Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Phân tích chủ chương kháng chiến kiến quốc trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.65 KB, 5 trang )

Sinh viên: Lý Quốc Vương.
Mã sinh viên: 16052239.
Ngày sinh: 21/05/1998.
Mã lớp học phần: HIS1002 2.
Bài làm kiểm tra giữa kỳ, đề bài :
"Anh/chị hãy phân tích chủ trương kháng chiến kiến quốc của Đảng trong kháng chiến
chống Pháp và chống Mĩ cứu nước?"
Bài làm
1, Chủ trương kháng chiến kiến quốc trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu
nước.
Sau khi Bác Hồ đọc bản tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa ngày 2/9/1945. Đất nước ta đã phả đối mặt với vô vàn những khó khăn và thách thức.
Nhiều nước trên thế giới chưa công nhận nền độc lập của chúng ta. Thù trong, giặc ngoài
chống phá quyết liệt. Ở Miền Bắc: Cuối tháng 8- 1945 theo thỏa thuận của phe Đồng Minh ở
hội nghị Potsdam, trong tháng 9 – 1945, gần 20 vạn quân của chính phủ Tưởng Giới Thạch
dưới danh nghĩa quân Đồng Minh kéo vào miền Mắc nước ta từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc. Quân
Tưởng với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật nhưng thực chất chỉ gây ra cho ta nhiều khó
khăn về kinh tế, rối ren về chính trị. Ở Miền Nam: Quân Anh, quân Pháp đồng lõa với nhau
đánh chiếm Sài Gòn hòng tách Miền Nam ra khỏi Việt Nam. Do hậu quả của chế độ cũ, chúng
ta phải chịu đựng những khó khăn về kinh tế như việc ngân sách thì trống rỗng, nạn đói , nạn
dốt, thiên tai,..khắp nơi. Nên kinh tế trì trệ, tệ nạn tràn lan, cướp của giết người.
Ngày 25-11-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc.
Tình hình quốc tế và trong nước sau chiến tranh có nhiều thay đổi, nhận định lực lực lượng
chiến tranh yếu hơn lực lượng hòa bình, dân chủ thế giới. Bốn mâu thuẫn cơ bản trên thế giới
vẫn còn và ngày càng sâu sắc, nhưng mâu thuẫn giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế
quốc gay go hơn hết ở Đông Nam Á. Về tình hình trong nước, Chỉ thị nhận định: chính quyền
nhân dân đã được thành lập trên khắp đất nước nhưng đang ở trong tình thế vô cùng gay go,
phức tạp, không những phải đối phó với thực dân Pháp xâm lược mà còn phải đối phó với
quân Anh, quân Tưởng, với bọn phản cách mạng, với nạn đói, nạn mù chữ và các khó khăn
về kinh tế, tài chính.
Muốn có những quyết định đối sách thích hợp với từng kẻ thủ, Chỉ thị đánh giá âm


mưu, ý đồ của từng đế quốc. Mỗi kẻ thù ấp ủ những mưu đồ riêng, nhưng đều có chung dã
tâm tiêu diệt Đảng Cộng sản, thủ tiêu nền độc lập non trẻ của nhân dân ta. Chỉ thị xác định:
“Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng. Cuộc cách


mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưa hoàn thành, vì nước chưa được hoàn toàn độc lập… Nhiệm
vụ cứu nước của giai cấp vô sản chưa xong. Giai cấp vô sản vẫn phải hăng hái, kiên quyết
hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng ấy... Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược,
phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”.
Nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của nhân dân lúc này là củng cố chính quyền, chống thực
dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân. Trong những nhiệm vụ đó,
nhiệm vụ bao trùm là củng cố chính quyền. Để củng cố chính quyền cách mạng, thực hiện
đồng thời hai nhiệm vụ “kháng chiến” và “kiến quốc”, Chỉ thị vạch ra những biện pháp toàn
diện và cơ bản để thực hiện:
Về Đảng và Mặt trận Việt Minh, phải duy trì hệ thống tổ chức bí mật và công khai của
Đảng, trong đó coi hoạt động bí mật là gốc. Chú trọng phát triển đảng viên. Mở rộng các tổ
chức nghiên cứu chủ nghĩa Mác; giữ sinh hoạt Đảng đều đặn; thành lập đảng đoàn trong các
cơ quan hành chính và các đoàn thể quần chúng; xây dựng hệ thống tổ chức Đảng trong quân
đội. Thống nhất các tổ chức cứu quốc trên toàn xứ và toàn quốc; mở rộng Mặt trận Việt Minh,
lập các đoàn thể cứu quốc mới, giải quyết những mâu thuẫn giữa Uỷ ban nhân dân và Uỷ ban
Việt Minh; củng cố quyền lãnh đạo của Đảng trong Mặt trận, thống nhất Mặt trận Việt - Miên
- Lào chống Pháp xâm lược.
Về kinh tế và tài chính, mở lại các nhà máy do Nhật bỏ, khai thác các mỏ, cho tư nhân
được góp vốn vào việc kinh doanh các nhà máy và mỏ ấy, khuyến khích các giới công thương
mở hợp tác xã, mở các hội cổ phần tham gia kiến thiết lại nước nhà. Thực hiện khuyến nông,
sửa chữa đê điều, lập ngân hàng, phát hành giấy bạc, định lại ngạch thuế, lập ngân quỹ toàn
quốc, các xứ, các tỉnh. Đẩy mạnh tăng gia sản xuất, chống nạn đói theo khẩu hiệu "Tấc đất tấc
vàng", "Sẻ cơm nhường áo", "Công việc cứu đói cũng cần như việc đánh giặc".
Về chính trị, tăng cường khối đoàn kết toàn dân chống thực dân Pháp xâm lược và xây
dựng đất nước, củng cố chính quyền nhân dân bằng cách kiên quyết trừng trị bọn phản quốc,

tiến hành tổng tuyển cử để bầu Quốc hội, lập Chính phủ chính thức và ban hành Hiến pháp;
có thể cải tổ chính phủ trước khi bầu cử; sửa đổi cách làm việc của chính quyền nhân dân địa
phương.
Về quân sự, động viên toàn dân kiên trì kháng chiến, tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng
chiến lâu dài, dùng lối đánh du kích cùng với phương pháp bất hợp tác triệt để của nhân dân
ở vùng địch chiếm đóng, mở rộng chiến tranh du kích ở Campuchia và phát triển tuyên truyền
vũ trang trên đất Lào.
Về ngoại giao, kiên trì chủ trương ngoại giao với các nước theo nguyên tắc "bình đẳng,
tương trợ". Phương châm là "làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn hết"
và "muốn ngoại giao được thắng lợi là phải biểu dương thực lực". Đối với Tưởng thì chủ
trương Hoa - Việt thân thiện; đối với Pháp, độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế.


Về văn hoá, tổ chức bình dân học vụ, tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở các trường đại
học và trung học, cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ cách dạy nhồi nhét, cổ động
văn hoá cứu quốc, kiến thiết nền văn hoá mới theo nguyên tắc: khoa học hoá, đại chúng hoá,
dân tộc hoá.
Trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, hai Hội nghị Trung ương đã khẳng định quyết
tâm đánh Mỹ và kiên quyết đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất
kỳ tình huống nào nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam.
Nêu rõ nhiệm vụ cấp bách ở miền Bắc lúc này là phải: "Kịp thời chuyển hướng tư tưởng
và tổ chức, chuyển hướng xây dựng kinh tế và tăng cường lực lượng quốc phòng cho phù hợp
với tình hình mới". Đồng thời, Ban Chấp hành Trung ương cũng nêu ra những nhiệm vụ cụ
thể của cách mạng miền Bắc là: Kịp thời chuyển hướng nền kinh tế và tăng cường lực lượng
quốc phòng cho kịp với sự phát triển của tình hình; ra sức tăng cường công tác phòng thủ, trị
an, bảo vệ miền Bắc, kiên quyết đánh bại kế hoạch địch ném bom, bắn phá, phong tỏa miền
Bắc bằng không quân và hải quân; ra sức chi viện cho miền Nam để hạn chế dịch chuyển
"chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam thành "chiến tranh cục bộ" và ngăn chặn địch mở rộng
"chiến tranh cục bộ" ra miền Bắc, kip thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức cho phù hợp với
tình hình mới; đẩy mạnh công tác đấu tranh ngoại giao nhằm tranh thủ sự ủng hộ của bè bạn

quốc tế, vạch rõ âm mưu mới của đế quốc Mỹ đối với cách mạng miền Nam và miền Bắc xã
hội chủ nghĩa.
Tư tưởng chỉ đạo chiến lược là kiên quyết tiến công và liên tục tiến công, đồng thời giữ
vững và phát triển thế tiến công. Đảng khẳng định vị trí cách mạng của hai miền Nam - Bắc
vì mối quan hệ giữa hai miền: “miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Hai
nhiệm vụ đó không tách rời nhau, mà gắn bó mật thiết với nhau thực hiện khẩu hiệu chung
của nhân dân cả nước là "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng giặc Mỹ xâm lược".
Phương châm chiến lược chung trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là: Đánh
lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng mạnh, cần phải cố gắng đến mức độ cao,
tập trung lực lượng cách mạng của cả hai miền để mở những cuộc tiến công lớn, tranh thủ thời
cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam.
Phương châm đấu tranh là: kiên trì phương châm kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh
chính trị, triệt để thực hiện ba mũi giáp công (quân sự, chính trị và binh vận), trong đó đấu
tranh quân sự có tácdụng quyết định trực tiếp và giữ một vị trí ngày càng quan trọng.
2. Tại sao nước phải vừa kháng chiến, vừa kiến quốc?
Nhờ có chủ trương “Kháng chiến, kiến quốc” đúng đắn, sáng suốt và nhiều quyết sách
kịp thời của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh mà cách mạng Việt
Nam đã vượt qua những thách thức về kinh tế, xã hội, tiết kiệt được thời gian để chuẩn bị cho
những kẻ thù sắp tới và kháng chiến lâu dài.


Chủ trương của Đảng có thể thâu tóm trong hai mục đích chính: bảo vệ nền độc lập và
củng cố chính quyền cách mạng. Để đạt được mục đích này, cần thực hiện đồng bộ nhiệm vụ
“kháng chiến” và nhiệm vụ “kiến quốc”.
Đối với cách mạng Việt Nam, đó cũng chính là hai nhiệm vụ chiến lược có mối quan
hệ chặt chẽ trong trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. “Kháng chiến” chính là
chống lại đế quốc, bảo vệ độc lập dân tộc. “Kiến quốc” chính là xây dựng nền dân chủ mới
đem lại quyền lợi cho quần chúng nhân dân. Không kháng chiến thì sẽ không thể đánh đuổi
thù trong, giặc ngoài, tạo tiền đề vững chắc cho công cuộc kiến quốc. Không kiến quốc cũng
sẽ không thể vực dậy cả dân tộc, tạo thế và lực đủ mạnh để tiến hành kháng chiến. Vì vậy, chủ

trương kết hợp hai nhiệm vụ này là hoàn toàn sáng suốt.
Các chủ trương của Đảng đem lại ý nghĩa to lớn, bảo vệ được nền độc lập của đất nước,
giữ vững chính quyền cách mạng; xây dựng được những nền móng đầu tiên và cơ bản cho
một chế độ mới, chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; chuẩn bị được những điều kiện cần
thiết, trực tiếp cho cuộc kháng chiến toàn quốc lâu dài và hào hùng sau đó.

Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập - tập 8, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2000.
2. Trần Quỳnh Cư, Nguyễn Hữu Đạo, Đỗ Thị Nguyệt Quang, Việt Nam những sự kiện lịch
sử (1945-1975), NXB Giáo dục, Hà Nội, 2003.
3. Lê Mậu Hãn (chủ biên), Đại cương lịch sử Việt Nam - tập 3; NXB Giáo dục, Hà Nội, 2006.
4. Trần Bá Đệ, Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến nay, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008.
5. Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo Dục, Hà Nội,
2006.

Hết.




×