Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam giai đoạn 2000 đến 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.38 MB, 86 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghệ thuật điêu khắc ở Việt Nam có một truyền thống lâu đời và
đáng tự hào với các điển hình đặc sắc. Mỗi giai đoạn thời kỳ lịch sử lại có
những thành tựu nghệ thuật điêu khắc mang dấu ấn riêng, rõ nét về các giá
trị văn hóa truyền thống. Với sự tiếp thu tính khoa học trong công nghệ của
nghệ thuật phương Tây kết hợp với các tình cảm dân tộc và thẩm mỹ truyền
thống, nền điêu khắc Việt Nam hiện đại đã tạo ra nhiều tác phẩm điêu khắc
mang âm hưởng và bản sắc riêng. Đặc biệt, trong giai đoạn từ năm 2000
đến năm 2015, nhiều tượng đài chất liệu đá đã được đầu tư xây dựng. Chất
liệu đá mang lại vẻ đẹp bề thế, vững chãi cho tượng đài với lối tạo hình
mạnh mẽ, chắc khỏe. Chất liệu này cũng phù hợp với nhiều không gian, vị
trí địa lí và điều kiện kinh tế ngày càng phát triển của đất nước ta, phản ánh
rõ những biến động lịch sử trong các giai đoạn xây dựng và phát triển đất
nước cùng truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Qua nhiều năm đổi mới, nền kinh tế nước ta phát triển hơn trước nên
trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến năm 2015, hệ thống tượng đài của
Việt Nam mọc nên khá nhiều với chất liệu đá – một chất liệu thường đồng
nghĩa với sự vĩnh cửu và trường tồn. Dù gồ ghề hay trơn nhẵn thì chất liệu
đá vẫn cho ta thấy cảm giác lạnh và xa xăm nhưng bù lại tượng đá lại cho
ta thấy được sự bề thế, vững chãi và trang nghiêm, phù hợp với những nội
dung cần biểu đạt.
Các tượng đài được đặt ở nơi công cộng, những nơi có nhiềungười
qua lại đểlàm rõ hơn vai trò của tượng đài trong mục đích tuyên truyền, tôn
vinh những giá trị văn hóa hay nhân vật lịch sử. Đặc biệt từ năm 2000 đến
năm 2015 là giai đoạn mà đất nước đang tiến hành xây dựng với nhiều cải
cách và đổi mới : cải cách giáo dục, đổi mới cảnh quan đô thị, nhớ ơn các
anh hùng liệt sĩ,.... Với chủ trương nâng cao nhận thức của người dân về



2

nghệ thuật, giá trị văn hóa truyền thống thì việc xây dựng tượng đài có kích
thước lớn là hoàn toàn phù hợp với các mục tiêu đề ra, đưa nghệ thuật đến
gần hơn với công chúng.
Đất nước ta có bề dày lịch sử dựng nước và giữ nước, nhiều sự kiện
chính trị, văn hóa, xã hội, nhiều chiến thắng vĩ đại nên việc xây dựng các
tượng đài để ghi lại bằng nghệ thuật điêu khắc là điều tất yếu và là nhu cầu
của một xã hội phát triển. Việc đô thị hóa cũng như nhu cầu làm đẹp không
gian kiến trúc đô thị bằng những tượng đài là nhu cầu tự thân của một xã
hội phát triển.Trong 15 năm qua, việc xây dựng tượng đài đã được các cấp
chính quyền từ Trung ương đến địa phương quan tâm ở mức độ nhất định,
tuy chưa đáp ứng được với nhu cầu và đòi hỏi thực tế.Một số công trình
tượng đài có chất lượng đã được xây dựng như tượng đài tượng đài Bác Hồ
với Tuyên Quang, tượng đài Quang Trung ở Thừa Thiên-Huế; tượng đài
Bác Hồ- Bác Tôn ở Hà Nội;…Đó là những công trình tượng đài có nội
dung tư tưởng sâu sắc và giá trị thẩm mỹ tốt, góp phần tích cực vào việc
giáo dục truyền thống, lịch sử, tạo cảnh quan môi trường văn hóa nghệ
thuật, phục vụ đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân.
Hiện nay có khá nhiều các tài liệu nghiên cứu về tượng đài chất liệu
đá. Từ năm 2000 đến năm 2015, các nghiên cứu về nghệ thuật điêu khắc
chất liệu đá ở Việt Nam như nghiên cứu khoa học, luận văn, đồ án…đã đề
cập đến nhiều cách thức tạo hình, chỉ ra được các ưu điểm của chất liệu này
khi thi công những công trình tượng đài. Tuy nhiên, vẫn còn có một số vấn
đề mà các tài liệu trên ít đề cập đến như bố cục, hình khối, chất cảm…
trong điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam. Vì vậy, tôi chọn đề tài
của luận văn là: “Nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam
giai đoạn 2000 đến 2015” để làm rõ các đặc trưng nghệ thuật và các giá trị
khác của nghệ thuật này.



3

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Hiện nay, các tài liệu nghiên cứu liên quan đến nghệ thuật điêu khắc
không ít trên các trang thông tin của các trường nghệ thuật, các bài viết trên
trang thông tin của Viện nghiên cứu... như:
Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch (2010), Tượng đài và tranh hoành
tráng Việt Nam. Đây là một tập sách được biên tập công phu, hiện diện
nhiều tượng đài chất liệu đá, vinh danh những danh nhân văn hóa, anh
hùng dân tộc, bà mẹ Việt Nam anh hùng… Tập sách phản ánh khá đầy đủ
những thành công của tượng đài chất liệu đá, về cách thức thể hiện và
không gian biểu đạt. Những tác phẩm ấy đều được đặt tại những địa danh
đã đi vào lịch sử và có giá trị tự thân.
Tài liệu “Nghệ thuật hoành tráng” của các tác giả: Triệu Trúc Đan,
Nguyễn Quân, Phạm Công Thành, Nguyễn Trân, năm 1981, Nxb Văn Hóa.
Tài liệu là tập hợp các bài nghiên cứu, dịch thuật về “ Nghệ thuật hoành
tráng” nói chung. Tài liệu đó đã làm rõ khái niệm thuật ngữ “hoành tráng”
cùng các biểu hiện của nghệ thuật hoành tráng trong kiến trúc mỹ thuật.
Ngoài ra còn một số tài liệu khác đề cập khá nhiều tới điêu khắc hoành
tráng như : “Hợp thể kiến trúc – nghệ thuật tạo hình xưa và nay” của Triệu
Trúc Đan và bài viết: “Đặc trưng thẩm mỹ và chức năng xã hội của nghệ
thuật hoành tráng” của Nguyễn Quân.
Năm 2002, Kỷ yếu hội thảo khoa học Thẩm mỹ môi trường, trường
Đại học Mỹ thuật Hà Nội – Viện Mỹ thuật, Nxb Mỹ Thuật. Tài liệu đã tổng
hợp các tham luận xoay quanh vấn đề “Thẩm mĩ môi trường” xác định các
cơ sở lý luận, quan niệm về thẩm mỹ môi trường. Trong đó, có nhiều bài
viết đề cập đến không gian thẩm mỹ tượng đài, không gian thẩm mỹ trong
điêu khắc môi trường, quy hoạch tượng đài nhìn từ quy hoạch đô thị, các

trao đổi xung quanh chủ đề thẩm mỹ môi trường nói chung và tượng đài,
điêu khắc ngoài trời nói riêng. Tiêu biểu là bài viết của Nguyễn Thái Lai


4

(2002), Không gian thẩm mĩ tượng đài, đã đề cập một cách trực tiếp tới
những vấn đề này.
Kỷ yếu hội thảo khoa học Điêu khắc ngoài trời Việt Nam hiện đại
(2006), trường Đại Học Mỹ Thuật Hà Nội – Viện Mỹ thuật, Nxb Mỹ thuật.
Tài liệu tổng hợp các tham luận tại hội thảo về thực trạng và giải pháp khắc
phục tình trạng xây dựng tượng đài tràn lan ở Việt Nam. Ngoài ra, còn có
một số các bài nghiên cứu, phân tích hiện trạng các trại sáng tác điêu khắc
ngoài trời. Với mục tiêu chung của hội thảo là các bài tham luận hướng đến
việc xây dựng các giá trị điêu khắc ngoài trời ở Việt Nam hiện đại, đậm đà
bản sắc dân tộc và có tính giáo dục về thẩm mỹ, lịch sử, văn hóa. Bài viết
của Trang Thanh Hiền, tượng đài Hà Nội – Cái nhìn lại ; Trịnh Cung,
Tượng đài và không gian mỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh ; Phạm Bình
Chương, Những quan niệm sai lầm về tượng đài ở Việt Nam ; Nguyễn
Trương Quý, Tượng đài đứng ở đầu đường ;… … và nhiều bài viết khác
đã chỉ ra được những tồn tại và hạn chế của nghệ thuật tượng đài ở Việt
Nam.
Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm xuất bản năm 2010, Tượng
đài và tranh hoành tráng Việt Nam. Tài liệu đã thống kê tác phẩm và số
lượng tượng đài khá lớn trên khắp cả nước.
Nguyễn Xuân Tiên (2007), Quá trình phát triển điêu khắc hoành
tráng Việt Nam thế kỷ XX. Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu nhất về
điêu khắc tượng đài Việt Nam, là luận án tiến sĩ nghệ thuật chuyên ngành
Lý luận và lịch sử Mỹ thuật, Viện Văn Hóa – Thông tin. Luận án gồm 4
chương, trong đó, chương 1 trình bày tổng quan về nghệ thuật điêu khắc

hoành tráng, khái quát về lịch sử của loại hình từ Phương Tây tới Phương
Đông. Chương 2 tập trung khái quát lịch sử hình thành và phát triển của
điêu khắc hoành tráng Việt Nam từ năm 1900 đến 1986. Chương 2 được
trình bày có hệ thống, chi tiết về các mốc xuất hiện các công trình điêu


5

khắc hoành tráng đầu tiên ở Việt Nam. Chương 3 nói về sự phát triển của
nghệ thuật điêu khắc hoành tráng từ thời kỳ đổi mới cho đến gần đây.
Chương 4 có đề cập đến những vấn đề tồn tại của điêu khắc hoành tráng
Việt Nam, đề ra các giải pháp phát triển, nâng cao chất lượng công trình…
Nhìn chung, đây là một tài liệu có nhiều thông tin và trình bày có hệ thống
theo tuyến lịch đại về điêu khắc hoành tráng Việt Nam.
Hoàng Nam Hạnh (2012), Không gian điêu khắc ngoài trời thông
qua một số trại sáng tác điêu khắc quốc tế, luận văn tốt nghiệp trường Đại
học Mỹ thuật Việt Nam. Luận văn chỉ ra những tác động của không gian
đến tác phẩm điêu khắc. Một tác phẩm điêu khắc thành công không chỉ
biểu đạt được không gian trong tác phẩm mà còn ở không gian đặt tác
phẩm. Vì vậy, không gian điêu khắc ngoài trời tạo cho tác phẩm thêm phần
hoành tráng và rộng mở hơn. Luận văn đã chỉ ra những ưu, nhược điểm về
không gian sáng tác ngoài trời ở một số trại sáng tác điêu khắc quốc tế.
Nguyễn Hữu Cảnh (2005), Chất liệu đá với điêu khắc ngoài trời,
luận văn tốt nghiệp trường Đại Học Mỹ thuật Việt Nam. Luận văn có đề
cập đến chất liệu đá, vai trò và công dụng của chất liệu này trong các công
trình điêu khắc. Ngoài ra, luận văn còn nói đến những khó khăn và hạn chế
; phân tích, đánh giá và chỉ ra những điểm mạnh, điểm yếu của chất liệu đá
khi thể hiện các tác phẩm điêu khắc ngoài trời. Tuy nhiên, luận văn chỉ nêu
các vấn đề trên một cách chung chung, chưa đi sâu phân tích tác phẩm cụ
thể.

Tóm lại, các tài liệu nghiên cứu về tượng đài chất liệu đá giai đoạn
2000 đến 2015 khá nhiều, nhưng hầu như chưa có nghiên cứu nào trình
bày chuyên sâu về vấn đề này. Đó chính là lý do tôi chọn đề tài: “Nghệ
thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam giai đoạn 2000 đến
2015” làm đề tài nghiên cứu của mình.


6

3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Nghiên cứu nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam
giai đoạn 2000 đến 2015 qua hình thức biểu đạt trên các yếu tố nội dung,
hình thức, bố cục, không gian và chất cảm.
Nghiên cứu nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam
giai đoạn 2000 đến 2015 để thấy rõ được vai trò của nghệ thuật điêu khắc
tượng đài chất liệu đá là một trong những yếu tố tạo nên vẻ đẹp và dấu ấn
cho các công trình tượng đài ở Việt Nam.
Trên cơ sở nghiên cứu thành công và hạn chế của nghệ thuật điêu
khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam giai đoạn 2000 đến 2015, đề tài rút
ra bài học kinh nghiệm về sáng tác nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu
đá ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Nêu lên những giá trị nghệ thuật của điêu khắc tượng đài chất liệu đá
ở Việt Nam ; giúp chúng ta hiểu biết một cách khái quát nhưng có hệ
thống về lịch sử vẻ vang của dân tộc ; nêu cao tinh thần chiến đấu chống
giặc ngoại xâm, lao động sản xuất, vinh danh các nhân vật lịch sử, danh
nhân văn hóa… để giáo dục con người hôm nay.
Thông qua các tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam giai đoạn 2000 đến
2015, tôi mong muốn rút ra được những bài học kinh nghiệm sáng tác cho
bản thân.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá
ở Việt Nam giai đoạn 2000 đến 2015. Những nội dung chủ đề và hình thức
nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá trong giai đoạn này.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu về tượng đài chất
liệu đá ở Việt Nam giai đoạn 2000 đến 2015, trên phạm vi toàn quốc. Bên
cạnh đó đề tài còn có so sánh với các tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam
trước năm 2000.


7

5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp sưu tầm, thu thập tài liệu, thống kê: tổng hợp các tài
liệu thống kê về các tượng đài hoành tráng được thể thiện bằng chất liệu đá
ở Việt Nam trong giai đoạn 2000 đến 2015.
- Phương pháp so sánh, phân tích, đánh giá : phân tích các giá trị
nghệ thuật cũng như giá trị văn hóa, lịch sử trên các tác phẩm nghệ thuật
điêu khắc hoành tránh. Đồng thời đánh giá khách quan những đóng góp về
mặt tạo hình của nghệ thuật điêu khắc hoành tráng chất liệu đá ở Việt Nam
giai đoạn 2000 đến 2015.
- Phương pháp nghệ thuật học: nhằm phân tích, đánh giá các nghệ
thuật tạo hình. Qua đó làm nổi bật những điểm mạnh, điểm yếu của chất
liệu cũng như tạo hình của tác phẩm điêu khắc hoành tráng. Không những
vậy, điêu khắc ngoài trời còn chỉ ra được các yếu tố nghệ thuật thuật tạo
hình mà điêu khắc sử dụng trong tác phẩm.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành sử học, xã hội học, mỹ thuật
học…
6. Đóng góp của luận văn
- Làm sáng rõ đặc điểm nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá

Việt Nam giai đoạn 2000 – 2015.
- Hệ thống đặc điểm điêu khắc tượng đài chất liệu đá Việt Nam giai
đoạn 2000 – 2015.
- Vẻ đẹp đặc trưng của điêu khắc tượng đài chất liệu đá Việt Nam
giai đoạn 2000 – 2015 cụ thể trong mỗi công trình.
- Đóng góp ý kiến về những mặt hạn chế của điêu khắc tượng đài
chất liệu đá Việt Nam, tìm ra những hướng đi mới cho nền điêu khắc tượng
đài Việt Nam.


8

- Làm tài liệu tham khảo cho sinh viên các trường nghệ thuật; cung
cấp cho người xem kiến thức và kinh nghiệm để tiếp cận với nghệ thuật
điêu khắc tượng đài chất liệu đá Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 phần (86 trang) bao gồm phần mở đầu (8 trang), nội
dung (41 trang) và kết luận (2 trang). Phần nội dung gồm có các phần sau:
Chương 1: Cơ sở mang tính lí luận để nghiên cứu đề tài (13 trang).
Chương 2: Nghiên cứu nội dung chủ đề và hình thức nghệ thuật của
điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam giai đoạn 2000 đến 2015 (21
trang).
Chương 3: Thành công và hạn chế của nghệ thuật điêu khắc tượng
đài chất liệu đá ở Việt Nam giai đoạn 2000 đến 2015 (7 trang).
Ngoài ra, luận văn còn phần tài liệu tham khảo (2 trang) và phụ lục
(33 trang).


9


NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ MANG TÍNH LÍ LUẬN ĐỂ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Khái niệm “nghệ thuật điêu khắc tượng đài”
1.1.1. Khái niệm “nghệ thuật điêu khắc”
Nghệ thuật điêu khắc là loại hình nghệ thuật xuất hiện từ rất sớm
trong lịch sử phát triển của loài người. Ngôn ngữ của loại nghệ thuật này là
hình khối, không gian và chất liệu. Để tìm hiểu rõ khái niệm về “nghệ thuật
điêu khắc”, chúng ta đi tìm hiểu lần lượt các khái niệm sau:
- Khái niệm “nghệ thuật”
Trong cuốn “Từ điển Mĩ thuật phổ thông” của tác giả Đặng Thị Bích
Ngân (chủ biên), nghệ thuật được định nghĩa là các phương pháp tiến hành
để làm ra các sản phẩm chứng tỏ tài khéo léo, sự suy nghĩ, trí tưởng tượng,
cảm xúc và sự sáng tạo của con người. Với quan niệm hiện đại, định nghĩa
nghệ thuật thường phản ánh những tiêu chuẩn thẩm mĩ trong văn học – xã
hội… Nghệ thuật phản ánh các tiêu chuẩn đẹp, khéo và sáng tạo. Đặc biệt,
nghệ thuật thường khai thác sự đối lập giữa các yếu tố để sáng tạo. Người
nghệ sĩ tinh tế phát hiện được các yếu tố khác nhau trong nội dung, trong
kỹ thuật, trong quan điểm để sáng tạo nên tác phẩm nghệ thuật. [8; tr.101]
Cuốn “Từ điển Tiếng Việt” của Viện ngôn ngữ học thì nghệ thuật
được định nghĩa như sau: “Nghệ thuật dt.1 Hình thái ý thức xã hội đặc biệt,
dùng hình tượng sinh động, cụ thể và gợi cảm để phản ánh hiện thực và
truyền đạt tư tưởng, tình cảm. Nghệ thuật tạo hình. Xây dựng hình tượng
nghệ thuật trong tác phẩm văn học. 2 Phương pháp, phương thức giàu tính
sáng tạo”. [20; tr.865]
Bên cạnh cuốn “Từ điển Tiếng Việt” của hội Khoa học – Xã hội –
Nhân văn thì nghệ thuật được định nghĩa là: “Nghệ thuật (dt) là công việc


10


là có đường lối, phương pháp, để tỏ ý thức, tình cảm hay lý tưởng của mình
trên ba điểm: Chân, thiện và mĩ. Người ta đã thống nhất ý chí về nghệ thuật
và sắp xếp chúng theo thứ tự: 1. Âm nhạc; 2. Vũ điệu; 3. Hội họa; 4. Điêu
khắc; 5. Kiến trúc; 6. Ca kịch; 7. Điện Ảnh” [5; tr.844]
Như vậy, từ những định nghĩa trên, chúng ta có thể hiểu rằng: “Nghệ
thuật là sự sáng tạo ra những tác phẩm mang giá trị về tư tưởng, thẩm mĩ
và tạo ra cảm xúc, tình cảm, tư tưởng cho người xem”.
- Khái niệm “điêu khắc”
Theo Từ điển Thuật ngữ mĩ thuật phổ thông (2002), điêu khắc là:
“Nghệ thuật thực hiện những tác phẩm có không gian ba chiều(tượng tròn)
hoặc hai chiều (chạm khắc, chạm nổi) bằng cách gọt, đẽo, gò, đắp, gắn…
những khối vật liệu rắn chắc như gỗ, đá, kim loại… Điêu khắc còn là nghệ
thuật nặn tượng hoặc tạc tượng bằng đôi bàn tay khéo léo của người nghệ
sĩ, đồng thời là nghệ thuật đúc tượng thông qua việc đổ khuôn” [8; tr.65].
Từ điển Tiếng Việt (1997) của nhà xuất bản Đà Nẵng định nghĩa điêu khắc
là “loại hình nghệ thuật thể hiện hoặc gợi tả sự vật trong không gian bằng
cách sử dụng các chất liệu như đất, đá, gỗ, kim loại… tạo thành những hình
nhất định” [12; tr.310].
Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học (2016) thì
điêu khắc được định nghĩa là loại hình nghệ thuật thể hiện hoặc gọi tả sự
vật trong không gian bằng cách sử dụn những chất liệu như đất đá, gỗ, kim
loại,… tạo thành những hình nhất định của nghệ thuật điêu khắc, nhà điêu
khắc. [21 ; tr.404]
Thuật ngữ “điêu khắc” trong tiếng Việt tương đương với thuật ngữ
“sculpture” trong tiếng Anh, được Từ điển Oxford: Learner’s pocket
dictionary định nghĩa là“một tác phẩm nghệ thuật được tạo ra bằng cách
chạm khắc, đẽo gọt gỗ, đá,… thành một khối rắn chắc” [22; tr.395]



11

Với các định nghĩa trên tuy có cách biểu đạt khác nhau nhưng đã
phần nào giúp chúng ta nhận diện được những nét cơ bản về khái niệm
“điêu khắc”. Qua các định nghĩa nêu trên, chúng ta có thể hiểu “điêu khắc”
là một loại hình nghệ thuật thị giác, sản phẩm của hoạt động sáng tạo và là
phương tiện biểu đạt của con người. Đặc điểm của điêu khắc là nghệ thuật
xử lý các hình khối và chất liệu trong không gian ba chiều từ các chất liệu
rắn như gỗ, đá, kim loại… thông qua các quá trình đẽo, gọt, chạm khắc,
đục, đúc, tạc… Về mặt hình thức thể hiện thì điêu khắc được chia thành hai
loại: các tác phẩm không gian ba chiều (tượng tròn) và các tác phẩm trong
không gian hai chiều, hai chiều rưỡi (phù điêu)
Tượng tròn, theo định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt (1997) của nhà
xuất bản Đà Nẵng, là “hình khối nổi trong không gian tạo nên bằng một
chất liệu rắn để mô tả người hay vật” [12;tr.1046]. Tượng tròn là tác phẩm
nghệ thuật tồn tại trong không gian ba chiều. Nói cách khác, tượng tròn là
một vật thể tồn tại trong không gian, chiếm một khối tích nhất định được
xác định bởi chiều cao, chiều rộng và chiều sâu. Đối với tượng tròn, người
xem không chỉ cảm nhận tác phẩm bằng thị giác mà còn có thể cảm nhận
tác phẩm bằng xúc giác. Bên cạnh đó người xem có thể chiêm ngưỡng một
bức tượng từ nhiều điểm nhìn. Khi điểm nhìn thay đổi thì hình khối của tác
phẩm cũng thay đổi, từ đó cảm xúc mà ta cảm nhận được từ tác phẩm cũng
có sự khác biệt.
Tượng tròn là loại hình nghệ thuật chính của điêu khắc, được thể
hiện bằng các hình khối có thể tích trọn vẹn nằm trong không gian cụ thể,
bao gồm: con người, động vật, cây cối, các khối tượng trưng,… Tượng tròn
có thể nhìn thấy được từ nhiều hướng khác nhau : trước, sau, phải, trái,
trên, dưới,… Người xem có thể di chuyển xung quanh thậm chí vào được
bên trong bức tượng để quan sát và cảm thụ cái đẹp của tác phẩm. Bên
cạnh đó, tượng tròn có thể được đặt trong không gian nội thất hay ngoại



12

thất, thậm chí có thể là một phức hợp quần thể kiến trúc – điêu khắc. Các
chất liệu được dùng để làm tượng tròn như : đá, gỗ, thạch cao, đồng, thép
không rỉ, đất nung, tổng hợp,… Tùy theo nội dung và mối quan hệ với
không gian, tượng tròn được chia ra làm các thể loại khác nhau như tượng
có kích thước nhỏ, tượng trang trí, tượng triển lãm, tượng đài với các hình
thức thể hiện là tượng chân dung, bán thân, cụm tượng, bố cục nhóm theo
phong cách hiện thực, trừu tượng, lập thể,…
Phù điêu được định nghĩa trong Từ điển Tiếng Việt (1997) của nhà
xuất bản Đà Nẵng là “hình thức điêu khắc trình bày những hình đắp cao
hay chạm nổi trên nền phẳng” [12; tr.760].
Từ điển Thuật ngữ mỹ thuật phổ thông giải thích khái niệm “phù
điêu” như sau: “Trong ngành điêu khắc, từ phù điêu được dùng để chỉ
những hình khối, đường nét đắp lên trên một mặt phẳng sẵn có” [7; tr.120].
Khác với tượng tròn, phù điêu tồn tại trong không gian hai chiều. Phù điêu
gắn liền với mặt phẳng và mặt phẳng trở thành nền tảng để phát triển một
tác phẩm phù điêu. Không gian trong phù điêu được thể hiện thông qua mật
độ dày mỏng, sự lồi lõm của hình khối. Tuy không thể quan sát một tác
phẩm phù điêu từ mọi góc nhìn nhưng người xem vẫn có thể sử dụng xúc
giác để cảm nhận. Phù điêu là loại hình dùng hình khối diễn tả trên mặt
phẳng mà người xem thấy khối nổi như tượng tròn. Tuy chỉ nhìn thấy mặt
chính diện nhưng một tác phẩm phù điêu vẫn như nhìn thấy cả phía đang bị
che khuất. Đó chính là nhờ ánh sáng tác động đến độ lồi, lõm, cao, thấp của
khối tạo ra hiệu quả đậm nhạt… Trong phù điêu, nét đẹp có được nhờ trang
trí. Các đường khái quát cho các hình cụ thể như hình lượn sóng, các
đường cong uyển chuyển và những đường thẳng mạnh mẽ, nhất là sự kết
hợp với các điểm đậm của độ sâu, các điểm sáng của khối nổi đã tạo nên

tác phẩm. Phù điêu được phân ra làm ba loại : loại mỏng, loại cao, loại
thủng. Phù điêu có ba loại : loại mỏng (phù điêu thấp), loại cao, loại thủng.


13

- Điêu khắc trang trí
Trong cuốn Từ điển Tiếng việt của Viện ngôn ngữ học năm 2016,
trang trí được định nghĩa là trang trí đg. Bố trí các vật thể có hình khối và
đường nét, màu sắc khác nhau sao cho tạo ra một sự hài hòa, làm đẹp mắt
một khoảng không gian nào đó.[21; tr.1296]
Cuốn Từ điển Mĩ thuật Phổ thông của tác giả Đặng Thị Bích Ngân
(2012) thì trang trí (A. Decoration ; P. Décoration) được định nghĩa là nghệ
thuật làm đẹp, phục vụ cho đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Nhờ những yếu tố trang trí các vật dụng vừa có giá trị thẩm mĩ vừa nâng
cao được giá trị sử dụng.Vì vậy, trang trí nằm trong nghệ thuật ứng dụng
(art appliqués)… [8; tr. 132]
Qua những định nghĩa, nội dung và ý nghĩa nêu trên kết hợp với ý
nghĩa của hai thuật ngữ “điêu khắc” và “trang trí”, chúng ta nhận thấy điêu
khắc trang trí được hiểu là những tác phẩm được gọt, đục, chạm, khắc dùng
để làm đẹp và là một thành tố không độc lập, cần cho không gian và kiến
trúc liên quan.
Như vậy, khái niệm Nghệ thuật điêu khắc có thể được hiểu là:
“Nghệ thuật điêu khắc”là sự sáng tạo ra những tác phẩm có hình
khối ba chiều hoặc hai chiều bằng cách gọt, đục, đẽo, chạm… mang giá trị
về tư tưởng, thẩm mĩ. Thông qua các tác phẩm thẩm mĩ đó tạo ra sự rung
động, cảm xúc và tư tưởng cho người thưởng thức.
- Nghệ thuật điêu khắc đá
“Điêu khắc đá” tiếng anh là Stone Sculpture là tạo hình, tạo khối ba
chiều bằng kĩ thuật đục, đẽo, mãi, khoan, khắc lên đá. Đây là thể loại thô

sơ, đồ trang sức cho đến việc xây dựng các ngôi nhà được trang trí bằng
bùn đất, rơm hoặc đá và nghề điêu khắc đá ra đời.
Rất nhiều các công trình kiến trúc ấn tượng và trường tồn với kĩ
thuật điêu khắc hoành tráng như Kim Tự Tháp Ai Cập, Đến thờ của thời


14

Hy Lạp – La Mã, những đền thờ nguy nga của người Ấn Độ. Tất cả các
công trình đó phần lớn đều được xây dựng bằng vật liệu chính là đá. Do đá
có tính năng bền vững nên những tác phẩm điêu khắc bằng đá rất đa dạng,
phong phú về cách biểu đạt và kích thước. Điêu khắc đá là thể loại khá phổ
biến trong môi trường sáng tạo nghệ thuật. Nó phù hợp với cả không gian
trong nhà và ngoài trời nên chất liệu đá được chọn dùng cho những tượng
đài,… Đá là một thể rắn được tổ hợp có quy luật của các loại khoáng vật.
Thợ điêu khắc đá sử dụng rất nhiều loại đá khác nhau như đá macma, đá
biến chất, đá trầm tích hay đá nhân tạo.
Thợ điêu khắc đá thường dùng nhiều công cụ khác nhau để tạo tác
các khối đá thô thành các tác phẩm khác nhau. Các công cụ cơ bản là búa
và đục cùng với thước đo. Với các công cụ cơ bản này có thể tạo ra các
khối đá vuông nền của tác phẩm. Tùy thuộc vào nhu cầu của công việc
chúng tham gia mà đục có rất nhiều kích cỡ và hình dạng khác nhau. Đục
được làm bằng nhiều vật liệu khác nhau dành cho việc thao tác trên các loại
đá khác nhau. Một tác phẩm hoàn hảo phụ thuộc rất nhiều vào việc lựa
chọn vật liệu và công cụ thích hợp để tạo thành. Các mảnh đá vụn nhỏ có
thể được dùng như vật đo độ phẳng của viên đá khi xếp lên nhau từ đó xác
định chỗ nào lồi hay lõm để gia công lại. Nếu hai mắt đá đủ nhẵn thì ngay
mũi dao cũng không thể lọt vào khe hở của hai viên đá mà không cần vữa
như các bức tường của các ngôi nhà của người Inca. Các mảnh vụn đá cũng
có thể được dùng làm vữa để trám vào các phần hụt của tác phẩm. Để trám

vào các chỗ hở tạo ra một bề mặt trơn láng hơn.
Ngày nay với công nghệ hiện đại, các công cụ tự động sử dụng năng
lượng như đục, mài, khoan,… giúp tiết kiệm rất nhiều thời gian và công
sức. Nhưng các bộ phận chính của chúng vẫn trông giống các công cụ xưa
cách đây hàng ngàn năm.


15

1.1.2. Khái niệm “tượng đài”
Theo quy chế quản lý xây dựng tượng đài (Phần Mỹ thuật) có nêu
khái niệm “tượng đài” như sau: tượng đài là công trình văn hóa nghệ thuật
biểu hiện nội dung tư tưởng và tinh thần thời đại, mang hình thái xã hội
đương thời, được thể hiện bằng nhiều chất liệu bền vững. Tượng đài là bộ
phận cấu thành của không gian kiến trúc đô thị và cảnh quan thiên nhiên,
có quy mô và hình thức nghệ thuật hoành tráng, tác động đến nhận thức của
xã hội. [21]
Trang từ điển điện tử định nghĩa: tượng đài là một công trình kiến
trúc lớn gồm một hoặc nhiều bức tượng, đặt ở địa điểm thích hợp, dùng
làm biểu trưng cho một dân tộc, một địa phương, đánh dấu một sự kiện lịch
sử hay tưởng niệm người có công lao lớn.[22]
Trong bài viết của báo quân đội nhân dân có viết: Tượng đài – tâm
thế thời đại đối với nền mỹ thuật nói chung và chuyên ngành điêu khắc nói
rieng, tượng dài phản ánh sự phát triển về bề nổi [20]. Tượng đài có tính
chất trường tồn, biểu tượng và đại diện cho cả nền mỹ thuật nên các tượng
đài thường mang tính khái quát, ngôn ngữ biểu đạt cao, tạo nên ấn tượng về
sự hùng vĩ, cao cả. Tượng đài đôi khi còn là hình ảnh đại diện của một
vùng lãnh thổ, một quốc gia, một giai đoạn lịch sử. Chẳng hạn như, trong
thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tráng khí chính là tâm thế của
thời đại. Chúng ta đã có được nhiều tượng đài phản ánh tâm thế đó. Một

trong số đó có thể kể đến như tượng đài “Lý Tự Trọng”, tượng đài “Cảm tử
cho Tổ quốc quyết sinh”, “Bác Hồ đọc sách”, “Chiến thắng Ngọc Hồi”…
Những tác phẩm, tượng đài này đã trở thành biểu tượng của Thủ đô.
Cùng với sự phát triển của đất nước, văn hóa tượng đài bắt nguồn từ
Thủ đô đã lan rộng ra khắp nước đến các tỉnh thành phố khác như Thái
Bình, Nam Định, Ninh Bình, Điện Biên Phủ, Quảng Bình, Hải Phòng, Hải


16

Dương… Nhiều tượng đài đã trở thành biểu tượng và niềm tự hào của
người dân trong thời chiến cũng như thời bình.
Như vậy, tượng đài là những công trình điêu khắc ngoài trời mang
đến cho người xem cảm xúc thẩm mĩ mạnh. Tượng đài là một công trình
kiến trúc lớn, gồm một hay nhóm tượng được đặt ở một vị trí thích hợp. Nó
biểu hiện nội dung tư tưởng và tinh thần thời đại, mang hình thái xã hội
đương thời, biểu trưng cho một thời của dân tộc, một thời đại lịch sử hay
một sự kiện lịch sử và được thể hiện bằng nhiều chất liệu bền vững như
đồng, đá, bê tông… Bên cạnh đó, tượng đài cũng là một bộ phận cấu thành
không gian kiến trúc đô thị, có quy mô và nghệ thuật hoành tráng, có ảnh
hưởng đến nhận thức xã hội.
1.1.3. Khái niệm “nghệ thuật điêu khắc tượng đài”
Từ các khái niệm nêu trên về “Nghệ thuật”, “Điêu khắc” và “Tượng
đài” chúng ta có thể hiểu được phần nào về nghệ thuật điêu khắc tượng đài.
Tổng hợp lại các khái niệm trên, nhận định về khái niệm “Nghệ thuật điêu
khắc tượng đài” như sau:
Nghệ thuật điêu khắc tượng đài là các công trình văn hóa nghệ
thuật, các công trình điêu khắc ngoài trời. Đó là sự sáng tạo ra những tác
phẩm có hình khối ba chiều hoặc hai chiều bằng cách gọt, đục, đẽo,
chạm… mang giá trị về tư tưởng, thẩm mĩ. Thông qua các tác phẩm thẩm

mĩ đó tạo ra sự rung động, cảm xúc và tư tưởng cho người thưởng thức.
Nghệ thuật này tạo ra các tác phẩm mang tính lịch sử, mang tính biểu
trưng cho một giai đoạn lịch sử của dân tộc. Bên cạnh đó, nó còn mang
tinh thần thời đại, hình thái của một xã hội đương thời. Không những vậy,
nghệ thuật điêu khắc tượng đài tạo ra những tác phẩm mang tính chất
trang trí và là không gian cảnh quan của kiến trúc đô thị.


17

1.2. Khái lược điêu khắc tượng đài Việt Nam
1.2.1. Khái quát về điêu khắc tượng đài Việt Nam
Tượng đài là công trình nghệ thuật điêu khắc được đặt ở ngoài trời,
những nơi công cộng, có tính bền vững, tác động đến cảnh quan môi
trường, tình cảm và nhận thức thẩm mĩ của nhân dân.
Tượng đài có nhiều nội dung như ghi lại những sự kiện lịch sử,
những chiến công, tưởng niệm các danh nhân, liệt sĩ,… Ngoài nội dung
này, tượng đài còn có ý nghĩa là để làm đẹo cảnh quan môi trường. Đất
nước ta có bề dày lịch sử dựng nước và giữ nước, nhiều sự kiện chính trị,
văn hóa, xã hội, nhiều chiến thắng vĩ đại nên việc xây dựng các tượng đài
để ghi lại công ơn, công lao bằng nghệ thuật điêu khắc là điều tất yếu. Đó
cũng là nhu cầu của một xã hội phát triển. Việc đô thị hóa cũng như nhu
cầu làm đẹp không gian kiến trúc đô thị bằng những tượng đài là nhu cầu tự
thân của một xã hội phát triển. Một số công trình tượng đài có chất lượng
đã được xây dựng như tượng đài Bác Hồ với Tây Nguyên ở Gia lai; tượng
đài Bác Hồ với Tuyên Quang; tượng đài Quang Trung ở Huế; tượng đài
Bác Hồ - Bác Tôn ở Hà Nội; tượng đài Lê Duẩn ở Quảng Trị…Đó là
những công trình tượng đài có nôi dung, tư tưởng sâu sắc và giá trị thẩm mĩ
cao góp phần tích cực vào việc giáo dục truyền thống, lịch sử, văn hóa.
Đồng thời, nó cũng tạo cảnh quan môi trường văn hóa nghệ thuật phục vụ

đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân.
Những vấn đề quy hoạch, xây dựng tượng đài trong 15 năm gần đây
đã được rất nhiều các đơn vị cơ quan quan tâm. Việc xây dựng quy hoạch
tượng đài ở Trung ương và địa phương là công việc cần được Ủy ban nhân
dân các tỉnh, thành phố, Sở văn hóa,…cùng triển khai xây dựng. Tuy nhiên,
việc quy hoạch các quỹ đất dành cho tượng đài không phải việc làm một
sớm một chiều, cho nên, có rất ít các tỉnh, thành phố triển khai công tác
này. Thậm chí giải tỏa lấy đất nhưng việc đặt tượng đài lại không đúng vị


18

trí, không phù hợp với cảnh quan môi trường, không phát huy tác dụng và
hiệu quả xã hội kém.
Bên cạnh việc quy hoạch, xây dựng tượng đài thì công tác quản lý
tượng đài cũng vô cùng quan trọng và cần thiết. Bộ Văn hóa, thể thao và du
lịch đã xây dựng xong Nghị định Chính phủ về hoạt động Mỹ thuật trong
đó có các chương về quản lý, xây dựng, bảo quản, tu bổ tượng đài đáp ứng
nhu cầu của công tác quản lý va hoạt động xây dựng tượng đài.
Hiện nay, trên cả nước có hơn 300 công trình tượng đài kể cả công
trình tượng đài được xây dựng trước 1975 ở Miền Nam. Một thực tế hiện
nay là ở nhiều nơi khi xây dựng tượng đài thường làm với quy mô khá lớn
chưa phù hợp với quy hoạch tổng thể, cảnh quan môi trường, không gian
kiến trúc, nội dung của công trình, năng lực của nghệ sĩ và điều kiện kinh tế
- xã hội của địa phương. Điều này cần có sự thống nhất về quan điểm, chủ
trương đến công tác quản lý điều hành.
Một công trình nghệ thuật cũng có nhiều vấn đề, đối với mỗi tác
phẩm mỹ thuật một trong những yếu tố làm nên giá trị của tác phẩm là yếu
tố độc bản không lặp lại. Về hình thức phong cách nghệ thuật, tượng đài
hiện nay mới chỉ được sáng tác với một hình thức nghệ thuật duy nhất được

sử dụng đó là phong cách hiện thực, các hình thức nghệ thuật khác của điêu
khắc chưa được chấp nhận, ủng hộ triển khai vì thế gây nên cảm giác đơn
điệu, nhàm chán về hình thức nghệ thuật. Trong nhiều năm qua, việc xây
dựng tượng đài thường quan tâm đến các nội dung về lãnh tụ, danh nhân,
tượng đài chiến thắng, tượng đài tưởng niệm, rất ít gần như thiếu hụt mảng
tượng đài văn hóa nghệ thuật, phục vụ nhu cầu thường thức nghệ thuật của
nhân dân và làm đẹp cảnh quan môi trường kiến trúc.
Nói chung lại, nghệ thuật điêu khắc tượng đài ở Việt Nam hiện này
còn nhiều điều bất cập. Cần chú ý hơn đến mối quan hệ giữa tượng đài và


19

cảnh quan môi trường, đến các kích thước của tượng đài, công tác quản lý,
quy mô công trình.
1.2.2. Đặc trưng chất liệu đá trong nghệ thuật điêu khắc tượng đài ở Việt
Nam giai đoạn 2000 – 2015
Trong nghệ thuật tạo hình, chất liệu luôn đóng một vai trò quan trọng
khẳng định giá trị của tác phẩm. Giá trị đó được thể hiện rõ hơn trong nghệ
thuật điêu khắc. Bên cạnh việc xây dựng nội dung hình tượng cho tác
phẩm, nghệ thuật điêu khắc còn đòi hỏi sự gia công chất liệu nặng nhọc và
sự trợ giúp của phương tiện kĩ thuật tốn kém về công sức và tiền của.
Chất liệu đá thường đồng nghĩa với sự vĩnh cửu, dù bề mặt gồ ghề
hay trơn nhẵn thì chất liệu này vẫn cho chúng ta cảm giác lạnh và xa xôi
nhưng tượng đá lại thể hiện sự bề thế, vững chãi và trang nghiêm.
Chất liệu đá là chất liệu được sử dụng nhiều nhất trong các công
trình điêu khắc tượng đài. Do đặc thù các tượng đài đều được trưng bày
ngoài trời với chi phí không quá cao, phù hợp cho việc xử lý các hình khối
lớn. Các công trình điêu khắc tượng đài chủ yếu tôn vinh và tưởng niệm
các vị lãnh tụ, các anh hùng, liệt sĩ. Do đó, đá là chất liệu phù hợp để diễn

tả sự oai nghiêm, hùng dũng cho tác phẩm. Bề mặt đá thô ráp giúp cho ánh
sáng khi chiếu trên bề mặt không bị trượt đi, tăng sự tương phản đậm nhạt.
tạo nên những đường nét cứng cáp, rắn rỏi. Nếu bề mặt đá được mài nhắn
sẽ tạo cảm giác mềm mại. Đồng thời với những phương pháp tạo hình phù
hợp, đá cũng có thể tạo nên những hình khối mềm mại với những chi tiết
trang trí cầu kỳ. Ta có thế thấy chất liệu đá trong tác phẩm tượng đài như:
Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh, tượng đài Nguyễn Văn Trỗi, tượng đài
Phụ nữ Ba Đảm Đang, tượng đài Bất khuất, tượng đài Vì an ninh Tổ
Quốc,…
Tóm lại, chất liệu đá là chất liệu được sử dụng nhiều trong các tác
phẩm điêu khắc tượng đài tạo nên cảm giác oai nghiêm, hùng dũng. Bên


20

cạnh đó, đá cũng là chất liệu bền vững phù hợp cho các công trình ngoài
trời giữa cái thời tiết, khí hậu nóng ẩm mưa nhiều của Việt Nam. Hơn thế
nữa, điêu khắc tượng đài bằng chất liệu đá tạo cho người xem một cảm giác
trường tồn, vĩnh cửu cùng năm tháng càng làm tăng thêm sự linh thiêng
cho các tác phẩm nghệ thuật điêu khắc tượng đài.
Tiểu kết chương 1
Qua chương một, chúng ta đã hiểu thêm về các khái niệm “Nghệ
thuật”, “Điêu khắc”, “Nghệ thuật điêu khắc” và “Nghệ thuật điêu khắc
tượng đài” và một số khái niệm liên quan. Bên cạnh đó, chúng ta cũng làm
rõ những đặc trưng của chất liệu đá trong các tác phẩm điêu khắc tượng đài
ở Việt Nam giai đoạn 2000 – 2015.
Nghệ thuật điêu khắc tượng đài là một hoạt động nghệ thuật liên
quan đến các công trình văn hóa nghệ thuật. Đó là sự sáng tạo của con
người nhằm tôn vinh các vị lãnh tụ, anh hùng, những người có
công,…Thông qua các hình tượng đó thể hiện những suy nghĩ, tư tưởng và

thái độ xã hội. Bên cạnh đó, nghệ thuật điêu khắc tượng đài còn tô điểm
thêm cho các công trình kiến trúc, không gian kiến trúc quanh nó và tạo
nên một môi trường văn hóa nghệ thuật cho quần chúng nhân dân. Không
những vậy, các tượng đài thường được đặt ở những nơi đông đảo quần
chúng nhân dân sinh hoạt như một cách giáo dục gián tiếp về truyền thống
dân tộc uống nước nhớ nguồn.
Bên cạnh vị trí đặt các tượng đài thì chất liệu tạo nên tác phẩm cũng
vô cùng quan trọng. Đá là chất liệu bền vững tạo sự vững chãi, trang
nghiêm nên các tác phẩm tượng đài của ta luôn có phong thái uy nghi,
trang nghiêm và linh thiêng. Với những đặc tính của đá, dù được chế tác
bằng loại đá nào thì các tác phẩm tượng đài của nước ta nói lên phần nào
lịch sử nhân loại, giai đoạn hào hùng, bi tráng của dân tộc thông qua các
phương pháp tạo hình phù hợp.


21

Tóm lại, nghệ thuật điêu khắc tượng đài đã và đang là một trong
những vấn đề cần được quan tâm của xã hội. Bởi thông qua các tác phẩm
điêu khắc tượng đài như một cách giáo dục gián tiếp đến các thế hệ sau về
truyền thống tốt đẹp của cha ông.Không những vậy, nó còn tạo nên một
không gian văn hóa nghệ thuật cho quần chúng nhân dân. Mặt khác, nó là
một sự tri ân tới những người có công đối với quê hương đất nước.


22

Chương 2
NGHIÊN CỨU NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT
CỦA ĐIÊU KHẮC TƯỢNG ĐÀI CHẤT LIỆU ĐÁ Ở VIỆT NAM

GIAI ĐOẠN 2000 – 2015
2.1. Nội dung các công trình tiêu biểu của điêu khắc tượng đài chất liệu
đá ở Việt Nam giai đoạn 2000 – 2015
2.1.1. Nội dung phản ánh chiến tranh cách mạng
Chiến tranh cách mạng là một trong những chủ đề thường thấy trong
các sáng tác điêu khắc tượng đài. Cuộc chiến bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của
đất nước Việt Nam là một trong những trang lịch sử hào hùng của nhân
loại. Cùng với sự phát triển của nghệ thuật điêu khắc, Việt Nam đã và đang
xây dựng những công trình tượng đài đáp ứng những công trình nghệ thuật
mang nội dung chủ đề phản ánh cuộc chiến tranh cách mạng của dân tộc và
nhiều chủ đề khác nhằm cổ vũ tới đông đảo quần chúng.
Trước đó, trong thời kì chiến tranh, dù bị bom đạn Mĩ bắn phá nhưng
tượng đài vẫn được xây dựng, đáp ứng nhanh ý nghĩa cổ vũ ngay trong thời
chiến. Khi đất nước thống nhất, nghệ thuật điêu khắc bước vào giai đoạn
mới, tượng đài được xây dựng ở nhiều địa phương. Sự kết hợp giữa điêu
khắc và kiến trúc xây dựng các công trình một phần nhằm ca ngợi, một
phần phản ánh cuộc kháng chiến của dân tộc. Điều đó được thể hiện rõ
nhất ở các khu nghĩa trang liệt sĩ. Chẳng hạn như: nghĩa trang liệt sĩ
Trường Sơn xây dựng tại Vĩnh Trường, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.
Các tác phẩm điêu khắc ở nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn gồm tượng đài,
phù điêu, tượng tròn của các nhà điêu khắc.
Sự có mặt của nghệ thuật điêu khắc tượng đài tại các khu tưởng
niệm, nghĩa trang hay bảo tàng truyền thống có vai trò quan trọng và rất ý
nghĩa. Đề tài thường gặp trong các công trình điêu khắc tôn vinh là những


23

người anh hùng có công xây dựng và bảo vệ đất nước. Hình ảnh thể hiện có
thể là một nhân vật lịch sử cụ thể, cũng có thể là một nhóm người đại diện

cho một tầng lớp hay một ngành nghề trong xã hội như chiến sĩ, công nhân,
nông dân… Các tác phẩm do đó phải khắc họa được tinh thần hiên ngang,
ý chí chiến đấu, sự dũng cảm, kiên cường của nhân vật qua bố cục và hình
khối.
Tác phẩm điêu khắc tượng đài Bất khuất (H1.1) là một trong nhiều
tượng đài ở Việt Nam phản ánh cuộc chiến tranh cách mạng giải phóng đất
nước. Tượng đài được làm bằng chất liệu đá, đặt tại nghĩa trang liệt sĩ
thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. Tượng khánh thành vào ngày 27/07/2007
nhân dịp kỉ niệm 60 năm ngày Thương binh liệt sĩ, tưởng niệm 74 liệt sĩ đã
hy sinh năm Mậu Thân (1968) và được an táng tập thể tại nghĩa trang của
tỉnh Cà Mau. Toàn bộ tượng đài là khối đá Granit nặng trên 40 tấn, đặt phía
sau phần mộ tập thể, mặt trên của phần mộ là nền cờ Tổ quốc, phía trước là
nơi dâng hoa, tưởng niệm. Phần mộ được xây dựng bằng đá đen kim sa và
đá rubi đỏ. Tượng đài thể hiện hình ảnh ba người chiến sĩ anh dũng, bất
khuất hy sinh vì độc lập tự do của dân tộc. Hình ảnh các anh đều được nhà
điêu khắc Trần Thanh Phong khắc họa một cách hiện thực, rõ nét, bố cục
chặt chẽ từ tư thế đứng cho đến tư thế các anh ngã xuống. Các anh hy sinh
trong tư thế và niềm tin của người chiến thắng. Điều này được thể hiện rõ
nhất trên khuôn mặt của nhân vật trong tác phẩm. Các nhân vật đều có kết
nối với nhau như tinh thần tương thân tương ái của dân tộc. Tất cả những
hình ảnh đó tuy bi tráng nhưng đầy khí phách hào hùng, anh dũng. Công
trình điêu khắc tượng đài Bất Khuất phản ánh nội dung của cuộc chiến
tranh khốc liệt của dân tộc, tưởng niệm các chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh
trong chiến dịch Mậu Thân. Không chỉ mang ý nghĩa tưởng niệm các anh
hùng liệt sĩ mà qua đó công trình cũng có ý nghĩa to lớn là giáo dục truyền


24

thống, động viên các thế hệ tiếp bước sự hy sinh của các anh hùng liệt sĩ để

cuộc kháng chiến đi đến ngày thắng lợi.
Tượng đài Bất khuất những người tử tù Chín hầm (H1.7) được làm
bằng chất liệu đá, khánh thành năm 2001 do nhà điêu khắc Lê Đình Quỳ
lên ý tưởng và sáng tác. Phù điêu do nhà điêu khắc Trần Lê Quang thực
hiện. Tác phẩm được đặt tại khu di tích Chín hầm, thôn Ngũ Tây, xã Thủy
An, thành phố Huế. Khu di tích Chín Hầm là khu vực kho vũ khí chiến
tranh được thực dân Pháp xây dựng năm 1941. Đến năm 1944, Nhật hất
cẳng Pháp lấy hết vũ khí, khu hầm đã bỏ trống. Khi Pháp quay lại đánh
chiếm Việt Nam, chúng đã cải tạo lại khu hầm này thành nơi giam giữ
những người hoạt động cách mạng, học sinh, sinh viên và phật tử yêu nước.
Nơi đây được mệnh danh là “địa ngục trần gian” - nhà giam Chín hầm do
Ngô Đình Cẩn cải tạo từ một nơi vũ khí đạn dược do người Pháp để lại.
Tượng đài Bất khuất khắc lại hình ảnh ba đồng chí còn sống sót ở hầm số
8, căn hầm quái quỷ và khốn khổ nhất. Bên dưới là phù điêu tái hiện lại
cảnh những người chiến sĩ yêu nước đã bị giam cầm và những cực hình tra
tấn dã man. Tác phẩm tái hiện lại một cách hiện thực về hình ảnh ba chiến
sĩ tình báo kiên cường và sống sót trong hầm. Hình ảnh ba chiến sĩ gầy
guộc chỉ còn da bọc xương, mái tóc dài do không được cắt đang dìu nhau
đứng lên. Trang phục hết sức đơn giản đó là bộ quần áo sờn bạc, chiếc
quần đùi sờn rách. Khuôn mặt của ba người luôn hướng về phía trước, con
mắt nhìn thẳng thể hiện ý chí và lòng quyết tâm của họ. Mặc dù trông họ
gầy guộc và yếu đuối nhưng sâu thẳm trong con người họ là ý chí mạnh
mẽ, quật cường của người con đất Việt, dù bị giam cầm nhưng vẫn hướng
về Đảng và Nhà nước, hướng về ánh sáng của cuộc sống tự do. Tác phẩm
tượng đài và phù điêu Bất khuất những người tử tù Chín hầm đã tái hiện lại
một phần cuộc chiến tranh của dân tộc. Cuộc chiến vinh quang không phải
trên chiến trận mà là cuộc chiến khốc liệt, khốn khổ nhất của những người


25


kiên cường trong song sắt của kẻ thù xâm lược. Những hình ảnh tác phẩm
đã thể hiện được nỗi đau, sự mất mát của dân tộc, ý chí tự lực tự cường của
các chiến sĩ cách mạng, qua đó tỏ lòng biết ơn đối với những người đã hy
sinh vì độc lập tự do của dân tộc. Đồng thời, tác phẩm là một hình thức
giáo dục nghệ thuật, giáo dục tuyên truyền về truyền thống quý báu của cha
anh.
Nói chung, các tác phẩm điêu khắc góp phần làm khơi gợi lại cuộc
chiến tranh bi tráng của dân. Cuộc đấu tranh chống quân xâm lược dành lại
toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Qua đó, mỗi tác phẩm là một tấm gương, một
bài học quý báu cho thế hệ sau.
2.1.2. Nội dung ngợi ca nhân vật lịch sử (lãnh tụ, danh nhân, anh hùng
liệt sĩ)
Chủ đề, nội dung ca ngợi các nhân vật lịch sử (lãnh tụ, danh nhân,
anh hùng liệt sĩ) là một trong những chủ đề chính mà điêu khắc tượng đài
thể hiện như một sự minh họa về các nhân vật lịch sử. Mỗi tác phẩm điêu
khắc tượng đài có ý nghĩa lịch sử và nghệ thuật rất lớn.
Tượng đài tôn vinh có kích thước khá lớn, góp phần tạo nên sự
hoành tráng và tính sử thi cho tác phẩm. Tác phẩm có thể là hình ảnh một
nhân vật lịch sử cụ thể hay là một nhóm hai, ba người đại diện cho một
tầng lớp trong xã hội, hay một sự kiện lịch sử nhất định. Thế của nhân vật
phải tạo nên cảm giác vững chãi, thân hình và khuôn mặt hướng về phía
trước để lột tả ý chí, sự quyết tâm và hi vọng. Với các tác phẩm điêu khắc
chân dung, tác phẩm được làm gần với kích thước thật của cơ thể người.
Phần tượng được đặt trên bệ, tổng thể tác phẩm cao ngang tầm nhìn của
người xem, tạo nên cảm giác gần gũi, thân quen.
Mục đích của tượng đài tôn vinh là lột tả được tinh thần của nhân
dân Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước nên hình khối
và đường nét của tác phẩm cũng phải toát lên sự rắn rỏi, quyết tâm và sự



×