1
MỞ ĐẦU
Trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, triết học cổ điển Đức là một giai
đoạn phát triển rất quan trọng, xuất hiện vào cuối thế kỷ XVIII và tồn tại cho
đến hết thế kỷ XIX, cùng với Phoiơbăc, Hêghen, thì Kant là một trong những
đại biểu tiêu biểu nhất. Những đóng góp quan trọng của Kant làm cho ông xứng
đáng là người sáng lập nền triết học cổ điển Đức vĩ đại này. Triết học cổ điển
Đức được xem là sự chuẩn bị lý luận đầy đủ nhất cho sự ra đời của triết học
Mác.
Cùng với triết học thẫm mỹ; triết học thực tiễn thì triết học lý luận là một
trong ba bộ phận quan trọng trong triết học của Kant. Triết học lý luận là nền
tảng duy tâm tiên nghiệm của triết học Kant, bao hàm những tư tưởng sâu sắc về
nhận thức của con người và có ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống tinh thần của
người Tây Âu từ đó đến nay. Triết học lý luận đã tạo ra một “cuộc cách mạng
Côpécníc” trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Triết học lý luận của ông là sự tổng
kết những vấn đề mà nhận thức nhân loại đã và đang đặt ra cho thời đại ông.
Những tổng kết của Kant bắt đầu từ chỗ phê phán, tìm tòi rồi đi đến sáng tạo,
mở ra nhiều vấn đề, nhiều con đường mới cho sự phát triển của lý luận nhận
thức và phương pháp của lôgíc học về sau này.
Với tầm quan trọng đó, việc nghiên cứu “triết học lý luận” của Kant là
một vấn đề cấp thiết. Tìm hiểu triết học lý luận của Kant không chỉ giúp chúng
ta làm sáng tỏ những đóng góp của Kant đối với lịch sử triết học mà còn giúp
cho chúng ta nắm vững hơn những nguyên lý của triết học Mác trong đó có kế
thừa nhất định những thành tựu mà triết học Kant đã đạt được. Vì vậy em chọn
vần đề “Nhận thức luận trong triết học của Kant” làm tiểu luận nghiên cứu
của mình.
2
NỘI DUNG
A. ĐÔI NÉT VỀ TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC
I. Điều kiện kinh tế - xã hội và nét đặc thù của triết học cổ điển Đức
Khái niệm “triết học cổ điển Đức” dùng để chỉ triết học của nước Đức ở nửa
cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, được mở đầu từ hệ thống triết học của
I.Cantơ, trải qua Phíchtơ, Senlinh đến triết học duy tâm khách quan của Hêghen và
triết học duy vật nhân bản của Phoiơbắc.
Chỉ trong một thời kỳ lịch sử khoảng một thế kỷ, triết học cỏ điển Đức đã tạo
những tiền đề lý luận hết sức quan trọng cho sự ra đời của triết học Mác vào giữa
thế kỷ XIX.
Triết học cổ điển Đức ra đời trong một điều kiện lich sử hết sức đặc biệt. Nước
Đức vào cuối XVIII đầu XIX vẫn còn là một quốc gia phong kiến điển hình với 360
quốc gia tự lập trong Liên bang Đức hết sức lạc hậu về kinh tế và chính trị. Trong khi
đó, ở nước Anh cuộc cách mạng công nghiệp,ở nước Pháp cuộc cách mạng tư sản đã
nổ ra làm rung chuyển Châu Âu, đưa châu Âu bước vào nền văn minh công nghiệp.
Chính thực tại đau buồn của nước Đức và tấm gương của các nước Tây Âu đã
thức tỉnh tinh thần phản kháng của giai cấp tư sản Đức. Nhưng giai cấp này sống rải
rác ở hững vương quốc nhỏ tách rời nhau, nhỏ bé về số lượng, yếu kém về kinh tế và
chính trị, nên họ vừa muốn làm cách mạng, lại vừa muốn thoả hiệp với tầng lớp phong
kiến quý tộc Phổ đang thống trị thời đó, giữ lập trường cải lương trong việc giải quyết
những vấn đề phát triển của đất nước.. Chính điều này đã quy định nét đặc thù của triết
học cổ điển Đức: Nội dung cách mạng dưới một hình thức duy tâm, bảo thủ,; đề cao
3
vai trò tích cực của tư duy con người, coi con người là một thực thể hoạt động, là nền
tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học.
Trên một ý nghĩa nhất định, triết học cổ điển Đức không chỉ là sự phản ánh
những điều kiện kinh tế - chính trị và xã hội nước Đức mà còn của cả các nước Châu
Âu lúc đó.
1. CANTƠ (1724 - 1804)
Nét nổi bật trong triết học của Cantơ là những quan niệm biện chứng về giới tự
nhiên. Trong tác phẩm Lịch sử phổ thông và lý thuyết bầu trời, ông đã nêu giả thuyết có
giá trị về sự hình thành vuc trụ bằng cơn lốc và kết tụ của các khối tinh vân. Cantơ cũng
đưa ra một luận đề sau này được khoa học chứng minh về ảnh hưởng lên xuống của
thuỷ triều do lực hấp dẫn giữa trái đất và mặt trăng gây ra đã ảnh hưởng tới trái đất, làm
cho vòng xoáy của trái đất quanh trục của nó mỗi ngày một chậm lại. Ăngghen đã đánh
giá những phỏng đoán của Cantơ là sự công phá vào quan điểm siêu hình (kể cả trong
triết học và khoa học).
Triết học của Cantơ là triết học nhị nguyên. Ông thừa nhận sự tồn tại của thế
giới các “vật tự nó” ở bên ngoài con người, thế giới đó có thể tác động tới các giác
quan của chúng ta. Ở điểm này, Cantơ là nhà duy vật. Mặt khác, ông lại cho rằng thế
giới các vật thể quanh ta mà ta thấy được lại không liên quan gì đến cái gọi là “thế giới
vật tự nó”,chúng chỉ là các “hiện tượng…phù hợp với cái cảm giác và tri thức do lý
tính của ta tạo ra. Nhưng các cảm giác và tri thức không cung cấp cho hiểu biết gì về
“thế giới vật tự nó”. Nói cách khác, theo Cantơ nhận thức con người không chỉ biết
được hiện tượng bề ngoài mà không xâm nhập vào được bản chất đích thực của sự vật,
không phán xét gì được sự vật như chúng tự thân tồn tại. Như vậy, trong lĩnh vực nhận
thức luận, Cantơ là người theo thuyết “không thể biết” (tất nhiên là khác với Hium).
Nhận thức luận của Cantơ có tính chất duy tâm thể hiện ở sự phản ứng của ông với
chủ nghĩa duy vật Pháp và sự khôi phục lại Thượng đế. Ông nói rằng trong nhận thức
cần hạn chế phạm vi của lý tính để dành cho đức tin.
Tính chất duy tâm trong triết học của Cantơ không nhất quán, đầy mâu thuẫn.
Lênin nhận xét: “Đặc trưng chủ yếu của triết học Cantơ là ở chỗ nó dung hoà chủ
nghĩa duy ý chí với chủ nghĩa duy tâm, thiết lập sự thoả hiêp giữa hai chủ nghĩa đó kết
hợp hai khuynh hướng triết học khác nhau và đối lâp trong một hệ thống triết học duy
4
nhất. Khi Cantơ thừa nhận rằng một cái gì đó ở ngoài chúng ta thì Cantơ là người duy
vật. Khi ông tuyên bố rằng cái vật tự nó ấy không thể nhận thức được là siêu nghiệm,
là ở thế giới bên kia thì ông ta là người duy tâm”.
C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đánh giá cao những công trình của Cantơ về
khoa học tự nhiên, về những vấn đề phép biện chứng, nhưng đã bác bỏ thuyết không
thể biết và nghiêm khắc phê phán những quan niệm duy tâm của Cantơ về không gian
và thời gian, về các phạm trù bởi vì, Cantơ coi phạm trù chỉ là hình thức tiên thiên của
lý tính con người.
2.HÊGHEN (1770 - 1831)
Là nhà biện chứng, đồng thời là nhà triết học duy tâm khách quan. Triết học của
ông đầy mâu thuẫn. Nếu phương pháp biện chứng của ông là hạt nhân hợp lý, chứa
đựng tư tưởng thiên tài về sự phát triển, thì hệ thống triết học duy tâm của ông phủ
nhận tính chất khách quan của những nguyên nhân bên trong vốn có của sự phát triển
của tự nhên và xã hội. Ông cho rằng, khởi nguyên của thế giới không phải là vật chất
mà là “ý niệm tuyệt đối” hay “tinh thần thế giới”. Tính phong phú, đa dạng của thế
giới hiện thực là kết quả của sự vận động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. Ý niệm
tuyệt đối tồn tại vĩnh viễn. “Ý niệm tuyệt đối” theo nhận xét của Lênin chỉ là một cách
nói theo đường vòng, một cách khác nói về Thượng đế mà thối. Cho nên triết học của
Hêghen là sự biện hộ cho tôn giáo.
Hêghen dã có công trong việc phê phán tư duy siêu hình và ông là người đầu
tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng một quá trình, nghĩa là
trong sự vận động và biến đổi không ngừng. Đồng thời trong khuôn khổ của hệ thống
triết học duy tâm của mình, Hêghen không chỉ trình bày các phạm trù như chất, lượng,
phủ định, mâu thuẫn,… mà còn nói đến các quy luật “lượng đổi dẫn đến chất đổỉ và
ngược lại”, “phủ dịnh của phủ định” và “quy luật mâu thuẫn”. Nhưng tất cả cái đó chỉ
là quy luật vận động và phát triển của bản thân tư duy, của ý niệm tuyệt đối. Trong hệ
thống triết học của Hêgen, không phải ý thức, tư tưởng phát triển trong sự phụ thuộc
vào sự phát triển của tự nhiên và xã hội, mà ngược lại, tự nhiên phụ thuộc vào sự phát
triển của ý niệm tuyệt đối.Ý niệm tuyệt đối, tinh thần thế giới là tính thứ nhất, giới tự
nhiên là tính thứ hai do tinh thần thế giới và ý niệm tuyệt đối quyết định. Nó là một sự
“tồn tại khác” của tinh thần, sau khi trải qua giai đoạn “tồn tại khác” ấy, ý niệm tuyệt
5
đối hay tinh thần thế giới mới trở lại “bản thân mình” và đó là giai đoạn cao nhất, giai
đoạn tột cùng, được Hêghn gọi là tinh thần tuyệt đối.
Trong các quan điểm xã hội, Hêghen đứng trên lập trường của chủ nghĩa
Sovanh, đề cao dân tộc Đức, miệt thị các dân tộc khác, coi nước Đức là hiện thân của
tinh thần vũ trụ mới. Chế độ nhà nước Phổ đương thời được ông xem là đỉnh cao của
sự phát triển nhà nước và pháp luật.
Tóm lại, Hêghen là nhà triét học biện chưng duy tâm khách quan. Là nhà triết
học duy tâm khách quan, Hêghen cho rằng “ý niệm tuyệt đối” là cái có trước vật chất,
tồn tại vĩnh viễn không phụ thuộc vào con người, tạo ra hiện thực khách quan. Giới tự
nhiên chỉ là sự tồn tại khác của “ý niệm tuyệt đối” Tính đa dạng của thực tiễn được
ông xem như là kết quả tác động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. Là nhà biện chứng,
ông đã có công nêu ra những phạm trù, quy luật cơ bản của phép biện chứng. Nhưng
phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm, vì vậy Mác gọi đó là phép
biện chứng lộn ngược đầu xuống đất, vì đó cũng chỉ là quy luật của sự phát triển của
“ý niệm tuyệt đối” mà thôi. Mặc dù vậy, ông vẫn là người đầu tiên trình bày toàn bộ
giới tự nhiên và lịch sử dưới dạng một quá trình không ngừng vận động và biến đổi,
phát triển và cố gắng vạch ra mối liên hệ bên trong của sự vận động và phát triển ấy.
C.Mác và Ăng ghen đã phê phán một cách triệt để tính chất phản khoa học và
thần bí của “ý niệm tuyệt đối” trong triết học Hêghen; đồng thời hai ông đánh giá cao
và tiếp thu “hạt nhân hợp lý” trong phép biện chứng của Hêghen để xây dựng và phát
triển học thuyết về phép biện chứng duy vật của mình.
3. LUTVICH PHOIƠBĂC (1804 -1872)
Là một trong những nhà triết học duy vật lớn nhất thời kỳ trước C.Mác. Công
lao vĩ đại của Phoiơbăc là ở chỗ trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghiã duy tâm và
thần học, ông đã khôi phục lại địa vị xứng đáng của triết học duy vật; đã giáng một
đòn rất nặng vào triết học duy tâm của Hêghen và chủ nghĩa duy tâm nói chung.
Phoiơbắc chứng minh rằng, thế giới vật chất, giới tự nhiên không do ai sáng tạo
ra, nó tồn tại độc lập với ý thức con người và không phụ thuộc vào bất cứ thứ triết học
nào. Do đó cơ sở tồn tại của giới tự nhiên nằm ngay trong giới tự nhiên. Chống lại hệ
thống duy tâm của Hêghen - hệ thống coi giới tự nhiên là sự tồn tại khác của tinh thần.
6
Phoiơbắc chỉ ra rằng triết học mới này phải có tính chất nhân bản, phải kết hợp với
khoa học tự nhiên.
Nguyên lý nhân bản của triết học Phoiơbắc là xoá bỏ sự tách rời giữa tinh thần và
thể xác do triết học duy tâm và triết học nhị nguyên tao ra. Mặt tích cực trong triết học
nhân bản của Phoiơbắc còn ở chỗ ông đấu tranh chống các quan niệm tôn giáo chính
thống của đạo thiên chúa, đặc biệt là quan niệm về Thượng đế. Trái với các quan niệm
tôn giáo và thần học cho rằng Thượng đế tạo ra con người, ông khẳng định chính con
người tạo ra Thượng đế. Khác với Hêghen nói về sự tha hoá của ý niệm tuyệt đối.
Phoiơbắc nói về sự tha hoá của bản chất con người vào Thượng đế. Ông lập luận rằng
bản chất tự nhiên của con người là muốn hướng tới cái chân, cái thiện nghĩa là hướng tới
cái gì đẹp nhất trong một hình tượng đẹp nhất về con người, nhưng trong thực tế những
cái đó co người không đạt được nên đã gửi gắm tất cả ước muốn của mình vào hình
tượng Thượng đế; từ đó ông phủ nhận mọi thứ tôn giáo và thần học về một vị Thượng
đế siêu nhiên đứng ngoài sáng tạo ra con người, chi phối cuộc sống con người.
Tuy nhiên, triết học nhân bản của Phoiơbắc cũng bộc lộ những hạn chế. Khi
ông đòi hỏi triết học mới - triết học nhân bản - phải gắn liền với tự nhiên thì đồng thời
đã đứng luôn trên lập trường của chủ nghĩa tự nhiên để xem xét mọi hiện tượng thuộc
về con người và xã hội. Con người trong quan niệm của Phoiơbắc là con người trừu
tượng, phi xã hội, mang những đặc tính sinh học bẩm sinh. Triết học nhân bản của ông
chứa đựng những yếu tố của chủ nghĩa duy tâm. Ông nói răng, bản tính con người là
tình yêu, tôn giáo cũng là một tình yêu. Do vậy, thay thế cho một tôn giáo sùng một vị
Thượng đế siêu nhiên cần xây dựng một tôn giáo mới phù hợp với tình yêu của con
người. Ông cho rằng càn phải biến tình yêu thương của con người thành quan hệ chi
phối mọi quan hệ xã hội khác, thành lý tưởng xã hội. Trong điều kiện của xã hội tư
sản Đức thời đó, với sự phân chia giai cấp thì chủ nghĩa nhân đạo về tình yêu thương
con người trở thành chủ nghĩa nhân đạo trừu tượng, duy tâm.
Công lao to lớn của Phoiơbắccòn ở chỗ, ông không chỉ đấu tranh chống chủ
nghĩa duy tâm mà còn đáu tranh chống lại những người duy vật tầm thường. Ông đã
có quan niệm đúng đắn là, không thể quy các hiện tượng tâm lý về các quá trình lý –
hoá; công nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới. Ông đã kịch liệt phê
phán những người theo chủ nghĩa hoài nghi và thuyết không thể biết. Trong sự phát
7
triển lý luận nhận thức duy vât, Phoiơbắc đã biết dựa vào thực tiễn là tổng hợp những
yêu cầu về tinh thần, về sinh lý mà chưa nhận thức được nội dung cơ bản của thực tiễn
là hoạt động vật chất của con người, là lao động sản xuất vật chất, đấu tranh giai cấp
và hoạt động thực tiễn của nó là cơ sở của nhận thức cảm tính và lý tính.
Như vậy, Phoiơbắc đã có những đóng góp xuất sắc vào lịch sử đấu tranh của
chủ nghĩa duy vật chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Ông đã vạch ra mối liên hệ
giữa chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, chỉ ra sự cần thiết phải đấu trnah loại bỏ tôn giáo
hữu thần, coi đó là sự tha hoá bản chất của con người. Ông đã có công khôi phục và
phát triển chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII, XVIII.
Tuy nhiên trong lúc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm của triết học Hêghen,
Phoiơbắc lại vứt bỏ luôn phép biện chứng của Hêghen. Cũng như các nhà triết học giai
đoạn trước Mác, Phoiơbăc rơi vào duy tâm khi giải quyết các vấn đề xã hội.
Mặc dù triết học của Phoiơbắc có những hạn chế, nhưng cuộc đấu tranh của ông
chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo nói chung đã có ý nghĩa lịch sử to lớn. Vì vậy,
triết học của Phoiơbắc trở thành một trong những nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác.
II. Vài nhận định về nền triết học cổ điển Đức
Triết học cổ điển Đức là một giai đoạn lịch sử tương đối ngắn nhưng nó đã tạo
ra những thành quả kỳ diệu trong lịch sử triết học. Trước hết, nó đã từng bước khắc
phục những hạn chế siêu hình của triết học duy vật thế kỷ XVII, XVIII. Thành quả lớn
nhất của nó là những tư tưởng biện chứng đã đạt tới trình độ một hệ thống lý luận –
điều mà phép biện chứng cổ đại Hy Lạp đã chưa đạt tới và chủ nghĩa duy vật thế kỷ
XVII – XVIII cũng không có khả năng tạo ra.
Tuy nhiên hạn chế lớn nhất của triết học cổ điển Đức là tính chất duy tâm khách
quan của Hêghen, còn về chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc thì xét về thực chất không
vượt qua được trình độ chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIII Tây Âu.
Những hạn chế và thành quả của triết học cổ điển Đức đã được triết học Mác
khắc phục, kế thừa và nâng lên một trình độ mới của chủ nghĩa duy vật hiện đại.
8
B. NHẬN THỨC LUẬN VỀ TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC
THÔNG QUA ĐẠI DIỆN TIÊU BIỂU NHẤT LÀ TRIẾT
HỌC CỦA KANT
1.1.
Vài nét về cuộc đời và triết học của Kant.
Imanuel Kant (1724- 1804) được mọi người biết đến là người sáng lập ra
nền triết học cổ điển Đức; là một trong những nhà tiết học vĩ đại nhất của lịch sử
tư tưởng phương Tây trước Mác. Triết học của ông là “nền tảng và điểm xuất
phát của triết học Đức hiện đại, những hạn chế trong triết học của ông không
làm lu mờ công lao đó của Kant”.
Kant sinh năm 1724 ở Kênisbec. Năm 1745 ông tốt nghiệp đại học tổng
hợp Kênisbec và trở thành một gia sư. Năm 1755 ông là giáo sư và từ năm 1770
là giáo sư của trường đại học Kênisbec. Là một trong những học giả uyên bác
nhất đương thời, ông giảng dạy về nhiều lĩnh vực: siêu hình học, logic học và
toán học, cơ học, địa chất học…
Trong suốt cuộc đời 80 năm của mình, ông đã sản sinh ra hàng loạt các tác
phẩm nổi tiếng để đời như : Phê phán lý tính thuần túy (1781); Mở đầu khoa
siêu hình học tương lai (1783); Các nguyên tắc của siêu hình học về đạo đức
(1785) Phê phán lý tính thực tiễn (1788); Phê phán năng lực phán đoán (1790);
Nhân học (1798)…..
Sự phát triển về tư tưởng triết học của Kant được phân làm 2 thời kỳ: thời
kỳ tiền phê phán (trước 1770) và thời kỳ phê phán (sau 1770).
Thời kỳ tiền phê phán.
Thời kỳ đầu các tác phẩm chủ yếu của Kant viết về triết học tự nhiên,
chẳng hạn như tác phẩm Lịch sử tự nhiên đại cương và học thuyết về bầu trời
viết năm 1755 ông đưa ra giả thuyết giải thích nguồn gốc sự hình thành của vũ
trụ. Trong các tác phẩm triết học của thời kỳ tiền phê phán lúc đầu Kant chịu
ảnh hưởng của chủ nghĩa duy lý của Lépnít và Vônphơ nhưng về sau trong các
tác phẩm Về những sai lầm tinh tế của bốn loại hình tam đoạn luận (Xuất bản
9
1762) và trong Kinh nghiệm của việc dựa vào triết học khái niệm các đại lượng
phủ định (Xuất bản 1763) thì Kant đi tìm hạn chế của chủ nghĩa duy lý và logic.
Với ảnh hưởng của Hium, Kant ngày càng xa rời cách nhìn suy lý và logic. Đó
chính là xuất phát cho sự chuyển biến từ các tác phẩm thời kỳ tiền phê phán
sang các tác phẩm thời kỳ phê phán.
Triết học thời kỳ phê phán
Do chịu ảnh hưởng của các biến đổi ở Pháp và Tây âu trước cách mạng tư
sản 1789 và đặc biệt là ảnh hưởng của Hium, thế giới quan của Kant đã biến đổi.
Ông đặt nhiệm vụ nghiên cứu toàn bộ các vấn đề triết học từ trước tới nay, trên
tinh thần phê phán như quan niệm về con người, về lý tính về khả năng nhận
thức của con người, về hành vi đạo đức, về trách nhiệm và hạnh phúc của con
người. Theo Kant khoa học về con người chưa được chú trọng nghiên cứu và
phát triển đúng mức, chưa hướng vào việc giải quyết những vấn đề của cuộc
sống và hoạt động thực tiễn cho con người có cách nhìn về bản thân và về thế
giới từ đó vạch ra những nguyên tắc cơ bản cho hoạt động sống của con người vì
những lý tưởng nhân đạo, đạo đức, tự do, xứng với nhân vị cuả con người. Hệ
thống triết học của ông được thể hiện qua bộ 3 tác phẩm “phê phán” nổi tiếng
của ông. Trong Phê phán lý tính thuần túy, ông trình bày nhận thức luận. Ngoài
ra nhận thức luận còn được trình bày một các phổ cập hơn trong cuốn Tiểu luận
về mọi siêu hình học tương lai có quyền được tự coi là khoa học(1783). Luân lý
học của ông được trình bày trong cuốn Phê phán lý tính thực tiễn (1788). Cuốn
Phê phán năng lực phán đoán (1790) dành chủ yếu cho những vấn đề mỹ học và
cả vấn đề về tính có mục đích trong thế giới hữu cơ.
Theo Kant các triết gia từ xưa tới nay hình như quên mất vấn đề quan trọng
là con người. Vì vậy Kant đặt nhiệm vụ hàng đầu cho mình là phải xác định bản
chất của con người, toàn bộ các vấn đề của triết học phải được hướng vào việc
giải quyết những vấn đề của cuộc sống và hoạt động thực tiễn của con người.
Triết học phải đem lại cho con người một cơ sở và nền tảng thế giới quan mới,
vạch ra những nguyên tắc cơ bản của cuộc sống của con người vì những lý
10
tưởng nhân đạo. Để làm được điều đó thì triết học phải lý giải các vấn đề : Tôi
có thể biết được cái gì?, Tôi cần phải làm gì?, Tôi có thể hy vọng cái gì?, Con
người là gì?
Bước ngoặt trong sự phát triển triết học của Kant là cuộc gặp gỡ của ông
với thuyết duy nghiệm của Hume. Ông nói: tôi công khai thú nhận, gợi ý của
David Hume chính là điều lần đầu tiên đã đánh thức tôi ra khỏi giấc ngủ giáo
điều nhiều năm về trước và đã vạch ra một hướng đi mới cho các tra cứu của tôi
trong lĩnh vực tư duy triết học”. Kant từ chối theo con đường của Hume không
chỉ vì nó có thể dẫn ông tới chủ nghĩa hoài nghi mà còn vì ông cảm thấy rằng
mặc dù Hume đã đi đúng đường nhưng không hoàn thành nhiệm vụ giải thích
làm thế nào đạt được tri thức. Vì vậy, Kant đã tìm cách xây dựng trên điều mà
ông nghĩ là có giá trị cả trong chủ nghĩa duy lý lẫn trong chủ nghĩa duy nghiệm,
và bác bỏ điều gì không thể bảo vệ trong hệ thống này. Ông bắt đầu một đường
lối mới mà ông gọi là “triết học phê phán”.
Triết học phê phán của Kant chủ yếu phân tích khả năng của lý trí con
người, được ông hiểu là “ một sự truy tìm phê phán khả năng của lý trí liên quan
tới mọi nhận thức mà nó có thể cố gắng đạt tới một cách độc lập với mọi kinh
nghiệm”. Đường lối của triết học phê phán của ông đặt ra là “năng lực hiểu biết
và lý trí có thể biết những gì và bao nhiêu mà không cần kinh nghiệm?” chính vì
vậy mà triết học lý luận của Kant chủ yếu đề cập tới nhận thức luận và logic học
với mục đích xây dựng một nền tảng thế giới quan mới cho con người nhằm giải
đáp cho câu hỏi “ con người có thể biết được cái gì?”.
1.2.
Những nội dung chính của “triết học lý luận”
Triết học lý luận là một trong ba bộ phận cơ bản của triết học Kant, nó
giải quyết một trong ba vấn đề lớn được đặt ra trong hệ thống triết học của ông.
Bộ phận này được ông trình bày một cách chi tiết và toàn diện trong tác phẩm “
Phê phán lý tính thuần tuý” được ông viết vào năm 1781. Tác phẩm này đã vạch
ra giới hạn cho lý trí con người trong hoạt động nhận thức và nó chính là lời giải
đáp cho một trong ba câu hỏi lớn mà Kant đã đặt ra trong hệ thống triết học của
11
mình: Với tư cách là con người, tôi có thể biết gì? Câu hỏi này được trả lời trong
“Triết học lý luận”. Ở đây, ông xác định những điều kiện và giới hạn nhận thức
của con người, vạch ra rằng con người có tri thức về cái gì? Giới hạn của chúng
ra sao, do đó địa vị con người được xác định trong hoạt động nhận thức như thế
nào?
Trong hệ thống triết học của mình, Kant còn đặt ra hai câu hỏi lớn khác
nằm trong hai bộ phận còn lại: với tư cách là con người, tôi cần phải làm gì?,
được trả lời trong “ triết học thực tiễn”; với tư cách là con người, tôi có thể hy
vọng gì?, được trả lời trong “triết học thẫm mỹ” và “ Mục đích luận”.
Kant được coi là người đầu tiên trong lịch sử loài người đã đứng ra nghiên
cứu về khả năng cũng như giới hạn của tri thức con người. Ông phân biệt thế
nào là tri thức và thế nào là suy tưởng. Ông cũng là người phân biệt hai loại tri
thức của con người: tri thức thường nghiệm (tri thức kinh nghiệm cảm tính) và
tri thức thực nghiệm (tri thức khoa học). Kant cho rằng mỗi tri thức bao giờ
cũng là một thể thống nhất của quan niệm và cảm giác; trong đó quan niệm là
khuôn hình hay hình thức của tri thức, còn cảm giác là vật liệu hay chất thể của
tri thức. Thiếu cảm giác, những quan niệm của ta chỉ là những khuôn hình trống
rỗng, không phải là tri thức; thiếu quan niệm thì những cảm giác của ta sẽ chỉ là
những cảm giác mù, tức cảm giác mà không biết là cảm giác gì.
Khi giải quyết vấn đề khả năng tri thức của con người, Kant đã bắt đầu từ
chổ phân biệt thế nào là tri thức khoa học và thế nào là tri thức kinh nghiệm cảm
tính. Kant viết: “tất cả mọi tri thức của ta bắt đầu từ kinh nghiệm...nhưng nói
như thế không có nghĩa là tri thức của ta hoàn toàn do kinh nghiệm đâu, vì trong
tri thức của ta còn có phần trí năng không lệ thuộc vào kinh nghiệm”. Như vậy,
giữa hai loại tri thức trên có một sự khác biệt lớn; một bên hoàn toàn thụ động
nhưng bê kia lại rất năng động và luôn tìm kiếm những phương pháp mới.
Khi nói về tri thức kinh nghiệm cảm tính, ông cho rằng, kinh nghiệm cho
ta biết sự vật thế này hay thế khác, nhưng không thể cho ta biết sự vật có thể là
12
thế khác chăng. Do đó, tri thức kinh nghiệm cảm tính luôn có tính chất vụn vặt,
lẽ tẻ và bó hẹp vào từng sự kiện mà ta đã kinh nghiệm. Trái lại, tri thức khoa học
vượt tới mức phổ quát và tất yếu, bao trùm lên tất cả mọi trường hợp có thể xãy
ra giống như vậy, đó chính là trí năng của con người, Kant gọi loại tri thức này
là tri thức tiên thiên. Kant viết: “ tính chất tất yếu và tính chất phổ quát thực sự
là những dấu hiệu chắc chắn của một tri thức tiên thiên và hai tính chất này
không khi nào lìa nhau”. Từ quan niệm về tri thức nêu trên, Kant đã phê phán
nghiêm khắc những quan niệm của các triết gia duy cảm và duy lý.
Như vậy, có thể thấy ở học thuyết của Kant, tri thức được cấu tạo bởi hai
yếu tố không thể thiếu: quan niệm và cảm giác, không có yếu tố nào được coi là
cần thiết hoặc quan trọng hơn yếu tố kia. Trên cơ sở đó ông đã dùng phương
pháp phê bình để chứng minh sự khác biệt hoàn toàn giữa hai loại tri thức trên .
Từ đó, ông đi đến khẳng định chỉ có tri thức khoa học mới có thể vạch ra được
quy luật của thế giới hiện tượng.
Kant xác định đối tượng của “ triết học lý luận” không phải là bản thân
thế giới tự nhiên như nó tồn tại, mà là hoạt động nhận thức của con người, là
nghiên cứu những điều kiện và năng lực chủ thể của nhận thức. Phù hợp với đối
tượng đó thì nhiệm vụ của triết học lý luận là vạch ra xem khoa học sản sinh ra
tri thức như thế nào và từ đó xác định bản chất của con người trong lĩnh vực sinh
hoạt tri thức.
Để giải quyết các vấn đề đó, Kant đã chỉ ra đối tượng nhận thức của con
người là thế giới, nhưng bản thân thế giới này được Kant chia làm hai, thế giới
hiện tượng và thế giới “ vật tự nó”; trong đó thế giới hiện tượng là sản phẩm của
sự tác động của thế giới “ vật tự nó” vào chủ thể, còn thế giới “ vật tự nó” là thế
giới của những gì tồn tại do bản thân nó hay nó là nguyên nhân tồn tại của nó,
nói cách khác đây là thế giới tồn tại khách quan đối với con người. Thế giới hiện
tượng mang tính hữu hạn vì những sự vật của nó tồn tại trong không gian và
thời gian, hơn nữa chúng có không gian và thời gian, do đó nó là cái tạm thời.
13
Còn thế giới “ vật tự nó” là cái vô hạn, vĩnh viễn vì nó tồn tại ngoài không gian
và thời gian, nó không có không gian và thời gian. Nếu thế giới hiện tượng tồn
tại tuân theo quy luật, tất yếu thì thế giới “ vật tự nó” tồn tại không tuân theo quy
luật, tất yếu hay nói cách khác nó không bị chi phối bởi quy luật, tất yếu. Nếu
thế giới hiện tượng mang tính nhân quả thì thế giới “ vật tự nó” tồn tại ngoài liên
hệ nhân quả. Từ đó Kant nhận xét, thế giới hiện tượng là thường nghiệm, là thế
giới của những cái tương đối, còn thế giới “ vật tự nó” là siêu nghiệm, nó là thế
giới của những cái tuyệt đối.
Khi bàn về quá trình nhận thức của con người, Kant cho rằng con người ta
nhận thức và từ đó có tri thức bởi một năng lực tiên thiên mà ông gọi là lý tính
lý luận (hay lý tính tiên thiên, lý tính thuần tuý). Ông coi lý tính là một năng lực
tinh thần có sẵn ở con người từ đầu ngay khi mới sinh ra và có như nhau ở tất
thảy mọi người. Ông gọi tính chất ấy là tiên thiên. Lý tính lý luận trong hoạt
động nhận thức của con người có ba cấp độ: cảm năng, trí năng và lý năng. Mặc
dù đối tượng nhận thức là thế giới nói chung nhưng ba cấp độ này có chức năng
khác nhau và tương ứng với chúng có ba học thuyết nghiên cứu về những khả
năng nhận thức của con người. Như vậy “ triết học lý luận” của Kant không phải
nghiên cứu giới tự nhiên mà là nghiên cứu hoạt động nhận thức của con người
với mục đích là xác lập các quy luật, giới hạn của lý tính con người.
Học thuyết về cảm giác siêu nghiệm.
Học thuyết này nghiên cứu về tất cả các hình thái của khả năng cảm giác
ở con người. Điều này cho thấy ông luôn chú tâm đến những gì là căn nguyên, là
khả năng thuần tuý của nhận thức.
Kant cho rằng nhận thức của con người trước hết được thực hiện bởi cảm
năng. Cảm năng là một năng lực tiên thiên thuộc về lý tính lý luận. Cảm năng
đem lại cho con người những tri thức kinh nghiệm cảm tính. Nhưng để có những
tri thức kinh nghiệm cảm tính đó thì hoạt động của cảm năng phải có bộ công cụ
đó là không gian và thời gian. Vì không có bất kỳ tri giác nào vượt ra khỏi
14
không gian và thời gian cụ thể nên tri thức gắn liền với nó không có được tính
phổ quát và tất yếu. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh rằng không gian và thời gian
không phụ thuộc vào sự vật mà đó là những hình thứcn tiên thiên của cảm năng
và nó có sẵn trong cảm năng.
Nếu như chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng: không gian và thời gian
là phương thức tồn tại của vật chất thì trong Triết học phê phán, Kant đã xem
không gian là hình thức bên ngoài và thời gian là hình thức bên trong của kinh
nghiệm cảm tính. Theo Kant, quá trình nhận thức được tiến hành khi sự vật tác
động vào giác quan của chúng ta tạo cho chúng ta những cảm giác hỗn độn,
không có trật tự, không có khuôn hình. Nhờ không gian và thời gian tiên thiên
mà cảm năng sắp xếp những cảm giác lại làm cho chúng trở nên có trật tự, có
khuôn hình. Khi những cảm giác có trật tự, có khuôn hình thì đó là những tri
thức cảm tính. Quá trình thực hiện cảm năng để sản sinh ra những tri thức kinh
nghiệm cảm tính Kant gọi là cảm tính. Nhưng vì tri thức kinh nghiệm cảm tính
có đặc trưng đơn lẽ, cá biệt, mang tính chất chủ quan nên theo Kant những tri
thức chưa có thể vạch ra được các quy luật, các liên hệ tất yếu nhân quả của sự
vật. Vì vậy theo Kant, trong lý tính lý luận còn có năng lực đem lại cho chúng ta
tri thức đó là trí năng.
Học thuyết về phép phân tích siêu nghiệm.
Khi bàn về vấn đề tri thức trong “ triết học lý luận”, Kant quả quyết rằng
con người chỉ có trực giác giác quan mà nhờ đó con người biết sự vật theo cách
đã bị sự vật kích động và sau đó nhờ trí năng con người mới thực sự nhận thức
sự vật. Như vậy, nhiệm vụ của trí năng là nhận thức sự vật. Kant cho rằng, cảm
năng mới chỉ cho ta những tri giác cá thể, đơn lẽ, mang tính chủ quan. Để những
tri giác trở thành kinh nghiệm, là cái khách quan và chung hơn thì nhận thức
phải dựa vào trí năng. Trí năng là một năng lực tiện thiên cho ta những tri thức
về các mối liên hệ tất yếu, nhân quả của sự vật. Hay nói cách khác, trí năng có
thể thoả mãn con người về những tri thức khoa học với hai đặc tính: phổ quát và
15
tất yếu. Để sản sinh ra những tri thức khoa học đó, trí năng phải dựa trên bộ
công cụ là những phạm trù tiên thiên. Quá trình trí năng sản sinh ra tri thức khoa
học Kant gọi là giác tính.
Trong “ Triết học lý luận”, ngay khi bàn về tri thức, Kant đã bàn ngay đến
phạm trù vì ông coi đó là những điều kiện để ta có thể có tri thức và cũng là hình
thức nhất định phải có của tri thức ta. Kant đã xây dựng hệ thống gồm 12 phạm
trù được chia thành 4 nhóm. Nhóm thứ nhất gồm các phạm trù về số lượng: số
đơn, số nhiều, toàn thể; nhóm thứ hai gồm các phạm trù về chất: hiện thực, phủ
định, hạn chế; nhóm thứ ba là các phạm trù tương quan: tuỳ thuộc và độc lập,
nguyên nhân và kết quả, tác động lẫn nhau; nhóm thứ tư là các phạm trù hình
thức: khả năng và không khả năng, tồn tại và không tồn tại, tất yếu và ngẫu
nhiên.
Các phạm trù trên là những khái niệm tiên nghiệm của trí năng có sẵn tính
phổ quát và tất yếu. Chúng là những khái niệm đã được con người định trước về
sự vật. Nhờ tính phổ quát, tất yếu và khả năng khái quát và các phạm trù của trí
năng vượt ra khỏi phạm vi ý thức cá nhân. Khi lí luận về các phạm trù thiên tiên,
Kant cho rằng chúng nguyên chỉ là những khuôn hình trống rỗng mà chưa có nội
dung tức chưa có tri thức, mà “ tư tưởng thiếu nội dung thì trống rỗng, trực quan
thiếu khái niệm thì mù quáng”. Do vậy, để có nội dung và trở thành tri thức, các
phạm trù phải được vận dụng vào kinh nghiệm cảm tính của con người, lúc đó
trở nên, lúc đó chúng trở nên có nội dung kinh nghiệm và những kinh nghiệm do
được vận dụng bởi các phạm trù mang sẵn tính phổ quát và tất yếu, cho nên
những kinh nghiệm cảm tính trở thành tri thức khoa học. Với điều này thì sự phê
phán lý luận của Kant có tác dụng khắc phục cái cực đoan, hạn chế của chủ
nghĩa duy lí và duy cảm.
Với tư cách là chủ thể nhận thức, con người chỉ biết được những gì do nó
tạo ra. Các phạm trù là những khuôn mẫu do giác tính tạo nên và sự vật được tạo
dựng theo những khuôn mẫu này. Do đó nguồn gốc tri thức của con người là
16
giác tính, là kết quả “suy diễn tiên nghiệm” của các phạm trù vào kinh nhgiệm
cảm tính. Đến đây, Kant khẳng định lại tri thức của con người chỉ là sự hiểu biết
về những gì có tính chất hiện tượng luận, còn vật tự nó với tính cách là cái tuyệt
đối thì không thể nhận thức được.
Học thuyết về phép biện chứng siêu nghiệm.
Nếu cảm năng và trí năng là những năng lực tiên thiên cho ta tri thức về
sự vật, hiện tượng thì lý năng-một năng lực tiên thiên khác thuộc về lý tính lý
luận, cho ta những ý tưởng, ý niệm siêu nghiệm về thế giới “vật tự nó”; đó là
những ý tưởng, ý niệm về những tồn tại ngoài không gian và thời gian, ngoài
liên hệ nhân quả, ngoài tính quy luật, tính tất yếu, tức là ý niệm, ý tưởng về cái
tuyệt đối hay là ý tưởng, ý niệm về cái siêu nghiệm. Quá trình sử dụng lý năng,
Kant gọi là lý tính.
Kant cho rằng, nếu giác tính đã dừng lại ở khuôn khổ hiện tượng luận và
thừa nhận “ vật tự nó” là không thể nhận thức được lý tính- đó là khả năng trí
tuệ cao nhất của con người, lại có khát vọng để vươn tới nhận thức mọi cái một
cách trọn vẹn, tuyệt đối. Kant yêu cầu nhận thức của con người phải vượt qua
giới hạn giác tính, xem cái tuyệt đối như là mục tiêu vươn tới.
Theo Kant bản chất của lý tính là có tính chất biện chứng và học thuyết về
lý tính là phép biện chứng tiên nghiệm. Năng lực lý tính là năng lực cao nhất của
chủ thể. Năng lực này không thể trực tiếp vận dụng vào đối tượng cụ thể và kinh
nghiệm cảm tính mà chỉ vận dụng vào khái niệm, phán đoán và quy luật của lý
trí. Năng lực tổng hợp của lý tính thông qua phương thức suy luận gián tiếp để
khái quát những tri thức phong phú của tư duy cảm tính thành những nguyên lý
cơ bản, quan trọng nhất. Chính điều này làm cho lý tính có được tri thức khách
quan khoa học. Trong khi năng lực nhận thức của cảm tính là trực tiếp, tương
đối hữu hạn có điều kiện thì ngược lại năng lực nhận thức của lý tính luôn luôn
khát vọng đạt tới những tri thức tuyệt đối, tự do, vô điều kiện. Điều này được
Kant thể hiện dưới dạng các ý niệm chủ yếu của lý tính bao gồm ý niệm về tâm
17
lý học, về vũ trụ học và về thần học. Tương ứng tâm lý học đó là linh hồn, là sự
thống nhất tối cao của mọi hiện tượng tinh thần; tương ứng với vũ trụ học là thế
giới, là sự thống nhất tối cao của mọi hiện tượng vật lý; tương ứng với thần học
là Thượng đế, là sự thống nhất tất cả mọi hiện tượng vật chất và tinh thần.
Như vậy Kant đã hình thành nên các con đường tiếp cận với đối tượng truyền
thống của triết học duy tâm như linh hồn, thế giới và thượng đế..Theo Kant khi
lý tính của con người muốn xâm nhập vào thế giới vật tự nó để đạt được tri thức
tuyệt đối thì lại nảy sinh ra mâu thuẫn (gọi là antinomia) vì khả năng của con
người không cho phép làm được việc đó. Kant khẳng định tồn tại 4 antinomia là
4 câu hỏi được đặt ra cho ý niệm về thế giới. Các antinomia này cũng chính là
những mâu thuẫn bên trong của ý niệm lý tính, là những sai lầm bất lực của lý
tính sau khi vượt ra khỏi phạm vi kinh nghiệm để xâm nhập vào thế giới vật tự
nó. Chính điều này bộc lộ hạn chế của lý tính. Những ý niệm trên đây là lĩnh
vực mà nhận thức của con người không đạt tới được, là những gì nằm ngoài
phạm vi tri thức của con người, cho nên không thể dựa vào lý tính của con người
để đạt tới được mà chỉ có dùng tín ngưỡng, niềm tin để giải quyết chúng.
Như vậy khi đi từ giác tính đến lý tính, Kant đã hạ thấp ý nghĩa của tư
duy bằng cách phủ nhận năng lực của lý tính có thể đạt được chân lý khách
quan. Kant cho triết học không thể nhận thức được chân lý khách quan. Kant đã
cố gắng để làm cho người ta tin chỉ có triết học của ông là có thể chấp nhận
được. Tuy nhiên triết học của Kant đã tách rời nhận thức ra khỏi hiện thực khách
quan cho nên đã kìm hãm ông trong vòng luẩn quẩn của ý thức tiên nghiệm.
Nhận thức hoàn toàn bị tách rời khỏi hiện thực khách quan và làm nhiệm vụ tự
nó nghiên cứu bản thân nó nghĩa là đối tượng của triết học không phải là thế giới
khách quan, là những quy luật chung của thế giới hiện thực mà là thế giới hiện
tượng do lý tính của con người xây dựng nên. Kant không coi nhận thức như là
quá trình lịch sử dựa vào hoạt động thực tiễn của con người mà coi nó như là
một cái gì khi đã có thì lúc nào cũng như vậy. Ở đây Kant đã tách rời hiện tượng
ra khỏi bản chất, không nhìn thấy được thống nhất biện chứng của chúng cho
18
nên theo Kant triết học thực sự không phải là học thuyết về vật tự nó mà là hiện
tượng luận, nghĩa là chủ thể nhận thức chỉ nhận thức được những gì do chính
mình sáng tạo ra.
Thông qua các quan niệm về antinomia và cách giải quyết chúng, Kant đã
chứng tỏ sự nhất quán là “vật tự nó” không thể nhận thức được. Con người chỉ
có tri thức về thế giới hiện tượng mà không thể có tri thức về thế giới “vật tự nó”
vì khi vấp phải những antinômi thì lý tính rơi vào sai lầm, do đó lý năng không
thể đem lại cho ta tri thức về “vật tự nó”. Đây là quan điểm bất khả tri của Kant,
nhưng “vật tự nó” bất ti mà khả niệm tức là không thể tri thức về “vật tự nó”
nhưng lại có thể có ý niệm về “vật tự nó”. “Vật tự nó” theo quan niệm của Kant
là vũ trụ vô hạn, linh hồn bất tử và chúa trời. Đây là thế giới không tuân theo
quy luật, không tuân theo liên hệ nhân quả, không tồn tại trong không gian và
thời gian cho nên nó là thế giới tự do tuyệt đối và ông tuyên bố tự do tuyệt đối
không thuộc thẩm quyền của nhận thức, “vật tự nó” vơi tư cách là thế giới tự do
tuyệt đối nằm ngoài lĩnh vực nhận thức. Điều đó thể hiện sự khác nhau trong
quan niệm về tự do của Kant và Spinôda và Hêghen. Nếu như Spinôda và
Hêghen coi tự do như là tất yếu được nhận thức thì Kant cho rằng tự do chỉ là
tương đối thuộc về hiện tượng luận. Ngoài ra còn có thế giới siêu nghiệm, lĩnh
vực của tự do tuyệt đối thì nhận thức của con người không đạt tới được.
Đối với Kant mọi tri thức và ý tưởng của con người bất luận về cái gì
cũng đều có nguồn gốc tiên thiên và đều là sản phẩm của sự thực hiện lý tính lý
luận ở con người. Xét về nguồn gốc nhận thức là lĩnh vực của những hành động
tự quyết và tự do của lý tính con người. Nhưng tri thức đòi hỏi có nội dung đối
tượng và ở gốc độ này mà xét thì nhận thức là lĩnh vực của những hành động
chất thể và thường nghiệm của con người. Chính vì vậy trong sinh hoạt tri thức,
quá trình nhận thức hoặc chỉ đem lại cho con người những tri thức về thế giới
hiện tượng bởi cảm năng và trí năng, hoặc đem lại ý tưởng về thế giới siêu
nghiệm “vật tự nó” bởi lý năng.
19
Trong triết học phê phán, Kant còn đề cập tới lôgic học. Khi tới giai đoạn
nhận thức thứ 2 (giác tính) thì cần có tư duy dựa trên các khái niệm. Mà tư duy
lại là đối tượng nghiên cứu của lôgic học. Kant phân biệt hai dạng logic: logic
đại cương tức logic hình thức và logic tiên nghiệm. Sự khác nhau giữa chúng ở
chỗ “logic đại cương sao nhãng với mọi nội dung của nhận thức, tức mọi quan
hệ của nó tới khách thể, mà chỉ nhận xem xét hình thức logic…của tư duy nói
chung. Trong trường hợp đó cần tồn tại một logic học không lãnh tránh với mọi
nội dung của nhận thức…nó cần phải nghiên cứu cả nguồn gốc của các tri thức
của chúng ra về sự vật”. Kant chủ yếu đề cập tới logic tiên nghiệm vì đây là
công cụ nhận thức, là phương tiện làm giàu tri thức tiên nghiệm tổng hợp.
Trên cơ sở ảnh hưởng trực tiếp của chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa kinh
nghiệm, Cantơ đã làm được một cuộc cách mạng trong triết học. Cantơ đã tìm
cách xây dựng trên cả chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa kinh nghiệm. Không đơn
thuần là sự kết hợp của hai đường lối ấy mà đã làm một cuộc cách mạng trong
triết học đó là Triết học phê phán. Triết học phê phán của ông đã phân tích khả
năng lý trí của con người được ông hiểu là “một sự truy tìm phê phán khả năng
của lý trí liên quan tới mọi nhận thức mà nó có thể cố gắng đạt tới một cách độc
lập với mọi kinh nghiệm. Đường lối triết học đó để trả lời cho câu hỏi thứ nhất
mà chính ông đã đặt ra là: “tôi có thể biết gì?”. Chính lý luận nhận thức của
Kant đã chứng minh cho câu trả lời câu hỏi đó. Năng lực nhận thức của con
người được ông chia ra thành 3 trình độ nhận thức: nhận thức cảm tính; nhận
thức giác tính; nhận thức lý tính. Mỗi một trình độ nhận thức đó có một chức
năng và giới hạn nhận thức riêng. Trên cơ sở trình độ nhận thức này làm tiền đề
cho trình độ nhận thức cao hơn. Nhưng năng lực nhận thức của con người vẫn bị
giới hạn bởi thế giới hiện tượng, nó chưa vượt ra được khỏi cái khuôn
khổ của “vật tự nó”.
KẾT LUẬN
Kant là một trong những nhà triết học vĩ đại nhất của triết học cổ điển
Đức. Hệ thống của ông có ảnh hưởng đối với sự ra đời của triết học Mác, tạo
20
nguồn cảm hứng mạnh mẽ cho nhiều khuynh hướng triết học Phương tây hiện
đại. Kant thực sự đã tạo ra một bước ngoặt trong lịch sử triết học, đúng như ông
muốn rằng cần phải làm một “cuộc cách mạng Côpecníc” cho triết học.
Khi xác định nhiệm vụ của “Triết học lý luận” là vạch ra xem khoa học
sản sinh ra tri thức như thế nào, Kant đã chỉ ra đối tượng nhận thức của con
người là thế giới và bản thân thế giới này được Kant chia thành hai, thế giới “vật
tự nó” mang tính siêu nghiệm và thế giới hiện tượng có tính thường nghiệm. Từ
đó, Kant đi vào nghiên cứu quá trình nhận thức của con người và ông cho rằng
trong hoạt động nhận thức, con người có được tri thức bởi một năng lực tiên
thiên là lý tính lý luận với các cấp độ: cảm năng, trí năng và lý năng; và ông đi
sâu phân tích cơ cấu bên trong của mỗi cấp độ để vạch ra công cụ và kết quả của
quá trình nhận thức. Đó là cái nhìn xuyên suốt của Kant trong tiến trình triển
khai “triết học lý luận” của mình; bao gồm trong đó sự xuất hiện lập trường duy
tâm, nhị nguyên luận, bất khả tri cũng như những cống hiến tích cực và hạn chế
lịch sử của ông. Mặc dù có những hạn chế nhất định, song chừng ấy cũng đủ để
thấy rằng, Kant là một nhà triết học vĩ đại của nền triết học cổ điến Đức nói
riêng và lịch sử triết học nhân loại nói chung. Ông có nhiều đóng góp lớn lao
cho sự phát triển lịch sử tư tưởng nhân loại, trong đó “triết học lý luận” là một
trong những hạt nhân cơ bản đã thể hiện rõ những cống hiến ấy./