Nhà nước pháp quyền làmột trong những giá trị xã hội quý báu được tích luỹ và phát
triển trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã xuất hiện từ
rất sớm, trong tư tưởng chính trị - Pháp lý thời cổ đại đã chứa đựng nhiều nhân tố của nhà
nước pháp quyền. Đền thời kỳ cách mạng Dân chủ tư sản, những tư tưởng quý báu đó đã
được kế thừa, phát triển để trở thành học thuyết về tư nhà nước pháp quyền. Học thuyết
đó đã được áp dụng ở các mức độ, phạm vi khác nhau ở nhiều nước tư sản. Ngày nay, ở
Việt Nam học thuyết tiếp tục được bổ sung, phát triển cho phù hợp với những thay đổi
sâu sắc của xã hội hiện đại.
1. Khái niệm nhà nước pháp quyền.
Nhà nước pháp quyền không phải là vấn đề hoàn toàn mới lạ, mà là một phạm trù có
nguồn gốc lịch sử tư tưởng từ xa xưa. Sự ra đời và phát triển của tư tưởng: “Nhà nước
pháp quyền” gắn liền với sự ra đời và phát triển của dân chủ, của tư tưởng loại trừ sự
chuyên quyền, độc đoán, vô chính phủ, vô pháp luật. Nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải
có sự thống nhất giữa tính tối cao của pháp luật với hình thức pháp lý của tổ chức, thực
hiện quyền lực Nhà nước. Đó là hai yếu tố không thể thiếu được khi nói đến Nhà nước
pháp quyền nói chung.
Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nhà
nước tồn tại không thể thiếu pháp luật, ngược lại thiếu Nhà nước, pháp luật trở nên vô
nghĩa. Bởi vì, pháp luật do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện. Nhà nước cần đến
pháp luật vì thông qua pháp luật, dựa vào pháp luật, nhà nước mới quản lý được đời sống
xã hội. Dựa trên pháp luật và các công cụ khác, Nhà nước thiết lập một trật tự xã hội. Tuy
vậy, lịch sử cho thấy không phải khi nào có Nhà nước, có pháp luật là có ngay Nhà nước
pháp quyền. Nhà nước pháp quyền không phải là kiểu nhà nước xét theo học thuyết MácLênin về hình thái kinh tế xã hội. Nhà nước pháp quyền ra đời ở một giai đoạn phát triển
nhất định của xã hội.
Nhà nước pháp quyền từ quan điểm, tư tưởng đã dần trở thành thực tế lịch sử.
Trong khoa học pháp lý bàn về khái niệm Nhà nước pháp quyền vẫn còn nhiều quan điểm
1
và cách tiếp cận khác nhau. Có ý kiến cho rằng Nhà nước pháp quyền là một hình thức
nhà nước. Ý kiến khác lại cho rằng Nhà nước pháp quyền là một phương thức quản lý xã
hội và thực hiện quyền lực nhà nước. Nhiều ý kiến cho rằng có nhà nước pháp quyền tư
sản và nhà nước pháp quyền XHCN, nhưng nhà nước pháp quyền XHCN ở trình độ phát
triển cao hơn nhà nước pháp quyền tư sản.
Tuy vậy, Nhà nước pháp quyền được hiểu tập trung theo hai khía cạnh chủ yếu sau:
Ở nghĩa chung nhất, Nhà nước pháp quyền là Nhà nước trong đó pháp luật (đạo luật)
thống trị trong xã hội. Nhà nước phải điều chỉnh được các quan hệ xã hội bằng pháp luật,
một quốc gia nào đó chủ yếu điều chỉnh bằng văn bản dưới luật thì quốc gia đó chưa đủ
về chất của Nhà nước pháp quyền.
Mặt khác, Nhà nước pháp quyền còn được hiểu là một hình thức tổ chức Nhà nước và
hoạt động chính trị quyền lực công khai (công quyền), thể hiện mối quan hệ bình đẳng
giữa các cá nhân và Nhà nước dựa trên cở sở của pháp luật.
2. Các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền gồm:
Trong những năm đổi mới vừa qua Đảng ta đã từng bước phát triển hệ thống quan điểm,
nguyên tắc cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân. Từ nhận thức lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
có thể khái quát Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với những đặc trưng như sau:
Một là, Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, đảm bảo tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân.
Khi nói Nhà nước của dân, ý muốn nói nhân dân là người chủ quyền lực Nhà nước nguyên lý ấy là nền tảng, là cái bất biến của Nhà nước ta trong suốt gần 70 năm xây dựng
và trưởng thành. Quyền lực Nhà nước bắt nguồn từ nhân dân. “Chế độ ta là chế độ dân
chủ, tức là nhân dân là người chủ; nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân
là chủ”. Nhân dân, người chủ của Nhà nước, bắt nguồn từ thực tế nhân dân là người sáng
tạo chân chính của lịch sử và làm ra mọi của cải vật chất, tinh thần cho xã hội.
2
Sự tồn tại, hoạt động của Nhà nước cũng phải “do dân”. Bằng kết quả đấu tranh cách
mạng lâu dài của nhân dân mà Nhà nước được thành lập. Các cơ quan, nhân viên Nhà
nước là do dân lựa chọn cử, bầu ra.
Mọi hoạt động của các cơ quan Nhà nước, các cán bộ, công chức phải quán triệt quan
điểm vì dân. Một Nhà nước vì dân coi việc đem lại quyền lợi chính đáng cho dân là mục
tiêu hoạt động của mình. Sứ mệnh “vì dân” hàm chứa một nội dung cực kỳ súc tích thể
hiện đầy đủ vai trò, bản chất, chức năng của một Nhà nước dân chủ.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011) đã xác định: “Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng
là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”. Liên minh công - nông - trí thức bao hàm những nội dung
chính là: liên minh về chính trị, liên minh về kinh tế và liên minh về xã hội.
Hai là, Đó là Nhà nước tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc quyền lực Nhà nước là thống
nhất, nhưng có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong quá trình
thực hiên quyền lực nhà nước về mặt lập pháp, tư pháp, hành pháp.
Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất, chứ không phải là cơ quan được giao tất cả
quyền lực của nhân dân. Nghĩa chữ cũng đã rõ ràng: “Cao nhất” khác với “Toàn bộ”.
Toàn bộ quyền lực thì ở và chỉ ở nhân dân mà thôi. Đó là tư tưởng Hồ Chí Minh.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, quyết định những vấn đề cơ
bản, quan trọng của đất nước và thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt
động của Nhà nước.
Chính phủ, cơ quan chấp hành của Quốc hội, là cơ quan hành chánh Nhà nước cao nhất
của đất nước, có quyền ra các văn bản pháp quy (Nghị định, Nghị quyết…) gọi tắt là
quyền lập quy tức quyền ra các văn bản có giá trị dưới luật. Chính phủ thống nhất quản lý
việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối
ngoại của Nhà nước.
Trên lĩnh vực hoạt động tư pháp, tòa án là cơ quan xét xử độc lập, các thẩm phấn khi xét
xử chỉ tuân theo pháp luật.
3
Quyền lực Nhà nước là thống nhất. Quan điểm có tính nguyên tắc này thể hiện quyền lực
Nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ thể duy nhất thực hiện quyền lực Nhà
nước. Đó là một Nhà nước mà mọi quyền hạn và hiệu lực đều ở nơi dân. Đại hội XI của
Đảng đã bổ sung, phát triển quan điểm: “Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua
hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp và
dân chủ đại diện”.
Quyền lực Nhà nước là thống nhất, nhưng phải có sự phân công và phối hợp hiệu quả
giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Điều đó có nghĩa là phải coi trọng việc xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn của các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện ba quyền để hạn chế đến mức thấp
nhất sự lạm quyền, lộng quyền, xâm hại lợi ích hợp pháp của công dân từ phía Nhà nước,
hoặc chồng chéo, cản trở công việc chung.
- Ba là, Đó là Nhà nước được tồ chức, hoạt độngtên cơ sở Hiến pháp và pháp luật,
đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội.
- Bốn là, Đó là Nhà nước tôn trọng thực hiện và bảo vệ quyền con người, tất cả vì
hạnh phúc của con người, đảm bảo trách nhiệm giữa Nhà nước và công dân, thực
hành dân chủ gắn với tăng cường kỷ cương, kỷ luật
- Năm là, Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo,
đồng thời bảo đảm sự giám sát của nhân dân, sự giám sát và phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của mặt trận.
- Sáu là Đó là Nhà nước thực hiện đường lối hoà bình, hữu nghị với nhân dâncác
dân tộc và các nhà nước trên thế giới trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền
toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và cùng
có lợi, đồng thời tôn trọng và cam kết thực hiện các công ước, điều ước, hiệp ước
quốc tế đã tham gia, ký kết, phê chuẩn.
4