Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

VI NHÂN GIỐNG cây HOA cúc “đài LOAN” VÀNG (chrysanthemum sp ) với GIÁ THÀNH THẤP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.68 MB, 62 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG

TỐNG HỒ NAM

VI NHÂN GIỐNG CÂY HOA CÚC “ĐÀI LOAN” VÀNG
(Chrysanthemum sp.) VỚI GIÁ THÀNH THẤP

Luận văn tốt nghiệp
Ngành: TRỒNG TRỌT

Cần Thơ, 2010


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG

Luận văn tốt nghiệp
Ngành: TRỒNG TRỌT

VI NHÂN GIỐNG CÂY HOA CÚC “ĐÀI LOAN” VÀNG
(Chrysanthemum sp.) VỚI GIÁ THÀNH THẤP

Giáo viên hướng dẫn:
Ts. Lê Văn Bé

Sinh viên thực hiện:
Tống Hồ Nam
MSSV: 3065363
Lớp: TT K32


Cần Thơ, 2010


Luận văn tốt nghiệp Kỹ sư ngành Trồng trọt với đề tài:

VI NHÂN GIỐNG CÂY HOA CÚC “ĐÀI LOAN” VÀNG
(Chrysanthemum sp.) VỚI GIÁ THÀNH THẤP

Do sinh viên Tống Hồ Nam thực hiện

Kính trình lên Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp

Cần Thơ, ngày …. tháng …. năm 2010
Cán bộ hướng dẫn

TS. Lê Văn Bé

ii


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN KHOA HỌC CÂY TRỒNG

Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp đã chấp nhận luận văn tốt nghiệp Kỹ sư
ngành Trồng trọt với đề tài:

VI NHÂN GIỐNG CÂY HOA CÚC “ĐÀI LOAN” VÀNG
(Chrysanthemum sp.) VỚI GIÁ THÀNH THẤP
Do sinh viên Tống Hồ Nam thực hiện và bảo vệ trước Hội đồng

Ý kiến của Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp .........................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
Luận văn tốt nghiệp được Hội đồng đánh giá ở mức .................................................

Cần Thơ, ngày …. tháng …. năm 2010
Chủ tịch Hội đồng

DUYỆT KHOA
Trưởng Khoa Nông nghiệp & SHƯD

iii


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân, các số liệu, kết
quả trình bày trong luận văn này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ công trình luận văn nào trước đây.

Tác giả luận văn

Tống Hồ Nam

iv


TIỂU SỬ CÁ NHÂN


Họ và tên: Tống Hồ Nam
Ngày sinh: 12 – 01 – 1987
Nơi sinh: Sa Đéc, Đồng Tháp
Họ và tên cha: Tống Hồ Hải
Họ và tên mẹ: Trần Kim Loan
Địa chỉ liên lạc: 58, Tân Mỹ, Tân Qui Đông, Sa Đéc, Đồng Tháp
Quá trình học tập:
1993–1998: Trường Tiểu học Tân Qui Đông, Sa Đéc, Đồng Tháp.
1998–2002: Trường Trung học cơ sở Hùng Vương, Sa Đéc, Đồng Tháp.
2002–2005: Trường Trung học Phổ thông Thị xã Sa Đéc, Sa Đéc, Đồng
Tháp.
2006–2010: Trường Đại học Cần Thơ, ngành Trồng trọt, khóa 32, Khoa
Nông nghiệp và Sinh học Ứng dụng.
Cần Thơ, ngày … tháng … năm 2010
Người khai

Tống Hồ Nam

v


LỜI CẢM TẠ
Xin kính dâng lên cha mẹ và gia đình tôi!
Xin chân thành biết ơn!
Thầy Lê Văn Bé đã tận tình hướng dẫn và đóng góp những ý kiến quý báu để
tôi hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp này.
Cô Lê Thị Điểu và anh Nguyễn Văn Kha đã chỉ dẫn và truyền đạt những
kinh nghiệm quý báu giúp tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Cô cố vấn học tập Lê Thị Xua, đã quan tâm dìu dắt, động viên và giúp đỡ tôi

trong suốt khóa học.
Quý Thầy, Cô Trường Đại học Cần Thơ, Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng
dụng đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu cho tôi trong suốt khóa học.
Chân thành cảm ơn!
Tập thể lớp Trồng trọt K32 đã tận tình giúp đỡ trong suốt thời gian làm thí
nghiệm và hoàn thành luận văn này.
Thân gửi các bạn lớp Trồng trọt K32 những lời chúc tốt đẹp và thành công
trong tương lai!
Xin chân thành cảm ơn!
Cần Thơ, ngày….tháng….năm 2010

Tống Hồ Nam

vi


Tống Hồ Nam, 2010. “Vi nhân giống cây hoa cúc “Đài Loan” vàng
(Chrysanthemum sp.) với giá thành thấp”. Luận văn tốt nghiệp đại học. Khoa Nông
Nghiệp và Sinh Học Ứng Dụng. Trường Đại Học Cần Thơ.
Cán bộ hướng dẫn: TS. Lê Văn Bé.

TÓM LƯỢC

Hai giai đoạn nhân chồi và ra rễ được thực hiện ở điều kiện môi trường nuôi
cấy trong phòng tăng trưởng có nhiệt độ 29±2oC, cường độ chiếu sáng trung bình
1.800 lux và ngoài phòng tăng trưởng (lồng kiếng) có nhiệt độ 31±2oC, cường độ
chiếu ánh sáng tự nhiên trung bình 6.000 lux.
Vào giai đoạn nhân chồi, chồi cây cúc được tái sinh từ mảnh lá trong môi
trường MS có bổ sung 1 mg BA/lít + 1 mg NAA/lít tạo ra 5 chồi sau 6 tuần nuôi
cấy. Điều kiện nuôi cấy trong và ngoài phòng tăng trưởng có số chồi tương đương

nhau. Các thông số nông học như chiều cao chồi, số lá/chồi thì không khác biệt
nhau ở trong môi trường MS có bổ sung 1 mg NAA/lít. Ngược lại, vào giai đoạn ra
rễ chồi cây cúc nuôi cấy trong lồng kiếng cho ra nhiều rễ và chiều dài rễ hơn trong
phòng tăng trưởng ở môi trường có bổ sung 1 mg NAA/lít. Hơn nữa, tỷ lệ sống sót
của chồi con ở ngoài phòng tăng trưởng khi đem ra thuần dưỡng cũng khá cao 84%,
cao hơn trong phòng tăng trưởng 70%. Sản xuất cây cúc cấy mô theo qui trình và sử
dụng điều kiện ngoài phòng tăng trưởng (lồng kiếng) thay cho phòng tăng trưởng,
chi phí sản xuất giảm được 28%.

vii


MỤC LỤC
Đề mục
TIỂU SỬ CÁ NHÂN
LỜI CẢM TẠ
TÓM LƯỢC
MỤC LỤC
DANH SÁCH CHỮ VIẾT TẮT
DANH SÁCH BẢNG
DANH SÁCH HÌNH
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1.
NGUỒN GỐC VÀ ĐẶC ĐIỂM CÂY HOA CÚC
1.1.1. Nguồn gốc
1.1.2. Đặc điểm thực vật
1.2.
SƠ LƯỢC VỀ NUÔI CẤY MÔ THỰC VẬT
1.2.1. Tầm quan trọng của nuôi cấy mô

1.2.2. Ưu khuyết điểm của nuôi cấy mô
1.3.
NUÔI CẤY MÔ CÚC
1.3.1. Giai đoạn 0: chuẩn bị cây mẹ
1.3.2. Giai đoạn 1: Khử trùng mẫu cây và tạo nguồn mẫu khởi đầu
1.3.3. Giai đoạn 2: Nhân nhanh
1.3.4. Giai đoạn 3: Tạo cây in vitro hoàn chỉnh
1.3.5. Giai đoạn 4: Thuần dưỡng cây con ngoài môi trường tự nhiên
1.4.
MỘT SỐ NGHIÊN CỨU NUÔI CẤY MÔ CÚC
1.4.1. Nuôi cấy mô hoa cúc CN97 (hoa màu trắng)
1.4.2. Nuôi cấy mô hoa cúc CN01 (Standard Chrysanthemum)
1.4.3. Nuôi cấy mô cúc “Farm tím”
1.5.
THÀNH PHẦN MÔI TRƯỜNG NUÔI CẤY MÔ THỰC VẬT
1.5.1. Nước
1.5.2. Khoáng đa lượng
1.5.3. Khoáng vi lượng
1.5.4. Nguồn carbohydrate
1.5.5. Vitamin
1.5.6. Agar
1.5.7. Nước dừa
1.5.8. Chất điều hòa sinh trưởng
1.5.9. Ph
1.6.
ĐIỀU KIỆN NGOẠI CẢNH TÁC DỤNG LÊN CÂY CẤY MÔ
1.6.1. Ánh sáng
1.6.2.
Nhiệt độ
viii


Trang
v
vi
vii
vii
x
xi
xii
1
2
2
2
2
3
3
3
4
4
4
5
5
6
6
6
6
7
7
7
7

8
8
8
9
9
9
10
10
10
11


1.1.
MỘT SỐ KỸ THUẬT GIÚP GIA TĂNG SỰ SINH TRƯỞNG
VÀ HẠ GIÁ THÀNH TRONG NHÂN GIỐNG IN VITRO
1.1.1. Sử dụng ánh sáng tự nhiên
1.1.2. Giảm chi phí điều hòa nhiệt độ
1.1.3.
Một số nghiên cứu sử dụng ánh sáng tự nhiên để vi nhân giống
CHƯƠNG 2 PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1.
PHƯƠNG TIỆN
2.1.1. Thời gian và địa điểm
2.1.2. Vật liệu thí nghiệm
2.1.3. Điều kiện thí nghiệm
2.2.
PHƯƠNG PHÁP
2.2.1. Thí nghiệm 1. So sánh sự nhân chồi trực tiếp bằng mẫu lá cây hoa
cúc Đài Loan ở điều kiện trong và ngoài phòng tăng trưởng
2.2.2. Thí nghiệm 2. Ảnh hưởng của nồng độ NAA và điều kiện nuôi

cấy lên sự ra rễ in vitro của chồi cúc
2.3.
PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH SỐ LIỆU
CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ THẢO LUẬN
3.1.
GIAI ĐOẠN TẠO MẪU BAN ĐẦU
3.2.
THÍ NGHIỆM 1. ẢNH HƯỞNG CỦA CHẤT ĐIỀU HÒA SINH
TRƯỞNG VÀ MÔI TRƯỜNG NGOẠI CẢNH ĐẾN SỰ NHÂN CHỒI
TỪ LÁ CỦA CÂY HOA CÚC ĐÀI LOAN
3.2.1.
Ảnh hưởng của chất điều hòa sinh trưởng và môi trường ngoại
cảnh đến sự tạo chồi từ lá của cây hoa cúc
3.2.2. Ảnh hưởng của chất điều hòa sinh trưởng và môi trường ngoại
cảnh đến chiều cao của chồi cây hoa cúc
3.2.1. Ảnh hưởng của chất điều hòa sinh trưởng và môi trường ngoại
cảnh đến số lá/chồi cây hoa cúc
3.3.
THÍ NGHIỆM 2. ẢNH HƯỞNG CỦA NỒNG ĐỘ NAA VÀ
ĐIỀU KIỆN NGOẠI CẢNH LÊN SỰ RA RỄ IN VITRO CỦA CHỒI
CÚC LOAN
3.4.
ƯỚC LƯỢNG CHI PHÍ SẢN XUẤT CHỒI CÚC CẤY MÔ
CHƯƠNG 4 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1.
KẾT LUẬN
4.2.
ĐỀ NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ CHƯƠNG


ix

11
11
12
13
14
14
14
14
14
15
16
17
18
19
19

20
20
22
24

25
31
36
36
36



DANH SÁCH CHỮ VIẾT TẮT
MS: Murashige and Skoog
BA: benzyladenin
NAA: α-1-naphthaleneacetic acid
SKC: sau khi cấy
IAA: indole-3-acetic acid
cm: centimet
in vitro: trong ống nghiệm
PTT: phòng tăng trưởng

x


DANH SÁCH BẢNG

Bảng

Tựa bảng

2.1

Các thông số môi trường giữa hai điều kiện trong và
ngoài phòng tăng trưởng trong suốt quá trình thí
nghiệm.
Ảnh hưởng của nồng độ BA, NAA và điều kiện nuôi
cấy đến sự hình thành số chồi hoa cúc từ lá ở thời điểm
6 tuần SKC.
Ảnh hưởng của nồng độ BA, NAA và điều kiện nuôi
cấy đến sự gia tăng chiều cao chồi cúc (cm) ở thời

điểm 6 tuần SKC.
Ảnh hưởng của nồng độ BA, NAA và điều kiện nuôi
cấy đến số lá/chồi cúc ở thời điểm 6 tuần SKC.
Hiệu quả của nồng độ NAA và điều kiện nuôi cấy đến
sự sinh trưởng của rễ hoa cúc sau 6 tuần quan sát.
Hiệu quả của nồng độ NAA và điều kiện nuôi cấy lên
chiều cao chồi và số lá gia tăng trên chồi sau 6 tuần
cấy.
Ước lượng giá thành sản xuất một chồi cúc cấy mô
(đồng)

3.1

3.2

3.3
3.4
3.5

3.6

xi

Trang

16

20

23

24
26

28
33


DANH SÁCH HÌNH

Hình

Tựa hình

Trang

2.1

Lồng kiếng đặt trong nhà lưới để vi nhân chồi

15

2.2

Chồi cúc ở 5 ngày SKC

18

3.1

Chồi cúc tái sinh từ đoạn thân sau khi cấy được 3 tuần


19

3.2

Chồi cúc tái sinh từ lá nuôi cấy ở 2 điều kiện trong (a)
và ngoài (b) phòng tăng trưởng

22

Chồi cúc được ra rễ trong ống nghiệm ở điều kiện
trong (a) và ngoài (b) phòng tăng trưởng 6 tuần SKC

30

Quy trình vi nhân giống cây cúc “Đài Loan”

35

3.3

3.4

xii


MỞ ĐẦU
Hoa cúc (Chrysanthemum sp.) là một trong ba loài hoa cắt cành được ưa
chuộng nhất trên thế giới. Hoa cúc rất đa dạng và phong phú về chủng loại, đa
hương, đa sắc, có thể sử dụng với nhiều mục đích khác nhau. Chẳng hạn trong dịp

tết, hoa cúc được người dân sử dụng để trang trí nhà cửa, vì hoa cúc tượng trưng
cho sự sung túc, màu sắc đẹp, tươi lâu và đặc biệt khi tàn thì cánh hoa không rụng.
Ở Việt Nam, hoa cúc trồng với mục đích cắt cành tập trung nhiều ở các vùng như
Hà Nội, Đà Lạt, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng,… Riêng Đồng Bằng Sông
Cửu Long, ở các tỉnh như: Đồng Tháp, Tiền Giang, Cần Thơ, Bến Tre,.. thường có
tập quán trồng hoa trên chậu (giỏ) để chưng và bán vào các dịp lễ, tết (Lê Hữu Cân
và Nguyễn Thị Hải Hà, 2005). Các loại cây chủ yếu được trồng tại đây là cúc, hồng,
vạn thọ, cát tường,… Số lượng cây được trồng hàng năm là khá lớn, nhưng chủ yếu
sử dụng cây con bằng cách nhân giống truyền thống, chỉ một số ít nhà vườn sử dụng
cây con từ nhân giống cấy mô. Bởi vì, trồng cây cấy mô thì chi phí đầu tư cho
nguồn giống ban đầu khá lớn nên lợi nhuận không nhiều. Chẳng hạn, giá bán của
cây vạn thọ hay cúc cấy mô khoảng 1.000 – 2.000 đồng/cây
(www.dongthap.gov.vn).
Nuôi cấy mô là kỹ thuật quan trọng trong ngành trồng hoa kiểng. Nhân giống
bằng phương pháp này cho hệ số nhân chồi cao, cây giống được tạo ra đồng nhất về
mặt di truyền, cây sạch bệnh, phát triển mạnh, ít bị biến dị (Nguyễn Đức Thành,
2000; Bùi Bá Bổng, 1995). Nhưng giá thành sản xuất cây giống cấy mô còn khá cao
dẫn đến giá bán cây con trên thị trường cũng cao. Vì thế, cây cấy mô chưa được sử
dụng phổ biến trong sản xuất. Do đó, đề tài “Vi nhân giống cây hoa cúc “Đài Loan”
với giá thành thấp” được thực hiện nhằm tìm quy trình sản xuất cây cấy mô với giá
thành thấp bằng cách sử dụng ánh sáng và nhiệt độ tự nhiên của môi trường thay
cho ánh sang đèn và nhiệt độ nhân tạo. Từ đó có thể giảm bớt chí phí sản xuất và
tăng lợi nhuận cho người nông dân.

1


CHƯƠNG 1
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1.


NGUỒN GỐC VÀ ĐẶC ĐIỂM CÂY HOA CÚC

1.1.1. Nguồn gốc
Cây hoa cúc có tên khoa học là Chrysanthemum sp., thuộc họ Asteraceae,
phân họ Asteroideae, chi Chrysanthemum. Hoa cúc có nguồn gốc từ Trung Quốc,
Nhật Bản, một số nước Châu Âu và được nhập vào nước ta từ lâu đời (Nguyễn
Xuân Linh, 1998).
1.1.2. Đặc điểm thực vật
Hiện nay trên thế giới có khoảng 200 loài hoa cúc, ở nước ta có 5 loài chủ
yếu thuộc hoa cảnh rất phổ biến vì vẻ đẹp của hoa. Hoa cúc không chỉ đẹp mà còn
lâu tàn. Hoa cúc có thể trồng trên chậu hay trồng để cắt cành, vì dáng vẻ cây cũng
rất đẹp. Bên cạnh đó, hoa cúc còn là vị thuốc quý. Hoa cúc ưa khí hậu mát mẻ, nhiệt
độ trung bình không cao quá 350C cũng không thấp quá 10oC, ẩm độ không quá
80% (Đặng Phương Trâm, 2005).
 Thân
Hoa cúc thuộc nhóm cây thân thảo, khả năng phân nhánh mạnh, có nhiều đốt
giòn, dễ gẫy, cây càng lớn thân sẽ càng cứng. Chiều cao cây cúc ở nước ta có thể
cao khoảng 30 – 80cm. Trong điều kiện ngày dài hoa cúc có thể cao đến 1,5 – 2m
(Nguyễn Xuân Linh, 1998).
 Rễ
Cây hoa cúc thuộc loại rễ chùm, rễ cây ít ăn sâu mà phát triển theo chiều
ngang. Khối lượng bộ rễ lớn do sinh nhiều rễ phụ và lông hút, nên khả năng hút
nước và dinhh dưỡng mạnh (Nguyễn Xuân Linh, 1998).
 Lá
Lá hoa cúc xẽ thùy có một răng cưa, thường là lá đơn mọc so le nhau, mặt
dưới lá bao phủ một lớp lông tơ, mặt trên nhẵn, phân hình mạng lưới. Phiến lá to
hay nhỏ, dày hay mỏng, màu sắc xanh đậm, xanh vàng hay xanh nhạt, và còn phụ
thuộc vào đặc điểm của từng giống (Nguyễn Xuân Linh, 1998).
 Hoa

Chủ yếu ở hai dạng: Dạng lưỡng tính tức là trong hoa có cả nhị đực và nhụy
cái. Còn dạng đơn tính chỉ có nhị đực hoặc nhụy cái, đôi khi có dạng vô tính (không
2


có nhị và nhụy), hoa này thường ở ngoài đầu. Mỗi hoa có nhiều hoa hoa nhỏ hợp lại
trên một cuống hoa (Nguyễn Xuân Linh, 1998).
 Quả
Quả là một quả bế khô chỉ chứa một hạt. Hạt có phôi thẳng và không có nội
nhũ (Nguyễn Xuân Linh, 1998).
1.2.

SƠ LƯỢC VỀ NUÔI CẤY MÔ THỰC VẬT

1.2.1. Tầm quan trọng của nuôi cấy mô
Trong nhiều năm qua, các phương pháp nhân giống vô tính truyền thống giữ
một vai trò quan trọng trong ngành trồng trọt, vì phương pháp này có thể giữ lại một
số đặc tính có lợi của cây bố mẹ và tạo ra các ngân hàng gen cây trồng. Tuy nhiên,
phương pháp này có một số giới hạn về mùa vụ, hệ số nhân giống thấp,… Chính vì
thế trong những năm gần đây, phương pháp nhân giống in vitro (vi nhân giống, nuôi
cấy mô) đã được áp dụng rộng rãi (Pati et al., 2006; Nguyễn Đức Lượng và Lê Thị
Thủy Tiên, 2002). Với cách nhân giống in vitro, người ta có thể nhân nhanh chóng
và có thể nhân rất nhiều loại cây thuộc nhiều vùng khí hậu khác nhau. Ngoài ra,
phương pháp nhân giống này có thể kiểm soát được dịch bệnh cây trồng, chất lượng
giống thông qua kiểm soát kiểu gen, kiểm soát kỹ thuật từ khâu nhân giống đến
khâu thu hoạch, tạo ra sự đồng loạt về giống. Đây thật sự đã và đang là cuộc cách
mạng xanh trong trồng trọt (Nguyễn Đức Lượng và Lê Thị Thủy Tiên, 2002).
Ở nước ta, nhân giống vô tính in vitro đã thành công trên nhiều loại cây,
trong đó có những cây quan trọng về mặt kinh tế như: lúa, bắp, khoai tây, rau, các
loại hoa, cà phê, cacao, một số loại cây thân gỗ có giá trị,…(Nguyễn Đức Lượng và

Lê Thị Thủy Tiên, 2002).
1.2.2. Ưu khuyết điểm của nuôi cấy mô
 Ưu điểm
Theo George (1993) nhân giống in vitro có các ưu điểm sau:
 Bắt đầu từ những mẫu cấy nhỏ, chỉ cần một khoảng không gian nhỏ để
nuôi cấy hoặc nhân lên thành một số lượng rất lớn.
 Cây con tạo ra không nhiễm khuẩn, nấm và các vi sinh vật khác, do làm
việc trong điều kiện vô trùng.
 Có thể tạo ra một số lượng lớn cây sạch virus
 Hệ số nhân giống cao, có thể tạo ra một số lượng lớn cây trồng trong
cùng một thời gian.
3


 Khuyết điểm
Theo George (1993) thì bất lợi chủ yếu của phương pháp vi nhân giống là
cần phải có kỹ năng vận hành thành công, đòi hỏi kỹ thuật cao, trang thiết bị đắt
tiền. Hơn nữa kết quả nhân giống in vitro thường:
 Mặc dù phương pháp này có thể tạo ra một số lượng cây con lớn, nhưng
cây con ban đầu còn nhỏ và đôi khi mang những tính trạng không mong muốn.
 Để sống trong điều kiện in vitro, mẫu cấy cần được nuôi trong môi
trường chứa đường và một số nguồn carbon khác. Ban đầu chúng không có khả
năng tạo ra những hợp chất cần thiết hay những hợp chất hữu cơ từ quang hợp
(không thể tự dưỡng) và chúng phải chịu đựng một thời gian chuyển đổi trước khi
có khả năng phát triển độc lập.
 Khi cây con được nuôi trong bình chứa bằng thủy tinh hay nhựa có ẩm độ
tương đối cao, thường sự quang hợp tổng không đủ, cây con thường mẫn cảm, mất
nhiều nước khi đưa ra môi trường bên ngoài.
 Khả năng tạo ra những cây trồng bị biến dạng di truyền có thể tăng.
 Đòi hỏi kỹ thuật cao và các trang thiết bị đắt tiền.

1.3.

NUÔI CẤY MÔ CÚC

1.3.1. Giai đoạn 0: chuẩn bị cây mẹ
Đây là giai đoạn khởi đầu của quá trình vi nhân giống cần phải có cây mẹ
tốt, khỏe. Vì vậy, cần phải lưa chọn cây mẹ cẩn thận, chúng phải đặc trưng cho
giống loài, không bị nhiễm bệnh và đang ở giai đoạn tăng trưởng mạnh nhất, khi
nhân giống sẽ đạt kết quả cao (Nguyễn Đức Lượng và Lê Thị Thủy Tiên, 2002).
1.3.2. Giai đoạn 1: Khử trùng mẫu cây và tạo nguồn mẫu khởi đầu
Tạo nguồn mẫu sạch là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của công việc
nuôi cấy mô. Theo Nguyễn Xuân Linh và Nguyễn Thị Kim Lý (2004) báo cáo trên
giống cúc CN97 cho biết khử trùng bằng HgCl2 0,1% trong thời gian 7 phút cho tỷ
lệ sống và vô trùng cao nhất. Đối với giống cúc CN20 (Sray Chrysanthemum)
Nguyễn Thị Kim Lý và Nguyễn Xuân Linh đã tiến hành so sánh hiệu quả của hai
chất khử trùng H2O2 và HgCl2 ở các nồng độ và thời gian khử trùng khác nhau. Kết
quả cho thấy khử trùng bằng H2O2 cho tỷ lệ sống cao nhất là 71,4% ở nồng độ 20%,
trong thời gian 15 phút.
Mẫu vật khi đưa vào môi trường nuôi cấy phải đảm bảo những yêu cầu sau:
tỷ lệ bị nhiễm thấp, tỷ lệ sống cao tốc độ tăng trưởng nhanh. Kết quả này phụ thuộc
4


vào cách thức lấy mẫu, phương pháp khử trùng, môi trường nuôi cấy thích hợp, thì
mẫu vật sẽ có tốc độ tăng trưởng nhanh (Lê Trần Bình et al., 1997).
1.3.3. Giai đoạn 2: Nhân nhanh
Đây là giai đoạn tìm ra môi trường thích hợp để cho hệ số nhân giống cao
nhất, các chồi tạo ra đồng nhất về mặt di truyền, có sức sống cao, cây phát triển ít bị
biến dị. Theo Nguyễn Kim Lý và Nguyễn Quang Thạch (2004) đã sử dụng môi
trường MS có bổ sung 1,5 mg BA/lít hay 2 mg kinetin/lít để tái sinh chồi từ mô lá

và mầm ngủ trên giống cúc Nhật “Rivalry” cho hệ số nhân chồi cao nhất. Đối với
giống CN01 (Standard Chrysanthemum) thì ở nồng độ 0,5 mg BA/lít trên môi
trường MS là thích hợp cho việc nhân chồi. Còn trên giống CN97 thì cần sử dụng
BA ở nồng độ 0,1 mg/lít để cho hệ số nhân chồi cao nhất (Hoàng Thị Lan Phương,
2004).
1.3.4. Giai đoạn 3: Tạo cây in vitro hoàn chỉnh
Mục đích của giai đoạn này là chuẩn bị những cây con sẵn sàng cho sự
chuyển ra ngoài. Nó bao gồm việc ra rễ, phát triển cây con, cũng như tạo sự cứng
cỏi cho chúng thích ứng với những xáo trộn sau này (Lâm Ngọc Phương, 2009).
Giai đoạn này được chia thành hai giai đoạn:

Giai đoạn 3a: Kéo dài các chồi được hình thành ở giai đoạn 2 để đạt
kích thước thích họp cho việc tạo rễ đấy đủ. Môi trường kéo dài thường không chứa
cytokinin hay một lượng cytokinin thấp hơn ở giai đoạn 2. Tùy thuộc vào kiểu cây
mà có thể kéo dài trên chồi đơn hay cụm chồi (Nguyễn Đức Lượng và Lê Thị Thủy
Tiên, 2002).


Giai đoạn 3b: Kích thích tạo rễ và tiền thuần dưỡng

Sự tạo rễ bất định trong nuôi cấy mô thực vật phụ thuộc vào nhiều yếu tố
như: độ tuổi cây, vị trí lấy mẫu trên cây, loài thực vật, nguồn carbon, nguồn dinh
dưỡng khoáng và các chất điều hòa sinh trưởng thực vật. Trong nhóm chất điều hòa
sinh trưởng thực vật thì auxin thường được sử dụng để kích thích tạo rễ. Hai loại
auxin có hiệu quả trong việc kích thích ra rễ nhất là IBA và NAA ở nồng độ khoảng
0,1–1 mg/l. Tuy nhiên đối với cây cúc, khi cắt những đoạn thân hay chồi ngọn cấy
chuyền vào môi trường ra rễ, thì trong môi trường có hay không có auxin thì vẫn
cho 100% các chồi đều tạo rễ (Nguyễn Thị Lý Anh và Nguyễn Quang Thạch, 2004;
Trần Khắc Hạnh et al., 2004; Hoàng Thị Lan Phương et al., 2004). Nếu trong môi
trường nuôi cấy có bổ sung NAA thì số rễ trung bình được tạo ra nhiều hơn và độ

dài rễ ngắn hơn, các rễ có kích thước to, khỏe và có sức sống cao hơn trong môi
trường không có NAA (Nguyễn Xuân Linh và Nguyễn Thị Kim Lý, 2004).
5


Ngoài ra, đây là giai đoạn thích hợp cho việc tiền thuần dưỡng nhằm tăng
khả năng tự dưỡng của cây con trước khi đem ra môi trường tự nhiên, với các
phương pháp thực hiện như: cung cấp cho cây con lượng carbohydrate, làm thấp ẩm
độ tương đối trong bình, để keo ngoài điều kiện tự nhiên trước khi đưa ra ngoài
(Nguyễn Đức Lượng và Lê Thị Thủy Tiên, 2002).
1.3.5. Giai đoạn 4: Thuần dưỡng cây con ngoài môi trường tự nhiên
Chất lượng cuối cùng của công việc nhân giống in vitro phụ thuộc một vào
việc thần dưỡng. Thông thường các cây con đầu giai đoạn cấy mô được mang trồng
trực tiếp ra nhà lưới hay môi trường tự nhiên, thì tỷ lệ chết rất cao. Nguyên nhân
chủ yếu có thể là do cấu trúc giải phẩu của nuôi cấy mô không thích hợp với điều
kiện tự nhiên, cũng có thể là do sự thay đổi đột ngột của điều kiện môi trường. Vì
vậy, để tăng tỷ lệ sống của cây con ngoài nhà lưới thì cần phải trải qua giai đoạn
huấn luyện thích nghi với sự thay đổi của nhiệt độ, ẩm độ, sự mất nước và sâu bệnh
(Lê Trần Bình et al., 1997).
Cây con chuyển từ giai đoạn 3 được rửa sạch agar, sau đó trồng trên giá thể
thích hợp, được giữ ẩm độ cao, tránh ánh sáng cao. Thời gian tối thiểu cho sự thích
nghi này khoảng 2–3 tuần, trong thời gian này phải hạn chế tối đa những yếu tố bất
lợi như mất nước nhanh chóng làm cho cây khô héo, nhiễm vi khuẩn và nấm làm
cây thối nhũng cháy lá do nắng (George,1993).
1.4.

MỘT SỐ NGHIÊN CỨU NUÔI CẤY MÔ CÚC

1.4.1. Nuôi cấy mô hoa cúc CN97 (hoa màu trắng)
Theo Hoàng Thị Lan Hương et al. (2004) đã xây dựng qui trình nhân chồi

hợp lý như sau: Khử trùng nguyên liệu bằng HgCl2 0,1% trong 7 phút cho tỉ lệ mẫu
sống 51,5%. Sử dụng môi trường MS + BA (0,1 mg/lít) + 15% nước dừa để nhân
nhanh chồi cúc với hệ số nhân chồi là 5,3 chồi/mẫu và tạo cây hoàn chỉnh ở môi
trường MS + NAA (0,1 mg/lít) + 15% nước dừa là tốt nhất.
1.4.2. Nuôi cấy mô hoa cúc CN01 (Standard Chrysanthemum)
Theo Trần Khắc Hạnh et al. (2004) sử dụng môi trường MS + BA (0,5
mg/lít) + 15% nước dừa thì số chồi thu được sau 4 tuần cấy là 4,98 chồi/mẫu. Và sử
dụng môi trường MS + 15% nước dừa để tạo cây hoàn chỉnh sau 2 tuần nuôi cấy.
Thuần dưỡng nhà lưới, sử dụng giá thể là đất và tro trấu theo tỉ lệ 1:1 hay cát và tro
trấu (tỉ lệ 1:1) cho tỉ lệ sống cao.

6


1.4.3. Nuôi cấy mô cúc “Farm tím”
Theo Nguyễn Mộng Thúy (2009), sử dụng môi trường nhân chồi là ½ MS +
10% nước dừa, đây là môi trường thích hợp cho nhân chồi hoa cúc. Hoặc sử dụng ½
MS + BA (1 mg/lít) + NAA (0,2 mg/lít) + 10% nước dừa cho hệ số nhân chồi cao
nhất là 133,3 chồi/mẫu sau 8 tuần nuôi cấy.
Giai đoạn để hoàn chỉnh cây cúc cấy mô là môi trường MS có sự hiện diện
của than hoạt tính kết hợp với NAA (0,5 mg/lít) cho tỉ lệ tạo rễ cao (100%), số rễ
được hình thành là 4,3 rễ/chồi, sự vươn dài rễ là 5,6 cm và chiều cao chồi gia tăng
là 4,6 cm. Đây là môi trường tốt nhất cho sự tạo rễ/chồi (Đỗ Bé Thảo, 2009).
1.5.

THÀNH PHẦN MÔI TRƯỜNG NUÔI CẤY MÔ THỰC VẬT

Trong điều kiện in vitro, mô cấy khi tách rời khỏi cơ thể mẹ sẽ phụ thuộc vào
những điều kiện môi trường nuôi cấy cung cấp. Môi trường dinh dưỡng cơ bản của
nuôi cấy mô hiện nay rất đa dạng do những tác giả khác nhau với các mục đích khác

nhau. Trải qua nhiều thử nghiệm người ta nhận thấy phải sử dụng môi trường
chuyên dụng cho từng loài hay từng loại mô cấy chuyên biệt (Lê Văn Hòa et al.,
2001).
Các thành phần cơ bản của nuôi cấy mô thực vật bao gồm: muối khoáng (đa
lượng và vi lượng), nguồn cacbon, vitamin, các chất điều hòa sinh trưởng, agar (đối
với môi trường rắn) (Nguyễn Đức Thành, 2000). Thành phần của môi trường nuôi
cấy tế bào thực vật thay đổi tùy theo loài thực vật, loại tế bào, mô và các cơ quan
được nuôi cấy. Đối với cùng loại mô, cơ quan nhưng mục đích nuôi cấy khác nhau,
môi trường nuôi cấy cũng khác nhau. Ngoài ra, môi trường nuôi cấy còn thay đổi
theo giai đoạn sinh trưởng và phát triển của mẫu cấy (Vũ Văn Vụ et al., 2006).
1.5.1. Nước
Phẩm chất nước là điều kiện quan trọng trong nuôi cấy. Nước sử dụng trong
nuôi cấy thường là nước cất một lần. Trong một số trường hợp, người ta sử dụng
nước cất hai lần hay nước khử khoáng (Nguyễn Bảo Toàn, 2004).
1.5.2. Khoáng đa lượng
Trong môi trường MS (Murashige & Skoog, 1962), 1/2MS và White’s
(1963) (trích dẫn bởi Lê Trần Bình et al., 1997) gồm các nguyên tố N, P, K, Mg, S,
Ca, Na. Các nguyên tố đa lượng được sử dụng với nồng độ 30 mg/l.
Khoáng đa lượng rất cần cho cây, có ảnh hưởng lớn cho sự hấp thu mô cấy
và chúng không gây ngộ độc. Trong nuôi cấy in vitro nguồn nitơ thường được sử
dụng dưới dạng nitrate (NO3-), ammonium (NH4+). Ngoài ra, nitơ còn được sử dụng
7


dưới dạng nitơ hữu cơ như acid amin. Tuy nhiên, nếu chỉ dùng acid amin làm nguồn
cung cấp nitơ cho mô rất yếu, sự có mặt đồng thời của nguồn nitơ vô cơ và hữu cơ ở
hàm lượng thích hợp sẽ thúc đẩy tế bào sinh trưởng mạnh (Vũ văn Vụ, 1999).
1.5.3. Khoáng vi lượng
Nhu cầu về khoáng vi lượng trong nuôi cấy mô tế bào là rất cần thiết. Đây là
những nguyên tố rất cần thiết cho quá trình sinh trưởng và phát triển của cây trồng,

nhưng chỉ sử dụng với lượng rất ít. Các khoáng vi lượng thường được thêm vào môi
trường là Iode (I), Bo (B), Mangan (Mn), Kẽm (Zn), Đồng (Cu), Molybden (Mo),
Cobalt (Co), Sắt (Fe). Theo Legrand et al. (1975) (trích dẫn bởi Nguyễn Đức Lượng
và Lê Thị Thủy Tiên, 2002), sự hiện diện của nguyên tố sắt đặc biệt quan trọng
trong quá trình tạo chồi và rễ bất định. Sắt được sử dụng trong nuôi cấy mô là ở
dạng chelate (Fe-EDTA). Vì ở dạng chelate, sắt không bị tủa mà được phóng thích
từ từ vào môi trường nuôi cấy theo nhu cầu của mô thực vật (Nguyễn Văn Uyển et
al., 1993).
1.3.4. Nguồn carbohydrate
Trong nuôi cấy mô, nguồn carbon giúp mô và tế bào thực vật tổng hợp nên
các chất hữu cơ giúp chúng phân chia, tăng sinh khối không phải là do quá trình
quang hợp cung cấp mà chính là nguồn carbon bổ sung vào môi trường nuôi cấy
dưới dạng đường. Hai dạng đường thường gặp nhất là sucrose và glucose, nhưng
hiện nay trong nuôi cấy mô thường sử dụng là sucrose (2 – 8%), và đóng vai trò là
chất thẩm thấu chính của môi trường (Nguyễn Đức Lượng và Lê Thị Thủy Tiên,
2002). Nhìn chung trong nuôi cấy mô thì môi trường MS cũng khẳng định được
việc sử dụng 3% sucrose tốt hơn 2% và 4% (Pati et al., 2006).
1.3.5. Vitamin
Trong môi trường nuôi cấy, đa số mô cấy chưa có cấu trúc để tự tổng hợp đủ
lượng vitamin cần thiết nên cần phải bổ sung thêm vitamin từ bên ngoài vào (Lê
Văn Hòa et al., 1999). Việc bổ sung vitamin vào môi trường nuôi cấy in vitro là rất
cần thiết. Tuy rằng, vitamin được sử dụng với lượng nhỏ, nhưng nó có vai trò quan
trọng trong xúc tác hệ thống enzym để có tác dụng kích thích sự sinh trưởng của mô
cấy. Các vitamin thường dùng trong nuôi cấy mô là: thiamine (B1), acid nicotinic
(B3), pyridoxine (B6) và myo-inositol. Trong đó, thiamine là một vitamin căn bản
cần thiết cho sự tăng trưởng của tất cả các loại tế bào thực vật (Nguyễn Đức Lượng
và Lê Thị Thủy Tiên, 2002). Myo-inositol có vai trò trong sự sinh tổng hợp thành tế
bào và thường được dùng với hàm lượng 50 – 100 mg/l (Nguyễn Xuân Linh, 1998).

8



1.3.6. Agar
Agar là một polysaccharide làm từ rong biển. Agar được dùng để chuẩn bị
môi trường đặc. Agar trộn với nước thì tạo thành dạng gel và tan ra ở nhiệt độ 60–
100oC và đặc lại khi nhiệt độ giảm xuống 45oC (Nguyễn Đức Lượng và Lê Thị
Thủy Tiên, 2002).
1.3.7. Nước dừa
Trong nuôi cấy mô và tế bào thực vật thường sử dụng nước từ quả bánh tẻ và
quả dừa già. Thành phần của nước dừa khá phong phú có chứa inositol và các chất
thuộc nhóm cytokinin như zeatin,…(Vũ Văn Vụ et al., 2006). Lượng nước dừa
thường dùng trong nuôi cấy mô khá lớn từ 15 – 29% thể tích môi trường (Nguyễn
Đức Lượng và Lê Thị Thủy Tiên, 2002).
1.3.8. Chất điều hòa sinh trưởng
Chất điều hòa sinh trưởng thực vật là những chất có hoạt tính sinh học rất
lớn, được tạo ra một lượng rất nhỏ để điều hòa các quá trình sinh trưởng và phát
triển của thực vật (Lê Văn Hòa et al., 1999). Trong cấy mô thường sử dụng hai
nhóm chất chính là auxin và cytokinin, ngoài ra gibberellin và ethylene cũng có vai
trò quan trọng đối với sinh trưởng, phát triển và trao đổi chất ở thực vật (Nguyễn
Đức Thành, 2000).
 Auxin
Nhóm auxin được bổ sung vào môi trường nuôi cấylà rất cần thiết, vì chúng
rất cần cho sự phân chia tế bào (Nguyễn Đức Lượng và Lê Thị Thủy Tiên, 2002),
tăng cường quá trình sinh tổng hợp và trao đổi chất, kích thích sự hình thành rễ và
tham gia vào cảm ứng phát sinh phôi vô tính. Kogl (1934) (trích dẫn bởi Lê Văn Bé,
2007) đã xác định được công thức hóa học của các auxin và gọi tên là indole-3acetic acid (IAA). Auxin tự nhiên được tìm thấy ở thực vật là indole-3-acetic (IAA)
và auxin tổng hợp là indole-3-butyric acid (IBA), 1-alpha-naphthaleneacetic acid
(NAA) và 2,4-dichlorphenoxyacetic acid (2,4-D) (Nguyễn Bảo Toàn, 2005). Tùy
theo mục đích thí nghiệm nên có thể sử dụng loại và nồng độ auxin khác nhau.
Auxin được dùng với hàm lượng thấp sẽ gia tăng sự hình thành rễ, ngược lại sử

dụng nồng độ cao sẽ ảnh hưởng không tốt đến sự thành lập rễ nhưng lại kích thích
sự tạo callus (Vũ Văn Vụ et al., 2006). 2,4 – D rất cần cho sự phản biệt hóa để tạo
callus. NAA là một loại auxin nhân tạo, có hoạt tính mạnh hơn auxin tự nhiên IAA,
NAA và IBA thường được sử dụng để tạo ra rễ (Nguyễn Văn Uyển, 1993).

9


 Cytokinin
Cytokinin là một trong hai nhóm chất điều hòa sinh trưởng thực vật (Nguyễn
Đức Lượng và Lê Thị Thủy Tiên, 2002). Nhóm cytokinin có tác dụng kích thích sự
phân chia tế bào, sự hình thành và sinh trưởng của chồi in vitro; có biểu hiện ức chế
sự tạo rễ và sự sinh trưởng của mô sẹo nhưng có ảnh hưởng dương tính rõ rệt đến
sự phát sinh phôi vô tính của mẫu cấy. Ngoài ra, cyttokinin còn ức chế quá trình già
ở lá, kích thích tạo diệp lục tố. Các cytokinin thường được sử dụng trong nuôi cấy
mô là 6-benzyladenine (BA), kinetin, zeatin, 2-ip,… Trong đó, BA và kinetin
thường được sử dụng hơn, BA cũng giống như kinetin là thành phần thiết yếu của
môi trường nuôi cấy mô, BA là cytokinin tổng hợp nhân tạo nhưng có hoạt tính
mạnh hơn kinetin.
Một số nghi nhận trong các nghiên cứu nhân chồi in vitro cho rằng nếu tăng
nồng độ cytokinin sẽ nhận được nhiều chồi, tuy nhiên sẽ dẫn đến hiện tượng cây
sinh trưởng bất thường, lá nhỏ, cong queo, mất diệp lục tố, đặc biệt trong môi
trường lỏng; người ta gọi hiện tượng này là dư thừa nước (hyperhydricity) (Debergh
et al., 1991). Để giảm bớt hiện tượng này phải giảm hàm lượng cytokinin trong môi
trường cấy hoặc kết hợp với nhóm auxin (George, 1993). Ngoài ra, trên một số cây
trồng lại cho thấy tỷ lệ nhân giống giảm khi tăng nồng độ cytokinin (Corchete et al.,
1997).
1.3.9. pH
pH của đa số môi trường cấy mô được điều chỉnh từ 5,5 – 6,0. pH dưới 5,5
thì agar khó chuyển qua trạng thái gel, còn pH lớn hơn 6,0 thì agar có thể rất cứng.

Sự bền vững và hấp thụ một loạt chất phụ thuộc vào pH môi trường, đặc biệt các
chất như NAA, gibberellin, vitamin rất mẫn cảm với pH. Sự hấp thụ các hợp chất
sắt cũng phụ thuộc vào giá trị pH (Nguyễn Đức Thành, 2002).
1.6.

ĐIỀU KIỆN NGOẠI CẢNH TÁC DỤNG LÊN CÂY CẤY MÔ

1.6.1. Ánh sáng
Ánh sáng là nhân tố môi trường quan trọng kiểm soát sự sinh trưởng và phát
triển của thực vật, vì nó liên quan đến quang hợp, sự quang dưỡng và sự phát sinh
hình thái (Salisbury và Ross, 1994; Read và Preece, 2003). Sự chiếu sáng có thể là
quan trọng nhất vì nó liên quan rất nhiều đến quang hợp và hô hấp (Matthijs et al.,
1993). Theo George (1993) các đặc tính của ánh sáng ảnh hưởng đến sự sinh trưởng
in vitro là: độ dài sóng, cường độ sáng và thời gian chiếu sáng hay chu kỳ sáng.

10


 Ảnh hưởng của ánh sáng đến sự sinh trưởng của chồi trong ống nghiệm
Theo Murashige (1974) thì chồi trong ống nghiệm phát triển ở cường độ
sáng khoảng 1000 lux (14 – 15 µmol.m -2. s-1). Cây Limonium sinh trưởng trong điều
kiện quang tự dưỡng in viro kết hợp với cường độ chiếu sáng cao (200 µmol.m-2.s-1)
cho nhiều lá, hàm lượng diệp lục tố, tỷ lệ quang hợp thuần và phần trăm sống sót
khi đem ra ngoài cao hơn những cây sinh trưởng trong điều kiện chiếu sáng yếu (50
và 100µmol.m -2.s-1) (Lian et al., 2002). Cây Siningia có thể tạo chồi ở cường độ
sáng từ 3000 – 10.000 lux (Haramaki, 1971). Theo Miller và Murashige (1976),
cây hoa kiểng nhiệt đới cũng tạo chồi mạnh với điều kiện sáng từ 3000 – 10.000
lux. Tùy theo loài mà yều cầu cường độ sáng khác nhau trong giai đoạn nhân chồi.
Cây Gloxinia tạo chồi ở cường độ sáng khoảng 3.200 lux, nhưng khi tăng cường độ
ánh sáng lên 10.700 lux thì sự sinh trưởng của chồi bị giới hạn (Haramaki, 1971).

 Ảnh hưởng của ánh sáng đối với sự thành lập rễ
Một số nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng ánh sáng làm tăng sự thành lập rễ và
sự sinh trưởng của chồi (Cabeleiro và Economou, 1992; Cui et al., 2000; Lian et al.,
2002; Kumar et al., 2003). Một số nghiên cứu khác thì cho rằng điều kiện tối, thích
hợp cho sự thành lập rễ (Hammerschlag, 1982). Ánh sáng làm giảm sự ra rễ là do
có sự suy giảm hàm lượng IAA nội sinh trong cây (George, 1993).
1.6.2. Nhiệt độ
Nhiệt độ có ảnh hưởng khác nhau lên tiến trình sinh lý như hô hấp và quang
hợp, và từ lâu người ta đã biết nó ảnh hưởng rất lớn đến nuôi cấy mô thực vật và vi
nhân giống (Altman, 2000; Read và Preece, 2003). Trong môi trường tự nhiên, thực
vật trải qua những khoảng biến động nhiệt độ lớn, đặt biệt giữa ngày và đêm. Do đó
nên tập cho cây trồng quen với sự biến đổi này giúp cây trồng cải thiện sự sinh
trưởng và ở những phòng tăng trưởng không sử dụng máy điều hòa thì tiết kiệm
được chi phí nhiên liệu do nhiệt độ về đêm giảm (George, 1993). Một thuận lợi nữa
là sự biến động nhiệt độ hỗ trợ cho sự trao đổi khí bên trong bình chứa (Chalupa,
1987).
1.7. MỘT SỐ KỸ THUẬT GIÚP GIA TĂNG SỰ SINH TRƯỞNG VÀ HẠ
GIÁ THÀNH TRONG NHÂN GIỐNG IN VITRO
1.7.1. Sử dụng ánh sáng tự nhiên
Theo Ahloowalia và Savangikar (2002), giảm chi phí về năng lượng và lao
động là rất cần thiết để hạ giá thành sản xuất. Phần lớn điện năng sử dụng trong
nuôi cấy mô được dùng cho việc khử trùng, chiếu sáng phòng tăng trưởng, tủ cấy,
máy điều hòa,… Ánh sáng nhân tạo trong phòng tăng trưởng là một trong những
11


phương pháp tốn kém và không hiệu quả nhất trong kỹ thuật nuôi cấy mô. Thay đổi
sự chiếu sáng nhân tạo sang sử dụng ánh sáng tự nhiên là một lựa chọn giảm chi phí
đáng kể. Sự vận hành của đèn, thiết bị cảm ứng, bộ điều khiển thời gian, máy ổn
áp,...góp phần làm tăng chi phí. Hơn nữa, đèn chiếu sáng làm tỏa ra một lượng

nhiệt, do đó làm tăng thêm chi phí làm mát bằng máy điều hòa.
Hơn nữa, ánh sáng từ đèn huỳnh quang chỉ cung cấp nhu cầu năng lượng tối
thiểu cho quang hợp. Mô thực vật hình thành và thích nghi ở điều kiện ánh sáng
yếu và có thể bị thủy tinh thể, làm cho chúng sống sót kém ở môi trường bên ngoài.
Điều này có thể là bất lợi lớn cho sự phát triển của cây trồng sau này ở điều kiện
bên ngoài (Ahloowalia và Savangikar, 2002).
Dưới cường độ ánh sáng nhân tạo thấp, cây trồng dự trữ kém và hệ thống rễ
yếu. Nên khi chuyển ra thuần dưỡng môi trường bên ngoài, rễ mọc trong điều kiện
in vitro phải tự điều chỉnh cho phù hợp với sự thay đổi pH trong đất. Thường thì hệ
rễ không thích nghi với pH đất nên cây không phát triển. Nếu cây không mọc ra rễ
mới thì cây trồng sẽ chết. Để giải quyết vấn đề này, phương pháp tối ưu là sử dụng
ánh sáng tự nhiên để nuôi cấy. Phương pháp này có thể giúp cây trồng mạnh hơn và
tăng tỷ lệ sống sót giai đoạn thuần dưỡng (Ahloowalia và Savangikar, 2002).
Do đó, sử dụng ánh sáng tự nhiên thay cho ánh sáng đèn là một lựa chọn
hiệu quả để giảm chi phí trong kỹ thuật nuôi cấy mô (George, 1993; Escalona et al.,
1998; Firoozabady và Gutterson, 2003). Điều này không những giảm chi phí mà
còn giúp cải thiện chất lượng cây trồng. Có thể thay thế ánh đèn bằng cách nuôi cấy
trong điều kiện ánh sáng tự nhiên của nhà kiếng hoặc bằng plastic. Cách này rất tốt
ở vùng ôn đới, nhưng ở vùng nhiệt đới thì phải thiết kế một máy quạt để hút nhiệt ra
bên ngoài (Ahloowalia và Savangikar, 2002).
1.7.2. Giảm chi phí điều hòa nhiệt độ
Theo Ahloowalia và Savangikar (2002), không có sự khác biệt về chỉ tiêu
sinh trưởng của cây trong điều kiện có và không có máy điều hòa nhiệt độ. Thực tế,
khi nuôi cấy dưới ánh sáng đèn, cây trồng sinh trưởng trong khoảng nhiệt độ hẹp
nên sẽ bất lợi trong giai đoạn vườn ươm. Thực tế, cây trồng in vitro có thể chịu
đựng với sự thay đổi biên độ nhiệt giữa ngày và đêm khá lớn. Và cây có khả năng
sự sinh trưởng tốt hơn. Theo Kodym et al. (2001), chuối và khoai tây khi nuôi cấy
mô ở nhiệt độ từ 16 – 41 oC dưới ánh sáng tự nhiên cho thấy sinh truởng tốt hơn ở
phòng tăng trưởng. Ngoài ra, Be và Debergh (2006), đề nghị sử dụng môi trường tự
nhiên của nhà lưới để nuôi cấy khóm.


12


×