I.
Khái niệm, đặc điểm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
1.
Khái niệm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Theo quy định tại Khoản 3, Điều 3, Luật cạnh tranh, hành vi hạn chế
cạnh tranh là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh
trên thị trường, bao gồm hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế.
Luật Cạnh tranh Việt Nam không đưa ra khái niệm mà sử dụng phương
pháp liệt kê các thỏa thuận bị coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh tại Điều 8 –
Luật Cạnh tranh 2004. Theo đó có thể hiểu:
Thoả thuận hạn chế cạnh tranh là sự thống nhất hành động của nhiều
doanh nghiệp nhằm giảm bớt hoặc loại bỏ sức ép của cạnh tranh hoặc hạn chế
khả năng hành động một cách độc lập giữa các đối thủ cạnh tranh.
Từ điển Chính sách thương mại quốc tế định nghĩa thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh là một thỏa thuận chính thức hoặc không chính thức để đạt được kết
quả có lợi cho các hàng có liên quan, nhưng có thể có hại cho các bên khác.
Điều 8 – Luật cạnh tranh 2004 quy định:
“Các thoả thuận hạn chế cạnh tranh bao gồm:
1. Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp;
2. Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá,
cung ứng dịch vụ;
3. Thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua,
bán hàng hoá, dịch vụ;
4. Thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;
5. Thoả thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng
mua, bán hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa
vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng;
6. Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia
thị trường hoặc phát triển kinh doanh;
7. Thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là
các bên của thoả thuận;
8. Thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong việc
cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ.”
2.
Đặc điểm của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
- Chủ thể tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là các doanh nghiệp
hoạt động độc lập.
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là thỏa thuận giữa các doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là chủ thể trong quan hệ thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Theo quy
định tại Khoản 1, Điều 2, Luật cạnh tranh:
“Tổ chức, cá nhân kinh doanh (sau đây gọi chung là doanh nghiệp) bao
gồm cả doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, doanh
nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực thuộc độc quyền nhà nước và doanh
nghiệp nước ngoài hoạt động ở Việt Nam;”
Các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận phải hoạt động độc lập với nhau
và hoàn toàn không phụ thuộc với nhau về tài chính. Như vậy, trường hợp công
ty mẹ – công ty con, hay giữa công ty với đại lý của mình có sự thỏa thuận thì
không coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
- Thoả thuận là đặc trưng pháp lý cơ bản và là yếu tố cấu thành hành vi
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chỉ được hình thành khi có sự
thống nhất ý chí của các bên tham gia thỏa thuận. Vì vậy, thoả thuận hạn chế
cạnh tranh thường là kết quả của quá trình đàm phán, thương lượng giữa các bên
tham gia với nhau liên quan đến một hoặc một số nội dung hay yếu tố nào đó
của thị trường. Tuy nhiên, cũng có trường hợp các bên tham gia không trực tiếp
thỏa thuận với nhau mà gián tiếp đạt được sự thoả thuận thông qua các nghị
quyết, quyết định hay hành động chung của Hiệp hội mà các bên là thành
viên. Nội dung thỏa thuận thường là về việc ấn định giá, phân chia thị trường
tiêu thụ, hạn chế nguồn cung. Các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh có thể nhằm cùng một mục đích hoặc nhiều mục đích khác nhau. Tuy
nhiên, dù với mục đích nào thì doanh nghiệp đã có sự thống nhất ý chí về cùng
thực hiện một hành động nào đó đều bị coi là hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh
tranhSự thống nhất cùng hành động giữa các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận
được thể hiện công khai hoặc không công khai.
- Mục đích của thoả thuận là nhằm hạn chế cạnh tranh.
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể theo chiều ngang hoặc chiều dọc. Nội
dung của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là các yếu tố của cạnh tranh như giá cả
hay thị trường. Mục đích của các bên tham gia thỏa thuận là làm giảm sức ép
cạnh tranh hay chính là hạn chế cạnh tranh và thông qua đó gây thiệt hại cho các
doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận, cho các doanh nghiệp tiềm năng, xâm
phạm quyền và lợi ích chính đáng của người tiêu dùng và toàn xã hội. Đối với
khách hàng, lợi ích trực tiếp bị thiệt hại là không được hưởng các sản phẩm với
chất lượng tốt hơn và mức giá cả phù hợp hơn. Đối với doanh nghiệp không
tham gia thoả thuận có nguy cơ mất cơ hội kinh doanh, bị loại ra khỏi thị trường.
Với sự liên kết giữa các doanh nghiệp thông qua một thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh tạo nên sức mạnh khống chế và buộc khách hàng phải tuân theo những luật
chơi do các doanh nghiệp này tự ra không dựa trên cơ sở quy luật của thị
trường. Ngoài ra, bằng việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, các doanh nghiệp
tham gia thoả thuận cũng có thể áp đặt những điều kiện bất lợi trong các giao
dịch với những doanh nghiệp ngoài thoả thuận.
- Hình thức biểu hiện của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể bằng
miệng hoặc bằng văn bản, chính thức hay không chính thức. Thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh có thể được biểu hiện dưới các hình thức như bằng miệng hoặc văn
bản, thoả thuận ngầm hay thoả thuận công khai dưới các loại như hợp
đồng, nghị quyết, quyết định, nội quy của các hiệp hội. Tuy pháp luật không quy
định bắt buộc phải theo một hình thức nhất định và hình thức biểu hiện của thoả
thuận hạn chế cạnh tranh không làm ảnh hưởng đến hậu quả pháp lý của các
hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm nhưng việc xác định hình thức
biểu hiện của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh lại có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc điều tra và xử lý đối với các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm,
nó có khả năng ảnh hưởng tới mức độ thành công của việc chứng minh thỏa
thuận.
- Hậu quả của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là làm giảm sức ép cạnh
tranh, làm sai lệch hoặc cản trở cạnh tranh trên thị trường. Thỏa thuận cạnh
tranh gây ra cho thị trường sự xóa bỏ cạnh tranh, các đối thủ trên thị trường sẽ
không còn cạnh tranh nữa. Hậu quả của nó có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi
của người tiêu dùng và gây thiệt hại cho các doanh nghiệp không tham gia việc
thỏa thuận.
3. Phân loại
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được chia thành hai hình thức: thỏa thuận theo
chiều dọc và thỏa thuận theo chiều ngang.
Thỏa thuận ngang là thỏa thuận giữa các doanh nghiệp cùng ngành hàng hoạt
động trên cùng thị trường liên quan như thỏa thuận giữa các nhà sản xuất hay
giữa những nhà bán buôn hoặc giữa những nhà bán lẻ của những loại sản phẩm
tương tự nhau1. Thỏa thuận ngang được thực hiện giữa các đối thủ cạnh tranh
với nhau. Thỏa thuận ngang phổ biến là thỏa thuận liên quan đến ấn định giá
mua bán hàng hóa, dịch vụ, phân chia thị trường, ngăn cản doanh nghiệp khác
tham gia thị trường, thông thầu,…
Thỏa thuận dọc là thỏa thuận liên quan đến việc bán lại những sản phẩm từ nhà
sản xuất hay nhà cung cấp, do đó nó diễn ra giữa các doanh nghiệp ở các công
đoạn khác nhau trong quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm như thỏa thuận
giữa nhà sản xuất với nhà phân phối. Thỏa thuận dọc diễn ra giữa các các doanh
nghiệp không phải là đối thủ của nhau mà là giữa các doanh nghiệp bổ trợ lẫn
nhau và có thể là khách hàng của nhau. Do vậy, nó không tạo ra khả năng khống
chế thị trường. Các thỏa thuận dọc phố biến có khả năng gây hạn chế cạnh tranh
là thỏa thuận phân phối độc quyền theo lãnh thổ, ấn định giá bán lại,…
4. Hậu quả pháp lý của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
4.1. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm tuyệt đối
Theo khoản 1 Điều 9 Luật Cạnh tranh 2004 thì có 3 loại thỏa thuận được nêu tại
các khoản 6, 7, 8 Điều 8 là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm tuyệt đối, đó là:
- Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị
trường hoặc phát triển kinh doanh;
1
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Cạnh tranh, NXB CAND, 2016, tr.131
- Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên
của thỏa thuận;
- Thông đồng để một hoặc các bên của thỏa thuận thắng thầu trong việc cung
cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
Lí do để áp dụng quy định cấm triệt để đối với 3 loại thỏa thuận này là các thỏa
thuận này luôn mang tính chất hạn chế cạnh tranh mà không có bất cứ một cơ sở
nào để có thể biện hộ về hiệu quả của chúng đối với thị trường. Do vậy, việc xác
định hành vi thỏa thuận bị cấm trong các trường hợp này không đòi hỏi phải
chứng minh về sức mạnh thị trường của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận.
4.2. Thỏa thuận hạn chế bị cấm có điều kiện và việc hưởng miễn trừ
a, Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm có điều kiện
Ngoài 3 loại thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm tuyệt đối ở trên, các thỏa
thuận khác là thỏa thuận hạn chế có điều kiện. Theo khoản 2 Điều 9 Luật cạnh
tranh 2004 thì “Cấm các thoả thuận hạn chế cạnh tranh quy định tại các khoản 1,
2, 3, 4 và 5 Điều 8 của Luật này khi các bên tham gia thoả thuận có thị phần kết
hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên.”. Các thỏa thuận đó là: Thoả thuận
ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; Thoả thuận phân
chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ; Thoả
thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá,
dịch vụ; Thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;
Thoả thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán
hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không
liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng.2
Như vậy, bên cạnh việc tồn tại hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thuộc
khoản 1 đến khoản 5 Điều 8 Luật cạnh tranh, các bên tham gia thỏa thuận phải
thỏa mãn yêu cầu “có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên”
thì thỏa thuận đó mới bị cấm. Thị phần là cơ sở để xác định khả năng chi phối
2
Xem thêm: Điều 8 Luật Cạnh tranh 2004
của doanh nghiệp đối với thị trường. Đồng thời, với mức thị phần trên thị trường
liên quan từ 30% trở lên, doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp đã có khả năng
tác động đến giá cả thị trường của một loại hàng hóa hoặc dịch vụ mà họ bán
hoặc mua. Khi đó, pháp luật mới phải can thiệp bởi họ có khả năng gây hạn chế
cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường. Quy định này có phần giống
với“nguyên tắc tối thiểu” (de minimis principle) của pháp luật Liên minh Châu
Âu.3
b, Các trường hợp miễn trừ
Ngay cả khi các bên tham gia thỏa thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên
quan trên 30%, một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm có điều kiện vẫn có
thể được miễn trừ có thời hạn nếu đáo ứng một trong các điều kiện sau đây
nhằm hạ giá thành, có lợi có người tiêu dùng:
- Hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh;
- Thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ;
- Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ
thuật của chủng loại sản phẩm;
- Thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán nhưng không liên
quan đến giá và các yếu tố của giá;
- Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa;
- Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Các trường hợp miễn trừ được quy định nhìn chung là phù hợp với nguyên tắc
lập luận hợp lý (rule of reason) theo thông lệ quốc tế nhằm mục tiêu bảo vệ lợi
ích quốc gia và nâng cao hiệu quả kinh tế. Theo đó, một thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh vẫn có thể được thực hiện nếu xét thấy lợi ích đối với nền kinh tế và người
tiêu dùng lớn hơn tác động hạn chế cạnh tranh.
Tuy nhiên, hiện nay, pháp luật Việt Nam vẫn còn thiếu quy định về hai điều kiện
quan trọng để hưởng miễn trừ, đó là 1) việc thực hiện thỏa thuận hạn chế cạnh
3
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Cạnh tranh, NXB CAND, 2016, tr.148
tranh là cần thiết và không thể tránh khỏi để thực hiện các mục tiêu nói trên; 2)
việc thực hiện thỏa thuận hạn chế cạnh tranh không tạo cho các doanh nghiệp
khả năng loại bỏ một cách đáng kể đối với hàng hóa và dịch vụ có liên quan.4
Bởi lẽ, rủi ro và thiệt hại trong tương lai lâu dài mà thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh không đáp ứng hai điều kiện nêu trên mang lại có thể sẽ lớn hơn rất nhiều
lợi ích nó mang lại hiện tại. Ngoài ra, quan điểm này cũng bổ sung thêm việc
nên có một thời hạn đối với việc thực hiện các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
được miễn trừ này.
II. THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH CỦA 19 DOANH NGHIỆP
BẢO HIỂM
1. Tóm tắt vụ việc:
Ngày 15/9/2008, tại Hội nghị các tổng giám đốc bảo hiểm phi nhân thọ lần
thứ 6 diễn ra ở Phan thiết, 19 doanh nghiệp bảo hiểm trên tổng số 25 doanh
nghiệp bảo hiểm tại thời điểm điều tra đã ký kết “Bản thỏa thuận hợp tác giữa
các doanh nghiệp bảo hiểm trong lĩnh vực bảo hiểm xe cơ giới” và “Điều khoản
biểu phí bảo hiểm vật chất xe ôtô”. Thỏa thuận này nâng mức phí tiêu chuẩn
bảo hiểm vật chất ô tô (mức phí tối thiểu) từ 1,3% lên 1,56%/năm (chưa tính
10% thuế VAT).5
Ngày 18/11/2008, Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh ra Quyết định số
93/QĐ – QLCT về việc điều tra sơ bộ vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Ngày 28/11/2008, Cục trưởng Cục Quản lý cạnh
tranh ra Quyết định số 99/QĐ –QLCT về việc việc điều tra chính thức vụ việc
cạnh tranh đối với 19 DNBH.
Ngày 02 tháng 10 năm 2009, Cục Quản lý cạnh tranh chuyển Hồ sơ vụ việc
KNCT-HCCT-0009 đến Hội đồng Cạnh tranh.
Ngày 15 tháng 01 năm 2010, Hội đồng Xử lý vụ việc Cạnh tranh ra Quyết
định số 02/QĐ-HĐXL về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
4
Xem thêm: />5
Xem thêm: />
Ngày 29 tháng 4 năm 2010, Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh có Kết
luận điều tra bổ sung vụ việc KNCT-HCCT-0009 chuyển đến Hội đồng Cạnh
tranh.
Hội đồng Xử lý vụ việc Cạnh tranh đã quyết định mở Phiên điều trần công
khai từ ngày 27 tháng 7 năm 2010 để xử lý vụ việc cạnh tranh.
Tại Phiên điều trần, Hội đồng đã xác định thị phần kết hợp của 19 doanh
nghiệp bảo hiểm tham gia thỏa thuận chiếm tỷ lệ 99.79%.6
2. Xác định thị trường liên quan
2. Thị trường liên quan:
Thị trường liên quan bao gồm thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý
liên quan. Việc xác định thị trường liên quan có ý nghĩa quan trọng trong việc
đánh giá các thỏa thuận nói riêng và các hành vi khác nói chung có vi phạm luật
cạnh tranh hay không. Trong vụ việc này, thị trường liên quan được xác định
như sau:
Thị trường sản phẩm liên quan:
Theo khoản 1 điều 4 nghị định 116/2005/ NĐ – CP quy định:
“Thị trường sản phẩm liên quan là thị trường của những hàng hóa, dịch vụ có thể
thay thế cho nhau cả về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả.”
Về đặc tính:
Xét về mục đích sử dụng của bảo hiểm: loại bảo hiểm vật chất cho xe ô tô
được 19 công ty khác nhau bán ra nhưng chung quy lại chúng đều có mục đích
sử dụng giống nhau: bảo vệ cho đối tượng là ô tô. Mục đích sử dụng của loại
bảo hiểm này hoàn toàn không giống với các loại bảo hiểm khác; không thể mua
bảo hiểm hàng hóa, hay bảo hiểm tàu bay cho đối tượng là xe ô tô được. Do đó
không thể thay thế bất cứ 1 loại bảo hiểm nào có thể thay thế bảo hiểm vật chất
xe ô tô cho đối tượng là xe ô tô cả.
Xét sự khác biệt về giá cả:
Đối với loại bảo hiểm này của mỗi công ty là không lớn và người tiêu dùng
có thể dễ dàng mua các sản phẩm bảo hiểm này của một trong số 19 doanh
nghiệp kia trên thị trường.
6
Xem thêm: />
Xét về khả năng thay thế về cung: trong việc kinh doanh bảo hiểm, một
công ty bảo hiểm có thể phân thành nhiều loại bảo hiểm để bán phụ thuộc vào
nhu cầu và mục đích của khách hàng. Mặc dù từ góc độ của khách hàng thì các
loại bảo hiểm này là khác nhau và không thể thay thế cho nhau do chúng có đặc
tính sử dụng và mục đích sử dụng là khác nhau nhưng do chúng cùng được một
công ty bảo hiểm bán và cùng có cùng tính chất (bảo hiểm).
Như vậy, từ việc phân tích trên, có thể xác định thị trường sản phẩm liên
quan trong vụ việc này là: thị trường bảo hiểm vật chất xe ô tô.
Thị trường địa lí liên quan:
Thị trường địa lý liên quan là “một khu vực địa lý cụ thể nơi các doanh
nghiệp có liên quan tham gia bán hoặc mua hàng hóa hoặc dịch vụ trong những
điều kiện cạnh tranh tương tự và các điều kiện cạnh tranh tại khu vực này phải
khác biệt đáng kể so với các điều kiện cạnh tranh tại các khu vực lân cận”
Trong tình huống, thị trường mà 19 DNBH hướng tới trong các bản thỏa
thuận chính là thị trường có phạm vi toàn quốc. Như vậy, theo định nghĩa trên,
có thể xác định thị trường địa lý liên quan ở vụ việc này đó là “tại Việt Nam”.
Kết luận:
Qua phân tích về thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên
quan, có thể xác định thị trường liên quan trong vụ việc đó là: Thị trường bảo
hiểm vật chất cho xe ô tô tại Việt Nam.
2. Tính pháp lý của thỏa thuận này
Thứ nhất, xét về mặt chủ thể tham gia thực hiện thỏa thuận là 19 doanh
nghiệp kinh doanh bảo hiểm trong nước.7
7
Xem thêm 19 doanh nghiệp bao gồm: 1. Công ty cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn Việt Nam (ABIC) 2. Công ty cổ phần Bảo hiểm Nhà Rồng (Bảo Long); 3. Tổng công ty cổ phần Bảo Minh
(Bảo Minh); 4. Công ty liên doanh TNHH Bảo hiểm châu Á Ngân hàng Công thương (Bảo Ngân);5. Công ty cổ
phần Bảo hiểm Bảo Tín (Bảo Tín); 6. Tổng công ty Bảo hiểm Bảo Việt (Bảo Việt); 7. Công ty Bảo hiểm Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIC); 8. Công ty cổ phần Bảo hiểm Quân đội (MIC); 9. Công ty cổ phần
Bảo hiểm Petrolimex (PJICO)10. Công ty cổ phần Bảo hiểm Bưu điện (PTI)11. Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm
Dầu khí (PVI)12. Công ty liên doanh TNHH Bảo hiểm SAMSUNG-VINA (Samsung-Vina)13. Công ty cổ phần
Bảo hiểm Toàn cầu (Toàn Cầu)14. Công ty cổ phần Bảo hiểm Viễn Đông (VASS)15. Công ty liên doanh Bảo
hiểm Quốc tế Việt Nam (VIA)16. Công ty cổ phần Bảo hiểm AAA (AAA) 17. Công ty TNHH Bảo hiểm UBON
Việt Nam (FUBON) 18. Công ty TNHH Tổng hợp Groupama (Groupama) 19. Công ty cổ phần Bảo hiểm Hàng
không Việt Nam (VNI).
/>
19 công ty bảo hiểm trên đều là những doanh nghiệp hoạt động độc lập với
nhau trên thị trường, không có sự phụ thuộc với nhau về mặt tài chính. Và đặc
biệt tất cả các doanh nghiệp này đều là các tổ chức kinh doanh, do đó sẽ thuộc
đối tượng áp dụng của Luật cạnh tranh năm 2004.
Thứ hai, thỏa thuận tăng phí bảo hiểm vật chất xe ô tô của các doanh
nghiệp là thỏa thuận ấn định giá dịch vụ một cách gián tiếp. Cụ thể, trong Hội
nghị thường niên các Tổng giám đốc phi nhân thọ lần thứ 6 diễn ra tại Phan
Thiết, Bình Thuận, 19 doanh nghiệp bảo hiểm đã có sự bàn bạc, thỏa thuận với
nhau, thống nhất ý chí cùng hành động tăng giá phí bảo hiểm vật chất đối với xe
ô tô từ 1,3%/năm/xe lên 1,56%/năm/xe. Sự thống nhất ý chí cùng hành động của
các doanh nghiệp được thể hiện thông qua việc các doanh nghiệp đã cùng nhau
ký vào Bản Thỏa thuận hợp tác giữa các Doanh nghiệp Bảo hiểm trong lĩnh vực
bảo hiểm xe cơ giới và Điều khoản Biểu phí bảo hiểm vật chất xe ô tô. Bên cạnh
đó việc thống nhất tăng mức phí bảo hiểm vật chất đối với xe ô tô lên 1,56% của
các doanh nghiệp đã gián tiếp thể hiện việc ấn định giá đối với dịch vụ bảo hiểm
vật chất đối với xe ô tô. Chính vì vậy, có thể nhận định rằng thỏa thuận tăng phí
bảo hiểm vật chất đối với xe ô tô của 19 doanh nghiệp bảo hiểm là một thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh theo quy định tại khoản 1, Điều 8, Luật Cạnh tranh
năm 2004.
Hơn thế nữa, do 19 doanh nghiệp bảo hiểm tham gia vào thỏa thuận này
đều là những doanh nghiệp bảo hiểm lớn chiếm đến 99,79% thị phần kết hợp
trên thị trường liên quan lớn hơn nhiều lần mức pháp luật cho phép là 30%. Do
đó, thỏa thuận về tăng phí bảo hiểm vất chất đối với xe ô tô của 19 doanh nghiệp
bảo hiểm đã thuộc trường hợp các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm theo
quy định tại khoản 2, Điều 9, Luật Cạnh tranh năm 2004. Bởi nếu thỏa thuận
này được các doanh nghiệp thực hiện trên thực tế sẽ gây ra hậu quả là làm giảm
sức ép cạnh tranh, làm sai lệch hoặc cản trở cạnh tranh trên thị trường, làm ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người tiêu dùng và gây thiệt hại cho các
doanh nghiệp không tham gia việc thỏa thuận.
Như vậy, có thể khẳng định lại một lần nữa thõa thuận tăng phí bảo hiểm
vật chất đối với xe ô tô của 19 doanh nghiệp bảo hiểm thuộc trường hợp các
thõa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm theo quy định của Luật Cạnh tranh.
Tuy nhiên, Luật Cạnh tranh cũng có quy định thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh bị cấm sẽ được miễn trừ có thời hạn nếu đáp ứng được một trong các điều
kiện được quy định tại khoản 1, Điều 10, Luật Cạnh tranh nhằm hạ giá thành. có
lợi cho người tiêu dùng, bao gồm:
- Hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh
doanh;
- Thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch
vụ;
- Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ
thuật của chủng loại sản phẩm;
- Thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán nhưng không
liên quan đến giá và các yếu tố của giá;
- Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa;
- Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường
quốc tế.8
Mặc dù vậy, sau khi xem xét và đối chiếu với các quy định này, có thể nhận
thấy rằng thỏa thuận tăng phí bảo hiểm xe ô tô của 19 doanh nghiệp bảo hiểm
không đáp ứng được các điều kiện để được miễn trừ theo quy định của pháp
luật. Do đó, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh này sẽ không được miễn trừ.
3. Tác động đến thị trường bảo hiểm và đối với đối tượng mua bảo
hiểm
Trong số các hành vi bị cấm thì hành vi hạn chế cạnh tranh mà các doanh
nghiệp gây ra trên thị trường là nghiêm trọng nhất, theo quy định của Luật Cạnh
tranh, thường bị xử phạt rất nặng.
Vụ việc 19 doanh nghiệp bảo hiểm đã có những tác động không nhỏ đến thị
trường bảo hiểm và đối tượng mua bảo hiểm:
Thứ nhất, về mức độ gây hạn chế cạnh tranh:
Xét trên khía cạnh các doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường: 19 doanh
nghiệp bảo hiểm ký kết thỏa thuận đã triệt tiêu cạnh tranh giữa 19 doanh nghiệp
bảo hiểm tham gia ký kết;
8
Xem thêm: Điều 10 Luật cạnh tranh 2004
Xét khía cạnh người mua bảo hiểm: tạo mặt bằng chung phí bảo hiểm xe cơ
giới làm hạn chế quyền lựa chọn của người mua bảo hiểm.
Thứ hai, về khả năng gây hạn chế cạnh tranh của các đối tượng khác:
Có tới 19/25 doanh nghiệp bảo hiểm tham gia ký kết chiếm tới 99,79% thị
trường dịch vụ bảo hiểm vật chất ô tô trên toàn quốc gây hạn chế đáng kể.
Thứ ba, mức độ thiệt hại do hành vi vi phạm: 19 doanh nghiệp bảo hiểm
99,79% thị phần, thời gian vi phạm chưa dài, các doanh nghiệp bảo hiểm đã
chấm dứt thực hiện thỏa thuận nên mức độ thiệt hại cho người mua bảo hiểm đã
được giảm thiểu.
Thứ tư, về khoản lợi nhuận thu được từ hành vi vi phạm: do thời gian thực
hiện thỏa thuận là chưa đến 50 ngày nên khoản lợi nhuận 19 doanh nghiệp bảo
hiểm thu được từ thống nhất thỏa thuận không phản ánh chính xác tác động của
hành vi và không là yếu tố quan trọng khi xem xét mức độ ảnh hưởng.
4. Hậu quả pháp lí của các thỏa thuận này.
Theo Hội đồng xử lí vụ việc cạnh tranh đã ra phán quyết cuối cùng là thỏa
thuận của 19 doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm ký với nhau cùng nâng giá dịch
vụ bảo hiểm là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, cụ thể đó là thỏa thuận về việc ấn
định giá hàng hóa, dịch vụ. Đây là một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nghiêm
trọng bởi giá là yếu tố gây ảnh hưởng nhất đến thị trường. Việc 19 doanh nghiệp
kinh doanh bảo hiểm kí với nhau thỏa thuận này gây ra những hậu quả cho nền
kinh tế, với khách hàng, làm cản trở, triệt tiêu cạnh tranh lành mạnh. Chính bởi
vậy hành vi này của các doanh nghiệp tham gia vào thỏa thuận này phải được xử
lí theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 8, Quyết định số 92/2005/QĐBTC quy định doanh nghiệp thỏa thuận áp dụng thống nhất mức giá với một số
hoặc tất cả khách hàng sẽ bị: “Phạt tiền đến 10% tổng doanh thu trong năm tài
chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm của từng doanh nghiệp là các bên
tham gia có thỏa thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở
lên”.9
9
Xem thêm: Quyết định số 92/2005/QĐ-BTC
Trong vụ việc trên, tổng thi phần kết hợp của 19 doanh nghiệp kinh doanh
bảo hiểm lên đến 99,79% nên các doanh nghiệp này có thể bị xửa phạt đến 10%
tổng doanh thu của năm tài chính trước.
Thêm vào đó, theo quy đinh tại Điều 62, Luật cạnh tranh 2004 thì các
doanh nghiệp phải nộp phí xử lí vụ việc cạnh tranh. Tại thông tư 251/2016/TTBTC thì phí giải quyết đối với vụ việc hạn chế cạnh tranh là 100 triệu đồng/vụ.
Ngày 29-7, hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh (do Hội đồng Cạnh tranh
thành lập) đã ra phán quyết về việc 19 doanh nghiệp bảo hiểm ký thỏa thuận
cùng nhau nâng giá dịch vụ bảo hiểm. Theo hội đồng này, việc 19 doanh nghiệp
bảo hiểm ký kết thỏa thuận với nhau về giá dịch vụ là hành vi hạn chế cạnh
tranh, ảnh hưởng đến việc cạnh tranh lành mạnh tại thị trường VN, nên đã bị
phán quyết phạt 0,025% doanh thu của năm liền kề trước năm vi phạm. Theo đó
tổng số tiền phạt là gần 1,8 tỷ đồng và mức phí mà các doanh nghiệp phải nộp là
100 triệu đồng. Tuy nhiên, số tiền phải nộp của các doanh nghiệp là khác nhau
do doanh thu của các doanh nghiệp của năm trước liền kề là khác nhau. Điều
đáng chú ý là có doanh nghiệp bị phạt là 0 đồng do năm 2007 chưa có doanh
thu. Tổng công ty Bảo hiểm VN bị phạt với mức cao nhất là 553 triệu đồng; các
công ty khác có mức bị phạt cao gồm: Tổng công ty CP Bảo Minh 362 triệu,
Công ty CP bảo hiểm Petrolimex 222 triệu, Tổng công ty CP Bảo hiểm dầu khí
VN 220 triệu đồng (số tiền làm tròn) ...10
Chúng ta có thể thấy rằng mức phạt này còn quá nhẹ chưa đủ tính răn đe
cho các doanh nghiệp trên thị trường bảo hiểm nói riêng và thị trường nói
chung. Sở dĩ hội đồng đưa ra mức phạt 0,025% là vì khi ấy Luật cạnh tranh cũng
có hiệu lực chưa lâu và nó chưa phát triển ở Việt Nam, các doanh nghiệp chưa
có hiểu biết về việc làm trái pháp luật của mình, và cũng căn cứ vào những đóng
góp mà các doanh nghiệp nên Hội đồng đã đưa ra mức xử phạt như vậy và có
căn cứ xem xét thái độ của từng doanh nghiệp mà có mức xử phạt khác nhau, ví
dụ công ty bảo hiểm Samsung Vina trong quá trình điều tra hợp tác chưa tốt nên
Cục đã đề nghị mức phạt cao hơn.
III. MỘT SỐ HẠN CHẾ VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH
THÔNG QUA VỤ VIỆC NÀY
10
Xem thêm: />
1. Hạn chế:
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì quy định của Pháp luật về hành
vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh còn nhiều những hạn chế, bất cập, cụ thể như
sau:
Thứ nhất, về khái niệm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Luật cạnh tranh có
cách tiếp cận hẹp dựa trên hành vi thay vì xem bản chất hạn chế cạnh tranh của
thỏa thuận dẫn đến quy định của luật không bao quát được các hành vi thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh trên thực tế. Luật cạnh tranh không đưa ra bất kì định
nghĩa nào về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Do đó, phạm vi của luật điều chỉnh
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị giới hạn bởi tám loại thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh được liệt kê tại Điều 8 Luật cạnh tranh năm 2004. Cách tiếp cận quy định
hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh dưới hình thức liệt kê có thể dẫn đến bỏ
sót các hành vi thỏa thuận cạnh tranh diễn ra trên thực tế nhưng chưa được mô
tả, liệt kê hoặc giải thích, chẳng hạn thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thông qua
việc trao đổi các thông tin về giá hay về thị trường, thị phần.
Thứ hai, luật cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn không đưa giải thích về
việc xác định hình thức “thỏa thuận” cũng làm cho việc thực thi của cơ quan
quản lý cạnh tranh trở nên khó khăn vì thường các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
thường không được công bố công khai. Đồng thời, các đối thủ cạnh tranh vẫn có
thể “câu kết” với nhau để hạn chế cạnh tranh dưới dạng trao đổi thông tin gián
tiếp qua bên thứ ba như hiệp hội, doanh nghiệp nghiên cứu thị trường, hoặc cấu
kết ngầm thông qua việc phối hợp cùng hành động. Do vậy, với các quy định
hiện tại cơ quan quản lý cạnh tranh không có cơ sở rõ ràng để xử lý các thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh “ngầm”.
Thứ ba, về mức phạt tiền đối với các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh
về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Đối với hành vi vi phạm quy định về cạnh tranh không lành mạnh và hành
vi vi phạm quy định pháp luật về cạnh tranh khác không thuộc trường hợp kiểm
soát hành vi hạn chế cạnh tranh, thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành phạt tiền
theo các mức cụ thể như theo quy định Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính
năm 2002;
Đối với hành vi vi phạm quy định về kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh,
cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm có thể phạt tiền theo các mức cụ thể,
nhưng tối đa đến 10% tổng doanh thu của doanh nghiệp vi phạm trong năm tài
chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm.
Trong trường hợp doanh nghiệp vi phạm mới thành lập và hoạt động chưa
đủ một năm tài chính, tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện
hành vi vi phạm quy định tại khoản này được xác định là tổng doanh thu của
doanh nghiệp kể từ ngày thành lập cho đến ngày ra quyết định điều tra chính
thức về hành vi vi phạm.
Như vậy, mức phạt tiền đối với các hành vi vi phạm cụ thể như: Hành vi vi
phạm quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh; lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, lạm dụng vị trí độc quyền; tập trung kinh tế, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xác định mức tiền phạt dựa trên hai yếu tố là số % được quy định đối với
từng hành vi vi phạm và tổng doanh thu của doanh nghiệp vi phạm trong năm tài
chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm.
Việc quy định mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm pháp luật “hiện tại”
dựa trên mức doanh thu của đối tượng vi phạm đã thực hiện trong “quá khứ”, có
lẽ không phản ánh đúng mức trách nhiệm pháp lý phải chịu tương xứng với tính
chất, mức độ hành vi vi phạm. Do vậy, nội dung này cần được các nhà làm luật
nghiên cứu và quy định lại cho phù hợp theo hướng dựa trên hậu quả gây ra do
hành vi vi phạm pháp luật của đối tượng vi phạm.
2. Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hành vi thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh thông qua vụ việc này
- Cần cân nhắc về việc điều chỉnh hành vi của Hiệp hội các doanh nghiệp
trong các vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Có thể nhận thấy, hiện pháp
luật cạnh tranh Việt Nam đang bỏ qua vai trò của Hiệp hội trong các vụ việc
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Hiệp hội không trực tiếp tham gia hoạt động kinh
doanh trên thị trường, không trực tiếp tham gia cạnh tranh nhưng hoạt động của
Hiệp hội tác động tới đến quá trình cạnh tranh của các doanh nghiệp. Ngay trong
vụ việc trên, Hiệp hội là một trong những yếu tố tạo điều kiện thuận lợi để thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh ra đời sau khi các doanh nghiệp hợp bàn và thống nhất
ý chí. Đồng thời, Hiệp hội còn giữ vai trò tổ chức, lôi kéo doanh nghiệp tham
gia và giám sát việc thực thi thỏa thuận của doanh nghiệp. Do đó, pháp luật cần
có những bổ sung và điều chỉnh hợp lý về hành vi của Hiệp hội để phù hợp với
thực tiễn và tăng cường thực thi pháp luật.
- Xem xét về cách đánh giá thỏa thuận hạn chế cạnh tranh dựa trên tiêu chí
duy nhất là thị phần. Do khi xem xét một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nên xem
thỏa thuận đó có tác động đến cạnh tranh hay không, thị phần chỉ là một yếu tố
để cơ quan cạnh tranh đánh giá vụ việc. Trong khi không phải thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh nào, chúng ta cũng xác định được thị phần trong thị trường liên
quan.
- Đối với các trường hợp miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị
cấm cần phải quy định một cách chi tiết, cụ thể rõ ràng hơn trong quy định tại
điều 10 Luật Cạnh tranh và trong văn bản hướng dẫn của Luật Cạnh tranh là
Nghị định 116/2005/NĐ – CP. Pháp luật có thể cân nhắc đối với các hành vi như
thỏa thuận ấn định giá, thỏa thuận phân chia thị trường, thỏa thuận hạn chế số
lượng và thông thầu theo hướng cấm trong mọi trường hợp, không áp dụng miễn
trừ với các hành vi này. Với các thỏa thuận khác, các cơ quan có thể đánh giá
trên mặt lợi ích từ thỏa thuận. Các trường hợp miện trừ do pháp luật cạnh tranh
hiện nay quy định khá bao quát, không cụ thể có thể dẫn đến sự làm dụng, tạo lỗ
hổng.
- Cần có quy định cụ thể về mức phạt tiền tối thiểu, có thể tính trên cơ sở
doanh thu hay lợi ích từ thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đó. Việc áp dụng mức
phạt tiền cụ thể có ý nghĩa răn đe, ngăn người các doanh nghiệp mới tham gia
thị trường, các doanh nghiệp nhỏ tham gia vào thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.