I. Những vấn đề chung về hợp đồng tín dụng.
1. Khái niệm về hợp đồng tín dụng
Hợp đồng tín dụng là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa một bên là TCTD (bên
cho vay) với một bên là các tổ chức và cá nhân (bên đi vay) nhằm xác lập các
quyền và nghĩa vụ nhất định của các bên trong quá trình vay tiền, sử dụng và thanh
toán tiền vay.
2. Điều kiện của hợp đồng tín dụng.
Đối tượng của hợp đồng tín dụng
Hợp đồng tín dụng ngân hàng có đối tượng là những khoản vốn được thể hiện
dưới hình thức tiền tệ.
Mục đích của hợp đồng tín dụng
Luôn nhằm mục đích lợi nhuận (hợp đồng có lãi suất ). Trong giao kết và thực
hiện hợp đồng tín dụng, tổ chức tín dụng thu lợi nhuận không chỉ nhằm mục đích
bù đắp chi phí kinh doanh như : trả lãi tiền gửi, trả lương nhân viên … mà còn
nhằm bù đăp những rủi ro có thể xảy ra cho tổ chức tín dụng hoặc cho người gửi
tiền.
Về hình thức
Hợp đồng tín dụng ngân hàng luôn luôn được lập thành văn bản theo điều 23 về
thỏa thuận cho vay Thông tư 39/2016/TT-NHNN . Hợp đồng tín dụng ngân hàng
đa phần là hợp đồng theo mẫu. Hợp đồng tín dụng có thể được công chứng, chứng
thực phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên.
Chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng tín dụng
- Tham gia quan hệ này có ít nhất hai chủ thể: là bên cho vay và bên đi vay,
trong đó bên cho vay luôn là các tổ chức tín dụng có đủ điều kiện luật định, còn
bên vay có thể là tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác có đủ điều kiện vay vốn
do pháp luật quy định.
-
Điều kiện của chủ thể:
Bên cho vay : luôn là tổ chức tín dụng, có thể là ngân hang hoặc là tổ chức
tín dụng phi ngân hang và đáp ứng các điều kiện sau: có giấy phép thành lập và
hoạt động do Ngân hang nhà nước cấp; có điều lệ do ngân hang nhà nước chuẩn y;
có giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hợp pháp ; có người đại diện đủ năng
lực và thẩm quyền để giao kết hợp đồng tín dụng với khách hàng.
Bên đi vay:
o Thứ nhất : đối với khách hàng vay là pháp nhân và cá nhân Việt Nam: Pháp
nhân phải có năng lực pháp luật dân sự; cá nhân và chủ doanh nghiệp tư nhân phải
có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự; đại diện của hộ gia đình phải có
năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự; đại diện của tổ hợp tác phải có năng
lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự; thành viên hợp danh của công ty hợp
danh phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;
o Thứ hai : đối với khách hàng vay là pháp nhân và cá nhân nước ngoài: Năng
lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự theo quy định pháp luật của nước
mà pháp nhân đó có quốc tịch hoặc cá nhân đó là công dân, nếu pháp luật nước
ngoài đó được Bộ Luật Dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
văn bản pháp luật khác của Việt Nam quy định hoặc được điều ước quốc tế mà
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia quy định.
3.
Nội dung của hợp đồng tín dụng
3.1 Điều khoản về điều kiện vay vốn.
- Khách hàng vay phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
- Mục đích sử dụng tiền vay hợp pháp.
- Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
- Tính khả thi và hiệu quả của dự án đầu tư.
- Điều kiện về đảm bảo tiền vay
3.2 Điều khoản về mục đích sử dụng tiền vay
Trong hợp đồng tín dụng các bên phải thỏa thuận rõ khách hàng sử dụng tiền
vay nhằm vào hoạt động gì nhằm đảm bảo tính hợp pháp, có tính khả thi tránh
trường hợp khách hàng sử dụng tiền vay vào mục đích bất hợp pháp, không hiệu
quả, tổ chức tín dụng không thu hồi được khoản vay.
3.3 Điều khoản về phương thức cho vay.
Có những phương thức cho vay sau: Cho vay từng lần; Cho vay theo hạn mức
tín dụng; Cho vay theo dự án đầu tư; Cho vay hợp vốn; Cho vay trả góp; Cho vay
theo hạn mức dự phòng; Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín
dụng; Cho vay theo mức thấu chi hoặc có thể thỏa thuận những phương thức cho
vay khác phù hợp với những quy định của pháp luật.
3.4 Điều khoản về số tiền vay, lãi suất, thời hạn vay.
Các bên phải thỏa thuận và ghi rõ trong hợp đồng để đảm bảo và hạn chế việc
xảy ra tranh chấp.
3.5 Điều khoản về phương thức trả nợ và kỳ hạn nợ.
Thoả thuận về phương thức trả nợ và kỳ hạn trả nợ phải căn cứ vào đặc điểm
của hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ, đời sống khách hàng, vào khả năng tài
chính, thu nhập và nguồn trả nợ của khách hàng và đề ra những phương thức trả nợ
như toàn bộ gốc và lãi cùng lúc khi thời hạn vay vốn kết thúc; toàn bộ gốc sẽ trả
một lần khi thời hạn vay vốn kết thúc; việc trả nợ được thực hiện theo kì hạn thỏa
thuận.
3.6 Điều kiện về hình thức bảo đảm khoản vay và giá trị tài sản được dùng làm
bảo đảm khoản vay.
Đối với tổ chức tín dụng các tài sản dùng làm đảm bảo tiền vay là cơ sở quan
trọng để tổ chức tín dụng có thể thu hồi nợ khi khách hàng vi phạm nghĩa vụ trả
nợ. Đối với khách hàng thì tài sản bảo đảm giúp khách hàng sử dụng tiền vay có
hiệu quả hơn, nâng cao trách nhiệm của khách hàng trong việc trả nợ nếu không
muốn tài sản bảo đảm bị đem xử lý.
3.7 Điều khoản về giải quyết tranh chấp.
Đây là một điều khoản thường lệ. Do đó, các bên có thể thỏa thuận hoặc không.
Theo quy định của pháp luật thì cách thức giải quyết tranh chấp như thông qua con
đường thương lượng, hòa giải, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài hoặc Tòa án.
Nếu các bên không có thỏa thuận này thì việc giải quyết tranh chấp phát sinh giữa
các bên được giải quyết bằng Tòa án theo quy định của pháp luật.
4. Giao kết hợp đồng tín dụng
4.1.Đề nghị vay vốn và lập hồ sơ
– Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng gửi cho tổ chức tín dụng giấy đề nghị vay
vốn và các tài liệu cần thiết chứng minh đủ điều kiện vay vốn.
4.2.Thẩm định hồ sơ vay vốn :
Đây là một giai đoạn mang tính nghiệp vụ và rất quan trọng trong việc hạn chế
rủi ro tín dụng.Công việc thẩm định bao gồm : khả năng tài chính; tính khả thi của
dự án; uy tín của khách hàng; biện pháp bảo đảm tín dụng. Trong trường hợp cần
thiết Tổ chức tín dụng có thể thành lập hội đồng thẩm định hoặc thuê, trưng cầu
các cơ quan chuyên môn để thẩm định.
4.3.Quyết định cho vay:
Trên cơ sở kết luận về khả năng tài chính; tính khả thi của dự án đầu tư, mục
đích tiêu dùng, sinh họat…cá nhân có thẩm quyền (Trường phòng Tín dụng; phó
giám đốc; giám đốc chi nhánh…) quyết định cho vay. Tổ chức tín dụng quy định
cụ thể và niêm yết công khai thời hạn tối đa phải thông báo quyết định cho vay
hoặc không cho vay đối với khách hàng, kể từ khi nhận được đầy đủ hồ sơ vay vốn
và thông tin cần thiết của khách hàng và nếu không cho vay, tổ chức tín dụng phải
thông báo cho khách hàng bằng văn bản, trong đó nêu rõ căn cứ từ chối cho vay.
4.4.Ký kết hợp đồng tín dụng.
- Hợp đồng tín dụng được ký theo 2 cách: trực tiếp( các bên ký kết và ràng buộc
các bên phải cử người thanm gia đàm phán) và gián tiếp (dưới sự hỗ trợ của
Internet; Fax; telex…và các phương tiện khác.)
- Trên cơ sở kết quả thẩm định hồ sơ tín dụng, đánh giá tính khả thi, hiệu quả
của dự án sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đời sống và khả năng hoàn trả của doanh
nghiệp, ngân hàng, tổ chức tín dụng (TCTD) phải ra quyết định và thông báo cho
doanh nghiệp về quyết định cho vay của mình. Trong trường hợp quyết định không
cho vay, TCTD phải nêu rõ lý do từ chối cho vay.
5. Hiệu lực của hợp đồng tín dụng
5.1. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng tín dụng
Hợp đồng tín dụng có hiệu lực khi thỏa mãn các điều kiện sau đây: Chủ thể
tham gia vào hợp đồng tín dụng phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp
luật ; mục đích và nội dung của hợp đồng không trái với quy định của pháp luật và
đạo đức xã hội; có sự đồng thuận ý chí giữa các bên cam kết trên nguyên tắc tự
nguyện ,bình đẳng và tự do ý chí ; hình thức của hợp đồng tín dụng phải phù hợp
với quy định pháp luật
5,2.Thời điểm phát sịnh hiệu lực của hợp đồng tín dụng
Là thời điểm các bên đã thỏa thuận và ghi rõ trong hợp đồng và ký tên đóng
dấu(nếu có) vào văn bản của hợp đồng tín dụng.
5.3 Hợp đồng tín dụng vô hiệu và hậu quả pháp lý
Hợp đồng tín dụng vô hiệu khi không đáp ứng được tất cả các điều kiện về chủ
thể, nội dung, hình thức và tính tự nguyện
Hậu quả pháp lý cho sự vô hiệu là hợp đồng không phát sinh hiệu lực kể từ
thời điểm ký kết; các bên phải phục hồi tình trạng ban đầu như trước khi kí kết hợp
đồng
6. Thực hiện hợp đồng tín dụng và trách nhiệm do vi phạm hợp đồng tín
dụng.
6.1. Thực hiện hợp đồng tín dụng
Trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất phát từ nhu cầu bảo vệ lợi ích hợp
pháp của mình, các bên thường quan tâm đến những vấn đề sau:
- Thỏa thuận các biện pháp cần thiết để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng,
trong đó chủ yếu là bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hoàn trả tiền vay cho tổ chức tín
dụng .
- Thỏa thuận việc gia hạn nợ hoăc điều chỉnh kì hạn trả nợ
6.2. Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng tín dụng
Có hai loại trách nhiệm pháp lý đó là trách nhiệm nộp phạt và trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng tín dụng, dựa trên sự thỏa thuận của hai bên
trong hợp đồng hoặc theo quy định của phấp luật để giải quyết.
II Thực trạng và các giải pháp đề xuất
1. Thực trạng
Chiếm tỷ lệ lớn nhất trong các tranh chấp hợp đồng tín dụng là về hành vi vi
phạm nghĩa vụ của một hoặc các bên trong hợp đồng.Và có thể là hành vi của bên
cho vay (các ngân hàng và các định chế tài chính khác). Có nhiều trường hợp sau
khi ký kết hợp đồng tín dụng với khách hàng bên cho vay đã không thực hiện hoặc
thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ giải ngân. Hậu quả là bên cho vay bị tổn thất rất
lớn về hiệu quả kinh tế cũng như làm tổn hại đến uy tín, danh dự, thậm chí thương
hiệu của bên vay.
Tranh chấp HĐTD còn có thể xuất phát từ việc vi phạm nghĩa vụ trả lãi và thậm
chí cả gốc và lãi. Có trường hợp hai bên không thoả thuận rõ ràng về lãi suất đối
với cả thời hạn vay hoặc ban đầu do cần tiền để thực hiện kế hoạch của mình nên
khách hàng chấp nhận mức lãi suất đó nhưng sau một thời gian thực hiện hợp đồng
phía khách hàng nhận thấy lãi suất đó cao quá nên không đồng ý. Tuy nhiên, đa
phần là dạng tranh chấp về vi phạm nghĩa vụ trả nợ của khách hàng khi đáo hạn.
Tình huống: Năm 1995, do nhu cầu sản xuất kinh doanh mở rộng, công ty trách
nhiệm hữu hạn Phương Đông (CTPĐ) đã vay của Ngân hàng Nông Nghiệp và
Phát triển Nông Thôn chi nhánh tỉnh Bắc Giang số tiền là 400,667 triệu VNĐ,
trong đó lần vay cuối cùng ngày 24/6/1996 là 80 triệu VNĐ do trung tâm tư vấn
doanh nghiệp tỉnh Bắc Giang bảo lãnh. Số vay còn lại được công ty Phương Đông
thế chấp bằng ngôi nhà ba tầng có diện tích 482 mét vuông, là trụ sở làm việc và
mặt bằng sản xuất của công ty. Nhưng sau đó, do hoạt động kinh doanh thua lỗ
nên khi đến hạn công ty Phương Đông đã không thể thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi
đến hạn như đã cam kết. Vì thế, ngày 12/4/1999 ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn Bắc Giang đã khởi kiện công ty Phương Đông phải thanh toán cả
gốc và lãi là 802.877 triệu VNĐ.1
Đây là dạng tranh chấp xảy ra nhiều nhất trong các tranh chấp hợp đồng tín
dụng.
Dạng tranh chấp cũng khá phổ biến của HĐTD đó là tranh chấp về việc thực
hiện biện pháp bảo đảm đối với HĐTD có bảo đảm bằng tài sản, để bảo vệ lợi ích
của mình các ngân hàng thường yêu cầu người đi vay phải có bảo đảm cần thiết
ngoại trừ những khách hàng hoạt động tốt và có quan hệ tín dụng thường xuyên.
Với tư cách là một chủ nợ có bảo đảm, khi đến hạn mà khách hàng không thực
hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ thì tổ chức tín dụng này được
quyền ưu tiên thanh toán từ số tiền bán tài sản bảo đảm trước các chủ nợ có bảo
đảm đăng ký sau hoặc trước những chủ nợ không có bảo đảm bằng tài sản đó.
Tiếp đến là dạng tranh chấp về định giá, xử lý tài sản bảo đảm đối với những
HĐTD có bảo đảm bằng tài sản. Có nhiều trường hợp các nhân viên ngân hàng
thẩm định không kỹ, kết quả thẩm định không chính xác dẫn đến chấp nhận những
tài sản bảo đảm không đúng quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm. Đối với
những hợp đồng cho vay kinh doanh, liên quan tới xác định tài sản bảo đảm có
thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bên khách hàng hay không, tổ chức đó có đủ tư
cách pháp lý theo quy định của pháp luật để tiến hành ký kết hợp đồng không?
Trên thực tế, khi HĐTD được ký kết thì phía ngân hàng mới biết bên khách hàng
ký không đúng thẩm quyền.
1 VietNamnet ngày 5/7/2004
Dạng tranh chấp nữa của HĐTD là về chủ thể xác lập, thực hiện hợp đồng.
Tranh chấp này ngày càng đa dạng và phức tạp nhất là trong những trường hợp có
yếu tố nước ngoài. Điều này gây không ít khó khăn cho cơ quan giải quyết tranh
chấp. Liên quan tới những tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài, chi nhánh, văn
phòng đại diện của các ngân hàng và các định chế tài chính nước ngoài khác.
Tranh chấp phát sinh từ HĐTD còn là những tranh chấp về luật áp dụng và cơ
quan giải quyết tranh chấp trường hợp một trong hai bên là bên nước ngoài mà khi
ký kết hợp đồng các bên đã không thoả thuận lựa chọn cơ quan giải quyết tranh
chấp cũng như luật áp dụng.
2 Nguyên nhân
2.1 Nguyên nhân từ phía bên cho vay có thể bao gồm :
Ngân hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ giải ngân cho
khách hàng như đã cam kết. Các tổ chức tín dụng không chấp hành nghiêm chỉnh
chế độ tín dụng và điều kịên cho vay. Nhiều tổ chức cho vay không tiến hành quy
trình thẩm định theo quy trình quy định, đa số dựa vào cảm tính của các nhân viên
ngân hàng. Điều này, tạo điều kiện cho các tổ chức “tín dụng đen” ngày càng được
tổ chức ở phạm vi rộng rãi hơn, quy mô hơn và nhiều người đã trở thành nạn nhân
của các tổ chức này. Trên thực tế, bên cho vay khi tiến hành thẩm định cũng không
thể kiểm tra được bên vay có thông qua một tổ chức tín dụng đen nào không.
Chính sách và quy trình cho vay chưa thực sự chặt chẽ, chưa có quy trình quản
trị rủi ro hữu hiệu, chưa chú trọng đến phân tích khách hàng, xếp loại rủi ro tín
dụng để tính toán điều kiện và khả năng trả nợ của khách hàng khi đáo hạn.
Bên cho vay chấp hành chưa đầy đủ các điều kiện về biện pháp bảo đảm tiền
vay của Ngân hàng Nhà nước, chưa phân tích, đánh giá các điều kiện về biện pháp
bảo đảm tiền vay. Phần lớn các nhân viên tín dụng phân tích, đánh giá chưa chính
xác khi tiến hành thẩm định nên kết quả thường phán ánh không đúng thực tế hoạt
động của khách hàng. Năng lực và phẩm chất đạo đức của một số nhân viên tín
dụng chưa cao dẫn đến có trường hợp khách hàng vay vốn có thế chấp bằng tài sản
nhưng vẫn được giữ cả vật thế chấp và giấy tờ gốc chứng minh quyền sở hữu hợp
pháp của họ. Rồi sau đó, khách hàng đem bán tài sản bảo đảm cho người thứ ba.
Khi đó cả ngân hàng và người thứ ba đều cho rằng tài sản đó phải thuộc sở hữu của
mình. Thực tế, đã có nhiều tranh chấp HĐTD phát sinh do nguyên nhân này.
2.2 Nguyên nhân từ phía bên vay:
- Bên vay không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đầy đủ những nghĩa
vụ của mình. Điều này, có thể do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan chi
phối. NN khách quan: là những nguyên nhân tác động ngoài ý chí của khách hàng
như do thiên tai, hoả hoạn, do sự thay đổi của chính sách quản lý kinh tế, điều
chỉnh quy hoạch, do biến động của thị trường trong và ngoài nước, quan hệ cung
cầu hàng hoá thay đổi… làm cho hoạt động của bên vay không tiến hành được như
kế hoạch đã định. NN chủ quan: là yếu tố xuất phát từ mỗi khách hàng. Đó có thể
xuất phát từ vốn tự có tham gia sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không đáp
ứng làm ảnh hưởng tới quá trình kinh doanh dẫn đến DN lâm vào tình trạng phá
sản. Ngoài ra, nhiều trường hợp do khách hàng cố tình đưa ra những thông tin sai
sự thật ngay từ khi vay vốn.
- Do khách hàng thiếu hiểu biết về pháp luật. Thực tế, đã có nhiều trường hợp
khách hàng ký những hợp đồng trái pháp luật, đặt bản thân họ vào tình trạng bất lợi
và phải gánh chịu nhiều hậu quả nặng nề.
Tình huống: Bà Phan Ngọc Dung ở Quận 8, thành phố Hồ Chí Minh, năm 2004
bà thế chấp ngôi nhà của mình để vay vốn ngân hàng đầu tư và phát triển chi
nhánh Tân Tạo số tiền 240 triệu VNĐ đầu tư cho cơ sở may gia công. Nhưng sau
đó do không có hiểu biết về những quy định của pháp luật bà Dung đã ký hợp
đồng bán nhà để đảm bảo cho khoản vay mới. Hiện tại, khoản tín dụng mới không
vay được, khoản tín dụng trước thì chưa có khả năng thanh toán và bên vay còn
phải đối mặt với nguy cơ mất nhà do chủ nợ đang khởi kiện ra toà yêu cầu thực
hiện hợp đồng bán nhà trên.
Trong tình huống trên, nếu bà Dung có kiến thức về pháp luật nhất là pháp luật
ngân hàng thì sẽ không dẫn đến ký hợp đồng bán nhà để đảm bảo cho khoản vay.
Hiện nay, sự hiểu biết những quy định pháp luật của một số lượng lớn người dân
còn nhiều hạn chế.
2.3 Nguyên nhân nữa làm phát sinh tranh chấp HĐTD là do quy định của pháp
luật.
Nhiều quy định của pháp luật còn chưa được hiểu thống nhất, dẫn đến mỗi bên
hiểu theo những cách khác nhau nhằm bảo vệ cho quyền và lợi ích của mình, từ đó
nảy sinh những bất đồng mâu thuẫn và đi đến tranh chấp. Nhiều quy định còn
chồng chéo giữa BLDS với luật chuyên ngành hiện vẫn còn một số bất cập. Cụ thể,
Khoản 2 Điều 91 Luật Các TCTD 2010 quy định về việc xác định lãi suất trong
hoạt động cấp tín dụng của các TCTD là theo cơ chế thoả thuận nhưng lại kèm
theo cụm từ “theo quy định của pháp luật” ở phía sau. Việc ghi thêm cụm từ này
sẽ càng làm cho các TCTD, khách hàng có quan hệ tín dụng với TCTD và các cơ
quan chức năng thực thi pháp luật khó áp dụng quy định này trên thực tế, khiến
cho họ rơi vào thế lúng túng không biết theo pháp luật về tín dụng ngân hàng
(không áp dụng trần lãi suất cho vay) hay theo pháp luật dân sự (áp dụng trần lãi
suất cho vay).
Để hạn chế được các tranh chấp thì trước hết phải có cách hiểu thống nhất và
những quy định cần được hướng dẫn thi hành một cách cụ thể. Đây cũng là một
trong những công tác cần làm tốt trong quá trình ban hành và sửa đổi những quy
định của pháp luật.
* Ngoài ra, đi cùng với các tranh chấp trên là việc giải quyết các tranh chấp của
cơ quan giải quyết là tòa án còn nhiều bất cập, như là:
Tình trạng để các vụ tranh chấp quá thời hạn không được giải quyết. Nhiều vụ
tranh chấp để kéo dài, qua nhiều lần xét xử vẫn không tìm được phương án giải
quyết thoả đáng, làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của các bên. Vẫn còn tình
trạng một số bản án của Toà án không rõ ràng, gây khó khăn cho việc đảm bảo bản
án của toà được thi hành. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, đánh giá chứng cứ
không đúng với sự thật khách quan, thậm chí có thẩm phán còn xác định sai tư
cách tố tụng của đương sự, đội ngũ cán bộ Toà án hiện nay còn thiếu về số lượng
và yếu kém về năng lực, năm 2006, đã có 21 cán bộ Toà án bị xử lý kỷ luật, trong
đó có 9 thẩm phán, có 4 trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Công tác thụ lý và giải quyết theo thủ tục phúc thẩm còn chậm, nhiều bản án
phúc thẩm còn giải quyết chưa thoả đáng, việc phát hiện những sai sót của Toà án
sơ thẩm còn chưa tiến hành kịp thời để đưa ra những giải pháp khắc phục.
3. Một số giải pháp mà nhóm đề xuất
3.1 Về phía cơ quan giải quyết tranh chấp
- Tranh chấp cần được giải quyết một cách kịp thời, chính xác, đúng pháp luật,
để hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro và có thể tận dụng được những cơ hội
kinh doanh mới cho các chủ thể tham gia tranh chấp.
- Trong quá trình giải quyết tranh chấp phải bảo đảm giữ được bí mật của hoạt
động kinh doanh cũng như uy tín của các bên trong quan hệ tranh chấp.
- Cần tăng cường các biện pháp giám sát, kiểm tra của Viện kiểm sát đối với
hoạt động tố tụng của Toà án. Làm tốt công tác này có ý nghĩa rất quan trọng góp
phần đảm bảo quá trình tố tụng được tiến hành đúng quy định của pháp luât và
giảm đáng kể số án xử oan, sai, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp
luật và kiến thức về HĐTD và giải quyết các tranh chấp này.
- Cần đề cao trách nhiệm cá nhân đối với từng chức danh cán bộ tư pháp, đặc
biệt là người đứng đầu các đơn vị và các thẩm phán. Tăng cường thực hiện công
tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm minh đối với các cá nhân, tập thể cán bộ
của tòa án có vi phạm.
- Thanh tra Ngân hàng Nhà nước nên xây dựng một đội ngũ chuyên gia làm
công tác dự báo rủi ro về luật và chính sách. Có những tham mưu kịp thời để Ngân
hàng Nhà nước có những thay đổi trong luật và chính sách điều hành phù hợp...
Trong thời gian tới, Nhà nước cần có nhiều kênh thông tin tạo cơ hội cho khách
hàng tiếp cận và nắm vững được các quy định của pháp luật, hạn chế được những
rủi ro đối với các bên.
3.2 Về khía cạnh pháp luật
- Một là, cần sửa đổi khoản 2 Điều 91 Luật Các TCTD để có cách hiểu thống
nhất hơn trong xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật. Việc sửa đổi này cần căn
cứ vào quy định của Hiến pháp và BLDS 2015, quyền dân sự chỉ có thể bị hạn chế
bằng luật, mục đích của nội dung quy định tại Điều 468 BLDS năm 2015, khoản 3
Điều 91 Luật Các TCTD, khoản 2 Điều 12 Luật NHNN Việt Nam, có thể sửa đổi
theo hướng “TCTD và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín
dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD, trừ trường hợp NHNN áp dụng lãi
suất theo quy định tại khoản 3 điều này”.
- Hai là, cần thường xuyên tổ chức đánh giá lại việc thực thi của các văn bản
pháp luật, để từ đó sớm nhận diện các vướng mắc, lỗ hổng của luật. Luật Các tổ
chức tín dụng 2010 đã có hiệu lực hơn 5 năm nhưng vẫn chưa có một cuộc khảo
sát hay đánh giá quy mô nào về việc thi hành luật này.
- Ba là, phạm vi hoạt động của các tổ chức tín dụng rất rộng nên thường liên
quan đến rất nhiều văn bản luật khác nhau, trong đó, Luật Các tổ chức tín dụng là
trọng tâm. Do đó, khi xây dựng luật, chính sách liên quan đến hoạt động của các tổ
chức tín dụng, cần phải nghiên cứu đến các văn bản pháp luật khác để có các quy
định toàn diện và đồng bộ.
Quan hệ xã hội mà pháp luật điều chỉnh luôn luôn biến chuyển không ngừng, tạo
ra nhiều lỗ hổng của pháp luật. Do đó, các nhà thi hành pháp luật và các nhà làm
luật cần có cái nhìn cụ thể hơn về các quan hệ xã hội đang thay đổi để từ đó có thể
phát hiện được các lỗ hổng, những bất hợp lý đang tồn tại.
3.3 Về phía bên cho vay
Thứ nhất, quy trình cho vay của TCTD xác định rõ trách nhiệm của cán bộ tín
dụng phải yêu cầu cung cấp thông tin về TSBĐ khi thẩm định, xem xét việc cấp tín
dụng và trong hồ sơ vay vốn phải có văn bản cung cấp thông tin có xác nhận của
cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm. Từng bước nâng cao chất lượng công tác định
giá TSBĐ. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thông qua việc đăng ký
giao dịch bảo đảm tại một trong các trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản. Ngay khi
nhận thế chấp tài sản, các TCTD cần thực hiện việc đăng ký giao dịch bảo đảm
theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của pháp luật.
Thứ hai, mở các lớp đào tạo nghiệp vụ ngân hàng, lớp nâng cao trình độ chuyên
môn để các nhân viên giữ các chức vụ trong TCTD hoạt động đúng đắn và có hiệu
quả hơn. Đồng thời, kịp thời phát hiện và xử lý các trường hợp vi phạm quy định
của TCTD như không kiểm tra kĩ thông tin của khách hàng, bỏ qua thông tin hay
thực hiện qua loa,...dẫn đến sai xót, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh.
Thứ ba, Xây dựng các chính sách và quy trình cho vay một cách chặt chẽ, có
chiến lược, đặt ra yêu cầu những người trong TCTD thực hiện đúng chính sách và
quy trình đó. Bên cạnh đó cần phải có quy trình quản trị rủi ro hữu hiệu, làm hạn
chế rủi ro mà khách hàng gây ra, phải chú trọng đến phân tích khách hàng, xếp loại
rủi ro tín dụng để tính toán điều kiện và khả năng trả nợ của khách hàng khi đáo
hạn.
Ngoài ra, cũng cần xây dựng cơ chế xử lý hợp lý đối với các tình trạng không
thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của khách hàng để hạn chế tình
trạng này.
3.4 Về phía bên vay
- Người vay cần phải tìm hiểu thật kỹ về TCTD mà mình thực hiện hoạt động
vay, đọc đầy đủ các nội dụng trong Hợp đồng tín dụng để tránh các tình trạng ký
các hợp đồng không đúng pháp luật dẫn đến nhiều hậu quả nặng nề.
- Thường xuyên tìm hiểu về pháp luật để hiểu biết hơn, bên cạnh đó cần phải cẩn
trọng hơn trong kinh doanh để hạn chế thua lỗ, ảnh hưởng đến quá trình kinh
doanh dẫn đến Doanh nghiệp phá sản,...