MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................................2
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ BẢN THỂ
LUẬN................................................................................................................................4
1.1 Triết học.................................................................................................4
1.1.1. Khái niệm triết học.........................................................................4
1.1.2. Tính quy luật về sự hình thành và phát triển của triết học.............5
1.2. Vấn đề bản thể luận trong lịch sử triết học...........................................6
1.2.1. Quan niệm về Bản thể luận trong lịch sử triết học phương Tây....6
1.2.2. Quan niệm về bản thể luận trong triết học phương Đông..............8
CHƯƠNG II: VẤN ĐỀ BẢN THỂ LUẬN TRONG...........................................10
TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI...................................................................10
2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội của Trung Quốc cổ đại..............................10
2.2. Đặc điểm của triết học Trung Quốc cổ đại.........................................11
2.3. Vấn đề bản thể luận trong triết học Trung Quốc cổ đại......................13
2.3.1. Trường phái triết học của phái đạo gia........................................14
2.3.2. Học thuyết Âm dương - Ngũ hành.............................................18
2.3.3. Quan điểm của Nho Gia.............................................................19
KẾT LUẬN....................................................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................24
1
MỞ ĐẦU
Triết học ra đời khoảng thế từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Công
nguyên. Theo tiếng Hy Lạp cổ, triết học được ghép bởi 2 từ “philos - tình yêu”
và “sophia - sự thông thái”. Theo nghĩa đen, triết học là tình yêu đối với sự
thông thái. Người Trung Quốc hiểu triết học là sự hiểu biết sâu sắc. Người Ấn
Độ hiểu triết học (Dar’sana) là con đường suy ngẫm để đưa con người đến lẽ
phải. Ngày nay triết học được hiểu là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của
con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.
Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, phương pháp luận. Trước
khi có sự ra đời của triết học Mác – Lênin triết học còn được coi là khoa học của
các khoa học, ở khía cạnh nào đó điều này cũng hợp lý ở chỗ khoa học nào cũng
cần trí thức triết học với tư cách là phương pháp luận hướng dẫn nó phát triển.
Tổng kết toàn bộ lịch sử triết học đặc biệt là triết học cổ điển Đức, Ph.Ăngghen
đã khái quát: “Vấn đề cơ bản lớn nhất của mọi triết học, đặc biệt của triết học
hiện đại, là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại” giữa ý thức và vật chất, giữa tinh
thần và giới tự nhiên. Đó là những lý luận về nguồn gốc, về sự tồn tại, hay
những quan niệm về nguồn gốc của thế giới hay còn gọi là bản thể luận.
Trong lịch sử triết học trước Mác các nhà triết học đã bàn rất nhiều về
nguồn gốc của thế giới, đó là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm, giữa vật chất và ý thức, sự vận động và phát triển của thế giới.
Và tất cả những nghiên cứu lập luận về bản thể luận trong lịch sử triết học đều là
cơ sở, là nền tảng lí luận cho sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép
biện chứng duy vật lịch sử Mac.
Trong lịch sử triết học, triết học phương Đông trong đó nổi bật có triết
học Trung Quốc các triết gia rất quan tâm nghiên cứu vấn đề bản thể luận.
Những quan niệm về bản thể luận có thể rất khác nhau, nhưng tựu trung lại theo
cách này hay cách khác, ở trình độ lý luận hay chỉ là những quan niệm rời rạc thì
đều nhằm tới việc lý giải cho sự tồn tại hiện thực trên lát cắt cội nguồn, khởi
nguyên của nó. Đây chính là hạt nhân cho việc hình thành thế giới quan đúng
đắn của triết học Mác, để hiểu rõ hơn về lịch sử nghiên cứu về bản thể luận tôi
2
chọn chuyên đề “Vấn đề bản thể luận trong Triết học Trung Quốc cổ đại” là
nội dung cho bài tiểu luận môn triết học của mình.
Trong quá trình nghiên cứu, thu thập tài liệu làm tiểu luận sẽ không thể
tránh khỏi sai sót rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô để bài viết của
tôi hoàn thiện hơn.
3
NỘI DUNG
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ BẢN THỂ LUẬN
1.1 Triết học
1.1.1. Khái niệm triết học
Triết học ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ VI trước Công
nguyên với các thành tựu rực rõ trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ
đại.
Từ khi ra đời đến nay, trải qua nhiều giai đoạn phát triển, các khái niệm
Triết học được đưa ra rất phong phú và đa dạng. Thời kỳ cổ đại, ba trung tâm
triết học lớn của nhân loại là Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại đều đưa ra
khái niệm triết học của riêng mình:
- Theo người Trung Quốc cổ đại, triết học là sự truy tìm bản chất của đối
tượng, là sự hiểu biết sâu sắc của con người, đi đến đạo lý của sự vật.
- Theo người Ấn Độ cổ đại, triết học là darshana, là sự chiêm ngưỡng dựa
trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải.
- Theo người Hy Lạp cổ đại, triết học là ph ilosophia, có nghĩa là yêu
thích sự thông thái. Nhà triết học được coi là nhà thông thái, có khả năng nhận
thức được chân lý, làm sáng tỏ được bản chất của sự vật.
Có thể thấy rằng, ngay khi mới ra đời, dù ở Phương Đông hay Phương
Tây, Triết học đều được coi là đỉnh cao của trí tuệ, là sự nhận thức sâu sắc về thế
giới, đi sâu nắm bắt được chân lý, quy luật và bản chất của sự vật.
Thời kỳ cận đại, có quan niệm cho rằng “Triết học là khoa học của mọi
khoa học”. Nguyên nhân sâu sa dẫn đến quan niệm này là do tại thời đ iểm đó,
tri thức của con người còn ít ỏi, chưa có sự phân chia giữa triết học với các môn
khoa học khác. Thêm vào đó, đối tượng nghiên cứu của Triết học thời điểm đó
rất phong phú và đa dạng, bao trùm lên mọi lĩnh vực của cuộc sống. Ở Trung
Hoa, triết học gắn liền với những vấn đề chính trị - xã hội; Ở Ấn Độ, triết học
gắn liền với tôn g iáo; ở Hy Lạp, triết học gắn với khoa học tự nhiên và được gọi
là triết học tự nhiên. Quan niệm “Triết học là khoa học của mọi khoa học” thể
4
hiện độ sâu sắc trong phản ánh thế giới của Triết học là cao hơn. Song quan
điểm này không chính xác vì mỗi một môn khoa học sẽ có một vị trí và vai trò
của riêng mình, việc quan niệm như vậy sẽ không cho th ấy đúng vai trò và vị trí
của Triết học như một môn khoa học song song với các môn khoa học khác, từ
đó làm giảm giá trị của Triết học với tư cách là một môn khoa học. Mặt khác,
việc quan điểm như vậy còn dễ dẫn đến những quan điểm sai lầm như chỉ cần
học triết học là đủ hoặc chỉ cần học những môn khoa học khác, không cần học
triết học.
Thời kỳ hiện đại, vào những năm 40 của thế ký XIX, Triết học Mác đã ra
đời. Triết học Mác đã đoạn tuyệt với quan niệm “Triết học là khoa học của mọi
khoa học” và đưa ra một khái niệm Triết học rất cụ thể và rõ ràng: “Triết học là
một hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về bản thân
con người và vị trí của con người trong thế giới đó”. Đối tượng nghiên cứu của
Triết học được xác định cụ thể là:
+ Tiếp tục giải quyết về vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên
lập trường duy vật
+ Nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy,
từ đó định hướng cho hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn của con người
nhằm cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội theo con đường tiến bộ.
Có thể nói, vì là hệ thống tri thức lý luận chung nhất nên Triết học là tri
thức “nghèo nàn” nhất và cần phải gắn với thực tế cuộc sống để làm nó trở nên
phong phú hơn. Chúng ta hoàn toàn có thể tìm thấy sự biểu hiện của Triết học
trong bất cứ lĩnh vực nào của đời sống xã hội. Triết học như một chiếc la bàn
định hướng cho chúng ta bước đi và các môn khoa học khác là công cụ và
phương pháp để chúng ta biết cách bước đi. Chính vì vậy, học Triết học phải biết
gắn nó với thực tế cuộc sống, đồng thời b iết kết hợp nó với các môn khoa học
khác để đạt được kết quả tốt nhất.
1.1.2. Tính quy luật về sự hình thành và phát triển của triết học
Sự hình thành và phát triển của Triết học có tính quy luật của nó.
5
Sự ra đời của Triết học vào thời kỳ cổ đại, khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế
kỷ thứ VI trước Công nguyên cần có những điều kiện ban đầu, đó là:
- Phải có được lượng thông tin, tri thức vừa đủ
- Con người phải có khả năng phân tích, tổng hợp thông tin
- Con người phải có thời gian suy nghĩ, sáng tạo (khi lao động trí óc tách
ra khỏi lao động chân tay. Điều này chỉ xảy ra khi xã hội đã chuyển từ chế độ
công xã nguyên thủy sang chế độ chiếm hữu nô lệ)
Sự phát triển của của Triết học qua các thời kỳ cũng phụ thuộc vào hai
điều kiện, đó là:
- Điều kiện về mặt nhận thức của con người
- Điều kiện về mặt kinh tế - xã hội
Có thể nói, sự hình thành và phát triển của Triết học qua các thời kỳ gắn liền với
các yếu tố:
- Điều kiện kinh tế - xã hội
- Cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội
- Các thành tựu khoa học tự nhiên, khoa học xã hội
- Sự thâm nhập và đấu tranh giữa các trường phái triết học.
- Sự thâm nhập, tác động qua lại lẫn nhau giữa tư tưởng triết học với
chính trị, tôn giáo và nghệ thuật
1.2. Vấn đề bản thể luận trong lịch sử triết học
1.2.1. Quan niệm về Bản thể luận trong lịch sử triết học phương Tây
Khái niệm “Bản thể luận”
Thuật ngữ bản thể luận có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp. Nó là sự kết hợp
giữa hai từ: on (): cái thực tồn, và logos (): lời lẽ, học thuyết.. tạo thành
“Học thuyết về tồn tại”. Theo nghĩa này bản thể luận được hiểu là học thuyết
triết học về thực tồn nói chung, hoàn toàn độc lập với các dạng tồn tại cụ thể của
nó, đến thế kỷ XVII thuật ngữ này mới chính thức xuất hiện và đưa ra những
cách hiểu đặc thù về nó với tư cách là quan niệm, luận thuyết về tồn tại.
6
Có nhiều quan điểm khác nhau về tồn tại. Pácmênít – nhà triết học Hy lạp
cổ đại, được coi là người đầu tiên đề cập đến khái niệm “tồn tại” khi đồng nhất
tư duy với tồn tại là một. Arixtốt thì coi các phạm trù chính là nội dung của tồn
tại. Xôcrát lại cho rằng tồn tại không phải là giới tự nhiên. Điểm xuất phát của
tồn tại chỉ có trong ý thức, tư duy. Đó là tồn tại- tự ý thức. Với Platôn, từ học
thuyết trọng tâm về ý niệm, ông cũng quy tồn tại là tổng thể những ý niệm về
thế giới. Sự tồn tại của các sự vật cảm tính chẳng qua chỉ là bản sao của ý niệm.
Chỉ có ý niệm mới là cái tồn tại đích thực...
Thời trung cổ, các nhà triết học theo quan điểm nhà thờ đã mưu toan lợi
dụng tư tưởng của Arixtốt về siêu hình học để xây dựng học thuyết về tồn tại
nhằm chứng minh về mặt triết học cho các chân lý của tôn giáo. Thời cận đại
người ta bắt đầu hiểu bản thể luận là một bộ phận đặc biệt của siêu hình học, là
học thuyết về cơ cấu siêu cảm giác, phi vật chất của tất cả những gì đang tồn tại.
Thuật ngữ “Bản thể luận” do nhà triết học Đức Hôclêniút (1613) đưa ra và được
tiếp tục trong triết học của Vônphơ. Lúc này học thuyết bản thể luận được tách
rời hoàn toàn khỏi các nội dung của khoa học cụ thể và được xây dựng bằng
cách phân tích trừu tượng các khái niệm như: tồn tại, khả năng và hiện thực,
lượng và chất, nguyên nhân và tác động... coi nó như là bộ môn triết học cao
nhất. Ngược lại, các nhà duy vật thời kỳ này như: Hôbơ; Xpinôda; Lốccơ (thế kỷ
XVIII) đã dựa trên các dữ kiện của khoa học thực nghiệm, với những nội dung
tích cực của các quan ðiểm này ðã chứng minh về mặt khách quan rằng bản thể
luận không thể là bộ môn triết học cao nhất, là “triết học đầu tiên”, tách rời khỏi
nhận thức luận và logic học.
Đến triết học cổ điển Đức, họ cho rằng bản thể luận là không có nội dung
và lặp lại; đồng thời học đòi hỏi tạo ra một bản thể luận (siêu hình học) mới,
hoàn thiện hơn, thay thế nó bằng triết học tiên nghiệm (Căng) hay bằng hệ thống
chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm (Selinh) hay bằng logic học (Hêghen).
Triết học phương Tây hiện đại thế kỷ XX, phản ứng trước việc phổ biến
những trào lưu duy tâm chủ quan (chủ nghĩa Căng mới; chủ nghĩa thực chứng)
có ý thức xây dựng một cách hiểu mới về Bản thể luận trên cơ sở duy tâm khách
7
quan như quan niệm về bản thể luận tiên nghiệm của Huxéclơ; bản thể luận phê
phán của Háctman; bản thể luận cơ bản của Heidegger; bản thể luận hiện tượng
học của Sartre.... Trong học thuyết bản thể luận mới, người ta hiểu bản thể luận
là một hệ thống những khái niệm phổ biến về tồn tại mà có thể hiểu được nhờ
một số trực giác siêu cảm tính và siêu lý tính.
1.2.2. Quan niệm về bản thể luận trong triết học phương Đông
Một trong những quan điểm tiêu biểu của người Trung quốc cổ đại về bản
thể luận là quan điểm về Đạo của Lão Tử. Theo Lão tử, “Đạo” là cái có trước
trời đất, trống không và lặng yên nhưng lại có ở mọi nơi, là nguồn gốc của vạn
vật. Nó là sự thống nhất của thế giới, là bản nguyên sâu kín, huyền diệu mà từ
đó vạn vật có danh tính, có hình thể được sinh ra. Đạo là thực thể vật chất của
khối “hỗn độn”, “mập mờ”, “thấp thoáng” không có đặc tính, không có hình thể,
nhìn không nhìn thấy, nghe không nghe thấy, bắt không bắt được, chẳng thể gọi
tên. Nó tồn tại bất luận con người nhận thức được hay không. Ở khía cạnh bản
thể luận, khái niệm “đạo” của Lão tử được đề cập ở ba khía cạnh là thể, tướng
và dụng. Những quan điểm này của Lão tử, nếu gạt bỏ những điểm hạn chế về
thế giới quan và lập trường duy tâm, đã phần nào tiêu biểu cho cho những quan
niệm biện chứng đầy tinh tế và bí hiểm của người phương đông. Quan điểm này
vừa thể hiện quan điểm trực quan nguyên sơ của người trung quốc cổ đại nhưng
lại hàm chứa trong đó những đoán định, cảm nhận sâu sắc về sự tồn tại và biến
hoá của vũ trụ, điều chỉ xuất hiện khi tư duy trừu tượng đạt tới trình độ cao. Học
thuyết Âm dương - Ngũ hành lại hướng đến việc lý giải sự tồn tại của thế giới
trong sự tương tác của các yếu tố tự nhiên trong thế giới mà thành. Các quan
điểm này hướng tới việc phân tích sự tác động của các yếu tố cơ bản có trong tự
nhiên tạo thành sự vật (học thuyết ngũ hành) hay là sự liên hệ, tương tác giữa
hai mặt đối lập, hai thế lực vật chất cơ bản để tạo nên vũ trụ (học thuyết âm
dương).
Nho giáo, với nội dung chủ yếu thiên về giải quyết các vấn đề chính trịxã hội và con người nên đưa ra những quan niệm khác khi lý giải về bản nguyên
của tồn tại. Theo Mạnh Tử cái nội tâm chủ quan bên trong là bản thể tự tại,
8
thuộc về tiên nghiệm, vượt ra khỏi phạm trù không gian, thời gian, vật chất, vận
động. Đạt đến đó là con người có thể thông quan với trời đất, hoá sinh ra vạn
vật. Tâm là cái chủ thể trong mỗi con người, là cái thần linh có đủ mọi lý mà trời
phú cho con người để hiểu biết, ứng đối với vạn vật, vạn sự. Tâm có quan hệ
với Tính. Tính là cái lý hoàn toàn của tâm. Đem cái tâm tính ấy mà ứng xử với
vạn vật bên ngoài là tình. Chỉ có cái tâm đó thì mới biết được tính của ta và của
vạn vật..v.v..
Các nhà triết học ở Ấn độ cổ đại ban đầu lại quan niệm bản thể của thế
giới chính là các vị thần có tính chất tự nhiên. Họ tin tưởng, gửi gắm tâm hồn,
cuộc sống tự nhiên của mình vào thế giới các vị thần ấy. Về sau, quan niệm tự
nhiên về các vị thần dần dần mờ nhạt, thay vào đó “là những nguyên lý trừu
tượng duy nhất tối cao được coi là nguồn gốc vũ trụ và đời sống con người. Đó
là “thần sáng tạo tối cao” Brahman và một tinh thần tối cao Brahman”. Bước
chuyển về mặt nhận thức này của người Ấn độ cổ thể hiện bước chuyển từ thế
giới quan thần thoại (với việc giải thích tính muôn vẻ, cụ thể của thế giới qua
biểu tượng các vị thần có tính chất tự nhiên) đến thế giới quan triết học (bằng
việc dần phát hiện ra cái chung, cái bản chất như là bản nguyên tối cao của thế
giới).
9
CHƯƠNG II:
VẤN ĐỀ BẢN THỂ LUẬN TRONG TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội của Trung Quốc cổ đại
Trung Quốc thời cổ đại chính là thời kỳ lịch sử từ thế kỷ thứ VIII đến thế
kỷ thứ II Tr. CN mà theo cách phân kỳ lịch sử truyền thống gọi là thời Xuân thu
( 770 – 481 Tr. CN) và Chiến quốc (480 – 221 Tr. CN); cũng còn gọi là thời
“Chu mạt”; về lịch sử văn hoá và tư tưởng, cũng còn được gọi là thời “Tiên
Tần”. Từ giai đoạn sau nhà Tần trở đi, trải qua lịch sử trên hai nghìn năm với
các triều đại lớn: Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, và Thanh lag giai đoạn lịch
sử phong kiến Trung Hoa; cũng còn gọi là giai đoạn trung đại của lịch sử tư
tưởng Trung Quốc.
Trung Quốc cổ đại là thời kỳ tan rã suy tàn của một mô hình kinh tế – xã
hội cũ theo truyền thống thị tộc. Đó là mô hình kinh tế “Tỉnh điền” của nhà Chu.
Sự tan rã này có nguyên nhân sâu xa từ sự phát triển của Lực lượng sản xuất. Đó
là việc sử dụng công cụ bằng sắt và dùng bò kéo xe ( một phát minh kỹ thuật
nông cụ và sực kéo trong sản xuất nông nghiệp). Điều này đã toạ điều kiện thuận
lợi cho việc khai khẩn đất hoang và dẫn thuỷ nhập điền trong công việc thuỷ lợi.
Hàng loạt những nghề mới ra đời và phát triển nhanh chóng như luyện kim, đúc,
rèn, kim loại, mộc, xây cất, thuộc da, nhuộm, gốm. Sự phát triển của các nghề
này không hoàn toàn phụ thuộc vào quyền sở hữu ruộng đất của nhà nước.
Nhưng sự phát triển đó tất yếu dẫn tới sự hình thành sở hữu tư nhân. Đồng thời
sự suy yếu của thế lực chính trị nhà Chu đã khiến cho các thế lực địa phương
thực hiện chiếm của công làm của tư. Điều đó càng thúc đẩy nhanh chóng sự ra
đời của sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất ở thời cổ đại Trung Quốc.
Lực lượng kinh tế tư hữu ra đời là một thế lực đối chọi với chế độ sở hữu
đất đai nhà Chu. Tương ứng với cơ sở kinh tế mới đó là những lực lượng chính
trị mới, đó là thế lực địa chủ ở các địa phương.
Xu hướng chính trị của các thế lực mới này là thâu tóm quyền lực, tập
trung uy quyền và mở rộng sự thống trị lật đổ triều đại nhà Chu. Hệ quả xã hội
10
của xu hướng này thật tàn khốc. Những cuộc nội chiến kéo dài diễn ra . Thời
Xuân thu có 438 cuộc chiến phạt lẫn nhau giữa các thế lực chính trị, đó là “ ngũ
bá đồ vương” sang thời Chiến quốc có “thất bá tranh hùng”.
Những cuộc chiến tranh như vậy đã làm đảo lộn các thiết chế, nghi lễ
truyền thống nhà Chu; làm cho xã hội ở tình trạng loạn lạc, phá hoại sức sản
xuất ghê ghớm. Đương thời, Khổng Tử đã than rằng: Vua không ra đạo vua, bề
tôi không làm đúng đạo bề tôi, cha chẳng ra đạo cha, con chẳng làm đúng đạo
làm con. Còn Mạnh Tử thì nhận xét: “Đánh nhau tranh thành thì giết người thây
chất đầy thành; đánh nhau giành đất thì giết người thây chất đầy đồng.
Chính trong sự biến động sôi động ấy của xã hội, hàng loạt vấn đề về xã
hội, về triết học, đã được đặt ra buộc các nhà tư tưởng đương thời phải quan
tâm. Một loạt các trường phái triết học ra đời, mỗi trường phái đưa ra 1 kế sách
quản lý xã hội, tạo nên một không khí sôi động trong đời sống tinh thần của xã
hội Trung Hoa. Lịch sử gọi thời kỳ này là thời kỳ “ Bách gia Chư tử”. Chính
trong hoàn cảnh đó đã nảy sinh những nhà tư tưởng lớn, hình thành nên những
hệ thống triết học khá hoàn chỉnh.
2.2. Đặc điểm của triết học Trung Quốc cổ đại
Đây là nền triết học đặc biệt quan tâm đến các vấn đề chính trị- đạo đức.
Bởi đây là thời kỳ đảo lộn của xã hội lúc bấy giờ nên triết học đã đã đặc biệt
quan tâm, suy tư, tìm cách lý giải và tìm ra những triết lý, những biện pháp
nhằm khác phục hiện tượng xã hội biến động trong lịch sử chính trị, cai trị của
các triều đại. Từ đó làm xuất hiện nhiều học thuyết chính trị, tư tưởng, đạo đức
khác nhau (bách gia chư tử, bách gia tranh minh) như Nho gia, Mặc gia và Pháp
gia. Ngay cả những học thuyết mà theo tôn chỉ mục đích của nó là xa rời chính
trị nhưng thực tế vẫn bàn về chính trị và đạo đức như phái Đạo gia của Lão Tử
và Trang Tử thời cổ đại. Học thuyết Âm dương – Ngũ hành vốn là học thuyết
của chủ trương luận và những vấn đề nguyên lý biến đổi của trời đất, vạn vật
cũng được vận dụng để lý giải những vấn đề chính trị, đạo đức của xã hội, con
người.
11
Mặc dù phong phú, đa dạng nhưng nhìn chung các học thuyết triết học tập
trung vào các vấn đề: (1) làm thế nào để thống nhất đất nước; (2) làm thế nào để
ổn định xã hội và (3) các chuẩn mực đạo đức mà con người phải tuân thủ. Tuỳ
theo lập trường chính trị khác nhau và lợi ích giai cấp khác nhau mà có cách giải
đáp khác nhau về 1 vấn đề chính trị đạo đức. Do đó nó tạo nên tính vừa phong
phú và vừa sâu sắc của triết học Trung Hoa cổ đại. Chẳng hạn, vấn đề triết lý về
bản tính con người. Khổng Tử và Mạnh Tử theo xu hướng khẳng định bản tính
thiện của con người. Ngược lại, Tuân Tử và Hàn Phi Tử lại chủ trương biện luận
về bản tính bất thiện của con người; còn Lão Tử, Trang Tử lại đưa ra luận thuyết
về bản tính tự nhiên của con người. Với những quan niệm khác nhau về bản tính
người như thế lại là điểm xuất phát cho một tư duy triết lý về những phương
cách coi trọng giáo dục hay pháp trị trong đạo trị quốc của các học thuyết khác
nhau.
Về nội dung, triết học Trung Quốc lấy triết học nhân sinh làm hạt nhân.
Một loạt triết học về con người được đề cập sâu sắc.
- Quan niệm về bản chất con người, đường đời, số phận, quan hệ chính trị
rường mối, chuẩn mực đạo đức. => đạo làm người
- Để lại nhiều triết lý về đạo làm người, nhưng có hạn chế trong việc vượt
ra thế giới để chinh phục. Điều này cắt nghĩa cho khoa học kỹ thuật của Trung
Quốc không phát triển, không cổ vũ cho phát triển sản xuất.
- Để lại triết lý về học: nhân –nghĩa –trí –học, tu thân –trị gia –tề quốc
Học để làm người quân tử, nhưng người quân tử không biết sản xuất.
Về mặt hình thức, phương pháp tư duy
- Triết học Trung Quốc không có sự phân biệt rạch ròi giữa Chủ nghĩa duy
vật và Chủ nghĩa duy tâm, không có đấu tranh biện chứng giữa các học thuyết
triết học. Điều này tạo nên đặc điểm tính thiếu triệt để, tính thiếu nhất quán.
Chăng hạn, trong phái Nho gia, thế giới quan của Khổng Tử dao động, giữa Chủ
nghĩa duy vật và Chủ nghĩa duy tâm, giữa Chủ nghĩa vô thần và Chủ nghĩa hữu
thần. Một mặt ông xem trời (thiên) là giới tự nhiên, có sự vận hành của tự nhiên,
ông nói “Trời nói lên tất cả? Bốn mùa vận hành, trăm vật sinh ra”. Nhưng mặt
12
khác, ông lại cho rằng trời một lực lượng vô hình chi phối vận mệnh của xã hội
và con người, “sống chết có mệnh, giàu sang tại trời”. Ông chủ trương thờ
phụng quỷ thần, kính trọng quỷ thần, nhưng lại xa lánh quỉ thần “ quỉ thần thì
đáng kính, nhưng có chớ gần”.
- Triết học Trung Quốc lấy trực quan, thể nghiệm, lấy lĩnh hội làm
phương pháp. Nho gia chủ trương “phản tĩnh cầu nội”, Đạo gia chăm chút “tọa
vong”, Phật học cho phép “lốn ngộ”, Lý học đề xướng “trí lương tri”...
Phương thức tư duy giác ngộ bằng trực giác đặc biệt coi trọng tác dụng
của cái “tâm”, coi “tâm” là gốc rễ của nhận thức, “lấy tâm để bao quát vật”, rất ít
đi sâu quá trình tác động của “tâm”. Vì vậy, trong các tác phẩm triết học của họ
thường rời rạc, phần ám thị nhiều hơn, thiếu sự chứng minh chu đáo.
Các triết gia Trung Quốc cổ đại đi sâu phân tích nhấn mạnh tính chỉnh thể
hợp nhất của các khái niệm và phạm trù, không tìm hiểu sự khác biệt về bản chất
giữa chúng, chỉ nắm chỉnh thể ở cảm nhận. Như vậy, nếu dùng quan điểm chính
thể để năm sự vật thì phương thức tư duy trực giác “gặp sự vật là hiểu nội dung”
tỏ ra quan trọng, còn phương thức đi từ phân tích nội hàm và ngoại diên của
khái niệm đến suy luận logic lại thừa
2.3. Vấn đề bản thể luận trong triết học Trung Quốc cổ đại
Triết học ra đời từ rất sớm ở cả phương đông lẫn phương tây. Nếu ở
phương đông là chiếc nôi lớn của nền văn minh nhân loại, thì cùng với Ấn Độ,
Trung Quốc là một trong những trung tâm văn hoá rực rỡ, phong phú và cổ xưa
nhất của nền văn minh ấy. Trong đó tư tưởng triết học có một ý nghĩa quan trọng
của nền văn hoá cổ Trung Hoa. Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, sự
phát triển của những tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại gắn liền với sự thay
đổi, phát triển của nền sản xuất khoa học và tính chất sinh hoạt xã hội (từ khi
chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời, phát triển, suy vong đến khi xác lập quan hệ sản
xuất phong kiến ở Trung Hoa). Tính chất, đặc trưng và nội dung của nền triết
học đó, tất yếu phản ánh và bị chi phối những điều kiện lịch sử của xã hội ấy.
Triết học Trung Quốc cổ đại là một nền triết học phong phú với tính chất
và khuynh hướng đa dạng. Xuyên suốt quá trình khám phá và giải thích thế giới,
13
các trào lưu triết học và các triết gia Trung Quốc cổ đại đã vạch ra và nghiên cứu
hàng loạt vấn đề cơ bản của hiện thực. Có thể thấy rõ ràng rằng, nội dung xuyên
suốt trong các học thuyết triết học Trung Quốc cổ đại nổi bật lên đó là vấn đề
bản thể luận của Trung Quốc cổ đại. Điều này đựoc thể hiện rất rõ ràng trong
học thuyết của Lão Tử, Mạnh Tử và Học thuyết Âm dương ngũ hành
2.3.1. Trường phái triết học của phái đạo gia
Một trong những quan điểm tiêu biểu của người Trung quốc cổ đại về bản
thể luận là quan điểm về Đạo của Lão Tử. Lão Tử là nhà triết học lớn về “đạo”
của Trung Quốc cổ đại. Ông được xem là người sáng lập ra trường phái triết học
Đạo gia. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, Lão Tử họ Lý, tên Nhĩ, tự là Bá Dương, thụy
là Đam, còn gọi là Lão Đam. Người huyện Khổ, Hưng Lệ, làng Khúc Nhân,
nước Sở (thời Xuân Thu- Chiến Quốc). Ông làm quan sử, giữ kho sách, tàng trữ
thất sử nhà Chu, là tác giả của cuốn Đạo đức kinh gồm 81 chương, chia làm hai
thiên: thượng và hạ. Bằng lối diễn đạt đầy chất thơ, Lão Tử đã trình bày các vấn
đề: học thuyết về “đạo”, tư tưởng về phép biện chứng và học thuyết “vô vi”.
Theo Lão tử, “Đạo” là cái có trước trời đất, trống không và lặng yên
nhưng lại có ở mọi nơi, là nguồn gốc của vạn vật. Nó là sự thống nhất của thế
giới, là bản nguyên sâu kín, huyền diệu mà từ đó vạn vật có danh tính, có hình
thể được sinh ra. Đạo là thực thể vật chất của khối “hỗn độn”, “mập mờ”, “thấp
thoáng” không có đặc tính, không có hình thể, nhìn không nhìn thấy, nghe không
nghe thấy, bắt không bắt được, chẳng thể gọi tên. Nó tồn tại bất luận con người
nhận thức được hay không. Ở khía cạnh bản thể luận, khái niệm “đạo” của Lão
tử được đề cập ở ba khía cạnh là thể, tướng và dụng.
2.3.1.1. Thể
Thể của “đạo” là nguồn gốc tối sơ, nguyên thủy của vũ trụ vạn vật. Nó chi
phối sự sinh thành và biến hóa của trời đất. Lão Tử viết: “Có vật gì hỗn độn mà
nên, sinh ra trước trời đất, vừa trống không, vừa lặng yên, đứng một mình không
thay đổi, lưu hành khắp mọi nơi mà không mỏi, là mẹ của thiên hạ.” ( Đạo đức
kinh, chương 25) “Đạo” là cái gốc ban đầu của toàn vũ trụ, tuyệt đối vĩnh hằng ,
có trước trời đất. Nó chỉ là “một”, uyên nguyên, chứa đựng và viên đồng hết
14
thảy cái hữu và vô, cái tĩnh lặng và biến đổi, cái siêu hình và hữu hình. Ông viết:
“Trời được một mà trong. Đất được một mà yên. Thần được một mà linh.” Như
vậy, theo Lão Tử, đạo là cái vô cực và chứa đựng trong nó là thái cực. “Đạo sinh
một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật.” (Đạo đức kinh- chương 42)
Tính tự nhiên của “đạo” được Lão Tử đưa lên hàng đầu. Ông viết: “Nhân
pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp tự nhiên.”( Đạo đức kinh, chương 25). Tính
tự nhiên của “đạo” được hiểu nó vốn như thế, mộc mạc thuần phát, không bị
nhào nặn , gọt rũa bởi con người và nó hoàn toàn độc lập với ý muốn, nguyện
vọng của con người. Nó sinh ra vạn vật nhưng thản nhiên lạnh lùng “không vì
rét mướt mà bỏ mùa đông”. Đạo sinh ra vạn vật nhưng không cho vạn vật là của
mình. Chính vì vậy mà trời đất, vạn vật cứ sinh sinh hóa hóa thuận theo tự
nhiên, không can thiệp, chẳng có lòng nhân. “Luật thiên nhiên không có tình
thương của con người, cứ thản nhiên, vô tâm với vạn vật, mùa xuân tươi tốt,
mùa đông điêu tàn...”.
Đề cao tính thuần phát, tự nhiên của “đạo”, Lão Tử không thừa nhận sự
biến hóa của thế giới tuân theo mục đích định sẵn của thế lực siêu tự nhiên nào
đó. Ông cho rằng con người phải hành động theo quy luật tự nhiên, đứng trước
tự nhiên, con người không làm gì cả.
Thuộc tính thứ hai của “đạo” được Lão Tử nói đến nhiều trong Đạo đức
kinh là tính chất lặng yên và trống không. Ông viết: “ Hết sức trống rỗng cùng
cực. Giữ lặng dốc một lòng”. Lão Tử thường dùng từ “cốc thấn” để chỉ tính chất
trống rỗng của “đạo”. “Cốc thấn”chỉ khoảng cách trống không giữa lòng hang
sâu, không hình, không ảnh, không trái, không ngược , ở thấp không hèn không
động, giữ lặng yên không suy…”(Đạo đức kinh- chương 6). Sự trống rỗng này
vô cùng vô tận, chứa đựng vạn vật, muôn loài mà chẳng bao giờ đầy, biến hóa
khôn lường mà chẳng bao giờ kiệt. Cái lặng yên trống rỗng của “đạo” còn được
Lão Tử diễn đạt bằng từ “vi diệu”, “huyền thông”. Ông dùng chữ “huyền”với
nghĩa sâu kín, mầu nhiệm, không danh tính, không hình thể, không thể nói ra
bằng lời để chỉ đạo biến hóa. Ông viết : “Vô danh là đầu trời đất, hữu danh là mẹ
muôn vật…Cả hai cái đó cùng xuất phát một chỗ mà khác tên, cùng gọi là huyền
15
, huyền tới mức huyền nhất, đó là cái của của mọi thứ diệu kỳ- huyền chi hựu
huyền, chúng diệu chi môn.”(Đạo đức kinh- chương 1).
“Đạo” là cái đầu tiên, uyên nguyên, lại có trong tất cả vạn vật. Nó “ngỗn
ngang rối rít” nhưng “pha trộn vào ánh sáng” , “hòa chung vào bụi rậm”, lớn vô
cùng và nhỏ vô cùng, không ở đâu không có sự tồn tại của “đạo”. Với quan điểm
đó, mặt thể của “đạo” cũng chính là bản chất sâu kín, u huyền, mầu nhiệm của
vũ trụ, vạn vật.
2.3.1.2. Tướng
Về mặt tướng của đạo, Lão Tử cho rằng nó không có hình trạng, “không
nhìn thấy, không nghe thấy, nắm không được, đón không thấy đầu mà nghe
không thấy cuối, ở trên không sáng tỏ, ở dưới không mờ tối” (Đạo đức kinh,
chương 14) Nhưng nó không bao giờ mất, nó tồn tại khắp vũ trụ, sâu kín, mập
mờ, thấp thoáng, là một khối hỗn độn thống nhất, không phân chia sáng và tối,
hữu và vô. Vì thế không thể diễn tả nó bằng lời, không thể gọi nó bằng tên
thường, nếu gọi bằng tên thì sẽ có sự đối chọi, cân xứng như tốt xấu, thiện ác,
đầu cuối. Nên Lão Tử gọi nó là “đạo vô danh”. “Đạo” vô danh nhưng nó vẫn tồn
tại. Sự tồn tại của “đạo” được biểu hiện trong mỗi sự vật, hiện tựợng đang tồn
tại biến hóa vô cùng vô tận. Do đó, “đạo” vừa duy nhất, vừa thiên hình vạn
trạng, vừa bất biến, lại vừa biến hóa.
Theo Lão Tử, từ trời đất đến muôn vật và tất cả những gì có hình tượng,
màu sắc, âm thanh đều bắt đầu từ cái tự nhiên, sâu kín không danh tính, không
hình thể, vô cùng vô tận ấy. Vì thế, ông viết: “Mọi vật trong thiên hạ đều sinh ra
từ hữu, hữu sinh ra từ vô, và đạo vô danh như gỗ chưa đẽo, khi làm ra mới có
danh”(Đạo đức kinh, chương 40)
Ông thường lấy nước để diễn đạt trạng thái của “đạo” vì nước giống
“đạo”ở chổ không thể chất, không hình trạng. Nước không nơi nào là không tới.
Nó mềm mại song không gì mạnh bằng nó, không gì linh hoạt như nó. “ Trong
thiên hạ không có gì mềm yếu hơn nước mà công phá vật rắn mạnh thì không có
gì hơn được nó, không lấy gì thay thế được nó”. Nên Lão Tử chủ trương lấy
mềm thắng cứng, lấy nhu thắng cương. Nước còn giống đạo ở thế quân bình, dù
16
ở trong trạng thái nào, nước vẫn mau chóng tìm lại thế quân bình của mình, sang
lấp những chỗ lồi lõm…
2.3.1.3. Dụng
Dụng tất là công dụng, năng lực của “đạo”. “Đạo” là cái sáng tạo. Nó là
khởi nguồn của vũ trụ, vạn vật. Từ trong sự trống rỗng của “đạo”, khi vận động,
vạn vật sinh sôi nảy nở. Lão Tử viết: “ Cái khoảng không giữa trời đất, giống
như ống bể, tuy trống không mà vô tận, càng động lại càng ra hơi.” “Đạo” bao
trùm, che chở và nuôi dưỡng vạn vật nhưng nó thản nhiên (tự nhiên) như không
làm gì. Ông viết: “Đạo thường không làm nhưng không gì không làm.”(Đạo đức
kinh, chương 37). Như vậy năng lực của đạo là ở trạng thái “tĩnh” nhưng không
gì là không nhờ đến “đạo” để phát sinh, tồn tại.
Theo Lão Tử, “đạo” là bản thể của “đức”, “đức” là công dụng, năng lực
của “đạo” Ông viết: “Đạo sinh, đức chứa, làm cho vật lớn lên và nuôi dưỡng vạn
vật yên định”(Đạo đức kinh, chương 51).Và, “đạo” vốn không tên, đến “đức”
mới bắt đầu có tên, mới bắt đầu có sự phân biệt như sáng tối, giàu nghèo, lớn
nhỏ, sướng khổ(…), mới bắt đầu có khái niệm như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín(…).
Nên nói: “Mất đạo rồi mới có đức, mất đức rồi nhân sinh, mất nhân rồi nghĩa
sinh, mất nghĩa rồi lễ sinh ra vậy”(Đạo đức kinh, chương 38). Như vậy, nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín chỉ là cái vỏ bề ngoài của “đạo” và “đức” mà thôi. Cho nên Lão
Tử chủ trương bỏ những cái đó để quay về với “đạo” và “đức”, có nghĩa là quay
về với cội nguồn của vũ trụ vạn vật, với những tính chất tự nhiên, tĩnh lặng,
trống không. Khi đó con người mới có thể lĩnh ngộ được “đạo”.
Những quan điểm này của Lão tử, nếu gạt bỏ những điểm hạn chế về thế
giới quan và lập trường duy tâm, đã phần nào tiêu biểu cho cho những quan
niệm biện chứng đầy tinh tế và bí hiểm của người phương đông. Quan điểm này
vừa thể hiện quan điểm trực quan nguyên sơ của người trung quốc cổ đại nhưng
lại hàm chứa trong đó những đoán định, cảm nhận sâu sắc về sự tồn tại và biến
hoá của vũ trụ, điều chỉ xuất hiện khi tư duy trừu tượng đạt tới trình độ cao.
17
2.3.2. Học thuyết Âm dương - Ngũ hành
Học thuyết Âm dương - Ngũ hành lại hướng đến việc lý giải sự tồn tại của
thế giới trong sự tương tác của các yếu tố tự nhiên trong thế giới mà thành. Các
quan điểm này hướng tới việc phân tích sự tác động của các yếu tố cơ bản có
trong tự nhiên tạo thành sự vật (học thuyết ngũ hành) hay là sự liên hệ, tương tác
giữa hai mặt đối lập, hai thế lực vật chất cơ bản để tạo nên vũ trụ (học thuyết âm
dương). Việc sử dụng phạm trù âm dương ngũ hành đánh dấu bước phát triển
đầu tiên của tư duy khoa học phương Đông nhằm đưa con người thoát khỏi sự
khống chế về tư tưởng của các khái niệm thượng đế, quỷ thần truyền thống.
Chính vì thế, sự tìm hiểu học thuyết âm dương ngũ hành là một việc cần thiết để
lý giải những đặc trưng của triết học phương Đông.
Học thuyết Thái cực, Âm dương luận: Đây là quan niệm, học thuyết về sự
liên hệ, tác động qua lại giữa hai mặt đối lập, hai thế lực vật chất cơ bản của thế
giới là âm và dương, là bản thể làm nên sự tồn tại của thế giới. Theo đó, mọi sự
vật, hiện tượng của vũ trụ đều bắt nguồn từ bản thể tối cao - “khí” = “thái cực” =
nguyên thể đầu tiên, cội nguồn của thế giới. “Dương” là ánh sáng mặt trời hay
những gì thuộc về ánh sáng mặt trời, “Âm” có nghĩa là thiếu ánh sáng mặt trời
tức là bóng râm hay bóng tối. Về sau Âm Dương được coi như hai khí, hai
nguyên khí hay hai thế lực của thế lực vũ trụ. Sự tác động và chuyển hóa của âm
và dương trong thái cực tạo ra sự vận động, biến hóa không ngừng của vũ trụ
Những quy luật cơ bản của âm dương nói lên sự mâu thuẫn, thống nhất,
vận động và phát triển của một dạng vật chất, âm dương tương tác với nhau gây
nên mọi sự biến hóa của vũ trụ. Cốt lõi của sự tương tác đó là sự giao cảm âm
dương. Điều kiện của sự giao cảm đó là sự vật phải trung và "hòa" với nhau. Âm
dương giao hòa cảm ứng là vĩnh viễn, âm dương là hai mặt đối lập trong mọi sự
vật, hiện tượng. Vì vậy, quy luật âm dương cũng là quy luật phổ biến của sự vận
động và phát triển không ngừng của mọi sự vật khách quan.
Nếu như sự vận động không ngừng của vũ trụ đã hướng con người tới
những nhận thức sơ khai trong việc cắt nghĩa quá trình phát sinh của vũ trụ và
hình thành thuyết âm dương, thì ý tưởng tìm hiểu bàn thể thế giới, bản thể các
18
hiện tượng trong vũ trụ đã giúp cho họ hình thành thuyết ngũ hành. Thuyết ngũ
hành có thể hiểu đó là thuyết biểu thị quy luật vận động của thế giới của vũ trụ,
nó cụ thể hóa và bổ sung cho thuyết âm dương thêm hoàn bị. Học thuyết Ngũ
hành cho rằng: Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ là yếu tố vật chất đầu tiên (hay là năm
thứ khí cơ bản) tạo ra vạn vật trong vũ trụ. Các yếu tố này trong mối quan hệ
tương sinh, tương khắc là khởi nguồn sinh diệt của thế giới. Những tư tưởng này
thể hiện sự phát triển của nhận thức duy vật, biện chứng trong tư tưởng của
người phương Đông cổ đại.
2.3.3. Quan điểm của Nho Gia
Đến thời nhà Tống, quan niệm về bản thể luận của người Trung quốc lại
có những thay đổi. Học thuyết về Lý - Khí của Tống Nho, với các đại diện chủ
yếu là Trình Hạo, Trình Di, cho rằng “Lý” hay “thiên lý” là bản thể của thế giới
vạn vật. Lý không sinh, không diệt, tồn tại khắp nơi. Lý hay thiên lý vừa là
nguyên tắc tối cao của giới tự nhiên, vừa là của đời sống xã hội. Vì Lý không thể
cảm nhận được nên nó là hư không, nhưng sự hiện hình của nó trong các sự vật
cụ thể làm nên sự hiện hữu của nó. Tuy nhiên, nhằm bảo vệ và thể chế hoá ý
niệm đạo đức và nguyên tắc của xã hội phong kiến đương thời, các nhà tư tưởng
giai đoạn này đã rơi vào lập trường duy tâm khi khẳng định tính có trước, tuyệt
đối, vĩnh cửu, không thể thêm bớt, không thể nhìn thấy, nghe thấy… của Lý.
Quan điểm này càng trở nên cực đoan khi họ vận dụng nó vào trong đời sống xã
hội để khẳng định và duy trì vị thế của giai cấp phong kiến như một cái Lý đã
định sẵn. Với tư tưởng như vậy nên quan niệm về bản thể của họ đã trở thành
chỗ dựa tinh thần của giai cấp thống trị.
Phạm trù “Tâm”, “Lương tri - Lương năng” trong triết học Nho gia
Nho giáo ( 儒 儒 ), còn gọi là đạo Nho hay đạo Khổng là một hệ thống đạo
đức, triết học xã hội, triết lý giáo dục và triết học chính trị do Khổng Tử đề
xướng và được các môn đồ của ông phát triển với mục đích xây dựng một xã
hội thịnh trị. Nho giáo rất có ảnh hưởng tại ở các nướcchâu Á là Trung
Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc và Việt Nam. Những người
19
thực hành theo các tín điều của Nho giáo được gọi là các nhà Nho, Nho
sĩ hay Nho sinh.
Nho giáo, với nội dung chủ yếu thiên về giải quyết các vấn đề chính trịxã hội và con người nên đưa ra những quan niệm khác khi lý giải về bản nguyên
của tồn tại. Theo Mạnh Tử cái nội tâm chủ quan bên trong là bản thể tự tại,
thuộc về tiên nghiệm, vượt ra khỏi phạm trù không gian, thời gian, vật chất, vận
động. Đạt đến đó là con người có thể thông quan với trời đất, hoá sinh ra vạn
vật. Tâm là cái chủ thể trong mỗi con người, là cái thần linh có đủ mọi lý mà trời
phú cho con người để hiểu biết, ứng đối với vạn vật, vạn sự. Tâm có quan hệ
với Tính. Tính là cái lý hoàn toàn của tâm. Đem cái tâm tính ấy mà ứng xử với
vạn vật bên ngoài là tình. Chỉ có cái tâm đó thì mới biết được tính của ta và của
vạn vật..v.v..
Phạm trù “Tâm”, “Lương tri - Lương năng” trong triết học Nho gia.
Theo Mạnh Tử tâm là cái chủ thể trong mỗi con người, là cái thần linh có
đủ mọi lý và trời phú cho con người để hiểu biết, ứng đối với vạn vật, vạn sự.
Tâm có quan hệ với Tính. Tính là cái lý hoàn toàn của tâm. Đem cái tâm tính ấy
mà ứng xử với vạn vật bên ngoài là tình. Cho nên tâm của ta với tâm của trời đất
là một thể. Và khi tận tâm tính con người có thể biết được trời, hiểu rõ đạo lý,
tức là con người có thể trở thành thánh thiện bởi vì tâm vốn có “lương năng” và
“lương tri”, đó là cái biết, sinh ra đã biết, do trời phú cho (ý niệm bẩm sinh)...
Lương tri - lương năng (quan điểm của Vương Thủ Nhân 1472-1528): là
cơ sở để xây dựng luân lý đạo đức của xã hội phong kiến, nó là cái khả năng, cái
biết do tự nhiên mà có chứ không phải do giáo dục, học tập mà có ở con người,
là cái vĩnh viễn không thay đổi do vậy con người phải “phản tỉnh” để căn cứ
theo nó mà hành động, cư xử cho hợp lễ nghĩa.
Đây là những quan điểm duy tâm chủ quan về bản nguyên thế giới mà ở
đó con người đóng vai trò quyết định hay là có sự hợp nhất với trời.
Tóm lại, các nhà tư tưởng Trung Quốc thời cổ đại, với những tư tưởng
triết học phong phú và đa dạng đã đưa ra những quan điểm khác nhau về bản thể
luận, thể hiện cuộc đấu tranh của các quan điểm duy vật và duy tâm trong thời
20
kỳ này. Tuy nhiên, tựu chung lại, các tư tưởng của họ, thông qua cách giải thích
và lý giải về sự tồn tại của hiện thực, dù cách này hay cách khác đều hướng vào
việc bảo vệ và duy trì trật tự Phong kiến hiện hành.
21
KẾT LUẬN
Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm nhất
trên thế giới với hơn 4000 năm phát triển liên tục, với nhiều phát minh vĩ đại
trong lịch sử trên nhiều lĩnh vực khoa học. Có thể nói, văn minh Trung Hoa là
một trong những cái nôi của văn minh nhân loại. Bên cạnh những phát minh,
phát kiến về khoa học, văn minh Trung Hoa còn là nơi sản sinh ra nhiều học
thuyết triết học lớn có ảnh hưởng đến nền văn minh Châu Á cũng như toàn thế
giới. Những biểu hiện tôn giáo, triết học cũng như tư tưởng biện chứng đã xuất
hiện rất sớm, đặc biệt là từ thời kỳ Xuân Thu - Chiến quốc trở đi. Nguyên nhân
là do xã hội Trung Hoa thời bấy giờ là xã hội đánh dấu sự tan rã của chế độ
chiếm hữu nô lệ, hình thành các quan hệ xã hội phong kiến hết sức phức tạp.
Chính trong quá trình ấy đã sản sinh ra các tư tưởng lớn và hình thành nên các
trường phái triết học khá hoàn chỉnh. Đặc điểm của các trường phái này là lấy
con người và xã hội làm trung tâm của sự nghiên cứu, có xu hướng chung là giải
quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội, trong đó tiêu biểu là
những hệ thống tư tưởng có ảnh hưởng tới mãi về sau này trong lịch sử phong
kiến Trung Quốc như Nho gia, Đạo gia, Pháp gia, Thuyết Âm Dương – Ngũ
hành
Đó là những hệ thống tư tưởng quan trọng trong kho tàng kinh điển của triết
học Trung Quốc cổ đại. Những quan niệm bản thể luận của triết học Trung Quốc
cổ đại như một sự giảng giải đầy thuyết phục về cái bản nguyên đầu tiên của vạn
vật được nhận thức ra khi có tâm thanh tịnh và cách thức có thể trở về bản thể.
Đó dường như là cuộc hành trình đi từ chính mình để tìm ra chính mình và trở
về với chính mình. Mặc dù còn có những hạn chế nhất định, nhưng những quan
niệm về bản thể luận của triết học Trung Quốc cổ đại đã có những đóng góp
quan trọng trong sự phát triển của tư tưởng nhân loại trên con đường kiếm tìm
những tri thức chân lý đúng đắn để phục vụ cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp
hơn của con người cả trên phương diện vật chất và đời sống tâm linh.
Ngày nay, trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá, với những vấn đề xã hội
ngày càng phức tạp trong sự hưng thịnh của Trung Quốc và một số quốc gia
22
khác càng cần những nghiên cứu nhiều hơn, sâu sắc hơn, khách quan hơn về
những giá trị và hạn chế của các hệ tư tưởng triết học để có thể khai thác khía
cạnh tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của các quốc gia nói chung
và Trung Quốc nói riêng, góp phần cho sự ổn định và phát triển của đời sống xã
hội.
Đó cũng chính là con đường để nhân loại tìm ra chính mình trong sự tồn tại
hiện hữu một cách tích cực nhất.
23
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
TS. Bùi Thị Thanh Hương- Nguyễn Văn Đại, Giáo trình Khái lược lịch sử
2.
triết học, Nxb Chính trị- hành chính Hà Nội 2013
Giáo trình Triết học Mác Lênin - Đồng chủ biên: GS, TS. Nguyễn Ngọc
Long - GS, TS. Nguyễn Hữu Vui
3.
Nguyễn Tiến Dũng, Lịch sử Triết học phương tây, Nxb Tổng hợp TP. Hồ
Chí Minh.
4.
Đỗ Minh Hợp, sự hình thành bản thể luận văn hóa, web:
.
5.
C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6.
Bùi Thị Thanh Hương - Nguyễn Văn Đại, Khái lược lịch sử triết học, Khoa
Triết học - HV BC&TT.
24