Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

TL TRIẾT TRIẾT học HY lạp cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.39 KB, 33 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 1
CHƯƠNG I:..................................................................................................................2
ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN, CÁC ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA
TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI.....................................................................................2
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI..........................................................................................2
1. Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển triết học Hy Lạp cổ đại............................2
II. ĐẶC ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC HY LẠP..............................................................5
1.Thể hiện tính giai cấp sâu sắc..............................................................................5
2.Thể hiện tính bao trùm của nó về mọi lĩnh vực trong thế giới quan của con
người...................................................................................................................... 5
2.1. Giá trị về thế giới quan....................................................................................5
2.2. Gía trị về nhận thức luận...............................................................................11
4.Tính biện chứng sơ khai....................................................................................13
CHƯƠNG II:...............................................................................................................15
CÁC TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI...............................................15
1-Chủ nghĩa duy vật.................................................................................................15
1.1-Trường phái Milet..........................................................................................15
1.2-Trường phái Héraclite : (540 – 575 BC).........................................................15
1.3-Trường phái đa nguyên...................................................................................15
1.4-Trường phái nguyên tử luận...........................................................................16
3.2-Chủ nghĩa duy tâm.........................................................................................16
3.3-Chủ nghĩa nhị nguyên....................................................................................17
2. Triết gia Socrate (469 – 399BC)...........................................................................18
2.1-Tiểu sử của Socrate........................................................................................18
2.2- Quan điểm triết học của Socrate....................................................................18
2.3. Tư Tưởng Triết Học Của Socrate...................................................................19
2.4. Nhận Thức Luận Của Socrate........................................................................20
2.5. Quan Niệm “ Hãy Tự Biết Người” của socrate..............................................21
3-Sự Tương Quan Triết Lý của Socrate với Quan Điểm Phật Giáo..........................23
3.1-Hãy Tự Biết Người.........................................................................................23


3.2-Trở Về Sống Anh Sáng Tâm Linh Nội Tại.....................................................24
3.3-Không Trở Về Với Anh Sáng Tâm Linh Thì Như Thế Nào?..........................24


3.4- Cái chết của Socrate......................................................................................25
4-Vài ưu điểm và hạn chế của triết học Hy Lạp cổ đại.............................................28
4.1- Ưu điểm:.......................................................................................................28
4.2-Hạn chế..........................................................................................................28
KẾT LUẬN.................................................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................31


MỞ ĐẦU
Triết học Hy Lạp cổ đại là nền triết học được tạo nên từ thế kỷ VI trước CN đến thế
kỷ VI sau CN, là thành tựu rực rỡ của văn minh phương Tây, tạo nên cơ sở xuất phát của
văn hoá châu Âu. Thuật ngữ “triết học” xuất hiện ở đây: Nhà triết học là người yêu chân
lý, muốn tìm đến sự thông thái nhờ sử dụng tư duy thuần lý trên cơ sở kinh nghiệm cũng
như lôgich khái niệm, đó là sự nhận thức với tinh thần tự do đối với chân lý và sự thật.
Là quê hương thứ hai của nền triết học Phương Tây, được hình thành trên cơ sở của
nền kinh tế công thương nghiệp phát triển, xã hội chiếm nô đạt tới mức cao và trên nền
tảng của những thành tựu khoa học tự nhiên,ít bị chi phối bởi tôn giáo. Ngay từ xa xưa,
người Hy Lạp đã sản sinh ra những tư tưởng triết học với các hình thái, xu hướng khác
nhau, phản ánh các những quan điểm của các giai cấp với các khuynh hướng kinh tế và
chính trị khác nhau. Trong xã hội chiếm nô, Hy Lạp đồng thời cũng phản ánh cuộc xung
đột gay gắt, quyết liệt giữa các giai đoạn này.
Trong những điều kiện lịch sử hết sức đặc biệt đó, triết học cổ đại Hy Lạp ra đời với
những đặc điểm mang tính thời đại nhưng cũng thể hiện được bước đột phá trong nhận
thức và suy luận. Triết học cổ đại Hy Lạp là một quả núi đồ sộ trong thế giới triết học của
loài người.


1


NỘI DUNG
CHƯƠNG I:

ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN
CÁC ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI
1. Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển triết học Hy Lạp cổ đại
Hy Lạp cổ đại là một quốc gia có khí hậu ôn hoà và rộng lớn bao gồm miền Nam
bán đảo Ban Căng, miền ven biển phía Tây tiểu á và nhiều hòn đảo ở biển Êgiê. Miền lục
địa Hy Lạp chia thành 3 khu vực Bắc bộ, Trung bộ và Nam bộ. Trung bộ có nhiều dãy
núi ngang dọc và những đồng bằng trù phù với những thành phố quan trọng như Aten
(Thènes), Nam bộ là bán đảo Pêlôpôngnedơ (Pélôpnnèse) với nhiều đồng bằng rộng lớn
phù nhiêu thuận lợi cho việc trồng trọt. Vùng bờ biển phía đông của bán đảo Ban căng
khúc khuỷ tạo nên niều vịnh, hải cảng thuận lợi cho ngành hàng hải phát triển. Các đảo
trên biển Êgiê là nơi trung chuyển cho việc đi lại, buôn bán giữa Hy Lạp với các nước
Tiểu Á và Bắc Phi. Còn vùng ven biểu tiểu á là đầu mối thông thương giữa Hy Lạp và
các nước Phương Đông...
Với điều kiện tự nhiên thuận lợi như vậy nên Hy Lạp cổ đại sớm trở thành một quốc
gia chiếm hữu nô lệ có một nền công, thương nghiệp phát triển, một nền văn hoá tinh
thần phong phú đa dạng. Lịch sử Hy Lạp cổ đại trải qua 4 thời kỳ: thời kỳ Cờ vét Myxen (Crète - Mycens), thời kỳ Hôme (Homère) thời kỳ thành bang, thời kỳ Maxedôin
(Macédoine)
+ Thời kỳ Crète - Mycens (đầu thiên niên kỷ III - thế kỷ XII TCN): Dựa trên công
cụ đồng thau, ở vùng Crềt và Mycens đã hình thành các nhà nước hùng mạnh. Năm 1194
- 1184 TCN Mycens đã tấn công và tiêu diệt thành Tơroa (Troie) ở Tiểu Á, nhưng sau đó
người Dôviêng với vũ khí bằng sắt tiến xuống và tiêu diệt các quốc gia ở Crète và
Mycens.
Thời kỳ Homère: (Thế kỷ XI - IX TCN(. Đây là thời kỳ Hy Lạp cổ đại bước vào xã

hội chiếm hữu nô nệ với sự xuất hiện và nhanh chóng khẳng định của chế độ sở hữu tư
nhân kéo theo sự phân hoá giàu nghèo, sự ra đời và xung đột giai cấp diễn ra mạnh mẽ.
+ Thời kỳ Thành bang (thế kỷ VIII - VI TCN). Đây là thời kỳ quan trọng nhất trong
lịch sử Hy Lạp cổ đại. Lúc bấy giờ đồ sắt được dùng phổ biến, năng xuất lao động tăng
nhanh, sản phẩm thặng dư dồi dào, chế độ sở hữu tư nhân được củng cố... xã hội bị phân
2


hoá ra thành lao động chân tay và lao động trí óc. Đất nước bị phân chia thành nhiều
nước nhỏ: mỗi nước lấy một thành phố làm trung tâm, trong đó, Xpát (Sparte) và Aten
(Athèns) là hai thành phố hùng mạnh nhất, làm nòng cốt cho lịch sử Hy Lạp cổ đại.
Nằm ở phía nam bán đảo Pêlôpôngnedơ, Thành bang Xpat bảo thủ về chính trị, lạc
hậu về kinh tế - văn hoá, nhưng lại mạnh về quân sự, đo dó nó đã chi phối các thành bang
lân cận. Năm 530 TCN, Xpat đã cầm đầu đồng min Pelôpôngnedơ tranh quyền bá chủ ở
Hy Lạp.
Do phát triển mạnh mvẽ về công thương nghiệp và trải qua nhiều lần cải cách dân
chủ nên Thành bang Aten có chế độ dân chủ và nền kinh tế - văn hoá phát triển rực rỡ
nhất lúc bấy giờ. năm 490 TCN, quân Ba Tư xâm lược Hy Lạp, nhưng sau đó, năm 479
TCN, đã bị quân đội Aten đánh bại trên cánh đồng Maratoong. Vào năm 478 TCN, nhờ
sức mạnh của mình mà Aten đẫ quy tụ 200 thành bang khác thành lập đồng minh Đêlớt
(Déles).
Do thực hành đường lối chính trị - kinh tế khác nhau mà vào năm 431 TCN, cuộc
chiến tranh giữa hai đồng minh Pêlôpôngnedơ và Đêlốt đã xảy ra ở Pêlêpôngnedơ. Năm
404 TCN, cuộc chiến kết thúc với sự thất bại hoàn toàn của đồng minh Đêlốt. Do lúc bấy
giờ không có thành bang nào đủ mạnh để làm bá chủ nên Hy Lạp cổ đại lại rơi vào một
cuộc tranh giành quyền lực mới.
Thời kỳ Maxêdôin: Maxêđôin một nước nhỏ nằm ở phía bắc Hy Lạp nhưng phát
triển nhanh mạnh nhờ giành được chiến thắng quyết định mà vua Philip II (382 - 336
TCN) của xứ Maxêdôin triệu tập hội nghị toàn Hy Lạp thông qua quyết định giao cho
Maxêdôin quyền chỉ huy quân đội toàn Hy lạp để tấn công Ba tư. Năm 336 TcN, Philip II

mất, con là Alecxandrơ đã chinh phục cả một vùng rộng lớn Ba tư, Tây Ấn Độ, Bắc Phi
và lập nên đế quốc Maxêdôin đóng đô ở Babilon. Năm 323 TCN, do Alecxandrơ chết đột
ngột mà các tướng lĩnh đã đánh nhau để tranh giành quyền lực. Sang thế kỷ III TCN, đế
quốc này bị chia thành 3 nước lớn (Maxêdôin - Hy lạp, Ai cập và Xini và vài nước nhỏ).
Vào lúc này ở phía Tây Hy Lạp, La Mã đã trở thành một đế quốc hùng mạnh, nó
đang theo đuổi mư đồ chinh phục phía đông Địa Trung Hải. năm 168 TCN, Maxêdôin bị
La Mã tiêu diệt. Năm 146 Hy Lạp bị nhập vào La Mã và sau đó, đế quốc này chinh phục
dần các quốc gia phương Đông khác.
Chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp cổ đại kéo dài cho tới thế kỷ IV. Trong thời đại
này, người Hy Lạp đã xây dựng một nền văn minh vô cùng xán lạn với những thành tựu
3


rực rỡ thuộc các lĩnh vực khác nhau. Chúng là cơ sở hình thành nên nền văn minh
phương Tây hiện đại. Vì vậy Ăngghen đã nhận xét: "Không có cơ sở văn minh Hy Lạp và
đế quốc La Mã thì cũng không có Châu Âu hiện đại được".
Về văn học, người Hy Lạp đã để lại một kho tàng thần thoại phong phú, những tập
thơ chứa chan tình cảm, những vỡ kịch hấp dẫn... phản ánh cuộc sống sôi động, lao động
bền bỉ, cuộc đấu tranh kiên cường chống lại những lực lượng tư nhiên - xã hội... của
người Hy Lạp cổ đại, về nghệ thuật, người Hy Lạp đã để lại những công trình kiến trúc,
điêu khắc, hội họa có giá trị. Về luật pháp: người Hy Lạp đã sớm xây dựng một nền pháp
luật và được thực hiện khá nghiêm tại thành bang Aten. Về khoa học tự nhiên, các thành
tựu toán học, thiên văn học, vật lý... được các nhà khoa học tên tuổi như Talet, Pytago,
Acximet, Ơclit... sớm phát hiện ra. Đặc biệt người Hy Lạp cổ đại đã để lại một di sản triết
học đồ sộ và sâu sắc.
Chế độ chiếm hữu nô lệ đã tạo cơ sở cho sự phân hoá lao động và đề cao lao động
trí óc, coi thường lao động chân tay. Điều này thúc đẩy sjư hình thành tầng lớp tri thức
biết xây dựng và sử dụng hiệu quả tư duy lý luận để ngiên cứu triết học và khoa học.
Triết học và khoa học đã ra đời và phát triển mạnh mẽ. Nền triết học Hy Lạp cổ đại cùng
trải qua giai đoạn hình thành, p và suy tàn cùng với lịch sử Hy Lạp cổ đại.

Trong điều kiện xã hội chiếm hữu nô lệ phát triển cao độ, ở người Hy Lạp đã nảy
sinh những tư tưởng triết học đủ các màu sắc, các hình thái, các xu hướng. Cuộc đấu
tranh giữa quý tộc bình dân và nô lệ, cuộc xung đột giữa tầng lớp qúy tộc công thương và
lớp quý tộc ruộng đất trong nội bộ giai cấp chủ nô đều được phản ánh một cách khá trung
thực trong lĩnh vực triết học.Vì thế, ngay từ đầu các tư tưởng triết học đã mang nặng tính
giai cấp sâu sắc. Dưới con mắt của các nhà triết hoc Hy Lạp cổ đại, triết học ra đời từ
nhu cầu hiểu biết của con người. Quan niệm này mặc dù thể hiện dưới hình thức ngây
thơ, phù hợp với nhận thức của con người thời cổ, nhưng nó đề cập tới môt khía cạnh rất
sâu sắc về cơ sở nhận thức luận của việc hình thành triết học Hy Lạp cổ đại. Chính sự
xuất hiện các tri thức sơ khai như việc phát minh một năm có mười hai tháng, ba trăm sáu
mươi lăm ngày của Talet…,hình học của Ơclit…, đã tạo điều kiện lớn thúc đẩy sự hình
thành triết học. Những khám phá khoa học đầu tiên của các nhà triết học duy vật Hy Lạp
cổ đại đã cho thấy sự giả dối của bức tranh vũ trụ quan và nhân sinh quan của các tôn
giáo và thần thoại,đòi hỏi con người phải có cách lý giải mới về thế giới xung quanh và
cuộc sống của mình.
4


II. ĐẶC ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC HY LẠP
1.Thể hiện tính giai cấp sâu sắc
Triết học Hy Lạp đã thể hiện nó là thế giới quan và ý thức hệ của giai cấp chủ nô
thống trị trong xã hội bấy giờ. Vì thế dễ hiểu tại sao phần lớn các nhà triết học thời kì này
đều coi nô lệ không phải là con người mà chỉ là công cụ biết nói.
Như vậy ngay từ đầu nó đã mang tính giai cấp sâu sắc. Bất chấp mọi bất công và tệ
nạn xã hội thời đó, triết học cổ Hy Lạp vẫn là một công cụ lý luận nhằm duy trì trật tự xã
hội theo kiểu chiếm hữu nô lệ, bảo vệ sự thống trị của giai cấp chủ nô. Vì thế dễ hiểu tại
sao phần lớn các nhà triết học thời kỳ này đều coi nô lệ không phải là con ngươì mà chỉ là
công cụ biết nói. Chẳng hạn Platôn coi nông dân và thợ thủ công là hạng người thấp nhất
trong "Nhà nước lý tưởng" của ông.
Tính giai cấp của một học thuyết triết học, theo các nhà nghiên cứu, không chỉ thể

hiện ở chỗ học thuyết đó biểu hiện lập trường của một giai cấp hay đảng phái nào đó, mà
còn là ở chỗ nó thể hiện tư tưởng của một khuynh hướng, trào lưu triết học nhất định.
Những mâu thuẫn trong xã hội cổ đại được thể hiện trong sự xung đột về tư tưởng của
các nhà triết học cổ Hy Lạp tiêu biểu nhất là sự xung đột giữa "đường lối Đêmôcrit" và
đường lối Platôn". Triết học Hy Lạp và la Mã cổ đại như Ph.Ăngghen chỉ rõ đã chứa
đựng dưới dạng mầm mống mọi dạng thế giới quan sau này.
2.Thể hiện tính bao trùm của nó về mọi lĩnh vực trong thế giới quan của con người
2.1. Giá trị về thế giới quan
Ra đời trong điều kiện còn quá ít và sơ khai nên trình độ phát triển tư tưởng văn hóa
của nhân loại thời kì này nói chung còn thấp.Triết học thời kì này đã đề cập tới những
vấn đề thế giới quan cơ bản của con người.Tuy nhiên do sự đối lập giữa lao động trí óc
với lao động chân tay quá lớn,nên nhìn chung các quan niệm triết học còn mang nặng
tính tự biện.
Trước hết chúng ta phải hiểu thế giới quan là như thế nào?Triết học có vai trò như
thế nào đối với thế giới quan?
Thế giới quan là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới,về bản thân
con người,về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới đó.Triết học giữ vai trò
định hướng cho quá trình cũng cố và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân,mỗi cộng
đồng trong lịch sử.Thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống con
người và xã hội loài người.Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan
tích cực và trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng về sự trưởng thành
5


của mổi cá nhân cũng như của mỗi cộng đồng xã hội nhất định.Sự hòa nhập giũa tri thức
và niềm tin tạo thành thế giới quan.
Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại không dừng lại ở sự nhận xét muôn hình muôn vẻ
của thế giới,họ đã đi tìm cơ sở của nó với cách quy nó về một nguyên nhân phổ biến,sâu
sắc hơn về một nguyên thể đầu tiên.Các nhà triết học duy vật thời kỳ này đã cố tình”xây
dựng nên mặt lý luận về thế giới,thế giới gồm có cái gì,và tác động như thế nào vào các

khái niệm trong đời sống và lao động hằng ngày”.Công lao của các nhà duy vật Hy Lạp
cổ đại là đã xây dựng được giả thiết về cơ cấu nguyên tử của vật chất.Nét nổi bật của triết
học duy vật là các nhà triết học đều cho rằng thế giới là do vật chất tạo thành,có vận động
và có biến đổi,tuy rằng quan niệm vật chất tạo thành thế giới của mỗi nhà triết học có
khác nhau:
Theo Talet thì nước là bản chất của vạn vật, nước luôn thay đổi hình thái và vì thế
chính nước đã sản sinh ra các vật thể khác nhau. Talet đã mở ra một thời đại tư duy mới
,sự tìm tòi cái mới của ông xoay quanh bản chất sự vật.Mọi sự vật được làm bằng gì? hay
loại "chất liệu" tạo nên sự vật là gì?Điều mà Talet muốn đạt được khi nêu những câu hỏi
này là tìm một cách nào đó cắt nghĩa được sự kiện này rằng có nhiều loại sự vật như
đát,mây và đại dương, và một số những sự vật này thay đổi từ lúc này qua lúc khác để trở
thành một cái gì khác và chúng cũng giống nhau ở một số cách thức nào đó. Đóng góp
độc đáo của Talet cho tư duy chính là ông quan niệm rằng, mặc dù có những sự khác biệt
trong các sự vật khác nhau, nhưng vẫn có một sự giống nhau cơ bản giữa tất cả các sự vật
ấy, và cái nhiều nhưng tương quan với nhau nhờ cái một. Ông giả thiết rằng có một yếu
tố duy nhất nào đó, một ”chất liệu” nào đó chứa đựng nguyên lý hành động hay biến đổi
của chính nó và là nền tảng cho mọi thực tại vật lý. Arixtôt viết rằng Talet đã đạt tới kết
luận đó nhờ quan sát các sự kiện đơn sơ ”có lẽ từ việc ông thấy rằng mọi vật được nuôi từ
chất ẩm,nhiệt phát sinh từ chất ẩm và được duy trì từ chất ẩm…sự kiện hạt giống của mọi
vật đều có bản chất ẩm, nước là nguồn gốc của bản chất ẩm ướt của các sự vật”. Tính
chính xác trong sự phân tích của Talet về thành phần của sự vật không quan trọng bao
nhiêu so với việc ông nêu lên câu hỏi về bản tính của thế giới. Câu hỏi của ông đã đặt ra
bối cảnh cho một loại tìm tòi mới, một loại tìm tòi có thể được đem ra tranh luận về giá
trị của chính nó. Talet đã chuyển đổi cơ sở tư duy từ một nền móng thần thoại sang một
nền móng có tính chất tìm tòi, khoa học hơn. Hơn nữa,từ điểm khởi hành sơ khai của ông
những người khác sẽ nối tiếp ông với những giải pháp khác, nhưng họ luôn luôn đặt vấn
6


đề của ông trước mắt họ.

Anaximăng lại cho rằng nguồn gốc của vũ trụ là vô cực, vô cùng rối ren và phức
tạp, luôn chia thành những mặt đối lập nhau như khô và ướt, nóng và lạnh, chính các mặt
đối lập này lại kết hợp với nhau và tạo ra vạn vật. Ông đồng ý với thầy của mình (Talet)
rằng có một chất liệu nào đó là nền tảng cấu tạo nên mọi vật. Nhưng khác với Talet, thực
thể sơ đẳng mà từ đó mọi sự vật đặc thù này phát sinh là một lĩnh vực vô định hay vô
hạn. Các sự vật cụ thể thì đặc thù, còn nguồn gốc của chúng thì vô định, các sự vật cụ thể
thì hữu hạn, còn chất liệu nguyên thủy thì vô biên, vô hạn. Không những Anaximăng
cống hiến một ý niệm mới về thực thể nguyên thủy của sự vật ông còn đẩy xa công trình
triết học bằng cách cố gắng tìm ra một giải thích nào đó cho ý niệm mới của ông.
Anaximăng đã tự đặt cho mình câu hỏi làm sao chất liệu sơ đẳng hóa thành nhiều sự vật
khác nhau mà chúng ta thấy trên thế giới.
Anaximen là nhà triết học thứ ba và cuối cùng của phái Milê, ông hài lòng với khái
niệm cái vô hạn là nguồn gốc của mọi vật. Ông cho rằng nguồn gốc của vạn vật bắt đầu
từ không khí, nhờ không khí và sự chuyển động của nó, vạn vật trong vũ trụ được tạo ra
và sau đó lại quay về dạng không khí. Anaximen xác định khí là thực thể sơ dẳng từ đó
phát sinh mọi vật, ông đã chạm tới được những khái niệm rất có giá trị về sự ”loãng khí”
và ”tụ khí” như là những hình thái đặc thù của chuyển động dẫn tới sự thay đổi trong
không khí mà ta có thể thay đổi được. Anaximen đã có nhiều tiên đoán khoa học, coi
không khí là nguồn gốc và bản chất chung của tất thảy mọi vật, vì thế người ta không thể
sống nếu như không thở. Ông coi mưa đá là kêt quả kết băng của các tia nước trên cao và
khi băng đá bị không khí làm tan ra thì tạo thành tuyết. Anaximen đã đề ra một ý niệm
mới rất quan trọng, đó là những khác biệt về ”chất “ được tạo thành do những khác biệt
về ”lượng”. Sự giãn nở và co tụ của khí diễn ra những thay đổi về lượng, và những thay
đổi này khi xảy ra trong một thực thể duy nhất, sẽ cắt nghĩa cho sự phát sinh nhiều vật
thể khác nhau. Ông cũng là người đưa ra giả thuyết giải thích về các hiện tượng nhật thực
và nguyệt thực.
Anaximan là một nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại. Ông là người đầu tiên đưa ra
khái niệm về khởi nguồn hay sự hình thành vật thể trong vũ trụ. Ông coi vật chất là vô
tận, không có giới hạn,tạo ra sự đa dạng trong thế giới. Ông cho rằng nguồn gốc và cơ sở
của của mọi sự vât là apeirôn (là một cái vô định hình, vô cùng tận, tồn tại vĩnh viễn, bất

diệt). Theo ông, mọi sự vật không chỉ có bản chất chung apeirôn, mà còn xuất hiện từ nó.
7


Tự bản thân apeirôn sinh ra mọi cái đồng thời là cơ sở vận động của chúng.Toàn bộ vũ
trụ được cấu từ apeirôn tồn tại như một vòng tuần hoàn biến đổi không ngừng. Ở học
thuyết vũ trụ của ông thì trái đất nằm ở trung tâm vũ trụ,có hình dang một hình trụ bẹt.
Chung quanh trái đất có ba cái vòng tròn tự quay: vòng mặt trời, vòng mặt trăng và vòng
sao.
Anaxagô là người đã làm cho triết hoc có môt phát biểu quan trọng khi đưa ra một
giải thích mới về quá trình mà vật chất mang hình thức của những sự vật cụ thể. Đóng
góp quan trọng của ông là khái niệm về tinh thần mà ông phân biệt với vật chất. Ông thấy
thế giới và vật thể trong đó có một cấu trúc trật tự và phức tạp, đòi hỏi một cái tồn tại có
tri thức và năng lực làm nguyên lý giải thích.
Ampêđôc cho rằng vạn vậtđược sinh ra không phải do đơn tố, mà do cả bốn yếu tố
vật chất cấu thành, đó là đất, nước, lửa và không khí. Ông đồng ý cái hiện hữu là tự có và
không thể hủy diệt, đơn giản là nó tồn tại, và ông nói rằng ”từ cái gì hoàn toàn không có
thì không thể có ,cái gì trở nên hiện hữu và hiện hữu mà hoàn toàn bị hũy diệt thì không
thể hoàn thành được và không thể hiểu được, vì nó sẽ luôn luôn tồn tại ở nơi đó, bất kể
người ta đặt nó ở đâu trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Anaxago là người làm cho triết học có một phát biểu quan trọng khi đưa ra một giải
thích mới về quá trình mà vật chất mang hình thức của những sự vật cụ thể. Đóng góp
quan trọng của ông là khái niệm về tinh thần mà ông phân biệt với vật chất. Ông thấy thế
giới và mọi vật thể trong đó có một cấu trúc trật tự và phức tạp, đòi hỏi một cái tồn tại có
tri thức và năng lực làm nguyên lý giải thích. Một nguyên lý lí trí như vậy được ông đưa
ra khái niệm tinh thần như là nguyên lý làm cho vật chất có một trật tự. Theo ông, bản
chất của thực tại có thể được hiểu cách tốt nhất bao gồm tinh thần và vật chất. Anaxago
đã phân biệt được tinh thần với vật chất bằng cách nói rằng không giống với vật chất,
tinh thần”không pha trộn với gì cả,mà đứng một mình,tự mình”, nhưng ông không phân
biệt hai thế giớ khác nhau, thế giới tinh thần và thế giới vật chất, mà ông thấy hai thế giới

này luôn luôn tương quan và gắn bó với nhau. Những khái niệm này có giá trị và ảnh
hưởng to lớn trong triết hoc Hy Lạp sau này. Nhìn chung, thế giới quan của Anaxago là
sự phát triển đến đỉnh cao lập trường đa nguyên.
Hêraclit đã tiếp cận được với quan niệm duy vật,nhưng mang nặng tính vĩnh viễn và
bất diệt của thế giới,nhấn mạnh đến tính chất vận động của vật chất thông qua sự đấu
tranh giữa hai mặt đối lập,mọi sự vật đều vận động,mọi sự vật đều biến đổi.Ông quan
8


niệm chính lửa là nguồn gốc sinh ra tất thảy mọi vật.”Mọi cái biến đổi thành lửa và lửa
thành mọi cái tựa như trao đổi vàng thành hàng hóa và hàng hóa thành vàng”.Theo
Hêraclit,chuẩn mực của mọi sự vật,được hiểu không chỉ là từ ngữ,mà còn là quy luật
khách quan của vũ trụ,quy định trật tự và chuẩn mực của mọi cái.Dưới con mắt của
ông,mọi sự vật trong thế giới của chúng ta đều thay đổi,vận động,phất triển không
ngừng.Chúng ta không thể quên luận điểm bất hủ của ông”chúng ta không thể tắm hai lần
trên một dòng sông”.Mọi cái chỉ xảy ra một lần,không lặp lại mặc dù giữa các sự vật có
thể có sự kế thừa nhất định.Vũ trụ là một thể thống nhất,nhưng trong lòng nó luôn luôn
diễn ra các cuộc đấu tranh giữa các sự vật ,lực lượng đối lập nhau.Nhờ có cuộc đấu tranh
đó mà mới có hiện tượng sự vật này chết đi có sự vật khác thay thế.Điều đó làm cho vũ
trụ thường xuyên phát triển và trẻ mãi không ngừng.Vì thế đấu tranh là vương quốc của
mọi cái, là quy luật phát triển của vũ trụ.Bản thân cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập
luôn diễn ra sự hài hòa thống nhất.
Đêmôclit là người đã có phán đoán có giá trị về vận động:vận động gắn liền với vật
chấ và tồn tại vĩnh viễn.Ông là nhà duy vật vĩ đại nhất của Hy Lạp cổ điển,là người đã
từng có những cuộc tranh luận công khai,quyết liệt với các nhà triết học duy tâm.Lênin
coi Đêmôclit là người thể hiện rõ rệt nhất chủ nghĩa duy vật trong thời kì cổ đại.Nổi bật
triết học duy vật của Đêmôclit là học thuyết về nguyên tử.Khái niệm nguyên tử được xây
dựng trên cơ sở các khái niệm”tồn tại”và”không tồn tại’.Trái với quan niệm của nhà triết
học duy tâm Platôn,”tồn tại”theo Đêmôclit là cái được xác dịnh,cái đa dạng và cái có
ngoại hình.Còn cái”không tồn tại”là cái không xác định ,cái vô hình,bất động,vô hạn.Nó

không ảnh hưởng gì đến các vật thể nằm trong nó,nhờ nó mà các vật thể có thể vận động
được.Nguyên tử theo Đêmôclit là hạt vật chất nhỏ nhất tới mức không thể phân chia thêm
được nữa,chúng tồn tại vĩnh viễn.Phỏng đoán có giá trị của Đêmôclit là ông cho rằng vận
động gắn liền với vật chất và tồn tại vĩnh viễn.Các sự vật là do các nguyên tử liên kết lại
với nhau tạo nên.Tính đa dạng của nguyên tử làm nên tính đa dạng của thế giới các sự
vật.Nguyên tử tự thân,không vận động nhưng khi kết hợp với nhau thành vật thể thì làm
cho vật thể và thế giới vận động không ngừng.Trong quan điểm của Đêmôclit đã có mầm
mống của cái thuyết về chất có trước và chất có sau của sự vật.Nhiều nguyên tử kết hợp
lại với nhau thành vật thể,các phân rã thì vật thể bị tiêu diệt.Như vaayj,trực giac Đêmôclit
đã có một ảnh hưởng lâu dài và sâu đậm trong lịch sử.Lý thuyết của ông về các vật thể
chuyển động như một sự giải thích tự nhiên,đưa ra một quan niệm mới về vật chất,phủ
9


nhận tính chất không thể phá hủy của các nguyên tử.
Như vậy,từ những quan niệm về thế giới của các nhà triết hoc duy vật Hy Lạp cổ
đại đã tạo nên cơ sở khoa hoc cho những ngiên cứu về thế giới và vũ trụ của con người
sau này.Trong khi triết học Phương Đông thời kì này còn chịu ảnh hưởng nặng nề của
thần linh,tôn giáo,triết học của các nhà duy tâm như Pla tôn coi ý niệm là cái có trước,còn
thế giới sự vật là cái có sau và được sáng tạo bới ý niệm,thì các nhà triết học duy vật Hy
Lạp cổ đại đã có sự tìm tòi mới về vận động của thế giới tự nhiên.Họ đã chỉ ra rằng trạng
thái của vật chất và các đặc tính của nó đều biến đổi nhưng bản thân nó thì không sinh ra
và cũng không chết đi mà tồn tại vĩnh viễn.Vật chất cũng không thểđược sáng tạo ra và
cũng không thể bị tiêu diệt,sự vận động của nó là quá một trình tự nhiên,không phụ thuộc
vào bất kì lực lượng siêu tự nhiên nào.Học thuyết của các trường phái duy vật đàu tiên
xem nước,không khí và lửa như là vật chất mà trong khi vận động đã sản sinh ra tất cả
mọi vật thể về quá trình của thế giới.Học thuyết về sự chuyển hóa lẫn nhau của các vật
thể và quá trình ấy là những mầm mống của quan điểm duy vật biện chứng về sự biến đổi
của vật chất từ trạng thái này sang trạng thái khác.Trong thế kỉ II.tr.CN,các nhà duy vật
Anaxago va Ampêđôcơ đã phát triển hơn nữa các quan niệm triết học và khoa học tự

nhiên về vật chất,với cống hiến chuyển từ quan niệm trực quan cảm tính về vật chất sang
vấn đề cấu tạo của vật chất.
 Tóm lại qua tìm hiểu các đặc điểm của triết học Hy lạp cổ đại ta nhận thấy một
số đặc điểm cơ bản sau:
Triết học Hy Lạp cổ đại được coi là đỉnh cao của nền văn minh phương Tây cổ đại,
và là một trong những điểm xuất phát của lịch sử triết học thế giới. Nền triết học này có
những đặc điểm sau:
Một là: Triết học Hy Lạp cổ đại thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp
luận của giai cấp chủ nô thống trị. Nó là công cụ lý luận để giai cấp này duy trì trật tự xã
hội, củng cố vai trò thống trị của mình.
Hai là: Trong triết học Hy Lạp cổ đại có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các
trào lưu, trường phái duy vật - duy tâm, biện chứng - siêu hình, vô thần - hữu thần. Trong
đó, điển hình là cuộc đấu tranh giữa trào lưu duy vật của Đêmocrit và trào lưu duy tâm
của Platon, giữa trường phái siêu hình của Pacmênít và trường phái biện chứng của
Hêraclit...

10


Ba là: Triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp
mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau nhằm xây dựng bức tranh về thế giới như một
hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong nó. Do trình độ tư duy
lý luận còn thấp, nên khoa học tự nhiên chưa đạt tới trình độ mổ xẻ, phân tích tự nhiên để
đi sâu vào bản chất sự vật mà nó mới nghiên cứu tự nhiên trong tổng thể để dựng nên bức
tranh tổng quát về thế giới. Vì vậy, các nhà triết học đồng thời là các nhà khoa học tự
nhiên, họ quan sát trực tiếp các hiện tượng tự nhiên để rút ra những kết luận triết học
Bốn là: Triết học Hy Lạp cổ đại đã xây dựng nên phép biện chứng chất phác. Các
nhà triết học Hy Lạp cổ đại nghiên cứu phép biện chứng để nâng cao nghệ thuật hùng
biện, để bảo vệ quan điểm triết học của mình, để tìm ra chân lý. Họ đã phát hiện ra nhiều
yếu tố của phép biện chứng, nhưng chưa trình bày chúng như một hệ thống lý luận chặt

chẽ.
Năm là: triết học Hy Lạp coi trọng vấn đề con người. Các nhà triết học Hy Lạp cổ
đại đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về con người, cố lý giải vấn đề quan hệ giữa
linh hồn và thể xác về đời sống đạo đức - chính trị - xã hội của họ. Dù còn có nhiều bất
đồng, song nhìn chung, các triết gia đều khẳng định con người là tinh hoa cao quý nhất
của tạo hoá.
Trên thực tế, mặc dù triết học duy vật Hy Lạp ra đời trên nền tảng thần thoại và tôn
giáo nhưng thế giới quan lại hoàn toàn mới lạ dựa trên cơ sở trí tuệ sâu sắc. Đã đem lại
cho con người giải quyết đúng đắn những vấn đề do cuộc sống con người đặt ra, giúp họ
có cách sống hợp lý trong xã hội. Triết học Hy Lạp ra đời với những đặc điểm:
2.2. Gía trị về nhận thức luận
Các nhà triết học phái Milê và Hêraclit đã tự giải quyết vấn đề cơ bản của nhận thức
luận-vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý thức một cách duy vật.Trường phái Milê trong
trường phái duy vật ra đời sớm nhất trong triết học Hy Lạp cổ đại(thế kỉ II.tr.CN),trường
phái này đã đi tìm cơ sở ấy trong các dữ kiện cho việc nghiên cứu hiện thực đem lại.Xuất
phát từ trực quan cảm tính họ đã lấy một hiện tượng nào đó của tự nhiên làm cơ sở và coi
nó vô cùng tận.
Anaximawng đã tự đặt ra cho mình câu hỏi làm sao chất liệu sơ đẳng hóa thành
nhiều sự vật khác nhau mà chúng ta thấy trên thế giới.Như vậy ông đã có một bước tiến
về nhận thức,theo nghĩa nó là một cố gắng xử lý các sự kiện bằng cách đặt ra các giả
thuyết thay vì cắt nghĩa những hiện tượng tự nhiên bằng lối diễn tả thần thoại và không
11


thể tranh luận.Hơn nữa,điều mà ông muốn nói về nguồn gốc của sự vật cho thấy dáng dấp
của một sự suy tư mạnh bạo.
Ở các nhà triết học trường phái Milê chỉ chủ yếu bàn đén những vấn đề bản thể
luận,thì bên cạnh đó,Hêraclit còn phân tích nhiều vấn đề nhận thức luận.Một mặt,ông
đánh giá cao vai trò của các giác quan trong nhận thức các sự vật đơn lẻ,mặt khác,cho
rằng mục đích tối cao của chúng ta là nhận thức lôgos,nhận thức sự thống nhất của vũ trụ

và sự thông thái tối cao.Phần đông mọi người sống theo những quan niệm riêng của
mình.Hạnh phúc không phải là sự hưởng lạc đơn thuần về thể xác mà là ở việc biết suy
nghĩ,nói và hành động tuân theo thế giới tự nhiênLênin đánh giá cao những quan niệm đó
của Hêraclit,cho rằng chúng đã thể hiện một trong những điểm cơ bản của phép biện
chứng.
Đối với Đêmôcrit,ông đã có những quan điểm tiến bộ hơn,ông đã phân biệt sự khác
nhau giữa con người và con vật là ở chỗ trong con người chúng ta có nhiều nhiệt
lượnghơn và các chất cấu thànhốn sạch sẽ hơn so với động vật.Ông đã định nghĩa con
người như một động vật nhưng về bản tính,có khả năng học được bất kì cái gì,có chân
tay,cảm giác và sự năng động trí tuệ làm trợ giúp cho mọi cái.Ông đã chia nhận thức của
con người thành hai trình độ:nhận thức cảm tính và nhận thức chân lý(đáng tin cậy)
Nhận thức luận của Arixtoot có vai trò quan trọng trong lịch sử triết hoc Hy Lạp cổ
đại.Lý luận nhận thức của ông được xây dựng môt phần trên cơ sở phê phán học thuyết
Platôn về “ý niệm”và “sự hồi tưởng”.Trong lý luận nhận thức của mình,ông đã thừa nhận
thế giới khách quan là đối tượng của nhận thức,là nguồn gốc kinh nghiệm và cảm
giác.Arixtoot đã thừa nhận tính khách quan của thế giới:nhờ cảm giác về đối tượng mà có
tri thức đúng,có kinh nghiệm và lý trí hiểu biết được về đối tượng.
Như vậy,các nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại đã có một trình độ nhận thức cao
hơn về thế giới,về con người,giúp cho con người có cách nhìn nhận đúng dắn hơn.Những
lý luận nhận thức này là nền tảng cho những nghiên cứu khoa học của nhân loại,đi tới sự
phát triển cao hơn,tiến bộ hơn sau này.
Nhìn chung họ đều khẳng định con người là tinh hoa cao quý nhất của tạo hóa.”Con
người là thước đo tất thảy mọi vật” (Pitago). Con người thời cổ đại được nhìn nhân chủ
yếu với tổ chức cá thể, giá trị con người chủ yếu chỉ được bàn đến ở khía cạnh đạo đức,
giao tiếp, nhận thức luận.
Các nhà duy vật Hy Lạp cổ đại đặc biệt là Đêmôclit và Arixtôt đã có những tư
12


tưởng,những quan niệm tiến bộ hơn về con người và xã hội.Các ông đã cung cấp cơ sở

cho ý niệm về chủ nghĩa thế giới đại đồng,theo đó mọi con người đều là những công dân
bình đẳng của thế giới này.
Đêmôcrit thoát khỏi quan điểm máy móc về vấn đề đạo đức học.Ông đã khai triển
một bộ quy tắc đạo đức rất caovời cho hành vi con người,đòi hỏi sự điều độ trong mọi sự
và việc vun trồng văn hóa như cách thức chắc chắn nhất để đạt những mục tiêu đáng ao
ước nhất của cuộc đời,đó là sự vui tươi.Theo Đêmôcrit,phẩm chất con người không phải
ở lời nói mà ở việc làm.Con người cần hành động có đạo đức ,còn hạnh phúc của con
người là ở khả năng trí tuệ,khả năng tinh thần nói chung,đỉnh cao của hạnh phúc là trở
thành nhà thông thái,trở thành công dân thế giới.Trái với quan niệm của Platôn về xã hội
rằng ông ủng hộ việc xây dựng nhà nước của ý niệm,ra sức bảo vệ lợi ích của tầng lớp
chủ nô dân chủ,đấu tranh chống lại chủ nô quý tộc.
Đối với Arixtôt thì vấn đề đạo đức học được ông xếp vào loại khoa học quan trọng
sau triết học.Trong đạo đức của ông đặc biệt quan tâm đến vấn đề phẩm hạnh.Theo ông
phẩm hạnh là cái tốt đẹp nhất,là lợi ích tối cao mà mọi công dân cần phải có.Phẩm hạnh
của con người thể hiện ở quan niệm về hạnh phúc,hạnh phúc phải gắn liền với hoạt động
nhận thức,với ước vọng làm điều thiện.
Vấn đề đạo đức được các nhà duy vật Hy Lạp lần đầu tiên đề cập đến như là mối
quan tâm hàng đầu của triết học,đã đạt tới một trong những bước ngoặt quan trọng
nhất.Lần đầu tiên con người được đề cập tới phẩm chất và hạnh phúc của mình.
4.Tính biện chứng sơ khai
Nhìn chung do hạn chế của thời đại về trình độ phát triển kinh tế,khoa học kĩ
thuật,các nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại chưa thể giải thích tự nhiên một cách chích
xác và không giải thích được mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.Những tư
tưởng triết học còn mang nặng tính thô sơ máy móc,nhiều quan niệm duy vật nhưng sơ
khai,tự phát.
Bên cạnh những quan niệm duy vật mang tính sơ khai,máy móc,thế giới quan của
Talet còn ít nhiều chịu ảnh hưởng của các quan niệm thần thoại và tôn giáo nguyên
thủykhi ông cho rằng thế giới chúng ta đầy rẫy các vị thần linh,không lý giải được hiện
tượng từ tính của nam châm và hổ phách,ông khẳng định chúng có linh hồn.Các vị thần
linh trong ý tưởng của ông,là những hoạt động trong thế giới làm cho mọi sự vật có thể

vận động và biến đổi được.
13


Cũng như Talet,Anaximan cũng chịu ảnh hưởng của thần thoại và tôn giáo,khẳng
định điểm tận cùng thế giới.Mọi sự vật theo ông đều sinh ra từ apeirôn và có lỗi lầm với
nhau,mọi cái cuối cùng đều trở thành apeirôn,ít nhiều mang tính thần bí.
Ampeđôc,lại thần thánh hóa các khởi nguyên của thế giới và đi đến nhân cách hóa
mọi sự vật,tức là quy cho chúng những đặc tính mà trên thực tế chỉ riêng con người mới
có.Ông cho rằng mỗi khởi nguyên đều tồn tại độc lập,bất biến,do đó mang tính thần
thánh,chúng được coi như những vị thiên thần,chẳng hạn lửa được coi là”thần Dớt chói
lọi”,…
Đêmôcrit khi nói đến nguyên tử thì chưa đạt đến quan niệm khẳng định khối lượng
của nguyên tử,cho rằng nguyên tử không có trọng lượng.Ông thừa nhận rằng trong con
người có một phần bản chất thiên thần.Quan niệm của ông về tư duy và ý thức còn ngây
thơ,cảm tính.Đặc biệt coi chế độ nô lệ là hợp lý và cũng cần sử dụng biện pháp có thể.
Tóm lại,tất cả những điều được thể hiện ở các tư tưỏng triết học Hy Lạp cổ đại,đó là
sự tự phát,hay chúng không được các nhà triết học ý thức được một cách tự giác,còn
mang những tính thô sơ,chất phác,mới chỉ chú ý đến các hiện tượng bề ngoài mà không
thể giải thích được một cách đầy đủ bản chất bên trong của sinh vật cũng như mối liên hệ
giữa các sinh vật và hiện tượng.

14


CHƯƠNG II
CÁC TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1-Chủ nghĩa duy vật
Chủ nghĩa duy vật được hình thành từ trường phái Milet- trường phái Heraclite,
trường phái Đa nguyên và đạt được đỉnh cao như trong trường phái Nguyên tử luận.

1.1-Trường phái Milet
Trường phái triết học Milet là trường phái của các nhà triết học đầu tiên xứ Lonie,
một vùng đất nổi tiếng của Hy Lạp. Nằm chạy dài trên miền duyên hải Tiểu Á, nằm giữ
huyết mạch giao thông, là cửa mở đi về phương Đông, và là trung tâm kinh tế, văn hóa
của thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Nơi đây được xem là quê hương của nhiều trường phái triết
học của triết gia nổi tiếng.
Trường phái này do ba nhà triết học lập nên như: Thales, Anaxi-mène và
Anaximandes. Đóng góp quan trọng nhất của trường phái này là đã đặc nền móng do sự
hình thành các khái niệm triết học để các triết gia sau này tiếp tục bổ xung và làm phong
phú thêm những khái niệm đó như khái niệm chất, không gian, sự đấu tranh của các mặt
đối lập v.v… Một điều đáng quý nữa là các triết gia đã xuất phát từ thế giới để giải thích
thế giới, khẳng định thế giới xuất phát từ một thời nguyên vật chất duy nhất.
1.2-Trường phái Héraclite : (540 – 575 BC)
Do nhà ẩn dật Héraclite sáng lập. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình quý tộc
chủ nô ở thành phố Ephetdơ. Ông sớm trở thành một nhà triết học duy vật thể hiện rõ các
tư tưởng biện chứng chất phát từ thời cổ Hy Lạp. Ông coi bản nguyên của thế giới là lửa.
Vũ trụ không phải do Thượng Đế hay một lực lượng siêu nhiên nào đó tạo ra, mà nó “đã”
và “đang” sẽ mãi mãi là ngọn lửa vĩnh hằng không ngừng bùng cháy và lụi tàn. Tàn lụi
và bùng cháy theo cái logos tức là “quy luật, trật tự” nội tại của chính mình. Ông xem thế
giới “vừa tồn tại vừa không tồn tại”, “không ai tắm hai lần trong một dòng sông”. Thế
giới vật chất “vừa đa dạng vừa thống nhất, vừa mang tính hài hòa vừa xung đột”.
Như vậy, Héraclite là nhà triết học đã nêu lên các phỏng đoán thiên tài về quy luật
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, mà sau này Marx đã đề cập và đi sâu. Phép
biện chứng duy vật chất phát là đóng góp của triết học Héraclite vào kho tàng tư tưởng
của nhân loại. “Thế giới chỉ là ngọn lửa đang bập bùng cháy suốt ngày đêm”.[4]
1.3-Trường phái đa nguyên
Để giải thích tính đa dạng của vạn vật trong thế giới theo tinh thần duy vật
Empedocles ( 490 – 430 TCN ) và Anaxagoras ( 500 – 428 TCN ) cố vượt qua quan niệm
đơn nguyên sự khai minh của các trường phái như Milet - trường phái Héraclite xây dựng
15



quan niệm đa nguyên về bản chất của thế giới vật chất đa dạng. Empedocles thừa nhận
khởi nguyên của thế giới là bốn yếu tố : đất, nước, lửa và không khí. Anaxagorax cho
rằng cơ sở đầu tiên của tất cả mọi sự vật là “những hạt giống”. Anaxagorax xem “ mọi
cái được trộn lẫn trong mọi cái”.[5]
Tuy nhiên, quan điểm của họ cũng còn mang tính sơ khai, nghĩa là còn hạn chế.
Những hạn chế này được thuyết phục bởi thuyết nguyên tử luận. Nhưng thuyết này vẫn
còn sơ khai và nhận định bằng cảm tính.
1.4-Trường phái nguyên tử luận
Trường phái này là đỉnh cao của triết học duy vật Hy Lạp cổ đại được thể hiện trong
trường phái nguyên tử luận thế kỷ V – III BC. Leucippe là người sáng lập và Démocrite
là người kế thừa và phát triển.
Leucippe (500 – 440 BC), ông cho rằng, mọi sự vật được cấu thành từ những
nguyên tử. Đó là những hạt vật chất tuyệt đối không thể phân chia được, nó vô hạn về số
lượng và vô hạn về hình thức, nó vô cùng nhỏ bé, không thể thẩm thấu được. Tư tưởng
của ông không được hiểu một cách đầy đủ, nhưng ông đã để lại qua những trang viết của
các học trò ông tổng hợp. Démocrite (460 – 370 BC) là học trò của Leucippe đã kế thừa
và phát triển thuyết nguyên tử luận trên một phương diện mới. Theo ông vũ trụ được cấu
thành bởi hai thực thể đầu tiên là nguyên tử và chân không. Hai thực thể này là căn
nguyên của các sự vật hiện tượng.
3.2-Chủ nghĩa duy tâm
Giai đoạn Hy Lap cổ đại, chủ nghĩa duy tâm được hình thành trong trường phái
triết học Pythagore, trải qua trường phái duy lý Elee và đạt được đỉnh cao trong trường
phái duy tâm khách quan của Platon, tức thế giới ý niệm.
3.2.1-Trường phái Pythagore
Pytagore (Pythagore, 571 – 497 TCN) là nhà triết học, toán học uyên bác. Sinh ra và
lớn lên ở vùng Tiểu Á. Do ảnh hưởng của toán học ông cho rằng “con số” là bản nguyên
của thế giới, là bản chất của vạn vật. Một vật tương ứng với một con số nhất định, con số
có trước vạn vật. Và tư tưởng Pythagore cũng thừa nhận sự bất tử và luân hồi của linh

hồn. Ông cũng bàn đến các mặt đối lập vôn có của mọi sự vật hiện tượng, ông quy về
mười cặp đối lập hữu hạn và vô hạn, chẳn và lẻ, đơn và đa, phải và trái, nam và nữ,
động và tĩnh, thẳng và công, sáng và tối, tốt và xấu, tứ giác và đa diện. Mười cặp đối lập
này chia làm bốn lĩnh vực là: toan học, vật lý, sinh học và đạo đức. Đó là những mặt đối

16


lập cơ bản của tự nhiên và xã hội. Chính trường phái Pythagore đã đặc nền móng ban đầu
cho trào lưu duy tâm thời cổ đại của triết học Hy Lạp.
3.2.2-Trường phái Elée
Trường phái Elée (V – IV BC) do Xénophane thành lập theo chủ nghĩa duy vật,
nhưng sau đó Parménide phát triển theo chủ nghĩa duy tâm và được Zeno nhiệt thành bảo
vệ và phát huy.
Xénophane (570 – 478 BC) là bạn của Thales nên chịu ảnh hưởng của nhà triết học
này. Ông cho rằng mọi cái đều từ đất mà ra, và cuối cùng trở về đất. Đất là cơ sở của vạn
vật. Cùng với nước, đất tạo nên sự sống của muôn loài. Parménide (500 – 449 BC) xuất
thân trong một gia đình trí thức giàu có ở Elée. Ông cho rằng, “tồn tại” là bản chất chung
thể hiện tính thống nhất của vạn vật trong thế giới. “Tồn tại” là một phạm trù triết học
mang tính khái quát cao, và nhận thức bởi tư duy, lý tính. Quan niệm “tồn tại”đánh dấu
một giai đoạn mới trong phát triển triết học Hy Lạp cổ đại.
Zeno (490 – 430 BC), là người bảo vệ nhiệt thành trường phái Elée. Ông đưa ra
những Aporic nghĩa là tình trạng không có lối thoát hay nghịch lý. Thông qua chúng, ông
chứng minh rằng, “tồn tại là đồng nhất, duy nhất là bất biến”. Còn tính phức tạp, đa
dạng và vận động của thế giới là không thực.
3.2.3-Trường phái duy tâm khách quan
Thể hiện lập trường chính trị của tầng lớp chủ nô bảo thủ chống lại nền dân chủ
Athen và hệ thống triết học duy vật của trường phái nguyên tử luận. Được xây dựng bởi
Socrate và Platon.
Socrate (469 – 399 BC), khác với nhiều nhà bác học khác là không nghiên cứu

về giới tự nhiên, ông dành phần lớn nghiên cứu về con gười, đạo đức. “Con người hãy
nhận thức về chính mình”. Bàn về con người dưới khía cạnh đạo đức. Platôn (427 – 347
BC), xuất thân trong một gia đình chủ nô quý tộc ở Athen. Ông trở thành kiệt xuất nhất
thời cổ đại Hy Lạp bởi quan niệm triết học duy tâm khách quan. Ông xây dựng chủ nghĩa
duy tâm khách quan với nội dung chính là “thuyết ý niệm”, với giá trị bên trong là
phép biện chứng của khái niệm và nhiều tư tưởng sâu sắc khác về đạo đức, chính trị, xã
hội.
3.3-Chủ nghĩa nhị nguyên
Triết học Aristote :
Aristote (384 – 322 TCN). Ông sinh ra tại miền Bắc Hy Lạp, là học trò xuất sắc của
Platon. Nhưng đặc biệt ông phê phán học thuyết “ý niệm” của Platon. Vì ý niệmnó thuộc
17


về thế giới bên kia không có lợi cho người. Theo Platon, ông cho rằng thuộc tính quan
trọng của thế giới là “vận động”. Triết học của Platon còn thể hiện ở quan điểm về thế
giới tự nhiên. Tự nhiên là toàn bộ của sự vật có một bản thể vật chất mãi mãi vận động và
biến đổi. Thông qua vận động mà giới tự nhiên được thể hiện ra. Vận động không tách
rời vật thể tự nhiên. Vận động của thế giới tự nhiên có nhiều hình thức, sự tăng và giảm,
sự ra đời và tiêu diệt, sự thay đổi trong không gian, sự thay đổi về chất … Tuy nhiên, triết
học của ông còn hạn chế, dao động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, nhưng
ông đã mở ra một chân trời mới cho khoa học Phương Tây phát triển.
2. Triết gia Socrate (469 – 399BC)
2.1-Tiểu sử của Socrate
Socrate xuất thân trong một gia đình khá giả ở Athen. Cha làm nghề điêu khắc, mẹ
là nữ hộ sinh. Ông hướng về chính thể chủ nô quý tộc chống lại chủ nô dân chủ. Năm
399 BC, ông bị chủ nô dân chủ kết án tử hình về tội “coi thường luật pháp, chống lại
chế độ bầu cử dân chủ”. Đối với ông chỉ có văn nói sống động, và văn viết đã bị khô
cứng. Vì vậy cuộc đời ông không để lại một tác phẩm nào. Chỉ biết được ông qua đệ tử
của ông.

2.2- Quan điểm triết học của Socrate.
Triết học của ông khác với các nhà triết học trước đó. Các nhà triết học trước nghiên
cứu về giới tự nhiên. Nhưng ông dành phần lớn vào việc nghiên cứu về con người, về đạo
đức, về nhân sinh quan. Triết học không gì khác hơn là sự nhận thức của con người về
chính mình, “con người hãy nhận thức chính mình”. Bắt đầu từ ông, đề tài con người trở
thành một trong những chủ đề trong tâm của triết học phương Tây. Vì vậy, quan điểm
triết học của ông bàn đến vấn đề con người trong đời sống xã hội mà trước hết là hành vi
đạo đức.
Xuất phát từ “đạo đức học duy lý”, ông cho rằng, “Hiểu biết là cơ sở của điều
thiện, ngu dốt là cội nguồn của cái ác, và chỉ có cái thiện phổ biến mới là cơ sở của đạo
đức, mới là cơ sở của đức hạnh. Ai tuân theo cái thiện phổ biến thì người đó mới có đạo
đức. Và muốn theo cái thiện phổ biến thì phải hiểu được nó, muốn hiểu được nó phải
thông qua các cuộc tranh luận, tọa đàm, luận chiến tìm ra chân lý theo cách thức mà về
sau được gọi là “phương pháp Socrates”. Trở nên thấp kém hơn bản thân mìnhkhông
phải là cái gì khác hơn ngoài sự ngu dốt, trở nên cao cả hơn bản thân mình không phải
cái gì khác ngoài sự thông thái”.

18


Phương pháp triết học của ông gồm bốn bước : Một là “mỉa mai”, tức là nêu ra
những câu hỏi mẹo, mang tính châm biếm, mỉa mai nhằm làm cho đối phương sa vào
mâu thuẫn. Hai là “đỡ đẻ tinh thần”, giúp cho đối phương thấy được con đường để tự
mình khám phá ra chân lý. Ba là “qui nạp”, tức là xuất phát từ cái riêng lẻ khái quát thành
những cái phổ biến, từ những hành vi đạo đức riêng lẻ tìm ra cái thiện phổ biến của mọi
hành vi đạo đức. Và phương pháp cuối cùng là “định nghĩa”, là chỉ ra hành vi thế nào đạo
đức, quan hệ thế nào là đúng mực. Phương pháp này đối với ông chỉ có những người có
tri thức như giai cấp quý tộc và các triết gia mới là những người có đạo đức. Bốn bước
này quan hệ chặt chẽ với nhau trên bước đường tìm kiếm tri thức chân thật, bản chất giúp
con người sống đúng với tư cách và phận sự, của nó trong đời sống xã hội.

Sự đóng góp của ông thay đổi từ nguyên lý vũ trụ sang nguyên lý nhân minh đã làm
nên một bước chuyển mới trong nền triết học. Cho nên, triết học Hy Lạp mới lấy ông làm
tiêu chí để phân kỳ, nó là thẩm định những giá trị của tư tưởng Socrates đối với sự phát
triển trong lịch sử.
Ông là một trong những nhà tư tưởng nổi tiếng thời cổ đại, ông không để lại cho đời
một tác phẩm nào, vì ông chỉ thường xuyên đàm luận mà không viết. Ngày nay chúng ta
sở dĩ biết được được về socrates là do các học trò của ông và những tư tưởng khác .
Năm 399 trước Công nguyên ông bị kết án tử hình vì tội hoạt động chống chế độ
dân chủ, chủ trương thay tôn giáo đương thời bằng một tôn giáo mới làm giảm hiệu lực
của nước nha, là hư hỏng thanh niên. Ông đã từ chối việc cứu ông ra nước ngoài và đã
uống thuốc độc tự tử trong tù.
2.3. Tư Tưởng Triết Học Của Socrate
Socrates khác với các nhà triết học khác, ông không hướng về nghiên cứu tự nhiên.
Ông dành phần lớn công sức nghiên cứu triết học về nhân bản, về con người và về Đạo
Đức, ông đã nói với các học trò rằng không nên đặt vấn đề nghiên cứu tự nhiên, vì giới tự
nhiên đã được thần thánh an bài cả rồi, nếu cố công phá khám phá giới tự nhiên là xúc
phạm đến thần thánh, thần thánh ở khắp mọi nơi, có sức mạnh kỳ diệu, sáng tạo ra thế
giới, có thể nhìn thấy tất cả, nhưng không thích con người phát hiện ra mình.
Do vậy socrates cho rằng triết học không có gì khác hơn là sự nhận thức của con
người về chính bản thân mình “ con người hãy nhận thức chính mình”, từ đây con người
trở thành một trong những chủ đề trọng tâm nghiên cứu về triết học. Socrates tìm cách
khám phá ra các chân lý chung cho con người trong các cuộc đàm thoại, theo ông để có
cuộc đàm thoại được, những người tham gia cuộc đàm thoại phải có “ngôn ngữ chung”
19


nhất định, ngôn ngữ đó mang tính khách quan, nhờ đó con người mới khám phá ra chân
lý một cách đích thực mà ai cũng phải thừa nhận. Theo ông ý thức của con người trong
cuộc đàm thoại, ngoài yếu tố chủ quan, còn có một nội dung khách quan, có tri thức phổ
biến mang tính tổng quát. Đó là những tri thức chung mà mỗi con người chúng ta có

được bằng nỗ lực của mình. Socrates cho rằng tri thức chung đó là chân lý khách
quan thu được trong các cuộc đàm thoại mà ai cũng phải thừa nhận. Nên ý kiến chủ quan
của mỗi người không phải là tiêu chuẩn của chân lý. Theo ông khám phá ra chân lý đích
thực về bản chất sự vật tức là phải hiểu nó có khái niệm. Nếu không có khái niem xem
như không có tri thức. Một vấn đề được lý luận rõ ràng, có lô gíc dễ thuyết phục.
2.4. Nhận Thức Luận Của Socrate.
Nhận thức luận của ông chủ yếu là thể hiện qua đạo đức của con người. Đạo đức
học của ông mang tính chất duy lý, ông thừa nhận Đạo Đức và Tri Thức thống nhất là
một “ Mỗi điều thiện đó là tri thức và mỗi điều ác đó là sự dốt nát”, mỗi hành vi vô đạo
đức đều là kết quả của sự dốt nát của chúng ta. Ông cho rằng cai thiện phổ biến là cơ sở
của đạo đức, là tiêu chuẩn của đức hạnh, muốn tuân thủ theo cái thiện thì phải nắm bắt
được nó, hiểu nó, để phát hiện được cái phổ biến, phải có phương pháp tìm ra chân lý
thông qua các cuộc tranh luận. Theo socrates có 4 phương pháp:[8]
Một là “mĩa mai” đây là một thủ pháp phản biện rằng cách nêu lên những câu hỏi
sao cho người đối thoại tự thấy mâu thuẩn với ý kiến của mình, từ đó mới thừa nhận sai
lầm trong ý kiến đưa ra, thấy được sự thiếu xót ngu dốt của mình.
Hai là “ đỡ đẻ “ đây là thủ pháp đi liền với thủ pháp thứ nhất, và được thực hiện sau
khi tiến hành thủ pháp “ mỉa mai”, bởi vì sau khi làm cho đối phương tranh luận thấy
được cái sai của mình thì cần phải giúp đỡ họ tìm ra lối thoát bằng cách đạt tới tri thức
đúng trừ bỏ quan điểm sai.
Ba là “ quy nạp” mục đích của yếu tố này là từ những cái riêng lẻ khái quát lên
thành cái chung, có ý nghĩa phổ biến, nghĩa là từ những hành vi đạo đức cụ thể, riêng lẻ
phải phân tích, so sánh để tìm ra cái thiện phổ biến của mọi hành vi đạo đức.
Bốn là “xác định “, chủ yếu chỉ ra những hành vi Đạo Đức thuộc loại nào, chúng có
phụ thuộc và quan hệ với nhau như thế nào.
Socrates đưa nhieu ví dụ để chứng minh: nếu không hiểu được cái chung cái phổ
biến, thì người ta không thể nào phân biệt cái chính nghĩa và cái phi nghĩa, cái thiện và
cái ác, cái tốt và cái xấu ….

20



2.5. Quan Niệm “ Hãy Tự Biết Người” của socrate
Trong đền thờ thần Apollon ở Delphes đã có câu chăm ngôn; “Ngươi tự biết ngươi”.
Socrates đã lấy câu châm ngôn ấy mà triển khai sâu rộng về mọi mặt, mọi hoạt động
trong cuộc đời của socrates, đối với bản thân, cũng như đối với người khác chỉ có một
điều duy nhất, nhìn và dẫn cho người ta thấy, làm cho người ta thấy chính bản thân của
mỗi người. Hướng về cái nhìn chính ta, nhìn về con người của ta. Mỗi người hãy lam như
thế. Tại sao thế gian loài người điên đảo? Tại sao lòng người tràn đầy dục vọng? tại sao
giả dối, thù hiềm tràn lan ? ấy chỉ vì ta chú trọng đến những sự vật, sự kiện quanh ta,
trong môi trường ta sống mà quên mất con người của ta. Người ta quên mà không biết
rằng mình đang quên cái ta thật sự. Quan điểm này cũng tương quan với quan điểm đạo
Phật.
Sự quên lãng đó socrates cho rằng; người ta chỉ làm chỉ nghĩ theo bên ngoài, tức là
theo dư luận, thành kiến, tình cảm nhất thời, theo ham muốn, tiền tài giàu sang quyền lực
… người lười suy nghĩ không thật sự suy nghĩ, người chỉ châm chú những thứ bên ngoài
bản than, chỉ nhìn thoáng qua chính bản thân mình. Bởi vì theo thường tình người ta còn
cạnh tranh giết hại, giành giựt các thứ bên ngoài. Nếu con người nhìn trở về bản thân
mình, biết suy nghĩ sâu xa, suy nghĩ độc lập, không bị dục vọng tình cảm yêu ghét tác
động sẽ thấy được ánh sáng ngời chiếu bên trong con người mình. Anh sáng Socrates nói
đây là ánh sáng chí thiện, là cái Lý Trí Trong Sáng là Tình Yêu Thương. Anh sáng bên
trong con người là ánh sáng nội tại, tạo hóa sinh ra, ai cũng có ánh sáng nội tại vẫn hằng
hữu trong con người, nhưng người ta bị những thứ phù phiếm bên ngoài thu hút, lao tâm
khổ trí để chạy theo cái xung quanh.
Nếu ngày nào, con người còn bỏ quên ánh sáng nội tại, mà chỉ lo cái bên ngoài, thì
người ta chưa đích thực sống với chính. Socrates đã nói rằng; “Anh sáng nội tại trong con
người ví như ánh sáng mặt trời, có thể toả khắp nơi. Không một thứ nào bên ngoài con
người như tiền tài danh vọng, nhà cao cửa rộng lại tỏa rạng hơn nó.” Chính vì những
quan điểm đó mà Socrates đã trọn đời đi lang thang truyền dạy, và cũng chính vì nó mà
socrates sẵn lòng hy sinh mạng sống của mình.

Socrates cho rằng con người bỏ đi ánh sáng tâm linh thì sẽ như thế nào?
Hầu hết thế nhân chỉ là con rối giữa cuộc đời mà không còn là con người đích thực
của họ. Người ta nói mà không biết những gì mình đang nói, làm mà không biết rõ việc
mình làm, tất cả là trống rỗng và dối gạt. Một con người không tự chủ, một con rối giữa
đời. Họ không phải là con người độc lập mà phải gọi họ đích thực là nô lệ. Dù cho giàu
21


có đến mấy cũng là một người nô lệ. Nô lệ của dục vọng, của ham muốn….và họ không
còn tự mình định đoạt công việc và số phận của mình.
Tạo hóa ban cho mỗi người cái tâm yêu sự lành thiện, không cầu mong gì cả trong
lúc làm lành, đấy là Chí Thiện. Ban cho con người lý trí thẳng ngay để phân biệt điều tốt
điều xấu, đấy là lý trí trong sáng. Phú sinh cho mỗi người lòng yêu thương, đấy là tình
yêu thương. Ba điều trên là ánh sáng nội tại, ai cũng có. Người sống trên đời tốt đẹp và
hoàn thiện là do ánh sáng ấy mà nên. Xã hội loài người hòa bình, thịnh vượng ấm no
cũng là nhờ những người dân trong xã hội trở về với ánh sáng tâm linh ấy. Nó là căn bản
của những người đích thực là một con người, nó là những điều kiện cho một thế giới thái
bình mà chúng ta mơ ước.
Anh Sáng Nội Tại chính là luân lý Đạo Đức và tinh thần sáng suốt. Cho nên
socrates kêu gọi con người trở về sống với nội tại, tức là trở về Đạo Đức, luân lý. Xã
hội Thái Bình theo Socrates cũng là một xã hội Đạo Đức luân lý ngự trị điều hành.
Socrates nói rằng con người trở về sống áng sáng tâm linh nội tại sẽ như thế nào?
Đó là một người tự biết về mình, một người đạo đức, nhân cách thanh cao, nói
những lời đúng đắn. Người ta biết rõ rằng đạo đức thì chân thật bền lâu, hòa bình an ninh,
đem lại hạnh phúc, còn những thứ vật chất phù hoa chỉ là tạm bợ, nay còn mai mất, nó
nguyên nhân dẫn đến tội ác, đem đến khổ đau. Nếu có lý trí trong sáng trở về mình, tự
hiểu mình sống có đạo đức thì xã hội ngày càng tốt đẹp. Đó là kết quả của suy nghĩ, tư
duy. Với lý trí trong sáng đưa ta tới tư tưởng thích nghi, hoà hợp với chí thiện, đây là luận
đề hoà hợp trong triết lý của Socrates.
Lý trí trong sáng loại bỏ lý trí rối rắm;

Những tư tưởng ích kỷ, hại người, những ý nghĩ ám muội, những âm mưu gian xảo,
không thuộc lý trí trong sáng. Đó là phần lý trí rối rắm của những tâm hồn tà gian ác độc,
rời bỏ chí thiện và tình yêu thương. Trong xã hội đời thường của Hy Lạp trên 2500 năm
trước - thời Socrates, và thực tại thế giới ngày nay ta thấy đại đa số người ta lười tư duy
sáng tạo. Con người hay suy nghĩ theo lý trí rối rắm, những khiếm khuyết tệ hại đó làm
cho thế giới loạn lạc, loài người suy đồi. Do vậy muốn bỏ đi lý trí rối rắm đó để xây dựng
một con người đích thực thì phải qua ba việc:
a-Tự Mình Thanh Tẩy Mình
Khi Socrates đặt câu hỏi với người đối thoại, ông luôn khơi gợi cho con người ấy
trở về quán xét mình. Người ấy thấy mọi điểm tựa, mọi điều ham thích mà họ lao tâm tìm
22


kiếm… đều hoàn toàn sụp đổ, khiến người ta sững sờ. Bây giờ người ấy đột nhiên đứng
trước một con người mới cũng lại là chính họ. Do họ mới khám phá ra điều này vô cùng
lợi ích xây dựng con người tự do, đích thực là chính mình. Tình trang ấy là tự thanh tẩy
mình, có thể nói như Hòa thượng Thanh Từ là sự “Giải ngộ”.
b- Sự Tự Định Đoạt Độc Lập Tự Chủ
Sau khi con người tự Thanh Tẩy, thì con người có một tinh thần và trí thông minh
mới mẻ, nhờ nhìn và nhận định sự việc không hoặc ít sai lầm, nhận thức sáng suốt hơn.
Bởi thế trí thông minh loại bỏ cả những thành kiến, định kiến trở thành vô tư hơn. Nhờ có
tinh thần sáng suốt nên con người tự định đoạt việc làm của mình một cách độc lập và tự
chủ, không hoặc ít lệ thuộc bởi tác nhân khác.
c-Sự Xây Dựng Con Người Chân Chính, Đích Thực
Con người tàn ác xấu xa, dù quyền lực lóe mắt thiên hạ, dù tiên bạc chất như núi
cũng luôn là kẻ khổ sở, vì là kẻ phạm tội trước ánh sáng tâm linh nội tại của chính mình.
Trái lại người sống hòa hợp với ánh sáng tâm linh với cái Chí Thiện và Tình Yêu
Thương, thì luôn luôn được thư thái, dù gặp những nghịch cảnh của cuộc đời cũng
không ảnh hưởng đến tâm hồn thư thái của họ. Nếu bị cư xử việc bất công, người đạo
đức vẫn sẵn sàng gánh chịu. Cũng như Socrates cam chịu án tử hình dù án ấy bất

công. Một việc làm bị người khác hay một xã hội hiểu lầm …. Tất cả những trường hợp
như thế, người đạo đức vẫn xem là những cơ hội để họ có hành vi cao cả, xây đắp thêm
hình tượng con người chân chính.
Bởi thế socrates nói; “ Đức hạnh không có lúc chấm dứt, nó luôn luôn tạo tác
nên”. Nên trước lúc chết ông nói với Criton: “Các con chỉ chôn cái thể phách của thầy
thôi”.
3-Sự Tương Quan Triết Lý của Socrate với Quan Điểm Phật Giáo
3.1-Hãy Tự Biết Người
Qua triết lý “hãy tự biết ngươi” của Socrate cho chúng ta thấy rằng tư tưởng của
Socrate đã tương quan rất nhiều với tư tưởng của Phật Giáo [11], điển hình với những câu:
“Trong môi trường ta sống mà quên mất con người của ta. người ta quên mà không biết
rằng mình quên cái ta thật sự.” hay “Anh sáng nội tại trong con người ví như ánh sáng
mặt trời, có thể toả khắp nơi. Không một thứ nào bên ngoài con người như tiền tài danh
vọng, nhà cao cửa rộng lại tỏa rạng hơn nó”v.v…
Như vậy với những ý tưởng này thì trong Phật Giáo chúng ta cũng thường bắt gặp
qua những lời dạy của Đức Phật qua các kinh sách; “Mọi việc làm hành động ta cần phải
23


×