
chính, hàng rào và một số hạng mục công trình phụ trợ khác.
Ngày 3/3/1998 Ban quản lý công trình (đại diện hợp pháp của chủ
đầu tư) phát hành thư mời thầu gửi đến các đơn vị tham dự đấu
thầu.

18


Ngày 5/3/1998, UBND tỉnh có Quyết định số 854/QĐ-UB phê duyệt
kế hoạch đấu thầu và Quyết định số 866/QĐ-UB phê duyệt thiết kế
nhà làm việc thuộc dự án đầu tư xây dựng của đơn vị C.
16 giờ ngày 21/3/1998, các nhà thầu nộp đủ hồ sơ dự thầu, ban
quản lý công trình làm thủ tục niêm phong theo đúng quy định (các
nhà thầu gồm có: Công ty xây dựng A, Công ty xây dựng B, Công ty
xây dựng X).
Ngày 23/3/1998, đơn vị C (chủ đầu tư) tiến hành mở thầu công
khai gói thầu xây dựng nhà làm việc chính, biên bản mở thầu được
lập vào hồi 11h. Sau khi mở thầu, hồ sơ được giao cho tổ tư vấn do
đơn vị C quyết định thành lập thực hiện xét thầu.
Tiếp đó ngày 14/5/1998, UBND Tỉnh có Quyết định số 1315/QĐ-UB

phê duyệt tổng dự toán công trình trụ sở làm việc đơn vị C.
Ngày 21/5/1998, UBND Tỉnh có các Quyết định số 1370/QĐ-UB phê
duyệt tiêu chuẩn và thang điểm xét thầu; Quyết định số 1372/QĐUB phê duyệt giá xét thầu gói thầu nhà làm việc chính đơn vị C.
Sau khi có đầy đủ các điều kiện, tổ tư vấn của đơn vị C thực hiện
công việc đánh giá xét chọn nhà thầu. Ngày 25/5/1998 tổ tư vấn có
biên bản chấm thầu, biên bản lập hồi 14h.
Ngày 25/5/1998, tổ tư vấn có báo cáo kết quả xét thầu gửi Hội
đồng xét thầu đơn vị C. Cũng trong ngày 25/5/1998 Hội đồng xét
thầu đơn vị C có biên bản duyệt kết quả trúng thầu, gói thầu nhà
làm việc chính. Trong đó:
Công ty xây dựng A đạt 77,1 điểm - xếp loại 1.
Công ty xây dựng B đạt 67,7 điểm Xếp loại 2.
Công ty xây dựng X đạt 67,3 điểm - Xếp loại 3.
Trong khi UBND Tỉnh chưa có Quyết định phê duyệt kết quả đấu
thầu thì ngày 5/6/1998, Giám đốc công ty Xây dựng X có đơn khiếu
nại gửi UBND Tỉnh, Sở Kế hoạch và Đầu tư, sở Xây dựng về việc xét
thầu của tổ tư vấn đơn vị C không đúng với quy chế đấu thầu ban
hành theo Nghị định 43/CP ngày 16/7/1996 của Chính phủ. Trong
đơn khiếu nại một số vấn đề sau:
- Về việc xét thầu của tổ tư vấn đơn vị C không dựa vào hồ sơ mời
thầu theo quy định trong Nghị định 43/CP ngày 16/7/1996 của Chính
phủ.
- Về việc điều chỉnh giá theo mặt bằng kỹ thuật của tổ tư vấn đơn
vị C thực chất là làm thay đổi căn bản về số liệu của các nhà thầu.
- Về bảo lãnh dự thầu: Trong đơn có nêu theo quy định của hồ sơ
mời thầu thì bảo lãnh dự thầu là 50 triệu bằng tiền mặt, chuyển
khoản hoặc bảo lãnh của Ngân hàng nhà nước, với thời gian có hiệu
lực ít nhất là 45 ngày. Nhưng thực tế có nhà thầu bảo lãnh dự thầu
hết hạn từ ngày 7/5/1998, đến ngày 22/5/1998 vẫn được tổ tư vấn
xét thầu cho đó là hợp lệ.

Ngoài ra trong đơn cũng đề cập một chi tiết là: “Đến ngày
22/5/1998 chúng tôi được biết kết quả chấm điểm của tổ tư vấn như
sau:
Công ty xây dựng A: đạt 74,8 điểm

19


Công ty xây dựng B: đạt 72,00 điểm
Công ty xây dựng X: đạt 70,4 điểm.
Đến ngày 23/5/1998 công ty Xây dựng X và công ty Xây dựng B có ý
kiến đề nghị tổ tư vấn giải thích xếp hạng các nhà thầu.
Sau khi nhận được đơn khiếu nại của Công ty xây dựng X, UBND
tỉnh Vĩnh Phúc đã có văn bản yêu cầu đơn vị C và tổ tư vấn, phối
hợp với Sở kế hoạch và Đầu tư, Sở Xây dựng xem xét lại những vấn
đề mà Công ty xây dựng X đã khiếu nại và kết quả xét thầu của tổ
tư vấn đơn vị C. Nhưng việc xem xét này không đem lại kết quả có
đủ độ thuyết phục, vì vậy để giải quyết vấn đề, ngày 23/6/1998
UBND Tỉnh đã có Quyết định số 1608/QĐ-CT thành lập tổ chuyên
gia tư vấn việc lựa chọn đơn vị trúng thầu công trình trụ sở đơn vị C.
Tổ chuyên gia này bao gồm các chuyên viên một số ngành chức
năng hoạt động dưới sự điều hành của UBND tỉnh.
2. Phân tích tích huống.
Tổ tư vấn đơn vị C chỉ được phát hành thư mời thầu và bán hồ sơ
mời thầu sau khi kế hoạch đấu thầu và thiết kế kỹ thuật thi công đã
được UBND tỉnh Vĩnh Phúc phê duyệt nhưng trong thực tế ngày
5/3/1998 UBND tỉnh Vĩnh Phúc mới có Quyết định phê duyệt kế
hoạch đấu thầu và thiết kế thi công. Trước đó ngày 3/3/1998 tổ tư
vấn đơn vị C đã phát hành thư mời thầu và bán hết hồ sơ cho các
nhà thầu trong 02 ngày: 04 và ngày 05/3/1998. Điều này trái với

quy định và có thể còn xảy ra trường hợp có sai lệnh trong hồ sơ
mời thầu nếu như thiết kế kỹ thuật thi công được cấp có thẩm
quyền phê duyệt, có sự sửa đổi so với thiết kế ban đầu.
- Tổ tư vấn đơn vị C không làm theo đúng trình tự thủ tục xét
duyệt đấu thầu và không tôn trọng pháp luật đã hết hạn bảo lãnh
dự thầu 15 ngày mà đơn vị C vẫn coi là hợp lệ.
3. phương án giải quyết tình huống.
Căn cứ vào Nghị định 43/NĐ-CP ngày 16/7/1996 của Chính phủ và
Luật đấu thầu được thông qua ngày 29/11/2005 và văn bản số
1383/HC-UB ngày 10/11/1997 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc về bảo mật
công tác đấu thầu. Cùng các văn bản khác có liên quan. UBND tỉnh
Vĩnh Phúc cần:
- Có biện pháp xử lý đối với đơn vị C đã không tôn trọng pháp luật
và cảnh cáo đơn vị đã quản lý thông tin không tốt gây ra hiện tượng
kết quả chưa thông báo thì đơn vị dự thầu đã biết.
- UBND tỉnh thành lập tổ chuyên gia tư vấn việc lựa chọn đơn vị
trúng thầu bao gồm các sở có liên quan: sở Kế hoạch và đầu tư; sở
Xây dựng, Sở Nông nghiệp, Cơ quan thiết kế để đảm bảo giải quyết
tốt tình huống trên.
* Tình huống 3
KINH PHÍ ĐẦU TƯ TẬP HUẤN KHUYẾN NÔNG CÓ SỬ
DỤNG SAI MỤC ĐÍCH
1. Nội dung tình huống:
Ngày 20/4/2005 sở N nhận được một đơn thư tố cáo của ông
Nguyễn Văn B, xã V, Huyện X, Tỉnh P. Nội dung đơn tố cáo như sau:

20


Tố cáo cán bộ xã X và một số cán bộ khuyến nông Huyện, Tỉnh,

thời gian qua có tổ chức mở lớp tập huấn nuôi bò lai Sind tại địa
phương ông đã có một số vi phạm trong công tác điều hành, quản lý
như: Triệu tập không đúng số lượng học viên, giới thiệu sai nội dung
tập huấn, chi bồi dưỡng ăn trưa không đúng chế độ quy định.
Sau khi nhận được đơn Giám đốc sở N giao cho Chánh thanh tra
(ông Hoàng Văn T) tiến hành xém xét, thụ lý giải quyết theo đúng
thẩm quyền. Khi nhận được đơn tố cáo ông Nguyễn Văn B (do giám
đốc sở N) giao cho, ông Hoàng Văn T tiến hành nghiên cứu, xem xét
nội dung có liên quan đến công tác quản lý và cán bộ thuộc ngành.
Ngày 26/3/2005 ông Hoàng Văn T cùng một số cán bộ đến trung
tâm khuyến nông. Giám đốc trung tâm khuyến nông sau khi nghe
trình bày nội dung và mục đích buổi làm việc đã cho biết: Việc tập
huấn về các nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Trung tâm là
những nội dung có tính chất chung, phổ cập, còn việc tập huấn kỹ
thuật cụ thể từng cây, từng con do cán bộ của Trung tâm được phân
công địa bàn cụ thể, có xây dựng mô hình trình diễn, tập huấn
hướng dẫn kỹ thuật theo phương thức cầm tay chỉ việc để bà con
nông dân tiếp thu và làm theo. Riêng hướng dẫn kỹ thuật nuôi bò
sữa, bò thịt ở xã X, Huyện V ngày 10/12/2004 Trung tâm khuyến
nông không phải là đơn vị chủ trì, cũng không hỗ trợ kinh phí để tổ
chức lớp học. Việc này có thể do đơn vị được giao làm chủ dự án Cải
tạo nâng cao chất lượng đàn bò thịt, phát triển bò sữa do Trung tâm
giống gia súc của Tỉnh làm chủ đầu tư.
Ngày 27/4/2005 ông Hoàng Văn T và cộng sự đến làm việc với
trung tâm giống gia súc của Tỉnh. Sau khi nghe yêu cầu nội dung
làm việc, Phó giám đốc trung tâm gia súc xác nhận về việc tổ chức
lớp tập huấn kỹ thuật chăn nuôi bò tại xã X, đây là một trong những
nội dung của dự án Cải tạo đàn bò do Trung tâm được giao làm chủ
đầu tư, đồng thời cho mời kế toán dự án Cải tạo đàn bò cùng làm
việc. Kết quả xác minh cho thấy: Thực hiện các nội dung của dự án:

“Cải tạo nâng cao chất lượng đàn bò thịt, phát triển đàn bò sữa của
tỉnh giai đoạn 2002-2006 do Trung tâm giống gia súc làm chủ đầu
tư, hàng năm đều có hạng mục đào tạo bồi dưỡng, tập huấn hướng
dẫn kỹ thuật, với kinh phí hỗ trợ cho các lớp tập huấn được quy định
là:
+ Mỗi lớp mở tập huấn không quá 50 người tham gia.
+ Tài liệu tập huấn được chuẩn bị đầy đủ và cấp miễn phí cho mỗi
học viên 01 bộ.
+ Kinh phí hỗ trợ tổ chức hội nghị tập huấn được tính 250.000
đồng; tiền chè nước 1.000 đồng/đại biểu.
+ Hỗ trợ tiền ăn trưa theo định mức hội nghị cấp tỉnh 10.000
đồng/người.
+ Trung tâm giống gia súc ký hợp đồng số 27/HĐ-KT ngày
16/9/2004 giữa trung tâm giống gia súc và Trạm khuyến nông
huyện V về việc hợp tác triển khai tập huấn kỹ thuật nuôi bò thịt, bò
sữa thuộc dự án cải tạo đàn bò. Sau khi ký hợp đồng trung tâm

21


giống gia súc chi 3.000.000 đồng cho trạm khuyến nông huyện V
(phiếu chi số 585 ngày 16/9/2004 của Trung tâm giống gia súc) để
mở lớp tập huấn về chăn nuôi bò thịt, bò sữa tại huyện V.
Ngày 08/10/2004 trạm khuyến nông huyện V có văn bản gửi Trung
tâm giống gia súc về kế hoạch triển khai 4 lớp tập huấn ở 4 xã có
nhiều điều kiện thuận lợi về phát triển chăn nuôi bò trong huyện;
phương thức triển khai theo hướng cuốn chiếu làm dứt điểm từng xã
trong đó xã X sẽ làm sau cùng vào khoảng nửa đầu tháng 12/2004;
thời gian cụ thể với trung tâm để có kế hoạch bố trí cán bộ tập
huấn.

Ngày 25/11/2004, trạm khuyến nông huyện V theo chức năng,
nhiệm vụ đã phối hợp với UBND xã X mở lớp tập huấn kỹ thuật về
chăn nuôi bò thịt, bò sữa. Cán bộ khuyến nông xã được giao trực
tiếp giúp UBND xã chuẩn bị tổ chức lớp tập huấn này đảm bảo đúng
nội dung, đúng đối tượng. Theo quy định, để đảm bảo chất lượng
học tập, mỗi lớp tập huấn chỉ tổ chức với số lượng tối đa 50 học
viên, song do đõy là vấn đề mới, lại có hiệu quả kinh tế khá cao nên
số lượng đăng ký lên tới 98 người. Vì vậy UBND xã quyết định chia
làm 02 lớp, đợt 1 tổ chức vào ngày 10/12/2004, đợt 2 tổ chức vào
đầu tháng 01/2005. Lớp tập huấn đợt I diễn ra suôn sẻ, đúng kế
hoạch với sự tham gia của 47 người, mỗi người được bồi dưỡng ăn
trưa là 5.000 đồng/người. Lớp tập huấn thứ 2 dự định vào ngày
12/01/2005, song do quá gần dịp tết Nguyên đán nên UBND xã X
thống nhất hoãn ra sau tết sẽ mở lớp.
Ngày 28/4/2005 ông Hoàng Văn T cùng cộng sự tiếp tục xác minh
vụ việc tại trạm khuyến nông huyện V. Tiếp thanh tra Sở là anh Htrưởng trạm khuyến nông huyện V, bằng các văn bản có liên quan
anh H đã chứng minh việc phối hợp tổ chức lớp tập huấn của Trạm
khuyến nông huyện với các trung tâm, trạm, trại, của tỉnh và trung
ương là việc làm hợp lệ, hợp pháp. Phiếu chi các trạm khuyến nông
huyện kèm theo giấy biên nhận của chị Nguyễn Thị M cán bộ
khuyến nông xã X đã nhận đủ số tiền là 750.000 đồng và 50 bộ tài
liệu.
Ngày 03/5/2005 ông Hoàng Văn T, cùng cộng sự tiếp tục đến xã X
huyện V tìm gặp chị Nguyễn Thị M để xác minh. Sau khi trình bày
vắn tắt toàn bộ sự việc, ông T đề nghị chị M làm rõ những vấn đề
được nêu trong đơn. Chị M khẳng định những vấn đề đề cập đến
trong đơn là có thật. Chị bổ sung thêm một chi tiết đó là: những lần
trước tỉnh hay huyện mở lớp đều hỗ trợ ăn trưa là 5.000 đồng/người,
lần này được hỗ trợ 10.000 đồng/người (gấp đôi). Số người đăng ký
là 98 người (gấp đôi) trong khi dự kiến mở một lớp là 50 người. Chị

đề xuất hỗ trợ tiền ăn trưa cho cả 2 lớp, kinh phí đợt 1 do cấp trên
đài thọ, mở lớp đợt 2 do xã tự lo, như vậy chỉ cần chi khoảng
200.000 đến 250.000 đồng (tiền thuê hội trường, loa đài, chè nước)
là mở thêm được 1 lớp tập huấn nữa cho bà con nông dân.
Ngày 06/12/2004 chị M đề xuất ý kiến chia tiền hỗ trợ làm 2 lớp
tập huấn và được Uỷ ban đồng ý. Chị M trình bảng kê danh sách

22


những người đã dự lớp tập huấn thứ nhất, có chữ ký nhận tiền ăn
trưa 5.000 đồng/người, tổng số 47 người và giấy biên nhận thanh
toán 250.000 đồng tiền chè nước, loa đài, khánh tiết số tiền còn lại
265.000 đồng chị vẫn đang giữ.
2. Phân tích tình huống
Việc chị M đề xuất ý kiến với UBND xã chia tiền hỗ trợ làm 2 lớp
tập huấn, Uỷ ban nhân dân xã đồng ý với đề xuất của chị M là
không đúng theo quy định.
Việc ông Chánh thanh tra Sở N (Hoàng Văn T) tiến hành xác minh,
giải quyết đơn tố cáo của ông Nguyễn Văn B khi không tổ chức xác
minh, đối thoại với nguyên đơn, bị đơn là không đúng Luật.
3. Phương án giải quyết.
UBND xã X chi trả thêm tiền ăn trưa cho bà con đã tham gia lớp
học lần 1. Đồng thời với việc tổ chức lớp học lần 2, UBND xã X làm
tờ trình gửi UBND huyện V xin kinh phí;
Sau khi nhận được đơn khiếu nại Ông Hoàng Văn T cần tổ chức
gặp nguyên đơn để trao đổi, xác minh.
Tổ chức tuyên truyền để bà con nông dân nắm được những chủ
trương chính sách pháp luật của nhà nước, để tránh những tình
trạng khiếu nại làm ảnh hưởng đến cơ quan quản lý nhà nước.

* Tình huống 4
THƯ GIẢM GIÁ CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CUỘC ĐẤU
THẦU
1. Mô tả tình huống.
Dự án đầu tư xây dựng trụ sở làm việc UBND huyện T, Tỉnh Phú
Thọ, đã được UBND tỉnh phê duyệt.
Tại Quyết định 2999/QĐ-UB ngày 11/6/2001 của UBND tỉnh đã phê
duyệt kế hoạch đấu thầu, hồ sơ mời thầu, tiêu chuẩn công trình trụ
sở UBND huyện T trong đó:
+ Giá gói thầu là: 2.954.000.000 đồng
+ Hình thức lựa chọn nhà thầu: Đấu thầu hạn chế (danh sách
duyệt 5 nhà thầu).
Sau khi thông báo mời thầu, phát hành hồ sơ mời thầu, đóng thầu,
mở thầu, xét thầu, chủ đầu tư đã có Tờ trình đề nghị phê duyệt kết
quả đấu thầu.
Căn cứ vào kết quả thẩm định của Sở Kế hoạch và Đầu tư, ngày
14/7/2001 UBND tỉnh đã có Quyết định 3400/QĐ-UB phê duyệt kết
quả đấu thầu. Đơn vị trúng thầu là công ty xây dựng Bảo Minh, với
giá trúng thầu là 2.940.000.000 đồng.
Ngày 16/7/2001 Sở Kế hoạch và Đầu tư nhận được văn bản của
UBND tỉnh trong đó có đoạn: “…UBND tỉnh Phú Thọ đã nhận được
đơn đề nghị của công ty xây dựng TNHH Thành TrungUBND tỉnh
giao Sở Kế hoạch và Đầu tư kiểm tra, xác minh toàn bộ quá trình tổ
chức đấu thầu, đề xuất hướng xử lý trình UBND tỉnh quyết định.
Kèm theo là Đơn đề nghị của nhà thầu Thành Trung trong đó có
đoạn: cùng với hồ sơ dự thầu, đơn vị chúng tôi có kèm theo một Thư
giảm giáGiá dự thầu của chúng tôi thấp nhất trong tất cả các đơn vị

23



dự thầu, các điều kiện pháp lý và các tiêu chuẩn kỹ thuật chúng tôi
đáp ứng đầy đủ nhưng không được trúng thầu. Đề nghị UBND tỉnh
làm sáng tỏ vấn đề.
Thư giảm giá của công ty xây dựng TNHH Thành Trung do ông
giám đốc công ty ký tên đóng dấu, bức thư đó đặt trong hộp hồ sơ
dự thầu (đã được niêm phong) nghĩa là đã được nộp cho chủ đầu tư
trước thời điểm mở thầu.
Với thư giảm giá đó giá chào thầu cuối cùng của nhà thầu sẽ là
2.926.000.000 đồng (vì giá dự thầu trong đơn là 3.080.000.000
đồng, giảm giá 5%).
2. Phân tích tình huống.
Kết quả xét thầu của Sở Kế hoạch và Đầu tư ngày 14/7/2001 và
Quyết định 3400/UB-KH của UBND phê duyệt kết quả đấu thầu là
chưa đúng quy định của Pháp luật.
Thư giảm giá của công ty TNHH Thành Trung là hợp lệ, cần phải
được chấp nhận để đảm bảo công bằng trong đấu thầu và đem lại
hiệu quả tiết kiệm ngân sách cho nhà nước.
3. Phương án giải quyết
Căn cứ vào Thông tư số 04/2000/TT-BKH ngày 26/5/2000 của Bộ kế
hoạch và Đầu tư hướng dẫn thực hiện về quy chế đấu thầu và Nghị
định 88/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999
Chấp nhận thư giảm giá của công ty xây dựng TNHH Thành Trung
vì đó là một nội dung chào thầu hợp lệ. Như vậy toàn bộ hồ sơ xét
thầu của chủ đầu tư phải làm lại, cơ quan thẩm định và cơ quan phê
duyệt phải bãi bỏ biên bản xét duyệt kết quả và quyết định phê
duyệt của UBND tỉnh để thay thế bằng văn bản mới. Đơn vị trúng
thầu là công ty xây dựng TNHH Thành Trung với giá trúng thầu là
2.926.000.000 đồng.
Thông báo, giải thích cho 5 đơn vị dự thầu về kết quả trúng thầu

nói trên.
* Tình huống 5
TẠI SAO CÔNG TRÌNH X KHÔNG THI CÔNG ĐÚNG KẾ
HOẠCH
1. Mô tả tình huống.
Ngày 27/5/2004 UBND tỉnh Vĩnh Phúc ra Quyết định số 36/QĐ-UB
về Phê duyệt phạm vi lập dự án khả thi mở rộng tuyến đường X tại
phường K thị xã Vĩnh Yên. Con đường sẽ đi qua Phường K. Đơn vị G
được giao làm chủ đầu tư và chịu trách nhiệm về công tác GPMB.
Ngày 30/5/2004 theo sự chỉ đạo của UBND tỉnh, UBND thị xã Vĩnh
Yên cùng đơn vị G và UBND phường K tổ chức họp các hộ dân có đất
nằm trong quy hoạch để phổ biến chủ trương mở rộng tuyến đường
X và các chính sách, chế độ về đền bù của Nhà nước.
Tại cuộc họp ý kiến người dân như sau:
- Đền bù tài sản, hoa màu trên đất: Chưa có ý kiến vì chưa kiểm
kê và áp giá.
- Đền bù đất vườn, thổ cư: Hầu hết họ đều ở từ trước năm 1975
khi đó đất của họ cách tim đường 4m. Sau nhiều lần mở rộng, giải

24


toả hành lang đường bộ các gia đình đều đã lùi vào nhưng chưa
được nhận tiền đền bù.
- Năm 1984 thực hiện chỉ thị số 299/CT-Ttg về lập bản đồ quy
hoạch sử dụng đất. UBND tỉnh Vĩnh Phú (cũ) đã lập bản đồ 299 cho
xã K (nay thuộc phường K). Đề nghị tính đền bù đất theo lịch sử cũ
của đất (cách tim đường 4m).
- Có 117 hộ thuộc diện được đền bù, trong đó mới chỉ có 25 hộ
có sổ bìa đỏ, số còn lại chưa có giấy tờ gì ngoài bản đồ 299.

Ngày 02/6/2004 đơn vị G có công văn số 18/HC-KH gửi UBND tỉnh
báo cáo về ý kiến người dân trong cuộc họp xin ý kiến chỉ đạo.
Ngày 4/6/2004 đơn vị G cử cán bộ đi kiểm kê đền bù, vận động
các hộ chặt cây, tháo rỡ hàng quán.
Ngày 2/6/2004 UBND tỉnh Vĩnh Phúc có công văn số 18/HC-KH
giao sở Tài nguyên-Môi trường nghiên cứu hướng dẫn đơn vị G trong
việc tính đền bù.
Ngày 8/6/2004 đơn vị G làm lễ khởi công. Đơn vị H là đơn vị trúng
thầu công trình. Khi triển khai thì vẫn còn 10 hộ chưa chặt một số
cây bóng mát. Ông M (giám đốc đơn vị H) quyết định trả thêm mỗi
cây bóng mát 50.000 đồng (ngoài tiền đền bù theo quy định).
Ngày 12/6/2004 Sở Tài nguyên-Môi trường có công văn số 168/HCTNMT hướng dẫn việc đền bù dựa vào lịch sử đất là không có căn
cứ. Do vậy căn cứ để tính toán đền bù là sổ đỏ và bản đồ 299 cùng
các giấy tờ hợp lệ khác.
Ngày 14/6/2004 đơn vị G cùng UBND phường họp những hộ dân
trong diện đền bù phổ biến tinh thần công văn.
Ngày 5/7/2004 đơn vị G có tờ trình số 72/TT-KH xin phê duyệt
phương án đền bù GPMB gửi sở Tài nguyên-Môi trường, Sở Tài chính
và UBND thị xã.
Ngày 15/7/2004 UBND tỉnh ra Quyết định số 126/QĐ-UB phê
duyệt phương án đền bù ở tờ trình số 72/TT-KH.
Ngày 20/7/2004 đơn vị G cùng UBND phường tổ chức chi trả tiền
đền bù. Một số hộ nhận và một số hộ không chấp nhận phương án
đề bù đó với lý do một số hộ được đền bù thêm với cây bóng mát.
Ngày 25/7/2005 đơn vị ông H tiếp tục trả tiền đền bù nhưng chỉ có
36/117 hộ nhận tiền. Trong đó có gia đình ông Q trước đây diện tích
đất của gia đình ông là 295m2 đúng theo bản đồ 299. Năm 1987
ông mua thêm 35m2 của gia đình bà V (đằng sau nhà ông). Khi
mua-bán đất, hai hộ thoả thuận miệng. Như vậy từ năm 1987 đến
nay diện tích đất nhà ông Q sử dụng là 330m2. Ông Q trình bày với

cán bộ kiểm kê và không được chấp nhận do ông không có giấy tờ
hợp pháp nên ông chỉ được đền bù theo số chênh lệch với bản đồ
299 với diện tích còn lại sau khi bị lấy làm đường. Có 35 hộ đòi đền
bù giống gia đình ông Q. 45 hộ không nhận do giá đền bù quá thấp.
2. Phân tích tình huống.
Tuyến đường X được triển khai thi công sẽ tạo điều kiện phát triển
kinh tế vùng cho thị xã Vĩnh Yên và các vùng lân cận do đó cần phải
được xây dựng.

25


×