Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

NHÀ NƯỚC KIẾN TẠO, ĐẶC TRƯNG CHÍNH PHỦ KIẾN TẠO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.64 KB, 16 trang )

I.

Đặc trưng của Chính phủ kiến tạo
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho biết: Chính phủ kiến tạo là Chính phủ chủ động
hơn trong xây dựng thể chế, pháp luật chứ không chỉ điều hành trên những gì pháp
luật có sẵn. "Bộ máy Chính phủ phải năng động hơn, có sáng kiến nhiều hơn,
nghiên cứu thế giới xung quanh nhiều hơn để áp dụng cùng với đường lối, chính
sách của Đảng để chủ động tốt hơn, chứ không phải rơi vào thế bị động".
Các đặc trưng cơ bản của chính phủ kiến tạo:
Thứ nhất, đó phải là một Chính phủ chủ động thiết kế ra một hệ thống
pháp luật tốt, những chính sách tốt, thể chế tốt để nuôi dưỡng nền kinh tế phát
triển, chứ không phải bị động đối phó với những diễn biến trên thực tế.
Dưới chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Công thương bãi bỏ gần 700 điều kiện kinh
doanh (ĐKKD), chiếm đến hơn một nửa số điều kiện mà bộ này quản lý. Tiếp đó,
đầu tháng 12-2017, Bộ Xây dựng đề xuất bãi bỏ 41,3% tổng số ĐKKD, đơn giản
hóa 43,7% ĐKKD thuộc trách nhiệm của bộ. Bộ NN&PTNT đề xuất bỏ 34,2%
ĐKKD và cắt giảm 56,5% thủ tục hành chính do mình quản lý.
Về dài hạn, những điều kiện kinh doanh được bãi bỏ chắc chắn là một bước
đi tích cực vì đã giúp xóa bỏ rào cản gia nhập thị trường cho hàng loạt ngành nghề,
tạo điều kiện cho người dân tham gia hoạt động kinh doanh - sản xuất có lợi nhuận.
Việc tích cực xóa bỏ hơn 3.400 ĐKKD cũng sẽ khiến môi trường kinh doanh ở Việt
Nam minh bạch hơn, tránh tình trạng một số cán bộ lợi dụng ĐKKD để làm khó
DN hoặc trục lợi.
Ngoài ra, việc dỡ bỏ các ĐKKD không cần thiết chứng tỏ tư duy quản trị nhà
nước mới theo hướng “kiến tạo”: nhấn mạnh vào các cơ chế “hậu kiểm”, vận dụng
tích cực vai trò của người dân và thị trường trong công tác giám sát, thay vì quản lý
“đầu vào” theo cách vẫn được thực hiện từ xưa đến nay.
Thứ hai, là Nhà nước không làm thay thị trường, những khu vực nào thị
trường có thể làm được, DN tư nhân có thể làm được thì Nhà nước không can
thiệp, mà thay vào đó là tạo điều kiện cho các DN làm. Nhà nước sẽ chỉ đầu tư
vào những khu vực các DN tư nhân không thể đầu tư.


Theo đó, Nhà nước sẽ xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận
lợi để phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh, hiệu quả và bền vững. Việt Nam phấn
đấu đến năm 2020 có ít nhất 1 triệu DN; đến năm 2025 có hơn 1,5 triệu DN và đến
1


năm 2030, có ít nhất 2 triệu DN. Tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân
vào GDP sẽ tăng tương ứng khoảng 50%, 55% và 60 - 65%...
Chính phủ tiếp tục khuyến khích phát triển các tập đoàn tư nhân lớn ở Việt
Nam, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài vào làm ăn ở thị trường Việt
Nam, đặc biệt khuyến khích tinh thần cạnh tranh lành mạnh công bằng giữa các
loại hình DN và các thành phần kinh tế, mong muốn họ hoạt động theo hướng
chuyên nghiệp hóa. Sẽ số hóa công tác quản lý và cung cấp dịch vụ công để giảm
bớt tệ quan liêu, phiền hà của một bộ phận công chức phục vụ. Tiếp tục xây dựng
cơ sở hạ tầng như bến cảng, đường giao thông, sân bay, đảm bảo năng lượng cho
sản xuất và kinh doanh...
Chính phủ đồng tình với quan điểm cái gì tư nhân làm được thì để tư nhân làm.
Chính phủ chỉ kiến tạo môi trường đầu tư tốt cho sự phát triển của mọi thành phần
kinh tế. Tiếp tục cải cách và đổi mới, không để thụt lùi chính sách trong quá trình
hội nhập quốc tế sâu rộng,…Trong những ngày cuối cùng của năm 2017, Nhà nước
đã hoàn thành việc thoái gần 60% vốn tại hãng bia lớn nhất Việt Nam là Sabeco,
với giá trị lên đến 4,8 tỷ đô la. Ngoài ra, đang đẩy mạnh cổ phần hóa (CPH) các
tậpđoàn nhà nước lớn.
Ngày 3-10-2017, Chính phủ ra Nghị quyết 98/NQ-CP ban hành Chương
trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 3-6-2017
của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa XII về phát triển
kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong năm 2017, lần đầu tiên sau nhiều năm, Việt Nam đã hoàn thành và
hoàn thành vượt mức tất cả 13/13 chỉ tiêu kinh tế - xã hội do Quốc hội đề ra. Kinh

tế vĩ mô được ổn định, lạm phát được kiểm soát, thu ngân sách và các cân đối lớn
của nền kinh tế đều đạt yêu cầu đề ra.
GDP tăng trưởng khoảng 6,81% (vượt mục tiêu 6,7% đề ra trước đó), xuất
khẩu trên 200 tỷ USD, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên 33 tỷ USD, dự
trữ ngoại hối cũng đạt kỷ lục mới, đón khoảng 13 triệu lượt du khách quốc tế, hơn
120.000 doanh nghiệp (DN) mới được thành lập, hơn 25.000 DN hoạt động trở lại,
chỉ số thuận lợi kinh doanh của Việt Nam tăng 14 bậc trên bảng xếp hạng toàn
cầu...
2


Thứ ba, theo Thủ tướng, Chính phủ phải kiến thiết được môi trường kinh
doanh thuận lợi, không chỉ đứng đầu trong nhóm các nước ASEAN, mà còn
phấn đấu vươn lên tiêu chí của các nước nhóm OECD.
Ngân hàng Thế giới và Diễn đàn Kinh tế Thế giới đã nâng cao xếp hạng của
Việt Nam về môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh quốc gia.
Tuy nhiên, môi trường kinh doanh ở Việt Nam vẫn có một số chỉ số được xếp hạng
thấp, như chỉ số bảo vệ nhà đầu tư. Vì vậy cần rà soát đồng bộ quy định pháp luật
liên quan đến đầu tư kinh doanh, tránh chồng chéo, gây khó khăn cho nhà đầu tư.
Cùng với đó, kiểm tra, giám sát thực thi công vụ, xử lý nghiêm hành vi nhũng
nhiễu, tiêu cực đối với nhà đầu tư. Tiếp tục xây dựng Chính phủ điện tử, tiết kiệm
thời gian, chi phí, tránh nhũng nhiễu.
Nộp thuế cũng là một khâu yếu. Chỉ số nộp thuế và bảo hiểm xã hội của Việt Nam
năm qua tăng 81 bậc, từ 167 lên tới 86, theo xếp hạng của Ngân hàng Thế giới. Việt
nam đứng thứ tư so với ASEAN nhưng so với các nước xếp ngay trước Việt Nam
thì còn khoảng cách quá xa. Cho nên tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, nhất là
chất lượng, quy trình, nghiệp vụ quản lý, chất lượng phục vụ của cán bộ thuế, nhất
là thu thuế qua hóa đơn điện tử là những chủ trương quan trọng để nâng cao điểm
về môi trường đầu tư kinh doanh.
Thương mại qua biên giới cũng là khâu yếu của Việt Nam, cần hoàn thiện cơ chế,

chính sách, nâng cao hạ tầng thương mại khu biên giới, nhất là cửa khẩu, kho bãi,
giao thông, … Bộ Công Thương có hướng dẫn để thúc đẩy thương mại qua biên
giới, thúc đẩy thương mại điện tử ở Việt Nam, phù hợp thông lệ quốc tế.
Một yếu kém nữa là giải quyết phá sản. Mặc dù chúng ta đã có luật pháp nhưng
hướng dẫn thể chế pháp luật quy định thủ tục phá sản doanh nghiệp chưa nhanh
gọn thông thoáng.
Thứ tư, là Chính phủ phải nói đi đôi với làm, siết chặt kỷ cương, đặc biệt phải
thay ngay cán bộ không đáp ứng yêu cầu công việc. Cần xây dựng chính quyền
điện tử, thương mại điện tử đến tòa án điện tử… Đây là yếu tố quan trọng để
xây dựng Chính phủ kiến tạo.
Chính phủ, các bộ, ngành, cấp ủy và chính quyền địa phương đã có nhiều nỗ
lực và quyết tâm thực hiện chủ trương cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà
nước, song thực tế còn không ít bất cập khi bộ máy đang 'phình' ra và biên chế tiếp
tục tăng lên.
3


Trong những năm qua Chính phủ, các bộ, ngành, cấp ủy và chính quyền địa
phương đã có nhiều nỗ lực và quyết tâm thực hiện chủ trương cải cách tổ chức bộ
máy hành chính nhà nước, song có thể thấy thực tế còn không ít những bất cập khi
bộ máy đang "phình" ra và biên chế tiếp tục tăng lên.
Chỉ tính trong 5 năm (2011-2016), số đơn vị hành chính thuộc bộ, cơ quan ngang
bộ đã tăng 28 đơn vị, trung bình mỗi cơ quan tăng thêm 1,1 đơn vị. Số lượng các
đơn vị hành chính trực thuộc tổng cục tăng 822 đơn vị. Tính đến tháng 6/2017, cả
nước có đến 42 tổng cục, tăng 100% so với nhiệm kỳ Chính phủ khóa XI. Số lượng
các vụ, cục, phòng tăng từ 4,7% đến 13,6% so với năm 2011.
Số đơn vị hành chính thuộc bộ, cơ quan ngang bộ ở thời điểm cuối năm 2016 là
510; số vụ, cục, chi cục thuộc tổng cục là 3.867. Cùng với đó, xu hướng nâng cấp
vụ lên cục diễn ra nhanh ở nhiều bộ, có đến 29 cục được thành lập trong thời gian
này, trong đó Bộ Công an tăng 7 cục, Bộ Tư pháp tăng 4 cục, Bộ Thông tin Truyền thông và Bộ Y tế đều tăng 3 cục...

Thực hiện Nghị quyết số 39 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức trên nguyên tắc “cơ bản không để cấp phòng
trong các đơn vị tham mưu thuộc cơ quan trung ương”, số lượng phòng trong vụ
chuyên môn đã giảm nhưng vẫn duy trì tới 945 phòng trong các vụ tham mưu, chưa
thực hiện đúng yêu cầu của Nghị quyết. Chỉ có 99/344 vụ là không tổ chức phòng
(chiếm 28,8%).
Mặc dù số lượng cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện có giảm, nhưng số
lượng cơ quan chuyên môn cấp tỉnh và số chi cục, phòng thuộc cơ quan chuyên
môn cấp tỉnh có xu hướng tăng, từ năm 2011 đến năm 2016 tăng 34 cơ quan
chuyển môn cấp tỉnh, 85 phòng và tương đương, 16 chi cục thuộc cơ quan chuyên
môn cấp tỉnh. Trung bình một cơ quan có 8,1 phòng và tương đương trực thuộc.
Bộ Y tế mới đây cũng đã thông tin thời gian tới sẽ chỉ quản lý trực tiếp khoảng 20
đơn vị sự nghiệp trực thuộc, thay vì 82 đơn vị như hiện nay. Ở tuyến huyện, có
202/420 đơn vị tổ chức thực hiện hợp nhất Trung tâm Y tế huyện và bệnh viện
huyện thành Trung tâm y tế huyện.
Thực hiện Nghị quyết 39-NQ/TW của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế, các
phòng trong vụ, cục trực thuộc Bộ đã được sắp xếp, thu gọn từ 94 phòng xuống còn
59 phòng, giảm 105 cán bộ lãnh đạo cấp phòng.
Nâng cao năng lực cán bộ
4


Trong nhiều năm qua, công tác ĐTBD cán bộ, công chức, viên chức luôn được chú
trọng, Chính phủ và Bộ Nội vụ đã ban hành nhiều văn bản nhằm thể chế hóa quan
điểm của Đảng và Nhà nước về công tác ĐTBD cán bộ, công chức, viên chức.
Thông qua các khóa ĐTBD, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức ở các địa phương trong cả nước ngày càng được nâng cao,
đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của nhiệm vụ trong tình hình mới. Đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức đã làm tốt hơn nhiệm vụ tham mưu, đề xuất nhiều giải pháp để
thực thi có hiệu quả nhiệm vụ, công cụ.

Trong giai đoạn 2011-2015, cả nước đã tiến hành ĐTBD cho hơn 3.230.000 lượt
cán bộ, công chức , trong đó, khối bộ, ngành là hơn 889.000 lượt người và khối các
tỉnh, thành phố là 2.344.000 lượt người. Trong tổng số 3.230.000 lượt người đã có
456.000 lượt người được ĐTBD về lý luận chính trị; 489.000 lượt người được bồi
dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ. Kết quả ĐTBD giai đoạn 2011-2015 tăng
khoảng 24%, ở các tỉnh tăng 42% so với giai đoạn 2006-2010, cho thấy nhận thức
của các cấp, các ngành ở địa phương về chức năng, vai trò của hoạt động ĐTBD
cán bộ, công chức có nhiều thay đổi tích cực.
II. Thực trạng việc xây dựng chính phủ kiến tạo tại tỉnh Phú Thọ:
Thứ nhất, Chủ động thiết kế ra một hệ thống pháp luật tốt, những chính
sách tốt, thể chế tốt để nuôi dưỡng nền kinh tế phát triển, chứ không phải bị
động đối phó với những diễn biến trên thực tế.
Điểm mạnh: Tỉnh Phú thọ có nhiều đổi mới trong chính sách pháp luật nhằm
tạo những điều kiện tốt nhất cho việc phát triển nền kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh
vực thu hút đầu tư
Ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp:
- Dự án đầu tư vào địa bàn Tân sơn, Thanh sơn, Yên Lập: Thuế suất ưu đãi 10%
trong thời gian 15 năm. Miễn thuế 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9
năm tiếp theo.
- Dự án đầu tư vào địa bàn Cẩm Khê, Tam Nông, Phù Ninh, Hạ Hoà: Thuế suất
20% trong thời gian 10 năm, kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2016 áp dụng thuế suất
17%. Miễn thuế 2 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 4 năm tiếp theo.
Ưu đãi về thuế xuất nhập khẩu:
5


Miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định của dự án
đầu tư vào địa bàn: Cẩm Khê, Phù Ninh, Tam Nông, Hạ Hoà, Tân sơn, Thanh sơn,
Yên Lập.
Ưu đãi hỗ trợ của tỉnh:

- Các nhà đầu tư được lựa chọn địa điểm, diện tích đất theo quy hoạch xây dựng
được duyệt.
- Được hưởng giá thuê đất, phí sử dụng hạ tầng ưu đãi của các khu, cụm công
nghiệp do tỉnh đầu tư: KCN Thụy Vân, KCN Trung Hà và CCN Bạch Hạc.
- Những dự án đặc biệt có ý nghĩa quan trọng tác động mạnh tới phát triển kinh tếxã hội của tỉnh, UBND tỉnh quyết định việc hỗ trợ đầu tư riêng.
Ban quản lý các KCN, Sở Kế hoạch và Đầu tư sẽ hỗ trợ tích cực các nhà đầu tư
hoàn thiện thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, chứng nhận đăng ký thành
lập doanh nghiệp theo cơ chế " một cửa, một đầu mối; thời gian để được giao đất
đối với dự án đầu tư vào khu công nghiệp, cụm công nghiệp đã có hạ tầng không
quá 3 ngày, đối với dự án xây dựng hạ tầng khu công nghiệp thì không quá 30 ngày.
Thời gian cấp giấy chứng nhận đăng ký thành lập doanh nghiệp và dự án đầu tư
không quá 3 ngày. Thời gian xin ý kiến các cơ quan liên quan, trình phê duyệt chủ
trương thực hiện với thời gian ngắn nhất trong khung quy định
Ngoài ra trong các lĩnh vực khác như nông nghiệp, dịch vụ cũng được sự quan tâm
sát sao của tỉnh như chính sách hỗ trợ đặc thù khuyến khích doanh nghiệp đầu tư
vào nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2015-2020
Kết quả đạt được:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 7,75%, cao hơn mức bình quân chung của cả nước;
tổng thu ngân sách Nhà nước đạt trên 5.400 tỷ đồng, vượt 11% so với dự toán; kim
ngạch xuất khẩu đạt trên 1,3 tỷ USD, tăng 36,8%; GRDP bình quân đầu người đạt
35,5 triệu đồng, tăng 7,8% so với năm 2016…
Trong sáu tháng đầu năm 2017
Công tác xúc tiến, thu hút đầu tư, đã tiến hành cấp mới, điều chỉnh cho 15 dự án
trong nước, vốn đầu tư đăng ký 2.215,6 tỷ đồng; 6 doanh nghiệp nước ngoài, vốn
đăng ký 40,92 triệu USD, bằng 98% so với cùng kỳ 2016, đạt 178% so với kế
hoạch
2017.
Công tác đầu tư của các doanh nghiệp: Đầu tư nước ngoài (FDI): 7 doanh nghiệp
6



đang triển khai đầu tư với giá trị thực hiện ước đạt 68,5 triệu USD (trong đó giá trị
xây dựng 13,5 triệu USD, giá trị thiết bị nhập khẩu 55,0 triệu USD); Đầu tư trong
nước (DDI): 8 doanh nghiệp đang triển khai đầu tư xây dựng với giá trị thực hiện
ước đạt 94,2 tỷ đồng.
Điểm yếu:
Thứ hai, là Nhà nước không làm thay thị trường, những khu vực nào thị
trường có thể làm được, doanh nghiệp tư nhân có thể làm được thì Nhà nước
không can thiệp, mà thay vào đó là tạo điều kiện cho các doanh nghiệp làm. Nhà
nước sẽ chỉ đầu tư vào những khu vực các doanh nghiệp tư nhân không thể đầu tư.
Điểm mạnh:
Phú Thọ cũng hội tụ một hệ thống giao thông khá thuận tiện gồm: Tuyến
đường sắt Hải Phòng - Hà Nội - Lào Cai đang mở rộng thành tuyến liên vận quốc
tế, đường thủy với các tuyến trên sông Hồng, sông Lô, sông Đà. Trên địa bàn tỉnh
còn có Quốc lộ 2 đi Tuyên Quang, Hà Giang sang Vân Nam (Trung Quốc), quốc lộ
70 đi Yên Bái, Lào Cai sang Vân Nam (Trung Quốc), quốc lộ 32 đi Yên Bái, Sơn
La, cùng với các tỉnh bạn trong cả nước và quốc tế. Đặc biệt từ năm 2014, cao tốc
Hà Nội - Phú Thọ - Lào Cai được thông tuyến đã mở rộng cánh cửa hội nhập, nối
liền Phú Thọ với hành lang kinh tế quốc tế Hà Nội - Hải Phòng - Côn Minh với
nhiều điểm giao kết trung chuyển trong hành trình xuyên Á.
Với lợi thế có nguồn tài nguyên khoáng sản khá đa dạng, trong đó một số
loại có thể khai thác quy mô công nghiệp như: Đá nguyên liệu sản xuất xi măng,
sắt, cao lanh, fenspat, đất sét, nước khoáng nóng... Quỹ đất nông lâm nghiệp trên
địa bàn cũng còn khá lớn, không thuộc đất an ninh lương thực, trong khi số dự án
đầu tư chưa nhiều. Tỉnh còn có 56.000 ha rừng tự nhiên và 60.000 ha rừng trồng, là
vùng nguyên liệu lớn cho công nghiệp chế biến nông lâm sản như giấy, chè,... Phú
Thọ còn khoảng 800.000 lao động trong độ tuổi, trong đó có trên 33,5% đã qua đào
tạo, có thể đáp ứng nhu cầu cho nhiều dự án công nghiệp, dịch vụ.
Có lợi thế về vị trí chiến lược, nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực,
có quỹ đất dồi dào để phát triển kinh tế, Phú Thọ luôn nỗ lực cải thiện môi trường

đầu tư, đẩy mạnh công tác quy hoạch và chuẩn bị đầu tư; tập trung giải phóng mặt
bằng và đầu tư xây dựng hạ tầng thiết yếu đến hàng rào các khu, cụm công nghiệp;
đào tạo nguồn nhân lực; phát triển khu đô thị, dịch vụ, du lịch; giải quyết kịp thời
7


kiến nghị và thủ tục hành chính cho doanh nghiệp... Nhằm tạo điều kiện tốt nhất để
các nhà đầu tư sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2015- 2020, Tỉnh ủy Phú Thọ tập trung lãnh đạo thực hiện
bốn khâu đột phá về đầu tư kết cấu hạ tầng then chốt, cải cách hành chính, phát
triển nguồn nhân lực và du lịch.
Theo đó, đầu tư kết cấu hạ tầng then chốt được tỉnh xác định là một trong
những chương trình trọng điểm và ưu tiên cho xây dựng hạ tầng giao thông, các
khu, cụm công nghiệp, các dự án, công trình quan trọng có tính kết nối liên vùng,
nhằm tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội.
Tỉnh Phú Thọ phấn đấu từ nay đến năm 2020 huy động hơn 50 nghìn tỷ đồng
đầu tư cho các dự án kết cấu hạ tầng then chốt. Trong đó, vốn đầu tư từ các doanh
nghiệp ngoài khu vực nhà nước chiếm 66,9%; vốn đầu tư từ ngân sách của tỉnh là
19,5%,... Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ nêu trên, Phú Thọ tập trung rà soát, điều
chỉnh, bổ sung quy hoạch và tăng cường công tác quản lý quy hoạch; đẩy mạnh cải
cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện, cơ chế hỗ trợ và nâng cao hiệu quả các
nguồn lực đầu tư.
Năm năm qua, Phú Thọ huy động 35.960 tỷ đồng đầu tư cho kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội. Trong đó huy động cho hạ tầng giao thông đạt 14.331 tỷ đồng; hạ
tầng khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp đạt 9.690 tỷ đồng; hạ tầng khu, cụm công
nghiệp là 844 tỷ đồng,…
Những thành tựu đạt được:

Về tăng trưởng kinh tế

Kinh tế trên địa bàn tỉnh Phú Thọ năm 2017 tiếp tục tăng trưởng khá, vượt
mục tiêu đề ra, tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) năm 2017 theo giá so sánh
2010 ước đạt 35.634,5 tỷ đồng, tăng 7,75% so với năm 2016 (vượt kế hoạch
0,25%); trong đó khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,66%; khu vực dịch vụ
tăng 7,48%; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,74%.

8


Cơ cấu kinh tế (cơ cấu giá trị tăng thêm) năm 2017: Khu vực nông, lâm
nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 22,00% (năm 2016 24,34%); khu vực công
nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng 38,99% (năm 2016 37,73%); khu vực dịch vụ
chiếm tỷ trọng 39,01% (năm 2016 37,93%).
Về đầu tư, xây dựng
Tổng vốn đầu tư thực hiện năm 2017 ước đạt 23,6 nghìn tỷ đồng, tăng 13,2%
so với cùng kỳ. Trong đó, nguồn vốn ngoài nhà nước ước đạt 14,5 nghìn tỷ đồng,
tăng 10,1% (vốn của tổ chức, doanh nghiệp ngoài nhà nước ước đạt 6,5 nghìn tỷ
đồng, tăng 7%); vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 4 nghìn tỷ đồng, tăng
49,4%; nguồn vốn nhà nước trên địa bàn ước đạt 5,2 nghìn tỷ đồng, tăng 2% (vốn
Trung ương quản lý ước đạt 1 nghìn tỷ đồng, tăng 3,6%; vốn địa phương quản lý
ước đạt 4,1 nghìn tỷ đồng, giảm 1,6%).
Về thương mại, dịch vụ
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ năm 2017 ước đạt 25.227,9
tỷ đồng, tăng 10,1% so năm 2016 (chưa loại trừ yếu tố giá). Trong đó, kinh tế cá
thể ước đạt 11.654,5 tỷ đồng, chiếm 46,3% tổng mức và giảm 1,6%; kinh tế tư nhân
đạt 11.003,3 tỷ đồng, chiếm 43,6% và tăng 16,4%; thành phần kinh tế nhà nước đạt
2.327,2 tỷ đồng, chiếm 9,2%, tăng 73,3%. Phân theo ngành kinh tế, hoạt động
thương nghiệp đạt 21.740,7 tỷ đồng, chiếm 86,2% tổng mức và tăng 12,2%; doanh
thu dịch vụ lưu trú và ăn uống đạt 2.117,8 tỷ đồng, chiếm 8,4% và tăng 7,6%;...
Về lao động, việc làm

Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế ước tính
năm 2017 là 759,8 nghìn người, tăng 8,1 nghìn người so với năm 2016, trong đó:
khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 54,6% tổng số, giảm 8 nghìn lao
động; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 22,9%, tăng 10 nghìn lao động; khu
vực dịch vụ chiếm 22,4% tăng 6,1 nghìn lao động. Tỷ lệ lao động đang làm việc
trong các ngành kinh tế đã qua đào tạo ước đạt 26,7%, tăng 0,5 điểm phần trăm; tỷ
lệ lao động thất nghiệp 1,60%, giảm 0,04 điểm phần trăm.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có trên 141 nghìn công nhân, viên chức lao động.
Nhìn chung, đời sống của công nhân, viên chức, người lao động tiếp tục được cải
thiện, việc làm cơ bản ổn định, không có tình trạng thiếu hoặc mất việc làm kéo
dài; ước tính tiền lương bình quân 1 tháng của công nhân, viên chức, lao động trên
địa bàn trên 4,4 triệu đồng tăng so cùng kỳ là 0,4 triệu đồng. Trong đó: khu vực
9


hành chính - sự nghiệp đạt trên 4,5 triệu đồng; khu vực doanh nghiệp nhà nước đạt
trên 4,2 triệu đồng; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt trên 4,4 triệu đồng.
Điểm yếu:
Thứ ba, Chính phủ phải kiến thiết được môi trường kinh doanh thuận lợi:
Nhằm góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
XVIII, Ban quản lý các KCN Phú Thọ đã xây dựng chương trình thực hiện Nghị
quyết và đạt được những kết quả bước đầu 2 khâu đột phá ”Về đầu tư kết cấu hạ
tầng các KCN, CCN và cải cách hành chính thu hút đầu tư”.
Huy động vốn đầu tư hạ tầng khu, cụm công nghiệp
Thời gian qua, Ban quản lý các KCN Phú Thọ đã tập trung huy động nguồn vốn
cho đầu tư xây dựng hoàn thiện kết cấu hạ tầng KCN Thụy Vân giai đoạn II và giai
đoạn III. Đầu tư xây dựng hoàn thiện cơ bản các hạng mục công trình thiết yếu
KCN Trung Hà giai đoạn I.
Tích cực huy động tranh thủ các nguồn vốn đầu tư cho các dự án đầu tư công xây
dựng kết cấu hạ tầng các KCN Cẩm Khê, CCN Bạch Hạc. Vốn đầu tư các dự án từ

nguồn vốn hỗ trợ mục tiêu của Ngân sách Trung ương, lũy kế giá trị thực hiện ước
đạt 4,025 tỷ đồng.
Cùng với việc huy động các nguồn vốn đầu tư xây dựng từ nguồn vốn đầu tư
công trung hạn, Ban đã tích cực vận động xúc tiến, mời gọi thu hút các nhà đầu tư
xây dựng, kinh doanh kết cấu hạ tầng KCN. Xúc tiến đầu tư vào KCN Phù Ninh,
CCN Tân Sơn và CCN Thắng Sơn - Thanh Sơn.v.v.
Cải cách hành chính, xúc tiến đầu tư sản xuất
Thực hiện mạnh mẽ công tác cải cách thủ tục hành chính, tạo mọi điều kiện
thuận lợi nhất cho DN, giải quyết nhanh chóng các thủ tục hành chính thuộc thẩm
quyền với thời gian tối đa từ 1 - 3 ngày và là đầu mối liên hệ với các sở ngành để
giải quyết thủ tục liên quan về đăng ký thành lập DN, môi trường, cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, phòng cháy chữa cháy... theo cơ chế “một cửa liên thông”.
Thường xuyên nắm bắt thông tin của DN, đồng thời tổ chức hội nghị giao ban
tháng với các DN khu, cụm công nghiệp và duy trì thường trực làm việc vào thứ 5
hàng tuần tại KCN tiếp thu trên hàng trăm ý kiến đề xuất, kiến nghị của các DN về
khó khăn, vướng mắc trong sản xuất kinh doanh, ô nhiễm môi trường, triển khai
10


đầu tư xây dựng, đã được trả lời, giải quyết kịp thời, được các DN hưởng ứng, đánh
giá cao.
Ban quản lý các KCN đã đổi mới phương thức xúc tiến đầu tư, từ chỗ chờ nhà đầu
tư đến, nay đã tích cực chủ động tiếp xúc, mời gọi đầu tư; vận động thu hút đầu tư
bằng chính uy tín, trách nhiệm, tinh thần phục vụ, hỗ trợ đối với nhà đầu tư hiện có
và các nhà đầu tư mới; chủ động, linh hoạt và tạo mọi điều kiện thuận lợi tốt nhất
cho nhà đầu tư; tăng cường công tác quảng bá lợi thế các KCN, CCN, phổ biến các
quy định, chính sách pháp luật.
Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh
Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh hay PCI (viết tắt của Provincial
Competitiveness Index) là chỉ số đánh giá và xếp hạng chính quyền các tỉnh, thành

của Việt Nam về chất lượng điều hành kinh tế và xây dựng môi trường kinh doanh
thuận lợi cho phát triển doanh nghiệp. Chỉ số PCI được công bố thí điểm lần đầu
vào năm 2005 cho 42 tỉnh, thành. Sau 10 năm thực hiện, đến nay PCI đã được thừa
nhận như là một trong những căn cứ đáng tin cậy để các nhà hoạch định cần tham
khảo trong cải cách hành chính và các nhà đầu tư lựa chọn địa điểm đầu tư. Là một
tỉnh miền núi song Phú Thọ đã chủ động tham gia đánh giá, xếp loại PCI từ năm
2006, tuy nhiên, những năm qua, kết quả xếp hạng PCI của Phú Thọ còn ở mức
thấp.
Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Phú Thọ qua các năm
CHỈ SỐ

NĂM
2007

NĂM
2008

NĂM
2009

NĂM
2010

NĂM
2011

NĂM
2012

NĂM

2013

NĂM
2014

NĂM
2015

NĂM
2016

Gia nhập thị trường

8.04

7.54

8.81

6.54

8.43

9.05

7.28

8.26

8.51


8.66

Tiếp cận đất đai

7.02

6.91

5.86

4.34

5.6

5.97

5.97

5.77

5.12

4.46

Tính minh bạch

5.84

6.44


5.58

5.49

5.87

5.47

4.91

5.65

5.41

5.76

Chi phí thời gian

6.21

4.49

4.99

5.74

6.9

6.26


4.89

6.42

6.27

5.55

Chi phí không chính thức

6.87

7

5.75

6.64

6.93

5.93

6.58

5.15

5.33

5.21


Tính năng động

4.86

5.6

3.41

3.96

5.61

4.63

3.93

3.9

4.63

4.65

Hỗ trợ doanh nghiệp

4.39

8.07

5.33


5.21

4.89

4

5.84

6.46

6.15

5.96

Đào tạo lao động

5.35

3.61

4.02

4.32

4.7

4.57

5.05


5.57

6.02

6.6

Thiết chế pháp lý

4.36

5.78

6.11

4.66

4.96

2.95

5.13

5.31

5.85

5.4

Cạnh tranh bình đẳng


N/A

N/A

N/A

N/A

N/A

N/A

4.24

4.76

5.42

4.8

11


PCI

55.64

52.49


53.3

52.47

60.31

55.54

53.91

57.72

58.37

58.6

Xếp hạng

56

34

53

53

27

40


54

39

35

29

Nhìn vào các chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) của tỉnh Phú Thọ cho thấy năng lực
cạnh tranh cấp tỉnh của tỉnh Phú Thọ khởi nguồn tư rất thấp xếp hạng 56/63 tỉnh.
Trước thực trạng đó tỉnh Phú thọ đã cải cách hành chính, ban hành các chế độ ưu
đãi thu hút đầu tư, nâng cao chất lượng cán bộ quản lý… Nhờ đó mà năng lực cạng
tranh cấp tỉnh của Phú Thọ được cải thiện đáng kể, trong 3 năm gần đây đã có
những bước tiến vượt bậc. Đến năm 2016 xếp hạng thứ 29/63 tỉnh và được đánh
giá là tỉnh nằmdtrong tốp có trọng số tốt.
So với năm 2014 thì năm 2015 Phú Thọ có 6 chỉ số tăng điểm gồm: Gia nhập thị
trường, tính minh bạch, chi phí thời gian, hỗ trợ doanh nghiệp, đào tạo lao động và
thiết chế pháp lý. Có được điều này là nhờ UBND tỉnh đã quán triệt và triển khai
hiệu quả đề án và chương trình hành động PCI đến các cấp, các ngành; rà soát, loại
bỏ những văn bản chồng chéo, hết hiệu lực; thực hiện công khai minh bạch, cập
nhật và hướng dẫn rõ ràng, dễ thực hiện đối với các thủ tục hành chính cho công
dân, doanh nghiệp tại trụ sở, trang thông tin điện tử của các cơ quan, đơn vị.
Tuy nhiên đến năm 2016 thì các chỉ số như tiếp cận đất đai,chi phí thời gian, chi
phí không chính thức, hỗ trợ doanh nghiệp, thiết chế pháp lý, và cạnh tranh bình
đẳng lại tiếp tục bị giảm điểm. Nếu so với mặt bằng chung thì PCI của tỉnh Phú
Thọ vẫn tiếp tục được nâng hạng nhưng nhiều chỉ số lại bị giảm điểm.
Vậy để có thể nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh có một số giải pháp
sau:
Giảm tải thủ tục hành chính tạo "đường thoáng"
Thực hiện Đề án Nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh; chỉ đạo các cấp, các ngành

đẩy mạnh cải cách, trong đó đề cao thực hiện tốt cơ chế một cửa, một cửa liên
thông; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là đội ngũ cán bộ làm công tác
"một cửa" đồng thời huy động mọi nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, góp
phần cải thiện môi trường đầu tư.
Giảm tải các thủ tục hành chính đã tạo "đường thoáng", giúp tiết kiệm thời
gian, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tìm hiểu thị trường và đầu tư vào tỉnh.
Tăng cường đối thoại, gỡ bỏ dần "chi phí không chính thức"
12


Tích cực nâng cao tinh thần trách nhiệm và thái độ ứng xử của cán bộ thực thi
nhiệm vụ. Đây là một trong những nguyên nhân khiến 3 chỉ số còn lại gồm tính
năng động, tiếp cận đất đai và chi phí không chính thức bị giảm điểm. Theo đánh
giá thì đây chính là lĩnh vực "nhạy cảm".
Muốn loại dần chi phí không chính thức cần chấn chỉnh lại đội ngũ công chức, nhất
là những cán bộ trực tiếp làm nhiệm vụ tiếp cận với doanh nghiệp. Cần tăng cường
cập nhật những chủ trương chính sách đầu tư mới, thực hiện công khai minh bạch
các kế hoạch, quy hoạch của các ngành, lĩnh vực để các nhà đầu tư được tiếp cận
bình đẳng
Sẵn sàng thay thế cán bộ đối với những sở, ngành, cá nhân trong quá trình làm việc
bị người dân, doanh nghiệp kêu ca, phàn nàn nhiều. Các ngành rà soát kịp thời
những văn bản quy phạm pháp luật còn chồng chéo, hết hiệu lực hoặc không còn
phù hợp với tình hình phát triển KT-XH để sửa đổi, thay thế, bổ sung.
Để nâng điểm ở chỉ số tiếp cận đất đai, tỉnh tổ chức công khai các quy hoạch, nhất
là quy hoạch sử dụng đất, bảng giá đất trên địa bàn, các chính sách thu hút đầu tư
và ưu đãi đầu tư trên các trang tin điện tử để cá nhân, doanh nghiệp dễ dàng tra
cứu.
Thứ tư là Chính phủ cũng phải nói đi đôi với làm, siết chặt kỷ cương, đặc
biệt phải thay ngay cán bộ không đáp ứng yêu cầu công việc. Cần xây dựng
chính quyền điện tử, thương mại điện tử đến tòa án điện tử… Về cơ cấu tổ chức

và tinh giảm biên chế
Thực hiện Nghị quyết 39-NQ/TW của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và
cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, sau hơn 2 năm thực hiện, toàn tỉnh đã rà soát và sắp xếp
từ 74 đơn vị xuống còn 28 đơn vị. Trong đó, cấp tỉnh giảm 29 đơn vị sự nghiệp
công lập, 4 công đoàn ngành; cấp huyện giảm 13 đơn vị và giảm 46 cán bộ quản lý.
Cụ thể như: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy sáp nhập 2 phòng thành 1 phòng, Sở Kế hoạch
đầu tư giảm 2 phòng, Sở Nội vụ giảm 2 phòng, Thanh tra tỉnh giảm 1 phòng, Sở
Ngoại vụ giảm 1 phòng. UBND tỉnh quyết định sáp nhập 8 trung tâm giáo dục
thường xuyên, 5 trung tâm giáo dục thường xuyên hướng nghiệp, 2 trung tâm kỹ
thuật tổng hợp hướng nghiệp trực thuộc Sở Giáo dục & Đào tạo; sáp nhập 8 trung
tâm dạy nghề trực thuộc Sở Lao động, Thương binh và Xã hội thành Trung tâm
giáo dục nghề nghiệp, giáo dục thường xuyên trực thuộc UBND cấp huyện quản lý,
sau khi sáp nhập giảm từ 23 đơn vị xuống còn 13 đơn vị. Sáp nhập 11 bệnh viện Đa
13


khoa huyện thành Trung tâm y tế thực hiện cả hai chức năng dự phòng và khám
chữa bệnh; Bệnh viện Đa khoa thị xã Phú Thọ vào Trường Cao đẳng Y tế Phú Thọ
và quyết định chuyển Trường Cao đẳng Y tế trực thuộc UBND tỉnh về trực thuộc
Sở Y tế quản lý. Sau khi sáp nhập từ 23 đơn vị xuống còn 11 đơn vị. Sáp nhập 5 chi
nhánh trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh thành chi nhánh trợ giúp pháp lý khu vực
Thanh Sơn trực thuộc Sở Tư pháp. Sáp nhập Trung tâm phát hành phim và chiếu
bóng vào Trung tâm Văn hóa để thành lập Trung tâm Văn hóa và Chiếu phim trực
thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Liên đoàn Lao động tỉnh đã tiến hành giải
thể 4 công đoàn ngành gồm công thương, nông nghiệp, giao thông và xây dựng.
UBND tỉnh đã chỉ đạo thành lập Trung tâm bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục trực thuộc Trường Đại học Hùng Vương; sáp nhập Trường trung cấp Nghề
công nghệ và vận tải trực thuộc Sở Lao động, Thương binh và Xã hội vào Trường
Cao đẳng kỹ thuật thành Trường Cao đẳng Kinh tế kỹ nghệ thực hành Phú Thọ.
Đối với cấp huyện, thành, thị, thành phố Việt Trì đã tiến hành sáp nhập Trung tâm

thể dục thể thao thành phố và Nhà Văn hóa thành phố thành Trung tâm văn hóa thể
thao và du lịch thành phố. Các huyện, thành, thị đã giải thể 13 công đoàn ngành
giáo dục về trực thuộc liên đoàn lao động huyện quản lý.
Đối với cấp xã: Chỉ đạo thực hiện xong việc bố trí công chức Văn phòng UBND
cấp xã sang làm Văn phòng đảng ủy xã. Chỉ đạo thực hiện bố trí Bí thư, Phó bí thư
hoặc chi ủy viên làm trưởng khu dân cư, chỉ đạo thực hiện việc khu dân cư bố trí
không quá 4 cán bộ đảm nhiệm các chức danh không chuyên trách. Đây là kết quả
của công tác giảm đầu mối, tăng hiệu quả trong cải cách bộ máy hành chính Nhà
nước của tỉnh.
Tuy nhiên bộ máy chính quyền tỉnh phú thọ vẫn chưa thất sự thu gọn. vẫn còn 1 số
cơ quan đơn vị có nhiệm vụ chồng chéo nhau. Vì vậy cần sự dà soát sắp xếp một
cách hợp lý hơn để thu gọn bộ máy và tinh giảm biên chế một cách hiệu quả nhất.
Đổi mới công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo quản lý cấp cơ
sở ở tỉnh Phú Thọ hiện nay
Đào tạo, bồi dưỡng, tăng cường năng lực làm việc cho cán bộ lãnh đạo quản lý cấp
cơ sở được xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong xây dựng, phát
triển đội ngũ cán bộ công chức ở nước ta hiện nay.
Thời gian qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, lãnh đạo quản lý cấp cơ sở ở
tỉnh Phú Thọ đã có nhiều chuyển biến tích cực, bước đầu đạt được những kết quả
khả quan. Chất lượng đội ngũ cán bộ, lãnh đạo ở các xã nông thôn, miền núi được
14


quan tâm, chú trọng phát triển toàn diện trên nhiều mặt. Điều này thể hiện rõ qua
các số liệu thống kê ở tỉnh Phú Thọ như sau: Hội đồng nhân dân xã nhiệm kỳ (2011
- 2016) đã bầu được 7.001 đại biểu Hội đồng nhân dân xã, trong đó số đại biểu nữ
là 1.671 người, chiếm 23,9%; đại biểu người dân tộc thiểu số là 1.182 người, chiếm
16,9%; đại biểu đại diện các tôn giáo là 357 người, chiếm 5,1%; Trình độ chuyên
môn: đại học và sau đại học có 1.349 người, chiếm 19,3%; trung cấp có 2.465
người, chiếm 35,2%; Trình độ lý luận chính trị: cử nhân chính trị và cao cấp lý luận

chính trị có 60 người, chiếm 0,86%; trung cấp có 2.730 người, chiếm 39%.
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ, lãnh đạo quản lý cấp cơ sở ở tỉnh Phú Thọ có bản lĩnh
chính trị vững vàng, năng động và sáng tạo; hăng hái thực hiện đường lối chủ
trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước. Trình độ kiến thức và năng lực
hoạt động thực tiễn ngày càng được nâng cao, thích nghi dần với cơ chế mới
Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn một số cán bộ, công chức cấp cơ sở vẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu công việc.
Tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức chưa cao; kiến thức, kỹ năng
nghiệp vụ quản lý nhà nước còn hạn chế.
Cán bộ có trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị còn ít và thiếu
đồng đều giữa các địa phương nên việc bố trí cùng lúc nhiều cán bộ đi đào tạo còn
khó khăn dẫn đến hạn chế tính tự chủ trong công việc, lúng túng khi cụ thể hóa chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước; chưa giải quyết được những vấn
đề nảy sinh phức tạp ở cơ sở theo thẩm quyền.
Yêu cầu phát triển đội ngũ cán bộ, lãnh đạo cấp cơ sở để đáp ứng sự phát triển nền
kinh tế - xã hội thời kỳ mới đặt ra rất cấp thiết. Để giải quyết những khó khăn,
vướng mắc về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý cấp cơ
sở ở tỉnh Phú Thọ nói riêng và cả nước nói chung cho những năm tiếp theo phải
thực hiện đồng bộ những giải pháp sau:
Nêu cao tinh thần trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Tăng
cường đầu tư ngân sách nhà nước cho công tác đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến
thức mới cho cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở. Đào tạo, bồi dưỡng phải tính đến
việc đáp ứng những yêu cầu, tiêu chuẩn phục vụ hội nhập quốc tế.
Thường xuyên tiến hành rà soát, đánh giá đúng trình độ đội ngũ cán bộ lãnh
đạo quản lý, đánh giá đúng thực chất đội ngũ cán bộ. Đồng thời chú trọng việc đào
tạo chuyên sâu sau đại học để có đội ngũ trí thức giỏi trên từng ngành, lĩnh vực.
Đẩy mạnh việc thu hút cán bộ có trình độ cao, sinh viên tốt nghiệp đại học có trình
15



độ chuyên môn phù hợp về công tác tại địa phương.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo quản lý phải gắn với việc bố trí, sử dụng,
tránh tình trạng đào tạo không đúng chuyên ngành, chuyên môn nghiệp vụ.
Xây dựng các quy định nhằm định hướng đào tạo để nâng cao trình độ, năng
lực chuyên môn cho cán bộ lãnh đạo quản lý cấp cơ sở và đặc biệt là các kỹ năng
thực thi công vụ, tránh tình trạng bằng cấp chỉ để hợp thức hoá tiêu chuẩn chức
danh và ngạch, bậc.

16



×