Tải bản đầy đủ (.docx) (88 trang)

QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO TIÊN TẦN VỀ HIẾU VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA NÓ TRONG QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.41 KB, 88 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

VÕ NGỌC QUÂN

QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO TIÊN TẦN VỀ HIẾU
VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA NÓ TRONG
QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN
NGÀNH TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2018
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

VÕ NGỌC QUÂN

QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO TIÊN TẦN VỀ HIẾU
VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA NÓ TRONG
QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT
Chuyên ngành : Triết học
Mã số
: 60 22 03 01
LUẬN VĂN1 THẠC SĨ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
CHƯƠNG 1. QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO TIÊN TẦN VỀ HIẾU.........11
1.1. Bối cảnh ra đời của quan niệm Hiếu trong Nho giáo tiên Tần...............11


1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội...........................................................................11
1.1.2. Tiền đề tư tưởng16
1.2. Nội dung cơ bản của quan niệm Hiếu trong Nho giáo tiên Tần.............18
1.2.1. Thái độ, ứng xử của con cái với cha mẹ....................................................19
1.2.2. Sự báo đáp của dân,bề tôi với vua............................................................30
1.3. Một số giá trị, hạn chế của quan niệm Hiếu trong Nho giáo tiên Tần........40
1.3.1. Giá trị chủ yếu của quan niệm Hiếu trong Nho giáo tiên Tần..................40
1.3.2. Hạn chế lịch sử của quan niệm Hiếu trong Nho giáo tiên Tần.................42
Kết luận chương 1.............................................................................................44
CHƯƠNG 2. NHỮNG BIỂU HIỆN VỀ QUAN NIỆM HIẾU CỦA NHO
GIÁO TIÊN TẦN TRONG QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT ............................45
2.1. Bối cảnh ra đời và nội dung khái quát của Quốc triều hình luật...........45
2.1.1. Bối cảnh ra đời của Quốc triều hình luật..................................................45
2.1.2. Nội dung cơ bản trong Quốc triều hình luật.............................................49
2.2. Những biểu hiện về quan niệm Hiếu của Nho giáo tiên Tần trong Quốc
triều hình luật....................................................................................................56
2.2.1. Trách nhiệm của con cháu với ông bà, cha mẹ.........................................56
2.2.2. Trách nhiệm của dân, bề tôi với vua.........................................................63
2.3. Một số giá trị, hạn chế của quan niệm Hiếu trong Quốc triều hình luật......73
2.3.1. Giá trị chủ yếu của quan niệm Hiếu trong Quốc triều hình luật...............73
2.3.2. Hạn chế lịch sử của quan niệm Hiếu trong Quốc triều hình luật.............76
Kết luận chương 2.............................................................................................78
KẾT LUẬN......................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................. 82

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Xã hội Việt Nam trải qua hơn một nghìn năm bị các triều đại phong kiến
Trung Quốc đô hộ, hệ tư tưởng và các giá trị văn hóa Trung Hoa đã ảnh hưởng
đến cộng đồng người Việt từ xa xưa. Trong đó, Nho giáo giữ vai trò chủ đạo có
ảnh hưởng lớn đến văn hóa, đạo đức người Trung Quốc và Việt Nam. Tư tưởng
trong Nho giáo đã được đúc kết thành những giá trị của con người, giá trị ứng
xử và những quan hệ trong xã hội. Tu thân - tề gia - trị quốc - bình thiên hạ là
những yêu cầu căn bản để giải quyết các vấn đề trong xã hội. Quan niệm Hiếu
hay đức Hiếu là chuẩn mực đạo đức cơ bản của con người, cụ thể là đức Hiếu
trong quan hệ giữa cha mẹ với con cái và trong quan hệ giữa vua với dân. Thế
kỉ XV được coi là một trong những giai đoạn bản lề trong tiến trình lịch sử tư
tưởng Việt Nam nói chung và tiến trình phát triển của Nho giáo Việt Nam nói
riêng (thế kỉ X, XV và XIX). Do đó, xác định diện mạo tư tưởng của giai đoạn
này không chỉ có ý nghĩa đối với việc xem xét tư tưởng của riêng giai đoạn đó
mà còn là cơ sở cho nghiên cứu tư tưởng các giai đoạn sau. Bên cạnh việc tìm
kiếm trong sử liệu, trong các tác phẩm văn chương, ngoại giao, triết học... thì
việc xem xét tư tưởng thông qua luật pháp cũng là công việc quan trọng góp
phần xây dựng và đánh giá lại diện mạo tư tưởng của một giai đoạn đã qua. Vì,
giai cấp thống trị có thể sử dụng pháp luật quản lí các vấn đề trong xã hội
thông qua việc điều chỉnh các quan hệ xã hội của con người. Quốc triều hình
luật (còn gọi là Bộ luật Hồng Đức, xác định được biên soạn vào năm 1483,
dưới triều Lê Thánh Tông). Đây được coi là Bộ luật hoàn chỉnh nhất, giá trị
nhất của các triều đại phong kiến nước ta. Do vậy, điểm xuất phát để đi đến với
đề tài Quan niệm của Nho giáo tiên Tần về Hiếu và những biểu hiện của nó
trong Quốc triều hình luật, trước tiên phải kể đến sự ảnh hưởng sâu sắc của
Nho giáo đến xã hội phong kiến Việt Nam mà cụ thể là quan niệm Hiếu thể
hiện trong luật pháp Việt Nam. Chính sự ảnh hưởng cơ bản đó khiến tác giả
muốn tìm tòi, nghiên cứu vấn đề này.
3



Hơn nữa, ngày nay với những tiến bộ vượt bậc về khoa học và công
nghệ, sự toàn cầu hoá về kinh tế đang kéo theo nhiều biến đổi quan trọng
trong đời sống xã hội, đạo đức con người. Cũng như mọi sự vật hiện tượng
khác, đạo đức gia đình không đứng yên mà vận động theo lịch sử phát triển
xã hội. Đạo đức trong gia đình và xã hội cũng đang có sự chuyển tiếp từ
truyền thống sang hiện đại. Truyền thống và hiện đại có mối quan hệ hữu cơ,
không tách rời với nhau, mà tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, hiện đại là
sự tiếp nối của truyền thống và truyền thống chỉ được duy trì khi nó phù hợp
với sự tiến hoá của xã hội, trở thành hiện đại. Gia đình là hạt nhân của xã hội,
vốn là nơi duy trì bền vững các giá trị đạo đức truyền thống, nhưng hiện đang
đứng trước thách thức, sự tấn công của những quan niệm tư tưởng mới, lối
sống mới. Tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường đang hàng ngày,
hàng giờ làm suy thoái đạo đức của một bộ phận người trong xã hội. Thực tế
cho thấy, trong đời sống xã hội đã có những biểu hiện coi nhẹ những giá trị
truyền thống, chạy theo lối sống không lành mạnh, vì đồng tiền và thói háo
danh thấp hèn mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí,
đồng nghiệp,.v.v. Một điều đáng buồn là tình trạng giáo dục trong một số gia
đình bị buông lỏng, thái độ và hành vi đối xử của con cái đối với cha mẹ đang
diễn ra thiếu chuẩn mực và nhiều lúc thô bạo.
Để thực hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước về việc bảo tồn và phát
huy giá trị đạo đức truyền thống của gia đình Việt Nam thì việc nghiên cứu
quan niệm Hiếu trong Nho giáo tiên Tần và những biểu hiện của nó trong
Quốc triều hình luật là hết sức cần thiết. Tác giả muốn vạch ra và phân tích
cụ thể những nội dung cơ bản của quan niệm Hiếu và những giá trị, hạn chế
của nó; điều kiện lịch sử nào đã dẫn đến sự tiếp nhận quan niệm Hiếu trong
Nho giáo tiên Tần vào Quốc triều hình luật và những biểu hiện của nó trong Bộ
luật. Qua những tài liệu khảo cứu được, tác giả nhận thấy, chưa có công trình
nào đặt vấn đề nghiên cứu một cách có hệ thống những nội dung cơ bản trong
quan niệm Hiếu của Nho giáo tiên Tần và những biểu hiện của nó trong Quốc
triều hình luật, cũng như chưa có công trình nào luận chứng một cách sâu sắc

4


cho việc tiếp thu, kế thừa những yếu tố tích cực để xây dựng gia đình văn hoá và
khắc phục những biểu hiện tiêu cực của nó trong gia đình, xã hội hiện nay.
Từ những lý do trên, tác giả chọn vấn đề Quan niệm của Nho giáo tiên
Tần về Hiếu và những biểu hiện của nó trong Quốc triều hình luật làm đề
tài luận văn thạc sĩ Triết học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quan niệm Hiếu trong Nho giáo tiên Tần không còn mới mẻ đối với
giới nghiên cứu. Hầu như mọi mặt trong đời sống xã hội Việt Nam từ xưa đến
nay đều chịu ảnh hưởng bởi quan niệm Hiếu của Nho giáo, trong đó có Nho
giáo tiên Tần. Do vậy, có nhiều công trình nghiên cứu, sách, tham luận đã bàn
tới vấn đề này. Tuy nhiên, những nghiên cứu đó mới chỉ bàn đến quan niệm
Hiếu nói riêng mà chưa bàn luận sâu những biểu hiện của nó trong Quốc triều
hình luật, hoặc nếu có bàn chỉ mang tính chất chung chung, chưa sâu sắc cụ
thể. Căn cứ vào nhiệm vụ đặt ra để nghiên cứu, tác giả có thể khái quát một
số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau đây có liên quan đến đề tài.
* Các công trình liên quan đến quan niệm Hiếu trong Nho giáo tiên Tần
Tác giả Trần Trọng Kim (2012), trong tác phẩm Nho giáo [29] đã cho
rằng: Hiếu trước hết phải nuôi cha mẹ, nuôi thì phải kính, không kính không
phải nuôi cha mẹ. Khi cha mẹ còn sống, không bao giờ làm điều gì để cha mẹ
lo lắng. Bởi vậy, không nên đi đâu xa, có đi xa thì phải nói cho cha mẹ biết
chỗ đi để cha mẹ khỏi lo và nhỡ có việc gì, có thể tìm gọi được. Trong chữ
Hiếu có hai điều cần chú ý là vô vi và vô cải. Vô vi là thờ cha mẹ không trái
lễ. Vô cải là giữ cái đạo của cha mẹ. Cả hai điều đó đều hướng tới mục đích
buộc con cái phải phục tùng, nhưng phục tùng theo những điều hợp lý, không
phải phục tùng một cách thuận phụ, không biết phân biệt phải trái. Hơn nữa,
tác giả còn bàn thêm về việc con cái phải theo chí hướng của cha mẹ. Phàm
người có Hiếu là khéo nối được cái chí của cha mẹ, khéo theo được việc làm

của cha mẹ, nghĩa là khéo biết phân biệt cái chí của và công việc của cha mẹ
để làm, để xem cái gì đúng thì theo, cái gì sai thì bỏ, cũng không phải gặp thế
5


nào cũng nhắm mắt mà theo. Tuy vậy, Hiếu là luôn phải giữ đạo trung dung,
nghĩa là một mặt phải nghe lời dạy bảo của cha mẹ, nhưng mặt khác, nếu thấy
cha mẹ sai thì chỉ nhẹ nhàng góp ý, không nên có hành động đi ngược với đạo
Hiếu. Dẫu có khi cha mẹ giận mà đánh đập hay bắt phải chịu khổ sở, cũng
không được oán. Việc giữ danh tiết của cha mẹ được trong sạch là bổn phận
người con hiểu đạo Hiếu.
Thạc sĩ Trần Thị Thúy Ngọc (2012) trong bài viết Tìm hiểu quan niệm
hạnh Hiếu là hạnh Phật in trong sách “Triết học phương Đông và phương
Tây vấn đề và cách tiếp cận” [20], đã nêu lên: Hiếu nói chung gồm ba nội
dung: Hiếu tâm (lòng hiếu), Hiếu hành (hành vi hiếu), Hiếu tư (suy nghĩ về
hiếu). Việc một cá nhân tu dưỡng đạo đức cũng có thể ảnh hưởng tới sự ổn
định cả cộng đồng xã hội, sức ảnh hưởng đó thậm chí có thể dẫn xã hội tiến
lên hoặc suy vong nếu cá nhân đó là người đứng đầu nhà nước. Để ràng buộc
chắc hai mối quan hệ cơ bản là mối quan hệ giữa vua với dân và mối quan hệ
giữa cha mẹ với con cái, cần phải gia cố thêm bằng những chuẩn mực đạo
đức. Bởi thế, Hiếu với nhà Nho được dùng để đo phẩm chất người, đó cũng là
thước đo trách nhiệm của công dân trong xã hội. Hơn nữa, bài viết còn chỉ ra
sự khác nhau giữa chữ Hiếu trong Phật giáo và Nho giáo. Nếu chữ Hiếu trong
Phật giáo tiếp cận từ góc độ nhân sinh giải thoát, thì Nho giáo lại xem Hiếu
như phẩm chất đầu tiên của người quân tử.
Trương Thị Thảo Nguyên (2010) trong luận văn thạc sĩ Triết học Tư
tưởng về “Dân” trong Nho giáo Tiên Tần và ảnh hưởng của nó đối với tư
tưởng Việt Nam (Từ thế kỷ XI đến thế kỷ XV) [48] đã chỉ rõ quan niệm Hiếu
trong mối quan hệ giữa vua và dân. Theo đó, vua luôn tồn tại trong sự thống
nhất giữa Thiên tử và phụ mẫu của muôn dân. Vì, vua là cha mẹ của muôn

dân nên vua luôn phải yêu dân, thương dân, trọng dân và dưỡng dân. Nhà vua
luôn phải gương mẫu và là người có đạo đức, thi hành các biện pháp đạo đức
đối với dân, dưỡng dân và giáo dân. Mặt khác, dân và bề tôi cũng phải có bổn
phận, nghĩa vụ đối với vua, xã tắc, dân có vai trò quan trọng trong việc tồn
vong, hưng thịnh của triều đại và của chế độ.
6


Ở Việt Nam, đạo Hiếu cũng đã được một số nhà nghiên cứu về Nho
giáo đề cập đến như: Nguyễn Hiến Lê (1991) Khổng tử [30]; Nguyễn Khắc
Viện (1993) Bàn về đạo Nho [64]; Vũ Khiêu (1995) Nho giáo và gia đình
[24]; Quang Đạm (1999) Nho giáo xưa và nay [7]; Nguyễn Tài Thư (1997) có
cuốn Nho học và Nho học ở Việt Nam [55] và cuốn Ảnh hưởng của các hệ tư
tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay [57]; Hà Thúc Minh
(2001) với Đạo Nho và văn hoá phương Đông [38]. Ngoài ra còn một số bài
viết và công trình nghiên cứu khá công phu, chẳng hạn, bài viết Triết lí trong
văn hóa phương Đông của tác giả Nguyễn Hùng Hậu (2004) [14]; tác giả
Nguyễn Thị Thọ (2007) có bài viết Từ đạo hiếu truyền thống, nghĩ về đạo
hiếu ngày nay [59]. Trong những công trình, luận án và các bài viết trên,
nhiều vấn đề quan trọng của Nho giáo đã được bàn luận, như: Vì sao quan
niệm Hiếu trong Nho giáo lại có sức sống kéo dài hàng nghìn năm ở nhiều
nước phương Đông, trong đó có Việt Nam ? Nho giáo là học thuyết chính trị xã hội hay là học thuyết về đạo đức, nhân luân ? Quan niệm về Trung - Hiếu Lễ và ảnh hưởng của nó đối với xã hội Trung Quốc và Việt Nam... Vấn đề mà
những bài viết này nghiên cứu đều là những tài liệu quan trọng có liên quan
đến đề tài mà tác giả nhận thấy cần tham khảo.
* Các công trình liên quan đến Quốc triều hình luật
Nguyễn Thanh Bình (2012) trong bài viết Một số nội dung và giá trị cơ
bản về quyền con người trong Quốc triều hình luật đăng trong sách “Triết học
phương Đông và phương Tây vấn đề và cách tiếp cận” [20], tác giả đã đánh
giá Quốc triều hình luật là Bộ luật quan trọng nhất và thống nhất dưới triều
Lê. Đồng thời, đây cũng là Bộ luật xưa nhất của nước ta được lưu giữ đầy đủ

cho đến nay. Trong Bộ luật này quyền sống và quyền được bảo vệ của con
người được thể hiện tương đối đầy đủ. Đây có thể coi là điểm nổi bật nhất,
tiến bộ nhất trong Bộ luật này. Điểm cốt lõi và thực chất của quyền con người
được thể hiện trong Bộ luật này là quyền được sống, được chăm sóc, quyền
được bảo vệ và tất cả quyền khác của con người chỉ được thực hiện và có ý
nghĩa khi quyền sống, quyền được chăm sóc, được bảo vệ, được tôn trọng,
7


phải được đảm bảo trong thực tế và được thể chế hóa bằng pháp luật. Hơn
nữa, tác giả cũng chỉ ra tuy trong Bộ luật còn những hạn chế nhất định không
thể tránh khỏi, nhưng căn cứ vào nội dung, tính chất của nó khi đề cập đến
quyền con người, có thể khẳng định rằng, Quốc triều hình luật để lại nhiều
giá trị và ý nghĩa tiến bộ, tích cực mà ngày nay chúng ta có thể kế thừa và
phát triển.
Cũng trong sách “Triết học phương đông và phương tây, vấn đề và
cách tiếp cận” [20], bài viết Một số nội dung và giá trị cơ bản về quyền con
người trong Quốc triều hình luật của tác giả Nguyễn Thanh Bình đã khái quát
những hành động xâm phạm đến nhân phẩm con người như: con cháu chửi
mắng, đánh đập ông bà (các điều từ 473 đến 476) đều sẽ bị xử tội nghiêm
minh trước pháp luật. Hơn nữa, bài viết cũng khái quát về tính hai chiều trong
mối quan hệ giữa vua và dân. Nhà vua phải quan tâm đến quyền tự do trước
pháp luật, quyền thừa nhận và bảo vệ, quyền bình đẳng trong việc thực thi
pháp luật, tự do hôn nhân, lựa chọn và bảo vệ hạnh phúc, quyền được bảo vệ
tính mạng, tài sản của dân. Đó là trách nhiệm của vua phải thực hiện đối với
dân để dân tin theo và tận tâm báo Hiếu vua. Ngoài ra, tác giả cũng đã đánh
giá sơ bộ về quan niệm Hiếu được thể hiện trong Quốc triều hình luật. Tuy
các điều luật còn hà khắc nhưng vẫn chứa đựng những yếu tố quý báu mà
chúng ta có thể nghiên cứu để hoàn thiện luật về hôn nhân - gia đình hiện nay.
Nguyễn Thị Luân (2014) trong luận văn thạc sĩ Triết học Tư tưởng xây

dựng bộ máy nhà nước thời Lê sơ (qua Quốc triều hình luật) [36] đã phân
tích cụ thể cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn để biên soạn Quốc triều hình luật.
Cơ sở lý luận là sự kết hợp giữa tư tưởng của Nho giáo, Phật giáo, Pháp gia
và giá trị truyền thống của dân tộc. Cơ sở thực tiễn là bối cảnh chính trị, kinh
tế, xã hội đương thời và vai trò quan trọng của vua Lê Thánh Tông trong việc
hoàn thiện Bộ luật. Hơn nữa, trong luận văn, tác giả còn nghiên cứu tư tưởng
xây dựng bộ máy chính quyền thời Lê sơ thông qua Quốc triều hình luật.
Trước hết, nhà vua là người đứng đầu một nước, nên có vị trí và vai trò quan
trọng trong việc quản lí đất nước. Đất nước có thịnh vượng hay suy thoái là
8


do trí tuệ và đạo đức của vua. Dưới vua là quan lại cũng luôn phải rèn luyện
đạo đức, đặc biệt là thực hành đạo Trung - Hiếu, quan lại phải có trách nhiệm
trong việc phò trợ vua quản lí đất nước. Ngoài ra, tác giả cũng nghiên cứu tư
tưởng về phòng chống tham nhũng, cơ chế kiểm tra, giám sát quyền lực và
phương thức chủ yếu để xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước. Cuối cùng,
luận văn đưa ra đánh giá về giá trị và hạn chế về tư tưởng xây dựng bộ máy
chính quyền thời Lê sơ qua Quốc triều hình luật.
Nghiên cứu về Quốc triều hình luật còn có các công trình: tác giả Đinh
Gia Trinh (1968) có cuốn Sơ thảo lịch sử nhà nước và pháp quyền Việt Nam
[62]; tác giả Insun Yu (1994) trong cuốn Luật và xã hội Việt Nam thế kỉ XVII XVIII [68] là cuốn chuyên khảo rất giá trị, thông qua luật pháp Việt Nam thế kỉ
XVII - XVIII, cuốn sách đã dựng lại diện mạo xã hội Việt Nam, trong đó có tư
tưởng của giai đoạn nhà Lê, phân tích cụ thể những điều luật của Việt Nam và
những điều luật vay mượn từ Trung Quốc. Trực tiếp nghiên cứu các Bộ luật cụ
thể của các triều đại phong kiến Việt Nam có tác giả Lê Thị Sơn (2004) trong
cuốn Quốc triều hình luật - lịch sử hình thành, nội dung và giá trị [63] khảo cứu
rất kĩ mọi khía cạnh của Bộ luật dưới góc độ pháp luật: kĩ thuật lập pháp, các
chế tài, phạm vi bao quát các lĩnh vực trong Bộ luật và đề cập tới nội dung Bộ
luật thông qua cách tiếp cận đó; tác giả Cao Văn Liên (2004) với cuốn Pháp luật

các triều đại Việt Nam và các nước [35] và tác giả Vũ Thị Phụng (2007) với
cuốn Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam [50] đã cho cái nhìn
tổng quan về tiến trình phát triển của pháp luật Việt Nam mà Quốc triều hình
luật được đánh giá cao hơn cả về thành tựu lập pháp. Từ đó, đánh giá về nội
dung và giá trị của Quốc triều hình luật mà ngày nay chúng ta có thể chắt lọc và
kế thừa để điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội ngày nay.
* Các công trình liên quan đến quan niệm Hiếu của Nho giáo tiên Tần
trong Quốc triều hình luật
Tác giả Trần Thị Thúy Ngọc (2012) với bài viết Về một đặc điểm của
Nho giáo thời Lê thông qua quan niệm Trung, Hiếu trong Quốc triều hình
9


luật đăng trong sách “Triết học phương Đông và phương Tây vấn đề và
cách tiếp cận” [20], đã bước đầu nêu lên những ảnh hưởng của đạo Hiếu
trong Nho giáo đến Quốc triều hình luật. Theo đó, tác giả nhận định tội bất
Hiếu đã được minh họa rõ ràng trong điều thứ 2 của chương Danh Lệ. Trong
đó, tội bất Hiếu là một trong mười tội lớn nhất. Bất Hiếu bao gồm những
hành động sau: tố cáo, rủa mắng ông bà cha mẹ, trái lời cha mẹ dạy bảo,
nuối nấng thiếu thốn… Ngoài ra, tác giả cũng nhận định việc đưa ra Ngũ
phục đồ và để tang cửu tộc, có lẽ nằm trong ý đồ của các vua Lê nhằm thiết
lập một đời sống gia tộc, phong tục tập quán cho các dòng tộc Việt Nam
giống với Trung Quốc. Thêm nữa, tác giả còn bàn đến ảnh hưởng của chữ
Hiếu trong Nho giáo đến Quốc triều hình luật và có những đánh giá về vai
trò của đạo Hiếu trong việc xây dựng và bảo vệ bộ máy chính quyền thời
vua Lê Thánh Tông.
Tiếp đó, tác giả Ngô Thị Minh Hằng trong bài viết Chữ Hiếu trong Nho
giáo và ảnh hưởng của nó đến luật pháp Việt Nam xưa và nay [74] đã trình
bày khái quát ảnh hưởng của chữ Hiếu trong Nho giáo đến các bộ luật Việt
Nam như Bộ luật thời Lý - Trần, Quốc triều hình luật, Hoàng việt luật lệ và

luật pháp Việt Nam hiện nay. Tác giả đã trình bày ngắn gọn những biểu hiện
của Hiếu trong Nho giáo qua các Bộ luật Việt Nam từ xưa đến nay và đưa ra
nhận định về vai trò của đạo Hiếu trong xã hội Việt Nam: Nho giáo khi du
nhập vào Việt Nam đã giữ một vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa tinh
thần của nhân dân ta qua nhiều giai đoạn lịch sử. Với quan niệm xem gia đình
là gốc của xã hội, chữ Hiếu của Nho giáo vào Việt Nam đã được “bản địa
hóa” phần nào những giáo lý cho thích hợp với xã hội. Hiếu là tình cảm quý
báu, là lòng biết ơn công sinh thành dạy dỗ, tự giác có trách nhiệm, nghĩa vụ
chăm sóc nuôi dưỡng cha mẹ, ông bà, cả những lúc ốm đau già lão và nhớ
công ơn đến khi ông bà cha mẹ đã khuất. Hiếu là nhân cách của con người, là
gốc của nhân luân, là một giá trị đạo đức xã hội cao quý của con người. Kẻ
bất hiếu được xem là xấu xa nhất, có tội danh trong pháp luật, đạo hiếu của
dân tộc bất cứ triều đại nào cũng đề cao, được quy định trong các văn bản
10


pháp luật xưa và nay. Hiếu kính của Nho giáo trở thành những đạo lý thấm
dần vào đời sống tinh thần người dân, giúp hình thành nên một phần nhân
cách của người Việt Nam.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên hoặc là chỉ nghiên cứu về
quan niệm Hiếu trong Nho giáo tiên Tần, hoặc chỉ nghiên cứu Quốc triều hình
luật dưới góc độ luật học, còn việc nghiên cứu quan niệm Hiếu của Nho giáo
tiên Tần và tác động của nó đến Quốc triều hình luật được đề cập dưới góc độ
Triết học còn rất mờ nhạt. Chính vì vậy, luận văn Quan niệm của Nho giáo tiên
Tần về Hiếu và những biểu hiện của nó trong Quốc triều hình luật được tác giả
thực hiện sẽ góp phần làm sâu sắc hơn quan niệm của Nho giáo tiên Tần về
Hiếu và những biểu hiện của nó trong Quốc triều hình luật.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu: Luận văn làm rõ quan niệm Hiếu của Nho
giáo tiên Tần và những biểu hiện của nó trong Quốc Triều Hình Luật.

* Nhiệm vụ nghiên cứu: Thứ nhất, phân tích bối cảnh ra đời, nội
dung cơ bản của quan niệm Hiếu trong Nho giáo tiên Tần, giá trị và hạn chế
của nó.
Thứ hai, phân tích bối cảnh ra đời, những biểu hiện về quan niệm Hiếu
của Nho giáo tiên Tần trong Quốc triều hình luật, giá trị và hạn chế của nó.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Quan niệm Hiếu trong Nho giáo tiên Tần và
trong Quốc triều hình luật.
* Phạm vi nghiên cứu: Luận văn giới hạn nghiên cứu quan niệm Hiếu
chỉ trong sách Tứ thư và những biểu hiện của nó trong Quốc triều hình luật.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên nền tảng quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa con người và xã hội,
sự tác động qua lại lẫn nhau giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Luận văn
11


cũng dựa trên quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về
việc kế thừa giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và nhân loại nhằm góp
phần làm phong phú hơn đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân ta trong
thời kỳ đổi mới.
* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: lịch sử - logic; phân
tích - tổng hợp; đối chiếu - so sánh; phương pháp hệ thống - cấu trúc…
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn đã góp phần làm sâu sắc thêm quan niệm của Nho giáo tiên
Tần về Hiếu và những biểu hiện của nó trong Quốc triều hình luật. Đồng
thời, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các môn học có liên quan
đến Nho giáo tiên Tần và Quốc triều hình luật.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 2 chương và 6 tiết.

12


CHƯƠNG 1.
QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO TIÊN TẦN VỀ HIẾU
1.1. Bối cảnh ra đời của quan niệm Hiếu trong Nho giáo tiên Tần
1.1.1.
Điều kiện kinh tế - xã hội
Thời kỳ Xuân Thu (770 - 475 trước công nguyên), đồ sắt xuất hiện phổ
biến, việc sử dụng công cụ lao động bằng sắt đã thay thế công cụ bằng đá,
đồng. Từ đó, đem lại sự phát triển mạnh mẽ đối với nền sản xuất công
nghiệp và thủ công nghiệp. Đây cũng là thời kì khởi sắc của nền kinh tế
thương nghiệp ở các nước Hàn, Tề, Tần, Sở. Thành thị đã có một cơ sở kinh
tế tương đối độc lập, từng bước tách ra khỏi chế độ thành thị thị tộc của quý
tộc thị tộc. Do việc sử dụng công cụ bằng sắt trở thành phổ biến cùng với
việc mở rộng quan hệ trao đổi sản phẩm lao động, sự phân công trong sản
xuất thủ công nghiệp cũng đã đạt tới mức chuyên nghiệp cao hơn. Trên cơ
sở sản xuất thủ công nghiệp, thương nghiệp cũng phát triển cao hơn trước,
tiền tệ đã xuất hiện. Trong xã hội đã hình thành một tầng lớp thương nhân
giàu có và ngày càng có thế lực. Thương nhân có nhiều người kết giao với
chư hầu và công khanh đại phu, gây nhiều ảnh hưởng đối với chính trị
đương thời. Tuy vậy, thời điểm đó nghề buôn bán ở Trung Quốc lại được coi
là rẻ mạt nhất, theo quan điểm “nông bản thương mạt”, nên chưa thực sự
phát triển. Nhưng chính thông qua thương nghiệp đã tạo ra trong cơ cấu giai
cấp xã hội có thêm một tầng lớp mới, tầng lớp này dần dần xuất hiện như
một loại quý tộc mới với thế lực ngày càng phát triển nhanh, tìm cách tranh

giành quyền lực với tầng lớp quý tộc cũ.
Chế độ tông pháp nhà Chu không còn được tôn trọng như trước nữa.
Đầu mối các quan hệ về kinh tế, chính trị, quân sự giữa Thiên tử và các
nước chư hầu ngày càng lỏng lẻo, huyết thống ngày càng xa, trật tự xã hội
nhà Chu không còn được tôn trọng. Thiên tử gần như không có quyền gì đối
với các nước chư hầu, không xét xử được các tranh chấp đối với các nước
chư hầu. Việc các nước gây chiến tranh thôn tính lẫn nhau cũng như các lãnh
chúa bóc lột tàn khốc dân chúng không chỉ dẫn tới sự diệt vong hàng loạt
các nước chư hầu nhỏ mà còn dẫn tới sự diệt vong của lễ nghĩa nhà Chu làm
13


cho mâu thuẫn trong giai cấp thống trị ngày càng trở nên gay gắt và sự rối
loạn trong xã hội ngày càng tăng. Thời này, “các lãnh chúa càng tăng cường
bóc lột nhân dân lao động. Người dân ngoài việc phải đi chiến trận thực hiện
các cuộc chinh phạt của các tập đoàn quý tộc, còn phải chịu sưu thuế, phu
phen, lao dịch nặng nề. Thiên tai thường xuyên xảy ra, nạn cướp bóc nổi lên
khắp nơi làm cho đời sống nhân dân càng thêm khốn khổ, dân lưu vong,
đồng trong ruộng ngoài bỏ hoang” [3, tr.35]. Chế độ tỉnh điền tan rã. Sau đó,
chế độ tư hữu ruộng đất được pháp luật nhà nước thừa nhận bảo vệ. Khi chế
độ tư hữu ruộng đất phát triển, số lượng ruộng đất của nông dân sở hữu
không bằng nhau, nhà nước đã bỏ hình thức thu thuế cũ mà thi hành chế độ
thu thuế đánh vào từng mẫu ruộng. Thời Xuân Thu, sự bần cùng của đa số
dân trong xã hội, sự tấn công của các nước ngoại bang, sự chuyển đổi quyền
lực giữa các thế lực chính trị, mà vua nhà Chu mất dần quyền lực của mình,
chỉ có thể duy trì quyền lực dựa vào nước chư hầu. Trong khi đó các nước
chư hầu càng ngày càng mạnh, muốn mở rộng lãnh thổ của mình ra bên
ngoài. Vì thế, trong thời kì này, các nước luôn nằm trong tình trạng chiến
tranh hoặc chuẩn bị chiến tranh.
Những người thuộc tầng lớp quý tộc bị biến thành bình dân thì họ chỉ

còn cách từ bỏ địa vị của mình để đi làm nghề khác nhưng khi tiếp xúc với
những người bình dân, đã giúp họ thay đổi tư duy dần thành những người trí
thức. Điều này chứng minh cho sự khác nhau giữa chế độ giáo dục của
Trung Quốc thời phong kiến với chế độ giáo dục phương Tây thời Trung cổ
là chỉ dành cho tầng lớp quý tộc. Không chỉ tầng lớp quý tộc mà ngay cả
tầng lớp bình dân cũng có những biến đổi to lớn. Những người dân đang
sống dựa vào canh tác đất đai, song do nhân khẩu ngày càng nhiều, đất đai
không thể nuôi sống con người, tình trạng đó gây ra tranh cướp, chiến tranh,
nhiều người phải từ bỏ đất đai của mình, chạy đi khắp nơi để mưu sinh hoặc
phải làm những nghề nghiệp khác để duy trì cuộc sống. Nhưng có người nhờ
vào việc kinh doanh mà phất lên trở thành những người buôn giàu có nổi
tiếng thời Xuân Thu như: Huyền Cao, Ninh Thích.

14


Thời Xuân Thu, quan hệ sản xuất địa chủ phong kiến tồn tại xen kẽ với
quan hệ sản xuất chủ nô. Giai cấp địa chủ ngày càng có xu thế lấn át chủ nô
trong việc chi phối mọi sinh hoạt trong xã hội. Họ không thỏa mãn với trật tự
của xã hội cũ, muốn thiết lập trật tự xã hội mới. Bởi lẽ, trật tự xã hội vốn được
xem là ý Trời, thì nay cần phải thay đổi cho phù hợp. Đứng trước thực trạng
đó, có người cho rằng, Trời chỉ thương người có Đức, vậy con cháu nhà Chu
thoái hóa bất lực, không được như các tiên vương đời trước nên xã hội loạn là
tất yếu. Có người lại cho rằng, trong xã hội thực ra còn chỗ thiếu xót như:
không khôi phục Lễ, không hợp thời hoặc do không coi trọng pháp luật nên
cần phải khôi phục lại kỉ cương. Trong hoàn cảnh như vậy, con người không
còn giữ được phân vị theo đúng địa vị người trên, kẻ dưới như trước. Vì thế,
vấn đề đạo Hiếu được đặt ra nhằm giúp con người chính danh địa vị trong gia
đình và xã hội.
Thời kỳ Chiến Quốc (475 - 221 trước công nguyên), từ thời Xuân Thu đến

Chiến Quốc, kĩ thuật thủy lợi và canh tác, khai khẩn đất đai càng phát triển. Kéo
theo đó là sự phát triển của nghề thủ công như nghề làm đồ gốm, nghề trồng dâu
nuôi tằm, dệt lụa, nghề chạm trổ vàng bạc đưa đến tiền tệ bằng kim loại ra đời.
Thương nghiệp và các trung tâm buôn bán trao đổi hàng hóa hưng thịnh. Các
nước đều chú ý đến công thương mà những nhà buôn trở thành những bậc đại
phú, tạo nên sự tôn trọng của nhà vua đối với họ. Cuối thời Xuân Thu, chỉ có
các ông chủ nhỏ, thì đến thời Chiến Quốc xuất hiện càng nhiều các xưởng lớn
với vô số nô lệ và các thợ thủ công. Họ kinh doanh gạo, sản xuất tơ, làm muối
hoặc rèn sắt, cũng có người nuôi gia súc với số lượng lớn. Những người đó
ngày càng giàu có, vượt quá cả vua chúa đương thời và tất nhiên thế lực và ảnh
hưởng của họ ngày càng trở nên lớn mạnh hơn trong xã hội.
Tuy nhiên, chiến tranh tàn khốc trên quy mô lớn và liên tục giữa các
nước chư hầu đã làm cho đời sống nhân dân lao động ngày càng cùng cực
hơn. Nhân dân đánh nhau tranh thành, giết người xác chết đầy thành, đánh
nhau giành đất, giết người xác chết đầy đồng. Sự phát triển của nền kinh tế
hàng hóa và chiến tranh loạn lạc xảy ra liên miên đã làm cho công xã nông
15


thôn tan rã. Chế độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất dần trở thành quan hệ sở
hữu thống trị. Sự mua bán ruộng đất tự do và sự phổ biến của chế độ tư hữu
đã mở đường cho sự tập trung ruộng đất vào tay một số ít lãnh chúa, địa chủ
giàu có. “Đa số nông dân mất hết ruộng đất phải đi cày thuê cày mướn trở
thành tá điền cố nông. Chế độ bóc lột bằng phát canh thu nô xuất hiện.
Trong lòng xã hội đã xuất hiện những yếu tố của quan hệ sản xuất mới, đó là
chế độ phong kiến quận huyện. Mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt hơn đã
đẩy xã hội tới nguy cơ nghiêm trọng. Điều đó, chính giai cấp thống trị đã
nhận thấy, nên chúng đã tiến hành một số biện pháp cải cách nhằm ngăn
chặn nguy cơ đảo lộn xã hội” [3, tr.38].
Giai cấp quý tộc thị tộc nhà Chu bị mất đất, mất dân, địa vị kinh tế

ngày càng sa sút và đương nhiên vai trò chính trị, ngôi Thiên tử của nhà Chu
chỉ là hình thức. Thời kỳ này chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang
chế độ phong kiến. Sự phát triển của sức sản xuất đã tác động mạnh mẽ đến
hình thức sở hữu ruộng đất và kết cấu giai tầng của xã hội. Nếu dưới thời
Tây Chu, đất đai thuộc sở hữu của nhà vua thì nay thuộc về tầng lớp địa chủ
mới lên và chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất hình thành. Từ đó, sự phân
hóa sang hèn dựa trên cơ sở tài sản xuất hiện. Xã hội lâm vào cảnh loạn lạc,
rối ren và chiến tranh xảy ra liên miên. Đây chính là điều kiện lịch sử đòi
hỏi giải thể chế độ nô lệ thị tộc nhà Chu, hình thành chế độ phong kiến; đòi
hỏi giải thể nhà nước của chế độ gia trưởng, xây dựng nhà nước phong kiến
nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, mở đường cho xã hội phát triển.
Sự phát triển lực lượng sản suất không đều ngay cả ở những nước chư
hầu dẫn đến tình trạng nước phát triển nhanh mạnh, nước phát triển chậm.
Do vậy, đến thời Đông Chu đã xuất hiện các nước lớn gọi là bá chủ, sự tranh
giành diễn ra đẩy xã hội vào thực trạng hỗn loạn, gây ra không biết bao
nhiêu đau khổ cho người dân lao động. Như vậy, kết quả của những biến
động kinh tế đã dẫn đến sự đa dạng trong kết cấu giai tầng của xã hội. Nhiều
giai tầng mới và cũ đan xen, xuất hiện những mâu thuẫn gay gắt:

16


Một là, mâu thuẫn giữa tầng lớp địa chủ có tư hữu tài sản, có địa vị
kinh tế trong xã hội mà không được tham gia chính quyền với giai cấp thị
tộc cũ của nhà Chu đang nắm chính quyền.
Hai là, mâu thuẫn giữa tầng lớp sản xuất nhỏ, thợ thủ công, thương
nhân với giai cấp quý tộc thị tộc nhà Chu.
Ba là, trong bản thân giai cấp quý tộc thị tộc nhà Chu có một bộ phận
tách ra, chuyển hóa lên giai tầng mới, một mặt họ muốn bảo lưu nhà Chu,
một mặt họ không hài lòng với trật tự xã hội cũ và muốn cải biến nó bằng

con đường cải lương, cải cách.
Bốn là, tầng lớp tiểu quý tộc thị tộc, một mặt họ đang bị tầng lớp địa
chủ mới lên tấn công về chính trị kinh tế, mặt khác họ cũng có mâu thuẫn
với tầng lớp đại quý tộc thị tộc đang nắm chính quyền.
Năm là, mâu thuẫn giữa tầng lớp nông dân công xã với nhà Chu và
tầng lớp địa chủ đang ra sức bóc lột, tận dụng sức lao động của họ.
Xuất phát từ những mâu thuẫn trong kinh tế do sự phát triển của công
cụ lao động và trình độ canh tác trong xã hội đã dẫn đến sự đảo lộn trật tự
xã hội, sự tranh giành lãnh địa, địa vị xã hội đã đẩy xã hội đương thời lâm
vào cảnh chiến tranh loạn lạc liên miên. Thực tế xã hội thời điểm này cho
thấy, trật tự xã hội bị đảo lộn, vua không ra vua, bề tôi không ra bề tôi, cha
không ra cha, con không ra con. Những biến động của xã hội thời Xuân
Thu - Chiến Quốc diễn ra trên các phương diện chính trị, kinh tế, xã hội.
Do vậy, quan niệm về Hiếu đã được các nhà Nho tiên Tần đặc biệt quan
tâm bởi ý nghĩa thiết thực của nó trong việc bình ổn xã hội. Quan niệm về
Hiếu được phát triển và vận dụng ở thời Xuân Thu - Chiến Quốc không chỉ
bị quy định bởi bối cảnh xã hội đương thời mà còn dựa trên tiền đề tư
tưởng về tôn giáo, đạo đức, chính trị trong lịch sử văn hóa Trung Quốc từ
xa xưa.
1.1.2. Tiền đề tư tưởng
Quan niệm của Nho giáo tiên Tần về Hiếu được hình thành không chỉ
trên điều kiện, tiền đề kinh tế xã hội mà còn là sự kế thừa, phát triển những

17


quan niệm, tư tưởng văn hóa, đạo đức ngay từ thời nhà Hạ, nhà Thương, nhà
Ân đến thời kì nhà Chu.
Về tôn giáo: Quan niệm về Hiếu thể hiện sớm trong lịch sử văn hóa
Trung Quốc: “Thiên tử anh minh cầu Hiếu với thần linh. Dùng lễ để tỏ Hiếu

với người xưa. Lấy việc truyền ngôi để tỏ Hiếu với vua xưa. Dùng lễ để tỏ
Hiếu với Tổ tiên hoàng tộc” [dẫn theo 53, tr.249]. Quan niệm về Hiếu trong
Kim Văn vẫn chưa phát triển đến trình độ cao. Sau này người Ân đặc biệt
coi trọng tang lễ nên tục thờ cúng của người Ân là trung tâm sinh hoạt của
tôn giáo. Người Chu kế thừa tôn giáo thờ cúng tổ tiên của người Ân và có sự
phát triển hơn, làm cho quan hệ giữa người với Thượng đế mật thiết hơn
nhiều và sau khi hóa thần thì trở thành đối tượng Hiếu kính chung.
Ngoài việc tiếp tục truyền thống tế Đế tổ, Tiên vương của người Ân,
người Chu cộng thêm tư tưởng kính Trời, thờ Thượng đế, hợp mệnh Trời,
người và Trời hợp nhất. Họ cho rằng, Thượng đế và thần tổ tiên nguyên là
hai, không thể lẫn là một. Nhà Ân do không biết mệnh Trời để ra sức làm
cho “hợp mệnh Trời” nên nay Thượng đế không còn ưu người Ân nữa mà
ban mệnh xuống cho thần phục nhà Chu, cho người Chu hiện nay lập ấp,
dựng nước, lại ban mệnh cho “nhận dân nhận cõi”, cho tổ tiên người Chu
được sánh ngang với Thượng đế và nhận mệnh làm vương, làm hầu, làm
hoàng. Do đó, con cháu nhà Chu phải dốc tâm gìn giữ truyền thống ấy, nghĩa
là con cháu nhà Chu phải thực hành đạo Hiếu đối với Trời, vì vua là Thiên
tử, con của Trời.
Thế giới quan huyền thoại, thế giới quan duy tâm tôn giáo với các
biểu tượng của Thiên mệnh, ý chí của thượng đế và quỷ thần, được xem là
những lực lượng tinh thần tối cao, chi phối và quyết định sự hình thành và
biến hóa của vũ trụ, đời sống con người và xã hội. Đời nhà Thương - Chu
tồn tại phổ biến quan niệm duy tâm thần bí rằng con người có thể thông đạt
được với Thượng đế và quỷ thần. Nhà vua đương triều phải thờ tổ tiên của
mình, trong đó người xa nhất, vị sáng lập ra dòng họ là một vị thần tối cao
trên Trời là Thượng đế. Những quan niệm duy tâm này đã được truyền lại
cho đời sau và đến thời nhà Chu thì Thượng đế dần dần mất đi tính nhân
18



hình để trở thành ông Trời. Trời chủ yếu là thế lực che chở cho dòng họ của
hoàng tộc nhưng cũng đồng thời là người phán xử hoàng tộc.
Về chính trị: Vì mục đích bảo vệ chế độ nhà nước phong kiến, nhà vua
đều lấy Trời là đấng tối cao để chi phối tất cả. Mọi thứ đều theo ý Trời, tất
cả các chiếu, lệnh của vua đều có lời tựa “phụng thiên thừa vận”, có nghĩa là
vua đang thay Trời hành đạo, Thiên tử đang thể hiện ý Trời. Đó cũng là cách
tiếp cận về lòng Hiếu của vua đối với Trời, phải tuân thủ ý Trời, để cai quản
đất nước, mang lợi ích cho nhân dân.
Tư tưởng chính trị chủ yếu của giai cấp quý tộc nhà Chu là “nhận dân”
và “trị dân”. Từ tư tưởng này, nhà Chu cho rằng, khi đã vâng mệnh Trời mà
kẻ nào chống lại, thì nhà Chu sẽ thay mặt Trời trừng phạt. Họ khẳng định
vua nhà Chu là Thiên tử, là người duy nhất thay Trời thống trị thiên hạ. Đây
là tư tưởng chuyên chính tàn khốc của giai cấp quý tộc nhà Chu, được phủ
lên một lớp son tôn giáo về ý Trời và mệnh Trời. Tuy nhiên tư tưởng về con
người và xã hội của Nho giáo tiên Tần còn là sự kế thừa những giá trị truyền
thống của dân tộc Trung Hoa, sự kế thừa của tư tưởng kính Thiên.
Về đạo đức: Nho giáo tiên Tần đưa ra hai phạm trù Đức và Hiếu để lý
giải quyền uy và sự vững bền của triều đại. Chữ Đức thể hiện qua những việc
làm phù hợp với ý dân, mang lại ấm no cho dân của các triều đại trước. Các
đời vua sau nên học chữ Hiếu để báo đáp và đền ơn các đời vua trước. Nhà
Chu cũng dùng lí lẽ này để giải thích tại sao việc nhà Ân không giữ được ngôi
báu, vì họ không giữ được đạo Hiếu, không biết đến mệnh Trời, làm hợp lòng
Trời, lòng dân. Sở dĩ nhà Chu có thể lên ngôi và duy trì xã hội là nhờ có lòng
Hiếu kính với Trời, làm việc hợp lòng dân, mang lợi ích đến cho dân. Mặt
khác, nhà Chu phải biết ơn đến các đời vua trước, nếu không có các đời vua
trước thì cũng không có nhà Chu.
Khi đưa ra quan niệm về xã hội lý tưởng, việc giáo dục, tu dưỡng
đạo đức, cụ thể là đức Hiếu của vua được đặc biệt coi trọng. Do vậy, đạo
đức truyền thống chính là tiền đề tư tưởng cho sự hình thành quan niệm
của Nho giáo tiên Tần về đức Hiếu. Thời nhà Hạ (2179 - 1766 trước công

nguyên), vua Hạ Vũ là người mà sử cũ chép lại rằng, vua Vũ chỉ lo kẻ sĩ

19


đến nhà mình mà không tiếp được nên tóc không kịp búi, ăn một bữa đứng
dậy đến ba lần. Hay như đạo đức của vua Thang thời nhà Thương (1766 1134 trước công nguyên), là người thương dân và luôn tu dưỡng không
ngừng về đạo đức cho bản thân mình. Vì vậy, ý nghĩa nguyên thủy của
chữ Hiếu là sự kết hợp giữa tôn giáo và luân lý, nhằm đẩy mạnh sự đoàn
kết dân tộc và sự thống nhất về chính trị.
Từ các tiền đề tư tưởng trong truyền thống lịch sử văn hóa Trung
Quốc kết hợp với sự thay đổi trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội đã
xuất hiện những tụ điểm, những trung tâm của những “kẻ sĩ” luôn tranh
luận về các vấn đề của trật tự xã hội cũ và đề ra những mẫu hình của một
xã hội trong tương lai. Lịch sử gọi đây là thời kỳ “Bách gia chư tử” (trăm
nhà trăm thầy), “Bách gia tranh minh” (trăm nhà đua tiếng). Chính trong
quá trình ấy đã sản sinh ra những nhà tư tưởng lớn và hình thành nên các
trường phái triết học khá hoàn chỉnh. Đặc điểm của các trường phái này là
lấy con người và xã hội làm trung tâm của sự nghiên cứu, có xu hướng
chung là giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội.
Thời kì này có chín trường phái chính: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Âm
dương gia, Danh gia, Pháp gia, Nông gia, Tung hoành gia, Tạp gia, trừ
Phật giáo được du nhập từ Ấn Độ sau này. Trong đó, đường lối Đức trị
của Nho giáo giữ vai trò quan trọng trong việc bình ổn xã hội, đặc biệt
đức Hiếu được coi như là đức căn bản nhất để điều chỉnh hành vi, đạo đức
của con người.
1.2. Nội dung cơ bản của quan niệm Hiếu trong Nho giáo tiên Tần
Hiếu là một trong những khái niệm chủ yếu trong triết học phương
Đông cũng như trong đường lối Đức trị của Khổng Tử, để chỉ một trong
những đức tính căn bản của con người. Trong Nho giáo tiên Tần, có thể nói,

không có một triết lý đạo đức nào có sức ảnh hưởng rộng lớn như quan niệm
về Hiếu. Đạo Hiếu không chỉ có ý nghĩa về mặt luân lý, là tiêu chí chuẩn
mực của đạo đức xã hội mà còn có ý nghĩa về mặt chính trị và quy phạm
pháp luật. Hiếu được coi là một trong những đức tính, tình cảm, lễ tiết của
20


con người, là biểu hiện của thiên tính trong lối sống của con người. Trong
lịch sử văn hóa Trung Hoa nói chung và trong học thuyết Nho giáo nói
riêng, Hiếu là một phạm trù lớn, chứa đựng nhiều nội dung sâu sắc và có sức
ảnh hưởng rộng lớn tới mọi mặt trong đời sống xã hội.
Nội dung của giáo dục đức Hiếu không nằm ngoài Tứ thư, Thập Tam
kinh và những lời dạy của các bậc thánh hiền, tức là không ngoài những
nguyên lý đạo đức cơ bản, đức Hiếu chính là gốc của đức Nhân. Trong nội
dung giáo dục của mình, Nho giáo đã đề cao việc giáo dục đạo trị quốc và
chủ trương dùng hình, pháp và luật để giáo hoá, giáo dục con người, nhưng
mục đích cuối cùng vẫn là kiến tạo, đảm bảo trật tự xã hội và duy trì lợi ích
của giai cấp thống trị. Những nội dung và yêu cầu cơ bản của quan niệm
Hiếu trong Nho giáo tiên Tần chủ yếu thể hiện qua thái độ, ứng xử của con
cái với cha mẹ và sự báo đáp của dân, bề tôi với vua.
1.2.1. Thái độ, ứng xử của con cái với cha mẹ
Đạo Hiếu trong quan hệ giữa cha mẹ và con cái thường được hiểu là sự
Hiếu thuận của con cái đối với cha mẹ, đó là kính yêu, phụng dưỡng cha mẹ,
vâng theo di huấn của tổ tiên, thực hiện đầy đủ nghi lễ trong dòng họ,.v.v.
Lòng Hiếu của những người cùng huyết thống còn bao gồm Hiếu - Đễ, tức là
lòng kính yêu đối với anh chị. Quan niệm Hiếu của Nho giáo tiên Tần về thái
độ, ứng xử của con cái với cha mẹ cần đáp ứng những yêu cầu cơ bản sau:
Thứ nhất, Hiếu không chỉ nuôi cha mẹ mà còn phải tôn kính và quan
tâm đến cuộc sống của cha mẹ. Khổng Tử và các học trò của ông đều khẳng
định rằng: trách nhiệm của người làm con là phải phụng dưỡng cha mẹ,

nhưng nuôi mà không kính thì không phải là báo Hiếu. Cho nên, trong
thiên Vi chính, khi Tử Du hỏi về đạo Hiếu, Khổng Tử nói: “Hiếu thuận ngày
nay chỉ là phụng dưỡng người già. Cho dù chó cũng được cho ăn. Không tôn
trọng thì có gì là khác biệt ?” [60, tr.113]. Nghĩa là, đối với cha mẹ, người
có công sinh thành dưỡng dục mình, người con phải có trách nhiệm nuôi
dưỡng cha mẹ lúc già yếu. Nhưng việc thực hiện trách nhiệm ấy phải gắn
liền với một thái độ kính trọng. Đó cũng là điểm khác biệt giữa cách đối xử
21


của con người với con người và con người với con vật. Cách so sánh có
phần thẳng thắn này của Khổng Tử không hề làm giảm ý nghĩa của việc nuôi
dưỡng, kính trọng cha mẹ, mà còn làm cho việc thực hành đạo Hiếu theo
đúng nghĩa của nó trở nên thực tế hơn. Sự thống nhất giữa hành động và tư
duy khiến cho việc làm tròn đạo Hiếu không đơn thuần chỉ là hoàn thành
trách nhiệm, mà hơn thế, đó là một việc xuất phát từ tình cảm yêu thương,
trân trọng, đặc biệt là kính trọng của người con đối với cha mẹ. Các nhà Nho
tiên Tần đặc biệt đề cao vai trò của Thành - Kính, dẫu phải ăn gạo xấu, uống
nước lã mà làm cho cha mẹ vui thì đó gọi là Hiếu. Nếu cho cha mẹ ăn sơn
hào hải vị mà trong lòng cha mẹ không vui hay vẫn còn trăn trở thì người
con đó chưa gọi là có Hiếu. Nếu việc báo Hiếu cha mẹ chỉ dừng ở nuôi
dưỡng với tôn chỉ cốt cho ăn no, ăn ngon, thì mới chỉ là chạm tới đường
biên của nghĩa vụ, chứ chưa đến được với bản chất người đích thực. Việc
Khổng Tử gắn liền Hiếu với Đễ (kính trọng) cho thấy, ông rất đề cao cái gốc
của đạo làm người. Tất nhiên, theo tư tưởng của Khổng Tử, kính không chỉ
là kính trọng cha mẹ, mà còn là kính nhường bậc huynh trưởng, tức người
lớn tuổi hơn mình. Song chỉ riêng tư tưởng gắn kết việc nuôi dưỡng với việc
kính trọng cha mẹ của Khổng Tử cũng đã đủ để khiến cho những người làm
con phải suy ngẫm lại sự đối xử của mình đối với cha mẹ.
Không những thế, trong quan niệm của Khổng Tử, mỗi người con đều

phải thấy được rằng, việc nuôi dưỡng, kính trọng cha mẹ hoàn toàn không
phải và không thể là một hành động nhất thời, bề ngoài, mà đó là việc tự
giác thực hiện trong một quá trình lâu dài. Về điểm này, khi Tử Hạ hỏi về
đạo Hiếu, Khổng Tử nói: “Dung mạo ôn hòa sắc mặt vui vẻ là khó. Khi có
việc thì con trai con gái làm; có rượu thịt, thì mời người già ăn; như thế gọi
là hiếu chăng?” [60, tr.114]. Như vậy, Khổng Tử yêu cầu người làm con vốn
phải có tâm Hiếu để thực hành đạo Hiếu như một lẽ tất nhiên trong suốt
cuộc đời. Tuy nhiên, các thế hệ nhà Nho về sau ít chú ý đến yêu cầu này, mà
thường nặng về thực hành lễ nghi đối với cha mẹ theo những quy tắc, chuẩn
mực đã có. Hơn nữa, để có thể phụng dưỡng và kính trọng cha mẹ thì theo
22


Khổng Tử, “Khi cha mẹ già còn sống, không nên đi xa, nếu bắt buộc phải đi,
nhất định phải lưu lại địa chỉ rõ ràng” [60, tr.143]. Tuy yêu cầu này không
được đặt thành một nội dung riêng biệt, nhưng lại có tính chất chi phối mạnh
mẽ đối với hành động của các nhà Nho. Về cơ bản, Nho giáo tiên Tần yêu
cầu phận làm con đi phải báo, về phải vào trình để cha mẹ được biết và cũng
là để vấn hỏi cha mẹ xem người có điều gì căn dặn hay không. Quan điểm
này có ý nghĩa giáo dục sâu sắc, nhưng về sau, các nhà Nho lại thường hiểu
là khi cha mẹ còn sống, phận làm con giữ đạo Hiếu không được đi xa. Chính
vì vậy, nó lại trở thành một trong những nguyên nhân kìm hãm sự phát triển
của con người, đôi khi lại là cái cớ để người ta lẩn tránh trách nhiệm đối với
cộng đồng, xã hội.
Mạnh Tử đã nhất quán và tiếp tục phát triển hàm ý trên của Khổng Tử
trong luận thuyết của mình với việc ông đưa ra năm điều coi là bất Hiếu, đó
là: “Chân tay làm biếng, không để ý đến cuộc sống của cha mẹ, đó là điều
bất hiếu thứ nhất; mê cờ bạc rượu chè, không để ý đến cuộc sống của cha
mẹ, là điều bất hiếu thứ hai; tham tiền của, chỉ yêu thương vợ con, không để
ý đến cuộc sống của cha mẹ là điều bất hiếu thứ ba; ham chơi phóng túng

khiến cha mẹ tủi hổ, là điều bất hiếu thứ tư; khoe khoang sức mạnh khiến
cha mẹ gặp nguy hiểm, là điều bất hiếu thứ năm” [60, tr.485]. Theo đó, việc
không nuôi dưỡng, chăm sóc cha mẹ được Mạnh Tử coi là điều bất Hiếu số
một. Bên cạnh đó, mặc dù không trực tiếp khẳng định vế Kính của vấn đề,
nhưng trong sách Mạnh Tử, chương 4, Vạn chương, Mạnh Tử cũng khẳng
định: “Cái chỗ chí của người con không gì lớn bằng làm cho cha mẹ được
hưởng sự tôn trọng cao nhất. Làm cha của Thiên Tử, là vị trí tôn quý nhất, là
sự phụng dưỡng lớn nhất có thể làm được” [60, tr.497]. Như vậy, Khổng Tử
và Mạnh Tử đều nhấn mạnh đến “tính Nhân” để phân biệt ranh giới, đẳng
cấp, cũng như sự gắn liền giữa hai yếu tố: con và người.
Thời Xuân Thu - Chiến Quốc, chế độ tông pháp Tây Chu tan rã khiến
cho vị trí và quyền lực của đại tông bị giảm đi, vị trí độc lập của tiểu gia
đình được xác lập, phụ quyền trong tiểu gia đình được đề cao. Bên cạnh đó,
23


ý thức xã hội cũng đã phần nào được lý tính hoá, con người không còn quá
lệ thuộc, sợ hãi trước các yếu tố siêu nhiên, quỷ thần một cách mù quáng.
Chịu ảnh hưởng của điều kiện xã hội đó, tuy Khổng Tử không bác bỏ, phủ
định hoạt động tế tổ tông theo nghĩa Hiếu đạo là truy Hiếu, song ông coi đạo
Hiếu trước hết là luân lý gia đình và việc phụng dưỡng cha mẹ là tất yếu
theo đúng chuẩn mực luân lý đạo đức.
Thứ hai, người con có Hiếu phải quan tâm đến tinh thần và chí hướng
của cha mẹ để làm theo và nối nghiệp gia tộc. Giữ gìn thân thể mình để nối
chí hướng của ông cha cũng là thể hiện sự hàm ơn đối với các bậc sinh
thành. Nội dung này xuất phát từ sự sùng kính đối với cái đức sinh sôi, tiếp
nối và coi trọng cái gốc của người Trung Hoa. Theo đó, sinh mệnh của
người con là do cha mẹ trao cho. Người con có trách nhiệm quý trọng bản
thân mình và tiếp nối quá trình sinh thành mà ông cha đã tạo dựng được.
Quan điểm này còn thể hiện tính nhân văn, tấm lòng của cha mẹ đối với con

cái, bởi theo Khổng Tử, làm cha mẹ chỉ lo sợ con mang bệnh tật mà thôi.
Cha mẹ không yêu cầu người con thực hành đạo Hiếu phải hy sinh tấm thân
mình, càng không cho phép người con tự coi rẻ bản thân. Thân thể là cha mẹ
cho mình, nâng niu, chăm bẵm từ tấm bé, người con phải giữ gìn thân thể
của mình, đó là tiền đề không thể thiếu để người con tồn tại và thực hiện đạo
Hiếu. Ngoài ra, sách Hiếu kinh viết: “Thân thể hình hài, tóc tai, da thịt là do
cha mẹ sinh ra không được gây hư hại là nết đầu của chữ Hiếu. Sau lo lập
thân, hành đạo để lại tiếng thơm cho đời sau là tận cùng của chữ Hiếu. Này
đây, chữ Hiếu lấy việc phụng dưỡng cha mẹ làm đầu, kế đến thờ vua, sau rốt
là lập thân” [dẫn theo 20, tr.226], nghĩa là người con phải có trách nhiệm giữ
gìn thân thể mình. Sau này, khi phát triển quan điểm trên, Mạnh Tử
cũng cho rằng, trong các việc cần phụng sự thì việc phụng sự cha mẹ là quan
trọng nhất. Trong những việc phải giữ gìn thì việc giữ gìn thân thể của mình
là quan trọng nhất. Người con chẳng biết giữ gìn, lại còn huỷ hoại thân thể
mình cho đến mang bệnh tật thì chưa phải là Hiếu. Hiếu theo nghĩa này khác

24


hẳn với những câu chuyện “ngu Hiếu”, như xẻo thịt đùi mà hậu Nho về sau
thường viện dẫn ra để làm tấm gương về Hiếu.
Quan niệm của Nho giáo tiên Tần coi giữ gìn thân thể là một nội dung
của đạo Hiếu chứa đựng nhiều giá trị và yếu tố hợp lí. Theo chuỗi biện
chứng vô cùng ấy, xuất phát điểm của tồn tại cũng chính là tồn tại trong quá
trình sinh thành. Đạo Hiếu quy định người con không chỉ phải quý trọng
sinh mệnh của mình, mà còn phải có trách nhiệm tiếp nối vận mệnh của tổ
tiên. Về sau, hàm ý tiếp nối sinh mệnh bằng cách sinh con nối dõi được tách
ra thành một nội dung độc lập. Do đó, giữ gìn thân thể mình được xem là cái
gốc của sinh thành, theo nghĩa duy trì tồn tại riêng để nối tiếp chí hướng sự
nghiệp chung của tổ tiên. Theo Khổng Tử, “Khi cha mẹ còn sống thì phải

xem chí hướng của cha mẹ, khi cha mẹ chết thì phải xem hành động của cha
mẹ, trong ba năm mà không thay đổi những quy tắc của cha mẹ, như thế gọi
là Hiếu” [60, tr.106]. Tức là, phận làm con, lúc cha còn sống thì nhất định
phải xem cái chí hướng đó và cố gắng hoàn thành sự nghiệp mà tổ tiên, ông
cha đã khởi dựng. Khi cha mất đi, nếu người con có định thay đổi chí hướng
thì nhất định cũng phải đợi hết ba năm tang chế, trước là tỏ lòng Hiếu kính
với cha, sau là có thời gian để định hình sự thay đổi cho cẩn thận. Nhưng
người đời sau ít bàn về ý này của Khổng Tử, mà thường nhấn mạnh đến
phận làm con phải học được ra làm quan để dương danh hiển thân, rạng
danh cho cha mẹ; nghĩa là, làm cho cha mình từ làm cha của một người
thường trở thành làm cha của quan to, thậm chí trở thành làm cha của thiên
tử, là cách báo Hiếu trọn vẹn nhất. Một mặt, quan niệm này của Nho giáo
tiên Tần có tác dụng khuyến khích mọi người ra sức học tập, phấn đấu để
được dương danh, hiển thân; mặt khác, nó tạo ra xu hướng trọng chức tước,
quyền lực, ít gắn vào bản chất của việc thực hành đạo Hiếu theo đúng nghĩa.
Không chỉ vậy, Hiếu là khi cha mẹ còn sống, phải làm cho tinh thần
của cha mẹ cảm thấy thoải mái, không lo lắng hay buồn phiền vì con cái.
Bởi vậy, trong sách Trung dung có chép “Kinh Thi có nói: phu thê tâm đầu ý
25


×