Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

BỌ rùa THIÊN ĐỊCH của rệp sáp TRÊN một số LOẠI cây TRỒNG THÀNH PHẦN LOÀI, một số đặc điểm SINH học và KHẢ NĂNG ăn mồi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (711.31 KB, 84 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN BẢO VỆ THỰC VẬT

YZ

TRẦN NGUYỄN THANH TÂM

BỌ RÙA THIÊN ĐỊCH CỦA RỆP SÁP TRÊN
MỘT
SỐ LOẠI CÂY TRỒNG: THÀNH PHẦN LOÀI,
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC
VÀ KHẢ NĂNG ĂN MỒI

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ TRỒNG TRỌT

Cần Thơ 03/2007

1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN BẢO VỆ THỰC VẬT

YZ

BỌ RÙA THIÊN ĐỊCH CỦA RỆP SÁP TRÊN MỘT
SỐ LOẠI CÂY TRỒNG: THÀNH PHẦN LOÀI,
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC


VÀ KHẢ NĂNG ĂN MỒI
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ TRỒNG TRỌT

Cán bộ hướng dẫn

Sinh viên thực hiện

PGs.Ts NGUYỄN THỊ THU CÚC

TRẦN NGUYỄN THANH TÂM

Cần Thơ 03/2007
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

2


KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN BẢO VỆ THỰC VẬT
---------------------Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp đã chấp nhận luận văn đính kèm với đề tài:
“Bọ rùa thiên địch của rệp sáp trên một số loại cây trồng: Thành phần loài,
một số đặc điểm sinh học và khả năng ăn mồi”

Do sinh viên Trần Nguyễn Thanh Tâm thực hiện và bảo vệ trước hội đồng
Ngày ...........tháng..........năm 2007.

Luận văn được hội đồng đánh giá ở mức........................................................


TrungÝtâm
Học
liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
kiến hội
đồng:
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
..................................................................................................
Cần Thơ, ngày ......... tháng .......... năm 2007
DUYỆT KHOA

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

3


KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN BẢO VỆ THỰC VẬT
----------------------

Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp đã chấp nhận luận văn đính kèm với đề tài:
“Bọ rùa thiên địch của rệp sáp trên một số loại cây trồng: Thành phần loài,
một số đặc điểm sinh học và khả năng ăn mồi”
Do sinh viên Trần Nguyễn Thanh Tâm thực hiện và bảo vệ trước hội đồng

Ngày .......... tháng .......... năm 2007


Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN

PGs. Ts NGUYỄN THỊ THU CÚC

4


LỜI CẢM TẠ
Kính dâng cha mẹ lòng biết ơn chân thành và thiêng liêng, người đã hết lòng
thương yêu, hy sinh vì con và cám ơn anh chị - những người thân đã giúp đỡ động
viên con trong suốt thời gian qua.

Thành kính biết ơn!
Cô Nguyễn Thị Thu Cúc đã dành nhiều thời gian quý báo để tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ và động viên em trong suốt thời gian thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Quý Thầy, Cô và cán bộ thuộc Bộ Môn Bảo Vệ Thực Vật đã truyền đạt
nhiều kiến thức chuyên ngành cho em và tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn
thành tốt luận văn tốt nghiệp này.
Toàn thể quý Thầy, Cô trường Đại Học Cần Thơ đã dạy cho em những kiến
thức đại cương, dìu dắt em trong những ngày ở giảng đường Đại Học.

Chân thành cảm ơn!
Trọng Nhâm, Trần Văn Cầu, Đặng Tiến Dũng, Nguyễn Thanh
Trung tâm Anh
HọcNguyễn
liệu ĐH
Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Sơn đã nhiệt tình giúp đỡ cho em trong quá trình thực hiện đề tài này.

Bạn Trần Thị Sang, Nguyễn Hữu Tho và các bạn cùng nhóm đã hết lòng yêu
quý, nhiệt tình giúp đỡ, khích lệ và tập thể lớp Trồng Trọt 28 đã dành cho tôi nhiều
tình cảm chân thành, động viên tôi trong suốt thời gian học tập và làm luận văn tốt
nghiệp tại trường Đại Học Cần Thơ.

TRẦN NGUYỄN THANH TÂM

5


LƯỢC SỬ CÁ NHÂN
Họ và tên sinh viên: TRẦN NGUYỄN THANH TÂM
Con Ông TRẦN THIỆN TÂM và Bà NGUYỄN THỊ MƯỢC
Sinh ngày 27/11/1984 tại ấp An Thuận, xã Hòa Bình, huyện Chợ Mới, tỉnh An
Giang.
Đã tốt nghiệp phổ thông trung học năm 2002 tại trường PTTH Long Xuyên Tp
Long Xuyên.
Đã vào trường Đại Học Cần Thơ năm 2002 và học ngành Trồng Trọt khóa 28
(2002-2007) thuộc khoa Nông Nghiệp & Sinh Học Ứng Dụng, tốt nghiệp kỹ sư
Trồng Trọt tháng 3/2007.

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

6


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BĐ:


Biến động

dl:

dương lịch

T1:

Tuổi 1

T2:

Tuổi 2

T3:

Tuổi 3

TB:

Trung bình

tp:

Thành phố

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

7



Trần Nguyễn Thanh Tâm, 2007. Bọ rùa thiên địch của rệp sáp trên một số loại cây
trồng: Thành phần loài, một số đặc điểm sinh học và khả năng ăn mồi. Luận văn
tốt nghiệp Đại học, Khoa Nông Nghiệp và Sinh Học Ứng Dụng, Đại Học Cần Thơ.

TÓM LƯỢC
Nhằm khảo sát thành phần loài, khả năng ăn mồi, một số đặc điểm hình thái
và sinh học của bọ rùa (Coccinellidae) để từ đó có cơ sở khoa học cho việc xây
dựng quy trình IPM phòng trừ rệp sáp trên cây trồng, đề tài “Bọ rùa thiên địch của
rệp sáp trên một số loại cây trồng: Thành phần loài, một số đặc điểm sinh học và
khả năng ăn mồi” đã được thực hiện từ 3/2006 đến 1/2007 tại tp Cần Thơ. Với
phương pháp điều tra ngoài đồng và thu mẫu về khảo sát trong điều kiện phòng thí
nghiệm.
Kết quả khảo sát đã phát hiện được 8 loài bọ rùa thiên địch của các loài rệp
sáp gây hại trên 6 loại cây ăn trái (Đu đủ, Mãng cầu xiêm, Sầu riêng, Giâu, Cam

Trungquýt
tâmvàHọc
liệu
Thơ(Thiên
@ Tài
và nghiên
Vú sữa)
và ĐH
3 loạiCần
cây kiểng
tuế, liệu
Hồnghọc
mai, tập
Sứ trắng)

tại tp Cầncứu
Thơ
và một số vùng phụ cận, bao gồm bọ rùa Nephus bipunctatus, Chilocorus nigritus,
Chilocorus sp.1, Chilocorus sp.2, Rodolia sp.1, Rodolia sp.2, Sticholotis sp.,
Telsimia sp. Trong 8 loài phát hiện thì Chilocorus sp.1, Chilocorus sp.2, Rodolia
sp.1, là 3 loài phổ biến nhất. Kết quả khảo sát về chu kỳ sinh trưởng của 4 loài
Chilocorus sp.1, Chilocorus sp.2, Rodolia sp.1, Rodolia sp.2 ghi nhận cả 4 loài có
chu kỳ phát triển ngắn khoảng một tháng.
Trong 4 loài bọ rùa đã được khảo sát về đặc điểm sinh học thì hai loài
Chilocorus sp.1 và Rodolia sp.1 có khả năng sinh sản, tuổi thọ và khả năng sống
sót và ăn mồi cao nhất. Hai loài này có tiềm năng sử dụng cao trong các qui trình
IPM để phòng trừ 4 loài rệp sáp Drepanococcus chiton, Icerya sp., Pulvinaria
sp.1, Pulvinaria sp.2 gây hại rất quan trọng trên nhiều loại cây ăn trái và cây kiểng.

8


MỞ ĐẦU
Trong tự nhiên bên cạnh những loài côn trùng gây hại có rất nhiều loài côn
trùng có ích còn gọi là côn trùng thiên địch. Nhóm này thường hạn chế được các
côn trùng gây hại cho cây trồng, nhất là ở những nơi ít sử dụng hoá chất bảo vệ
thực vật. Nếu không có các loài có ích này thì nhiều loài côn trùng gây hại có thể
sẽ bộc phát thành dịch. Theo xu hướng phát triển một nền nông nghiệp bền vững
như hiện nay thì việc sử dụng thiên địch để khống chế dịch hại đã được xem là một
biện pháp không thể thiếu trong qui trình IPM trên cây trồng. Nhiều loại thiên địch
đã được nuôi nhân với số lượng lớn để sử dụng trong công tác quản lý dịch hại
tổng hợp.
Hiện nay rệp sáp là một đối tượng gây hại nặng trên một số loại cây ăn trái và
cây kiểng, nhiều nước trên thế giới đã sử dụng thiên địch có ích trong phòng trừ
rệp sáp. Trong số các loại thiên địch ăn mồi thì bọ rùa (Coccinellidae) thuộc bộ

cánh cứng (Coleoptera) là một họ có rất nhiều loài đã được nghiên cứu và ứng

Trungdụng
tâmrấtHọc
Cần
@ vệ
Tàithực
liệu
tập và
thànhliệu
côngĐH
trong
côngThơ
tác bảo
vậthọc
tại nhiều
nướcnghiên
trên thế cứu
giới.
Tiêu biểu là việc sử dụng bọ rùa Rodolia cardinalis phòng trừ rệp sáp xơ Icerya
purchasi gây hại cam và sử dụng bọ rùa Cryptolaemus montrouzieri để khống chế
các loại rệp sáp giả. Khảo sát của Nguyễn Trọng Nhâm và Nguyễn Thị Thu Cúc
(2006) đã phát hiện được nhiều loài bọ rùa ăn rầy mềm và một số loại bọ rùa ăn
rệp sáp bước đầu cũng được ghi nhận trên một số loại cây trồng tại tp Cần Thơ. Tại
Việt Nam nhiều công trình nghiên cứu về bọ rùa cũng đã được ghi nhận, tuy nhiên
đối với nhóm “bọ rùa thiên địch của rệp sáp” thì gần như không có một công trình
nào nghiên cứu. Vì vậy chúng tôi tiến hành khảo sát “Bọ rùa thiên địch của rệp
sáp trên một số loại cây trồng: Thành phần loài, một số đặc điểm sinh học và
khả năng ăn mồi” nhằm làm cơ sở cho việc sử dụng, bảo tồn các loài thiên địch
này, làm tiền đề cho việc xây dựng quy trình IPM để đối phó với nhóm rệp sáp gây

hại trên cây trồng.

9


CHƯƠNG 1

LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1. Bọ rùa (Coccinellidae)
1.1.1. Sự phân bố và ký chủ
Bọ rùa Coccinellidae (Coleoptera, Insecta) là một họ phổ biến khắp thế giới.
Ba mươi sáu loài thuộc họ bọ rùa đã được mô tả đầu tiên vào năm 1758 và được
xếp vào giống Coccinella. Số lượng loài được phát hiện ngày càng nhiều. Sau gần
hai thế kỷ số loài đã lên tới vài nghìn: 2500, rồi 3500 và hiện nay đã biết khoảng
4500 – 5000 loài (Liu, 1965; Sasaj, 1971; Hodek, 1973).
Họ bọ rùa (Coccinellidae) là một nhóm côn trùng thuộc bộ cánh cứng
(Insecta, Coleoptera). So với các họ khác trong bộ cánh cứng thì bọ rùa là một họ
có số lượng loài không lớn lắm. Kích thước cơ thể bọ rùa thường nhỏ hoặc rất nhỏ,

Trungtrừtâm
ĐH
Thơ
@ Tài
học
tập và nghiên cứu
mộtHọc
số loàiliệu
đạt tới
10 Cần
– 18 mm

(Hoàng
Đứcliệu
Nhuận,
1982).
Theo Nguyễn Thế Nhã và Trần Công Loanh (2002), bọ rùa phân bố ở nhiều
nước trên thế giới nhưng tập trung nhiều nhất ở các nước nhiệt đới và á nhiệt đới.
Tại Việt Nam bọ rùa phân bố ở khắp mọi nơi, trên nhiều loại cây trồng khác nhau
(Hoàng Đức Nhuận, 1982). Cho đến nay số loài bọ rùa có ích trong khu hệ bọ rùa
Việt Nam đã lên tới 165 loài, thuộc 5 phân họ và 60 giống. Trong đó có 56 giống
bao gồm 159 loài ăn rệp, bét và những sinh vật nhỏ khác hại thực vật. Triển vọng
sử dụng bọ rùa trong đấu tranh sinh học bảo vệ cây trồng ở Việt Nam rất lớn. Trên
phạm vi đất đai không lớn như Việt Nam có rất nhiều loài bọ rùa có ích đang phát
triển (Hoàng Đức Nhuận, 1982).

1.1.2. Tình hình bọ rùa trong điều kiện tự nhiên
Khu hệ bọ rùa Balance (với diện tích 312,667 km2) có 80 loài Coccinellidae,
khu hệ Mông Cổ (1,565,677 km2) có 83 loài (Bielawski, 1957), khu hệ Nhật Bản
(372,077 km2) có 153 loài, khu hệ Trung Quốc (9,600,000 km2) có khoảng 150

10


loài (Liu, 1965; Sasaji, 1967), còn khu hệ Việt Nam với diện tích lãnh thổ chỉ rộng
hơn Balan một ít đã phát hiện được 222 loài thuộc 65 giống (Hoàng Đức Nhuận,
1982).
Tính chất phong phú về giống và loài bọ rùa của khu hệ Việt Nam có liên
quan chặt chẽ với những điều kiện thiên nhiên của lãnh thổ, với sự phong phú của
thảm thực vật và tính chất phân cắt ngang dọc và sâu của địa hình miền núi Việt
Nam. Sự tổ hợp của tất cả các yếu tố đó đã tạo nên rất nhiều sinh cảnh cho sâu bọ
phát sinh và phát triển (Hoàng Đức Nhuận, 1982).


1.1.3. Đặc điểm hình thái và sinh học
1.1.3.1. Trứng
Hình thoi, màu vàng hay da cam, lúc sắp nở màu xám (Nguyễn Thế Nhã và
Trần Công Loanh, 2002).
Hoàng Đức Nhuận (1982), cho rằng trứng bọ rùa có hình trứng ngắn hoặc dài,
màu vàng nhạt hoặc màu vàng cam. Màu sắc thường không ổn định và không

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
giống nhau, tuỳ thuộc vào độ chín của trứng và mức độ dinh dưỡng.

Kiểu đẻ trứng cũng khác nhau tùy loài như đẻ từng chiếc, từng nhóm, lộ ra
ngoài hoặc ẩn kín trong vật thể... Tuy nhiên các loài đều có xu hướng chung là đẻ
trứng kín đáo hoặc gần nơi có nguồn thức ăn hơn (Hoàng Đức Nhuận, 1982).

1.1.3.2. Ấu trùng
Ấu trùng bọ rùa lột xác 3 lần và có 4 tuổi. Tuy nhiên cũng có trường hợp ấu
trùng có 5 tuổi (Iwata, 1932, 1965).
Sau khi đẻ từ 3 – 10 ngày, trứng nở, sau khi nở từ 10 – 12 giờ, ấu trùng bắt
đầu ăn. Ấu trùng có 3 hoặc 4 tuổi tuỳ theo từng loài. Ấu trùng thành thục hoá
nhộng ở trên cây và cành cây (Nguyễn Thế Nhã và Trần Công Loanh, 2002).
Có miệng nhô về phía trước, có 3 đôi chân ngực, trên lưng có một lớp sáp
hoặc nhiều mấu lồi có lông nhỏ (Nguyễn Thế Nhã và Trần Công Loanh, 2002).

11


Hình dạng ấu trùng của nhóm bọ rùa tuy có khác nhau, nhưng sự sai khác ấy
không thật nổi bật, vì vậy việc phân định ra các kiểu ấu trùng điển hình cũng có
nhiều khó khăn. Sasaji (1971), tạm xếp ấu trùng bọ rùa vào bảy kiểu:

Kiểu 1: Cơ thể hình con thoi. Ngực trước có một đôi tấm cứng. Ngực giữa và
ngực sau đều có một hoặc hai đôi tấm lưng và các gồ lồi bên. Kiểu này đặc trưng
cho tộc Coccinellini.
Kiểu 2: Cơ thể hình trụ hoặc hình trứng, lưng gồ cao. Mỗi đốt ngực và đốt
bụng đều có các mấu lồi dài hình gai. Ngực trước có nhiều hơn hai gồ lồi. Kiểu
này đặc trưng cho tộc Epilachnini và Chilocorini.
Kiểu 3: Cơ thể hình thoi và có sáp bao phủ. Mỗi đốt bụng thường có 3 đôi
mấu lồi kitin hóa. Kiểu này đặc trưng cho tộc Scymnini.
Kiều 4: Cơ thể hình elip và gồ cao vừa phải. Ngực trước có một đôi tấm
cứng. Ngực giữa và ngực sau đều có một đôi tấm cứng và một đôi gồ lồi bên. Kiểu
này đặc trưng cho tộc Noviini.
Kiểu 5: Cơ thể hình trứng ngắn rất đẹp. Trên mặt lưng của phần bụng không

Trungcótâm
Học
Thơ
Tài
và Piatynaspini
nghiên cứu
gồ lồi
cũngliệu
như ĐH
mấu Cần
lồi kitin
hóa.@
Kiểu
nàyliệu
đặc học
trưng tập
cho tộc


Aspidimerini.
Kiểu 6: Cơ thể hình thoi hoặc hình trứng dài. Ngực trước có một đôi tấm
cứng. Là kiểu đặc trưng cho phân họ Sticholotidinaei.
Kiểu 7: cũng tương tự như ấu trùng Scymnini có sáp trắng bao phủ cơ thể,
nhưng cấu tạo lưng lại hoàn toàn khác hẳn, có những gồ lồi to mềm, hình núm vú.
Kiểu này đặc trưng cho ấu trùng Amida (Ortaliini).
Ấu trùng khi mới nở chưa có ngay màu sắc bình thường của nó mà thường có
màu trắng trong hay hơi trắng đục và mềm. Sau khi nở ấu trùng còn dính với vỏ
vài giờ, có khi tới một ngày, trước khi hóa nhộng ấu trùng ngừng ăn và bất động
(Hodek, 1973). Một số loài sống ở Việt Nam, dưới tác dụng của nhiệt độ khác
nhau vào giai đoạn trước nhộng và nửa đầu giai đoạn nhộng đã xuất hiện những
con trưởng thành có kiểu hình với số lượng chấm đen khác nhau (Hoàng Đức
Nhuận, 1970).

12


Thời gian phát triển và trạng thái ấu trùng còn tùy thuộc vào loài rệp mồi.
Chúng hút dịch con mồi và để lại những phần cứng (Hodek, 1973).

1.1.3.3. Nhộng
Là nhộng trần, cuối bụng đính vào giá thể tương tự như nhộng treo của bộ
cánh vẩy, phía đuôi nhộng có dính xác sâu non (Nguyễn Thế Nhã và Trần Công
Loanh, 2002).
Nhộng không hoàn toàn bất động, nếu chạm đến đầu nó sẽ hơi động đậy. Màu
sắc của nhộng phụ thuộc vào điều kiện môi trường. Ví dụ, Coccinella
septempunctata có nhộng màu da cam trong điều kiện nhiệt độ cao và ẩm độ thấp
(35oC, 55%), trong khi đó trong điều kiện ngược lại (15oC, 95%) nhộng có màu
nâu tối (Hodek, 1973).

Những nhóm bọ rùa khác nhau có kiểu nhộng khác nhau. Vỏ ấu trùng lột ra
làm thành một đám nhăn nhúm dính ở phía đuôi nhộng. Phần lớn ấu trùng hoá
nhộng ngay tại nơi nó thường sống. Hiện tượng đó cũng dễ quan sát thấy ở các loài

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
bọ rùa Việt Nam (Hoàng Đức Nhuận, 1982).

1.1.3.4. Thành trùng
Thân dài từ 0,8 – 10 mm, có hình bán cầu hoặc trái xoan. Màu sắc cơ thể rất
đa dạng, thường có màu vàng, da cam hoặc màu hơi đỏ có nhiều chấm đen hoặc
màu đen có các chấm vàng đến đỏ (Nguyễn Thế Nhã và Trần Công Loanh, 2002).
Theo Hoàng Đức Nhuận (1982), hình dạng của bọ rùa thường hình trứng
ngắn, hoặc bán cầu, đôi khi hình trứng dài và bẹt. Màu sắc rất khác nhau. Phần lớn
có màu đỏ tươi, hoặc vàng với các chấm hoặc vệt sẫm làm thành những hình vẽ
đặc trưng cho từng loài. Ở bọ rùa có một hiện tượng rất phổ biến là nhiều loài có
hình dạng rất biến đổi. Bàn chân có 4 đốt, đốt thứ 3 nhỏ, mảnh lưng ngực trước
phủ hết đầu hoặc gần hết đầu, râu đầu hình chùy hay dùi đục, ngắn có từ 7 – 11 đốt
(Nguyễn Thế Nhã, Trần Công Loanh, 2002).
Râu đầu thường đính ngay trước mắt ở góc bên lưng của trán. Hai râu đầu
nằm cách xa nhau. Mắt lớn, hình tròn hoặc gần tròn ở dạng ăn thịt. Râu đầu thường

13


có 11 đốt, khá mảnh và có chùy nhỏ. Ngực gồm 3 đốt. Đôi cánh trước thấm nhiều
kitin nên rất cứng, phủ kín đầu mặt lưng của ngực giữa, ngực sau và bụng. Cánh
cứng gồ cong, khi không bay thì hai cánh sát khít nhau dọc theo đường giữa của cơ
thể. Hệ gân cánh của các loài có kích thước lớn nhất thì phát triển hơn so với hệ
gân cánh ở các loài có kích thước nhỏ bé. Chân thuộc kiểu chân chạy, khá phát
triển, ba đôi chân giống nhau về hình dạng cũng như về cấu tạo. Bụng gồm nhiều

đốt, mặt lưng mềm hơn mặt bụng (Hoàng Đức Nhuận, 1982).
Sau khi vũ hoá một ngày bọ rùa có thể giao phối. Chúng chỉ giao phối một
lần và sau khi giao phối một tuần thì bắt đầu đẻ trứng. Bọ rùa đẻ trứng thành từng
đám 4 – 20 quả. Thời gian đẻ trứng kéo dài từ 1-3 tháng. Một con cái có thể đẻ
được từ 200 – 300 trứng, có loài đẻ đến 1000 trứng (Nguyễn Thế Nhã và Trần
Công Loanh, 2002).
Tuy nhiên, theo Hoàng Đức Nhuận (1982), ngay ở ngày đầu tiên sau khi vũ
hóa, bọ rùa trưởng thành đã có thể giao phối và khoảng một tuần lễ sau thì con cái
đã bắt đầu đẻ trứng, hoặc đi vào trạng thái đình dục. Ở các vùng ôn đới con trưởng

Trungthành
tâmbao
Học
@ trú
Tàiẩn.liệu
họcở nhiệt
tập và
cứu
giờliệu
cũngĐH
qua Cần
đông ởThơ
các nơi
Nhưng
đới,nghiên
ngay cả trứng
hoặc nhộng cũng ở trạng thái qua đông.
Bọ rùa trưởng thành rất hoạt động. Thường quan sát thấy những cuộc bay di
cư. Cơ chế định hướng trong di cư không đồng nhất ở các loài khác nhau và còn
chưa xác định được thật đầy đủ. Trong cơ chế này yếu tố hướng sáng và yếu tố vi

khí hậu có thể đóng vai trò quan trọng (Sasaji, 1971).

1.1.3.5. Chu kỳ sinh trưởng
Nhịp điệu của chu kỳ sống phụ thuộc vào điều kiện môi trường. Ở nam Trung
Quốc, Leis axyridis phát triển nhanh nhất trong điều kiện nóng ẩm là 9 ngày và
phát triển chậm nhất trong điều kiện mát lạnh là 21 ngày (Liu, 1946).
Ở Việt Nam, bọ rùa phát triển liên tục hoặc có một giai đoạn đình dục vào
mùa đông và có kiểu chu kỳ phát triển có nhiều thế hệ trong năm, liên tục từ mùa
xuân tới mùa thu, các thế hệ tương đối ngắn (Hoàng Đức Nhuận, 1982).

14


Trứng phát triển trong 5 ngày ở nhiệt độ 27oC, ấu trùng phát triển trong thời
gian 12 – 17 ngày, nhộng phát triển trong vòng 4 ngày và thành trùng có thể sống
lâu hơn 2 tháng (Raupp, Van Driesche và Davidson, 1993).

1.1.4. Hiện tượng ăn thịt lẫn nhau
Hiện tượng này phổ biến ở bọ rùa khi thức ăn trở nên khan hiếm. Không chỉ
con trưởng thành mà ngay cả ấu trùng cũng ăn trứng và ấu trùng cùng loài
(Nguyễn Thế Nhã và Trần Công Loanh, 2002). Thông thường thì ấu trùng và bọ
rùa trưởng thành mới vũ hóa cơ thể còn mềm yếu là đối tượng bị ăn thịt. Hiện
tượng ăn thịt lẫn nhau có ý nghĩa đối với sự tồn tại của loài và con trưởng thành và
ấu trùng có thể sống sót trong điều kiện thiếu thức ăn (Hodek,1973).

1.1.5. Khả năng thiên địch và triển vọng sử dụng bọ rùa trong biện
pháp đấu tranh sinh học
1888,
California
đã nhập

Châu
Úc học
(Rodolia
Mulsant),
Trung tâmNăm
Học
liệu
ĐH Cần
Thơbọ@rùaTài
liệu
tậpcardinalis
và nghiên
cứu
một loài bọ rùa đỏ có vân đen để phòng trừ rệp sáp hại cam, chanh. Đến nay ở Mỹ
đã nhập 20 loài bọ rùa để diệt rệp sáp, rệp ống hoặc nhiều loài sâu hại cây. Có lẽ
bọ rùa là nhóm côn trùng đầu tiên đã đi vào lịch sử của phương pháp sinh học
phòng trừ sâu hại. Trên 32 nước đã sử dụng có hiệu quả Rodolia cardinalis trong
phòng trừ rệp sáp hại cam (Nguyễn Thế Nhã và Trần Công Loanh, 2002).
Từ năm 1988, sau sự kiện bọ rùa Châu Đại Dương Novivus cardinalis Muls.
phát huy tác dụng trong việc phòng trừ rệp sáp bông Icerya purchasi Mask., việc
nghiên cứu bọ rùa chuyển sang một giai đoạn mới: giai đoạn nghiên cứu bọ rùa
phục vụ kinh tế nông nghiệp. Bọ rùa lôi cuốn sự chú ý của các nhà sinh học không
những chỉ trong việc nghiên cứu phân loại và khu hệ (Korschefsky, 1931 – 32;
Timberlake, 1943; v.v) mà còn cả về mặt di truyền (Timberlake, 1943; Komai,
1956; v.v) và sinh thái học.
Đã từ lâu, bọ rùa ăn nấm và nhất là bọ rùa ăn thịt cùng với một số nhóm côn
trùng khác như bọ xít đầu dài (Reduviidae: Hemiptera), các bọ ong nhỏ

15



(Trichogrammatidae, Mymaridae, Encyrtidae, Eurytomidae, Braconilae, Aphiidae:
Hymenoptera), bọ xít (Carabidae: Coleoptera), hổ trùng (Cicindelidae: Coleoptera)
được xếp vào nhóm các côn trùng có ích trong công tác bảo vệ thực vật hàng chục
năm gần đây, nhiều nước trên thế giới đã có kinh nghiệm sử dụng chúng như
những đội quân phòng trừ các loài sâu hại cây rừng và cây trồng (Hoàng Đức
Nhuận, 1982).
Các ruộng đậu, vườn rau, đồng mía cũng thường bị nhiều loài rệp muội
Aphidae và bét Acarina gây hại, khi chủng quần rệp và bét đã tương đối phát triển
chúng ta thấy có nhiều loài bọ rùa lui tới ăn thịt chúng, thường xuyên nhất là
Micraspis discolor, Menochilus sexmaculatus, Coccinella transversalis, M.
vinctus, Lemnia biplagiata (Hoàng Đức Nhuận, 1982).
Rhyzobius lophanthae đã được du nhập từ Úc vào California năm 1892 để
phòng trừ rệp sáp. Chilocorus circumdatus cũng được phóng thích vào Florida
năm 1996 để phòng trừ rệp sáp Unaspis citri (Frank and Russell , 2004).
Trong một ngày đêm, một con bọ rùa có thể tiêu diệt gần 150 trứng và ấu

Trungtrùng
tâmrệp
Học
CầnCho
Thơ
liệu
và nghiên
cánhliệu
trắngĐH
hại cam.
tới @
nay Tài
số loài

bọ học
rùa cótập
ích trong
khu hệ bọcứu
rùa
Việt Nam đã lên tới 165 loài, thuộc 5 phân họ, 60 giống. Trong đó có 56 giống bao
gồm 159 loài ăn rệp, bét và những sinh vật nhỏ khác hại thực vật. Triển vọng sử
dụng bọ rùa trong đấu tranh sinh học bảo vệ cây trồng ở Việt Nam rất lớn. Trên
phạm vi đất đai không lớn như Viện Nam có rất nhiều loài bọ rùa có ích đồng thời
phát triển (Hoàng Đức Nhuận, 1982).

1.1.6. Khả năng tự vệ
Kẻ thù của bọ rùa có thể là chim, ếch, nhái, bò sát. Để tự vệ, đặc biệt là để
chống kiến, Bọ rùa có khả năng xịt ra chất dịch vàng (máu) từ các lỗ nhỏ ở khớp
chân (Nguyễn Thế Nhã và Trần Công Loanh, 2002).
Bọ rùa trưởng thành và cả ấu trùng của nhiều loài tự vệ bằng những giọt dịch
vàng tiết ra từ khớp đầu gối. Chất tiết đó xua đuổi kẻ thù bằng mùi hắc, sự bốc hơi
nhanh và vị đắng của nó. Những đặc tính ấy có thể là do chất canthariđin gây ra
(Mc Indoo, 1916).

16


1.1.7. Tính ăn của bọ rùa
Phần lớn bọ rùa thuộc nhóm có ích vì có khả năng ăn mồi cao, đặc biệt là trên
những loại gây hại quan trọng cho cây trồng như rệp sáp (rệp sáp giả) và rầy mềm.
Trong tự nhiên nhiều loại bọ rùa giữ vai trò rất quan trọng trong việc điều hòa mật
số côn trùng gây hại (Frank và Russell, 2002).
Bọ rùa ăn thịt là những côn trùng khá phàm ăn. Coccinnella septempunctata
trong suốt thời gian phát triển của ấu trùng ăn tới 665 rệp muội (tối đa 868); ấu

trùng trưởng thành trong một ngày đêm ăn 60-159 rệp muội. Thành trùng và ấu
trùng C. septempunctata ăn tới 38 loại rệp khác nhau (Diadetsko, 1954 – Hoàng
Đức Nhuận trích dẫn, 1982)
Phức hệ thức ăn của bọ rùa ăn thịt rất khác nhau. Stethorus ăn bét hại thực
vật, Chilocorus ăn rệp vảy. Phần lớn bọ rùa ăn thịt, ăn rệp muội. Tuy nhiên nhiều
loài cũng ăn cả rệp cánh trong, ăn ấu trùng một số loài cánh cứng, trứng và sâu một
số loài cánh vảy (Hoàng Đức Nhuận, 1982).

Trung1.1.8.
tâm Tầm
Học quan
liệu ĐH
Cần
@ ăn
Tàirệp
liệusáp
học tập và nghiên cứu
trọng
củaThơ
bọ rùa
Nhiều công trình thực nghiệm ở Liên Xô đã xác nhận hệ bọ rùa ở địa phương
có khả năng trong việc tiêu diệt rệp và bét hại cây trồng. Công trình nghiên cứu
đầu tiên ở Trung Á, sử dụng bọ rùa 11 chấm Semiadalia 11-notata và bọ rùa 8
chấm Brumus octosignatus trừ rệp muội hại bông (Iakhontov, 1937 – Hoàng Đức
Nhuận trích dẫn, 1982)
Gần đây các nhà sinh học ở Châu Âu đã tiến thêm một bước trong việc sử
dụng bọ rùa 7 chấm Coccinnella septempunctata, bọ rùa 2 chấm Adalia
bipunctata, bọ rùa Adonia variegata, bọ rùa 14 chấm Harmonia 14-punctata và bọ
rùa mập Harmonia conglobata trong công tác phòng trừ rệp củ cải đường (Iperti,
1971).

Có nhiều loài bọ rùa tích cực bảo vệ cây xoan như: Chilocous circumdatus,
Pharoscymnus daotieni sp., Cryptogonus langchanhensis sp. Các loài này rất tích
cực trong việc tiêu diệt rệp hại thân xoan. Các vườn cây ăn quả như Cam, Quýt,

17


Bưởi, Ổi thường hay bị một số loài rệp sáp như Pseudococcus comstocki, rệp P.
yachani, rệp sáp chanh Plannococcus citri, rệp sáp bông Ierya purchasi làm hại.
Giống Rodolia, nhất là Rodolia pumila, cả ấu trùng và thành trùng đều tiêu diệt rệp
sáp chanh và rệp sáp bông. Nhiều loài bọ rùa khác thuộc các giống Jauravia,
Serangiella, Stethorus, Scymnus, Pseudoscymnus, Pseudaspidimerus, Ortalia cũng
là những kẻ thù tự nhiên tích cực tiêu diệt các loài rệp, bét (Hoàng Đức Nhuận,
1982).

1.2. Cây Đu đủ (Carica papaya L)
Theo Trần Thế Tục (2002), Đu đủ có nguồn gốc từ miền nhiệt đới Châu Mỹ,
một số tác giả cho rằng Mehicô và Côxtarica là quê hương của Đu đủ từ đây được
đưa trồng ở nhiều nước vùng nhiệt đới và á nhiệt đới. Ở Việt Nam chưa xác định
được nguồn gốc, xuất xứ cây Đu đủ nhưng hiện nay các tỉnh từ Nam chí Bắc đều
có trồng Đu đủ, nhiều nhất ở các tỉnh đồng bằng, dọc theo các con sông, trên các
loại đất phù sa, dốc tụ, phù sa cổ và nhiều loại đất khác…Đu đủ là cây ăn quả

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
ngắn ngày cho thu hoạch nhanh, đạt sản lượng cao, chiếm ít diện tích có thể trồng

xen trong các vườn cây ăn quả lâu năm.
Thân Đu đủ là cây thân thảo nhiệt đới đạt chiều cao 2-10 mét với đường kính
gốc đạt 30 cm. Cây ít hoặc không phân nhánh, phần trong của thân là các mô mềm,
xốp, giòn có nhiệm vụ dự trữ chất dinh dưỡng. Lá Đu đủ có bản rộng và chia nhiều

thùy, một cây trung bình đạt từ 13-17 lá xanh hoạt động thì tỉ lệ hoa đậu quả và
quả phát triển bình thường. Rễ Đu đủ nhỏ, giòn phân bố rộng tương đương với độ
rộng của tán lá. Thời gian sinh trưởng và phát triển của quả kéo dài 3-4 tháng phụ
thuộc vào mùa vụ và giống (Trần Thế Tục và Đoàn Thế Lư, 2002).
Theo Trần Thế Tục (2002), trong những năm gần đây các vườn Đu đủ thường
bị bệnh do virus gây ra như: bệnh thối gốc, bệnh phấn trắng, bệnh cháy lá, bệnh
thối quả, bệnh thán thư. Theo Nguyễn Thị Thu Cúc (2000), bên cạnh các bệnh do
virus gây ra thì Đu đủ còn bị tấn công bởi một số loại sâu hại quan trọng: nhện đỏ,
rầy mềm, ruồi đục trái, rệp sáp phấn…làm ảnh hưởng đến sản xuất.

18


Vấn đề phòng trừ sâu và bệnh hại càng quan trọng khi trồng Đu đủ với quy
mô lớn, tập trung (Trần Thế Tục và Đoàn Thế Lư, 2002).

1.3. Cây Hồng mai (Jatropha panduriforlia Andr)
Theo Trần Hợp (1998), cây Hồng mai thuộc họ thầu dầu, Euphorbiaceae, là
loại cây cảnh, có nguồn gốc từ Bắc Mỹ, Cuba. Cây thân gỗ, mọc bụi cao 1-3m, ít
phân cành. Phiến lá màu xanh lục đậm, lá thưa hình bầu dục, phần trên nguyên,
gốc có khía răng, cuống lá dài, mảnh. Hoa mọc thành chùm trên cuống dài. Hoa có
cánh đài màu đỏ thấm, xòe rộng. Hoa đẹp nở dần và bền quanh năm nên được
trồng làm kiểng.

1.4. Cây Thiên tuế ( Cycas revolatu, họ tuế-Cycadaceae )
Theo Trần Hợp (1998), cây có nguồn gốc từ vùng ẩm ướt Châu Á nhiệt đới
Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ. Cây hình trụ, cao 3m, ít khi chia nhánh. Lá dài đến
hìnhHọc
lông liệu
chim.ĐH

Cuống
có gai
lá thuôn
nhỏ liệu
về gốchọc
và đỉnh.
thành vòng,
Trung2m
tâm
Cần
Thơ
@ Tài
tập Lá
vàmọc
nghiên
cứu
dày đặc ở đỉnh thân, phiến lá phụ nhẵn bóng có màu xanh đậm, cứng, đầu có gai
nhọn, mép hơi gấp, gân lồi trên phiến. Nón đực hẹp dài 25-28 cm, rộng 4m. Nón
cái dạng phiến dài 20 cm, có lông màu hung vàng, phần không sinh sản rộng, mép
chia nhiều giải dẹp, cong, có mũi nhọn. Hạt hình trái xoan, dẹt, non có lông sau
nhẵn màu da cam.
Theo Đào Mạnh Khuyến (1996), cây cũng cho chùm hoa ở ngọn song quả
không sinh sản được, nên cây thường được trồng bằng chồi, mầm mọc từ thân ở
các nách lá già đã bị cắt đi. Mỗi năm cây chỉ cho được 1-2 lá, khi đã lớn mỗi năm
1-2 vòng lá.
Theo Vandaveer (2003), dịch hại quan trọng trên Thiên tuế là rệp sáp và sâu
bướm gây hại trên lá. Rệp sáp rất khó kiểm soát và chúng sinh sản nhanh, có thể di
chuyển theo gió và sống được trên rễ. Chu kỳ sinh sản khoảng một tháng, rệp có
thể bao phủ toàn bộ lá cây, có thể gây chết cây trong một năm.


19


Theo Phạm Văn Biên và ctv (2003), Trên cây họ Thiên tuế có hai loại rệp sáp
chính gây hại: rệp sáp nâu mềm và rệp sáp vảy nâu. Trên các cây Thiên tuế và Vạn
tuế hai loài rệp này đều bám mặt dưới lá, chích hút nhựa và làm lá vàng khô.
Theo Aubrey và ctv (2005), bọ cánh cứng thuộc họ Cocinellidae có nguồn
gốc từ Australia đã được đưa vào California năm 1892 để kiểm soát rệp sáp gây
hại trên Thiên tuế rất hiệu quả.

1.5. Rệp sáp
Theo Nguyễn Thị Thu Cúc (2000), rệp sáp thuộc tổng họ Coccoidae - Bộ
Homoptera. Nhóm này bao gồm nhiều loài có kích thước nhỏ. Gây hại bằng cách
chích hút dịch cây trồng (trên lá, trái, cành, thân). Tất cả các loài rệp sáp đều có
đặc điểm chung là cơ thể tiết ra một lớp sáp che chở cho cơ thể. Lớp này hình
thành nên một lớp vỏ cứng, có hình dạng, màu sắc và kích thước khác nhau.
Theo Vũ Thị Nga (2006), lớp sáp do chúng tiết ra có thể ở dạng bột, dạng sáp
hay dạng vảy tùy theo từng họ. Chúng ở mọi bộ phận của cây như lá, đọt non,

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
cành, quả chích hút dinh dưỡng làm cho cây bị giảm kích thước, hoa có thể rụng,

quả bị nhỏ, cành bị khô héo… chất thải của chúng có chứa hàm lượng đường cao.
Đây là môi trường thuận lợi để nấm hoại sinh phát triển. Do đó các bộ phận của
cây bị rệp sáp tấn công thường bị phủ một lớp muội đen giống như “bồ hóng”. Lớp
muội đen này làm giảm khả năng quang hợp và gây ảnh hưởng tới năng suất cây
trồng.
Các loài rệp sáp có chu kỳ sinh trưởng ngắn, khả năng sinh sản cao, điều kiện
môi trường thích hợp sẽ có khả năng bộc phát nhanh. Chủ yếu gây hại vào mùa
nắng (Nguyễn Thị Thu Cúc, 2000)

Theo Nguyễn Thị Thu Cúc (2000), tại Đồng Bằng Sông Cửu Long đã ghi
nhận có trên 16 loài rệp sáp hiện diện trên cây có múi (citrus) và mặc dù rệp sáp
hiện diện khá phổ biến trên nhiều loại cây trồng nhưng mật số rệp sáp thường thấp
nên chưa thấy gây hại đáng kể. Có thể là do trong điều kiện tự nhiên rệp sáp có rất
nhiều thiên địch (các loài ong ký sinh và các loài bọ rùa), các loài thiên địch này có

20


khả năng cao trong việc hạn chế sự bộc phát của rệp sáp, bên cạnh đó khí hậu thay
đổi cũng làm ảnh hưởng đến mật số của rệp sáp ngoài tự nhiên.

1.5.1. Coccidae
Theo Nguyễn Thị Thu Cúc (2004), thành trùng cái có hình bầu dục dài,
thường cong vồng lên nhưng đôi khi dẹp với một lớp xương ngoài cứng, láng hoặc
được bao phủ bằng những chất sáp, chân thường hiện diện, râu đầu thoái hóa hoặc
không có. Con đực có cánh hoặc không cánh. Vòi có một đốt. Bụng không có lổ
thở, mảnh hậu môn chia thành hai phiến hình tam giác hoặc hình trăng khuyết.

1.5.2. Margarodidae
Họ này gồm nhiều loài có kích thước khá lớn. Cơ thể có hình bầu dục, một số
ít có hình tròn hoặc dài. Râu đầu thường có 6-11 đốt. Có loài râu đầu thoái hóa.
Vòi phát triển có 2-3 đốt hoặc không có. Chân phát triển, bàn chân thường có một
đốt. Đa số con cái có che phủ một lớp sáp như bông sơ trắng, con đực có một đôi

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
cánh (Nguyễn Thị Thu Cúc, 2004).

1.5.3. Diaspididae
Theo Nguyễn Thị Thu Cúc (2004), đây là họ rệp sáp lớn nhất. Con cái thường

rất nhỏ, cơ thể mềm và được che phủ bằng một lớp vảy không dính vào cơ thể nằm
ở phía dưới. Giữa các loài có hình dạng và màu sắc rất khác bệt. Lớp vảy của con
đực thường nhỏ và dài hơn lớp vảy của con cái. Thành trùng cái thường có cơ thể
dẹp và có dạng phiến tròn, phân đốt không rõ ràng, không có mắt. Chân, râu và
đầu không có hoặc chỉ còn dấu vết. Thành trùng đực có cánh, chân và râu đầu đều
phát triển. Các loài này sinh sản hữu tính hoặc đơn tính, có loài đẻ trứng, có loài đẻ
con.

21


1.5.4. Pseudococcidae
Theo Nguyễn Thị Thu Cúc (2004), Rệp sáp phấn thuộc họ Pseudococcidae,
bộ cánh đều – Homoptera. Nhóm này bao gồm nhiều loài có dạng hình bầu dục
dài, phân đốt rõ, chân rất phát triển. Râu đầu từ 5-9 đốt, hoặc không có râu đầu, vòi
phát triển. Cơ thể được phủ bằng nhưng lớp sáp trắng, xung quanh cơ thể thường
có những sợi sáp nhỏ, cuối bụng là những sợi sáp dài. Một số loài đẻ trứng, một số
loài đẻ con. Trứng thường được đẻ lẫn trong những sợi sáp, gây hại bằng cách
chích hút dịch cây trồng, có thể gây hại trên nhiều bộ phận của cây (trên lá, trái,
cành, thân), phổ biến trên các loại cây ăn trái như Cam quýt, Sa bô, Mãng cầu,
Chôm chôm, Khóm, Ổi, Xoài, Mía, Cà phê…
Nhiều loài trong nhóm rệp sáp phấn vào giai đoạn ấu trùng T1, T2, T3 và cả
thành trùng vẫn có thể di chuyển đựợc, con cái không di chuyển được, thành trùng
đực có kiểu phát triển như con cái ngoại trừ con đực có một cặp cánh, có giai đoạn
nhộng, miệng thoái hóa không ăn chỉ giữ nhiệm vụ giao phối (Nguyễn Thị Thu

TrungCúc,
tâm2000).
Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu


22


CHƯƠNG 2

PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Phương tiện
- Đối tượng cây trồng khảo sát: Chúng tôi tiến hành khảo sát trên hai nhóm cây
thường xuyên bị rệp sáp tấn công như cây ăn trái và cây kiểng.
+ Cây ăn trái: Đu đủ, Mãng cầu xiêm, Sầu riêng, Giâu, Cam quýt và Vú sữa.
+ Cây kiểng: Thiên tuế, Hồng mai, Sứ trắng.
- Nội dung điều tra:
+ Thành phần rệp sáp trên các cây khảo sát.
+ Thành phần bọ rùa thiên địch của rệp sáp.
- Địa bàn khảo sát: tp Cần Thơ và vùng phụ cận
- Thời gian thực hiện: từ tháng 05 năm 2006 đến tháng 01 năm 2007.

Trung tâm
ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
- VậtHọc
tư thíliệu
nghiệm:
+ Dụng cụ thu mẫu và xử lý côn trùng: vợt côn trùng, túi nylon, cồn 70o, CCl4
giết côn trùng.
+ Dụng cụ nuôi bọ rùa: hộp nhựa, giấy thấm, gòn thấm nước và các thiết bị
cần thiết khác sử dụng trong phòng thí nghiệm như nhiệt kế, ẩm độ kế, …
+ Dụng cụ hỗ trợ cho việc giải phẩu: kim mũi nhọn, cọ, kính lúp…
+ Thức ăn: rệp sáp và các ổ trứng của rệp sáp trên một số loại cây trồng.
+ Hoá chất ngâm mẫu: Cồn 70o, KOH 20%


2.2. Phương pháp
2.2.1. Điều tra ngoài đồng
- Thành phần loài bọ rùa và rệp sáp được quan sát trên các cây ăn trái và cây
kiểng tại tp Cần Thơ và vùng phụ cận. Sau đó chọn một số cây nhất định để quan
sát định kỳ mỗi tháng.

23


- Phương pháp thu mẫu: bọ rùa và rệp sáp được thu trực tiếp bằng tay hay vợt
trên những cây bị rệp sáp tấn công đem về phòng thí nghiệm để khảo sát.

2.2.2. Khảo sát trong phòng thí nghiệm
Nhằm xác định loài bọ rùa thiên địch của rệp sáp và đặc điểm hình thái, sinh
học có liên quan đến sự phát triển và khả năng ăn mồi của bọ rùa.

2.2.2.1. Xác định thành phần loài của rệp sáp và bọ rùa thiên địch
* Rệp sáp
- Song song với việc khảo sát về bọ rùa, chúng tôi tiến hành điều tra tình hình
gây hại của rệp sáp.
- Phân loại rệp sáp:
+ Do rệp sáp có kích thước nhỏ và có lớp sáp bao phủ xung quanh cơ thể
nên rất khó quan sát các đặc điểm hình thái cần thiết cho công tác phân loại.
tiến hành thu mẫu rệp sáp về phòng thí nghiệm và sử dụng phương pháp
TrungChúng
tâm tôi
Học
liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
xử lý mẫu chuẩn của Borror và ctv (1976) và có cải tiến trong quá trình thực hiện.


+ Rệp sáp được định danh theo khoá phân loại của Williams và Watson
(1988).

* Bọ rùa
- Bọ rùa được định danh chủ yếu theo khóa phân loại của Hoàng Đức Nhuận
(1982-1983) và Leeper (1975). Một số mẫu cũng được gởi sang Nhật (Đại học
Tokyo) để khẳng định lại kết quả định danh trong nước.
- Bên cạnh việc dựa vào các đặc điểm hình thái bên ngoài của ấu trùng và
thành trùng như màu sắc, hình dạng chân, râu đầu, tấm bụng chúng tôi còn tiến
hành giải phẩu cơ quan sinh dục để mô tả các đặc điểm hình thái của bộ phận sinh
dục (genitalia) và ống giao phối của con đực (xifôn) để hỗ trợ cho công tác định
danh.

24


2.2.2.2. Đặc điểm sinh học
Bọ rùa được thu ngoài tự nhiên đem về nuôi trong phòng thí nghiệm để theo
dõi các chỉ tiêu sau:
- Sự phát triển.
- Khả năng sinh sản.
- Tỷ lệ trứng nở, tỷ lệ đực/cái.
- Khả năng sống sót.

* Sự phát triển
- Phương pháp: cho bọ rùa bắt cặp trong hộp nhựa đã được lót giấy thấm
với thức ăn sử dụng là rệp sáp. Sau khi bọ rùa bắt cặp và đẻ trứng thì tách lấy trứng
chuyển sang hộp nhựa khác cũng đã được lót giấy thấm để quan sát theo dõi từ giai
đoạn trứng đến giai đoạn thành trùng của từng loài bọ rùa phổ biến.
** Chỉ tiêu ghi nhận: hàng ngày ghi nhận sự phát triển của bọ rùa qua

chiều dài thân, sự lột xác.

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
* Khả năng sinh sản
- Phương pháp: bọ rùa sau khi bắt cặp được nuôi và quan sát trong phòng
thí nghiệm. Hàng ngày đếm số trứng đẻ trong mỗi ổ trứng và tổng số trứng trong
thời gian khảo sát.
** Chỉ tiêu ghi nhận: khả năng đẻ trứng (số lượng trứng được đẻ trong
mỗi lần đẻ ⇒ tổng số trứng được đẻ) trong suốt chu kỳ sống.

* Tỷ lệ trứng nở, tỷ lệ cái/đực
- Số trứng đẻ trong phòng thí nghiệm được tiếp tục theo dõi đến khi nở và
đếm số trứng nở sau 3, 4, 5, 6, … ngày Æ tính tỷ lệ nở.
- Ấu trùng nuôi đến giai đoạn thành trùng Æ ghi nhận tỷ lệ cái/đực.

25


×