LỜI NÓI ĐẦU
GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
Triết học là một hệ thống những quan điểm chung về thế giới và vai trò
của con người trong thế giới đó. Triết là chí và người hiểu triết là triết học.
Theo người ấn độ thì đó là sự hiểu biết lý giải và phân tích, con người phương
tây cho rằng đó là sự thông thái. triết học chính là môn học đã cung cấp cho ta
lý luận về phương pháp, cung cấp cơ sở lý luận để chỉ đạo hoạt động nhận
thức và thực tiễn của con người, đặc biệt hơn phương pháp luận này đã cho ta
thấy rõ hình thái kinh tế xã hội, nó được thể hiện rõ ràng nhất trong sự nghiệp
công nghiệp hoá hiện đại hoá ở việt nam.
Để chứng tỏ được hình thái kinh tế xã hội trong sự nghiệp công nghiệp
hoá hiện đại hoá ở việt nam, nó được khẳng định qua hai bước chính :
Thứ nhất, hình thái đó được thể hiện chính qua học thuyết về hình thái
kinh tế xã hội.
Thứ hai, nó được vận dụng vào hình thái kinh tế xã hội để phân tích rõ
hơn về sự nghiệp hiện đại hoá và công nghiệp hoá ở việt nam qua con người
mới trong công cuộc xây dựng đất nước.
NỘI DUNG CHÍNH
I. Khái niệm- sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử
1. Khái niệm hình thái kinh tế xã hội
Là một phạm trù chỉ xã hội ở từng nấc thang lịch sử nhất định, với 1
kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất
định của lực luượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng
được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
2. Sự phát triển và mối liên hệ của hình thái kinh tế xã hội trong
lịch sử.
Xã hội phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi giai đoạn
của sự phát triển là một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Các hình thái kinh
tế xã hội vận động , phát triển do tác động của các quy luật khách quan, đó là
quá trinh tự nhiên của sự phát triển. Trong quá trình sản xuất, con người có
những quan hệ với nhau, đó là những quan hệ sản xuất- những quan hệ sản
xuất đó do tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất quy định- đến lượt nó,
quan hệ sản xuất lại quy định các quan hệ xã hội khác như : chính trị, luật
pháp, dạo đức, ....khi lực lượng sản xuất phát triển đã có những thay đổi về
chất, mâu thuẩn gay gắt với quan hệ sản xuất hiện có, dẫn đến đòi hỏi khách
quan thay đổi quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới thông qua cuộc
cải cách xã hội. Quan hệ sản xuất thay đổi thì toàn bộ các quan hệ xã hội khác
cũng thay đổi. Vậy ta có thể thấy rằng phương thức sản xuất thay đổi các quan
hệ xã hội về chính trị, tinh thần củng thay đổi, dẫn đến sự thay đổi của hình
thái kinh tế xã hội. Như lênin viết :"chỉ có đem những quan hệ xã hội vào
những quan hệ sản xuất và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của
những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để
quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử tự
nhiên".
Theo học thuyết về hình thái xã hội thì sự tồn tại của xã hội phải dựa
trên sự sản xuất vật chất. Bởi vì sản xuất vật chất đóng vai trò quan trọng và
quyết định đối với đời sống của con người. Sản xuất vật chất là cơ sở cho sự
sinh tồn của xã hội, nó bảo đảm những nhu cầu cần thiết cho mọi sự sinh hoạt
của con người có thể tồn tại được. Sản xuất vật chất còn là cơ sở để hình thành
tất cả các quan hệ xã hội, nó là cơ sở cho sự tiến bộ của xã hội, đồng thời sản
xuất vật chất là quá trình con người sản xuất công cụ lao động tác động vào tự
nhiên để đem lại của cải vật chất cho đời sống xã hội. Các nhà triết học và xã
hội học duy tâm giải thích nguyên nhân, động lực phát triển của xã hội từ ý
thức tư tưởng của con người hay một lực lượng siêu nhiên nào đó. Ngày nay,
nhiều nhà xã hội học tư sản giải thích sự phát triển của xã hội theo quan điểm
kỹ thuật, đồng thời , họ cũng khẳng định con người phải sản xuất ra của cải
vật chất, đó là yêu cầu khách quan của sự sinh tồn xã hội, xã hội không thể
thoã mãn nhu cầu của mình bằng những cái đã có sẵn trong tự nhiên, để duy
trì và nâng cao đời sống của mình. Con người phải tiến hành sản xuất ra của
cải vật chất, nếu không có sản xuất thì xã hội sẽ diệt vong, sản xuất của cải
vật chất chính là điều kiện cơ bản của mọi xã hội, là một hành động lịch sử
mà hiện nay củng như hàng nghàn năm trước đây người ta vẫn tiến hành từng
ngày từng giờ để duy trì cuộc sống con người. Nó là cơ sở để hình thành nên
tất cả các hình thức quan hệ xã hội khác, là cơ sở cho sự tiến bộ xã hội. Sản
xuất không phải lúc nào củng ở trình độ như củ mà nói chung là không ngừng
tiến lên từ thấp đến cao. Mỗi khi sản xuát phát triển đến một giai đoạn mới,
cách thức sản suất của con người thay đổi kỹ thuật được cải tiến, năng suất
lao động nâng cao thì quan hệ giữa người và người trong quá trình sản xuất có
sự biến đổi và mọi mặt của đời sống xã hội có sự thay đổi theo.
Ở hình thái kinh tế xã hội, có các điều kiện khách quan, nó là những
yếu tố tác động lớn đến hình thái của từng xã hội. đó là môi trường tự nhiên,
cung cấp cho con người nguồn tư liệu sinh hoạt tư liệu lao động thiên nhiên
phong phú, nó còn có thể gây khó khăn hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho con
người trong quá trình sản xuất, từ đó nó ảnh hưởng tới năng xuất lao động.
Ngoài ra, nó còn quy định việc hình thành vùng và nghành sản xuất, phân
công lao động và phân bố lực lượng sản xuất, hoàn cảnh địa lý là điều kiện
thường xuyên và tất yếu của quá trình sản xuất vật chất. Bên cạnh đó, dân số
cũng là điều kiện ảnh hưởng đến nguồn lao động, sức sản xuất, phân công
nghành nghề. Mật độ dân số quá đông dẫn đến đối tượng lao động thiếu,
nhân lực thừa thì khó có thể phát triển được kinh tế, sản xuất không phát triển
được. Nếu mật độ dân cư quá thưa thớt thì sản xuất không phát triển được,
làm ra sản phẩm ít, không trao đổi với nhau được, không kích thích được sản
xuất.
Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù khái niệm duy vật lịch sử dùng
để chỉ xã hội ở mỗi một giai đoạn phát triển của lịch sử với một quan hệ sản
xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất với một kiến trúc
thượng tầng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất.
Về lực lượng sản xuất thì đó là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
trong quá trình sản xuất, thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người.
Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất, người lao động, năng xuất lao
động và khoa học kỹ thuật. Tư liệu sản xuất chính là đối tượng lao động và tư
liệu lao động, tư liệu lao động lại bao gồm công cụ lao động và yếu tố phụ trợ
cho quá trình sản xuất, công cụ lao động chính là vật truyền dẫn lao động của
con người vào lao động, nó là yếu tố độc nhất, cách mạng nhất vì luôn được
cải tiến, là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên, tiêu chuẩn phân biệt sự
khác nhau giữa các thời đại. Người lao động chiếm vị trí hàng đầu trong quá
trình sản xuất bởi vì với kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xão của họ làm ra công cụ
và cải tiến công cụ tạo nên năng suất lao động. Năng suất lao động đóng vai
trò quan trọng vì nó là kết quả của quá trình lao động, là nhân tố cuối cùng và
là thước đo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nó quyết định sự chiến
thắng của xã hội này đối với xã hội khác, còn về khoa học kỹ thuật là để nâng
cao năng suất lao động, khoa học kỹ thuật đóng vai trò quan trọng trong quá
trình sản xuất, ngày nay khoa học kỹ thuật đã trở thành một lực lượng sản
xuất trực tiếp.
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giửa người với người trong quá trình
sản xuất. Nó bao gồm quan hệ sở hửu về tư liệu sản xuất, là quan hệ quan
trọng nhất, đó là quan hệ quản lý và phân công lao động, phân phối sản phẩm
lao động. Chúng gắn bó với nhau hửu cơ nhưng quan hệ sở hửu tư liệu sản
xuất là quan trọng nhất. Sở hửu về tư liệu bao gồm sở hửu tư hửu chính là
quan hệ con người bất bình đẳng, còn sở hửu công hửu là quan hệ hợp tác
bình đẳng. Quan hệ tổ chức và tổ chức sản xuất chính là quan hệ lãnh đạo và
bị lãnh đạo. Ngoài ra, phân phối sản phẩm lao động là khâu cuối cùng.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ các tư tưởng của xã hội cùng với
những thiết chế tương ứng, quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên
một cơ sở hạ tầng nhất địn. Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm
riêng, có quy luật phát triển riêng nhưng không tồn tại tách rời nhau mà liên
hệ tác động qua lại lẫn nhau và đều nảy sinh trên cơ sở hạ tầng, phản ánh trên
cơ sở hạ tầng. Song không phải tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều
liên hệ như nhau đối với cơ sở hạ tầng của nó. Trái lại, một bộ phận như các tổ
chức chính trị, pháp luật có liên hệ trực tiếp đến cơ sở hạ tầng, còn các yếu tố
khác như triết học, nghệ thuật, tôn giáo thì ở xa cơ sở hạ tầng và chỉ liên hệ
gián tiếp với nó. Kiến trúc thượng tầng một xã hội là hết sức phức tạp, bao