TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
- - - o0o - - -
LÊ TRUNG THÀNH
ẢNH HƯỞNG CỦA LIỀU LƯỢNG PHÂN NPK ĐẾN
NĂNG SUẤT VÀ PHẨM CHẤT CỦA NHÃN EDOR
TẠI CHÂU THÀNH - ĐỒNG THÁP
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ TRỒNG TRỌT
Cần Thơ, 2010
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
- - - o0o - - -
Luận văn tốt nghiệp
Ngành: TRỒNG TRỌT
Tên đề tài:
ẢNH HƯỞNG CỦA LIỀU LƯỢNG PHÂN NPK ĐẾN
NĂNG SUẤT VÀ PHẨM CHẤT CỦA NHÃN EDOR
TẠI CHÂU THÀNH - ĐỒNG THÁP
Giáo viên hướng dẫn:
PGS.TS. Nguyễn Bảo Vệ
Sinh viên thực hiện:
Lê Trung Thành
MSSV: 3073100
Lớp: Trồng trọt K33
Cần Thơ, 2010
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
2
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN KHOA HỌC CÂY TRỒNG
Chứng nhận đã chấp thuận luận văn với đề tài:
“ẢNH HƯỞNG CỦA LIỀU LƯỢNG PHÂN NPK ĐẾN
NĂNG SUẤT VÀ PHẨM CHẤT CỦA NHÃN EDOR
TẠI CHÂU THÀNH - ĐỒNG THÁP”
Do sinh viên LÊ TRUNG THÀNH thực hiện và đề nạp.
Kính trình hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp xem xét.
Cần Thơ, ngày … tháng … năm 2010
Cán bộ hướng dẫn
PGS.TS. NGUYỄN BẢO VỆ
i
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN KHOA HỌC CÂY TRỒNG
Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp đã chấp thuận luận văn với đề tài:
“ẢNH HƯỞNG CỦA LIỀU LƯỢNG PHÂN NPK ĐẾN
NĂNG SUẤT VÀ PHẨM CHẤT CỦA NHÃN EDOR
TẠI CHÂU THÀNH - ĐỒNG THÁP”
Do sinh viên: LÊ TRUNG THÀNH thực hiện và bảo vệ trước hội đồng ngày …
tháng … năm 2010.
Luận văn đã được hội đồng chấp thuận và đánh giá ở mức:.........................................
Ý kiến hội đồng: .......................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
DUYỆT KHOA
Trưởng khoa Nông Nghiệp và SHƯD
Cần Thơ, ngày … tháng … năm 2010
Chủ tịch hội đồng
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Các số liệu, kết quả
trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình luận văn nào trước đây.
Tác giả
Lê Trung Thành
iii
LƯỢC SỬ CÁ NHÂN
1. SƠ YẾU LÝ LỊCH
- Họ và tên: LÊ TRUNG THÀNH
Giới tính: Nam
- Ngày sinh: 10/ 07/1987
- Nơi sinh: Huyện Vũng Liêm, Tỉnh Vĩnh Long
- Quê quán: Xã Quới Thiện, Huyện Vũng Liêm, Tỉnh Vĩnh Long
- Dân tộc: Kinh.
- Điện thoại: 0976515160
2. QUÁ TRÌNH HỌC TẬP
- Tốt nghiệp Phổ thông Trung học năm 2005 tại Trường Trung học Phổ
Thông Vũng Liêm A, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long.
- Trúng tuyển vào Trường Đại học Cần Thơ năm 2007, học lớp Trồng trọt
khóa 33, Khoa Nông Nghiệp và Sinh học Ứng Dụng.
iv
LỜI CẢM TẠ
Kính gửi lời tri ân đến cha mẹ, những người đã nuôi tôi khôn lớn, lo lắng cho tôi từ
khi còn tấm bé đến ngày hôm nay. Cha mẹ luôn ủng hộ tôi về mọi mặt, cả vật chất
lẫn tinh thần, luôn động viên, an ủi trong thời điểm mà tôi gặp khó khăn nhất.
Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Nguyễn Bảo Vệ, người Thầy đã tận
tình dìu dắt tôi trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Xin cảm ơn anh Trịnh Xuân Việt, học viên cao học lớp Trồng trọt khóa 14, người
đã nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài.
Xin cảm ơn cố vấn học tập Thầy Trần Văn Hâu và các bạn sinh viên lớp Trồng trọt
khóa 33 đã giúp đỡ, động viên trong quá trình làm đề tài tốt nghiệp.
Tôi xin kính gởi lời cảm ơn chân thành đến quý Thầy (Cô) trong Bộ môn Khoa học
Cây Trồng, khoa Nông nghiệp và Sinh học Ứng dụng cùng tất cả quý Thầy (Cô)
trường Đại học Cần Thơ đã tận tình hướng dẫn, cung cấp cho tôi những tri thức vô
cùng quý báu trong thời gian theo học tại trường.
Xin cảm ơn tập thể lớp Trồng trọt khóa 33! Tất cả các bạn đã cho tôi những kỉ niệm
thật khó phai. Nỗi nhớ quê hương của những ngày đầu nhập học cứ vơi dần đi bởi
những tình cảm mà các bạn đã dành cho tôi, cũng như cho những người bạn xa quê
khác. Cảm ơn các bạn vì đã luôn quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Cũng không quên lời cảm ơn đến tất cả những người đã giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình thực hiện đề tài tốt nghiệp này.
Xin kính chúc quý Thầy (Cô), người thân và bạn bè của tôi dồi dào sức khỏe và đạt
được nhiều thành công trong cuộc sống.
v
MỤC LỤC
Nội dung
Trang phụ bìa
ii
Lời cam đoan
iii
Lược sử cá nhân
iv
Lời cảm tạ
v
Mục lục
vi
Danh sách bảng
viii
Danh sách hình
ix
Tóm lược
x
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1
1.1
1.2
1.3
Trang
1
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2
Nguồn gốc và sự phân bố cây nhãn
2
1.1.1
Nguồn gốc
2
1.1.2
Sự phân bố
2
Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất và phẩm chất nhãn
2
1.2.1
Đất đai và gió
3
1.2.2
Nhiệt độ
3
1.2.3
Ánh sáng
4
1.2.4
Nước
4
1.2.5
Dinh dưỡng khoáng
5
Dưỡng chất đạm, lân, kali
6
1.3.1
Vai trò của đạm
6
1.3.2
Vai trò của lân
7
1.3.3
Vai trò của kali
7
vi
1.4
Đặc điểm của giống nhãn
9
1.5
Bón phân cho nhãn trong nước và thế giới
9
1.5.1
Bón phân cho nhãn trên thế giới
9
1.5.2
Các nghiên cứu trong nước
11
CHƯƠNG 2
2.1
2.2
PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP
15
Phương tiện
15
2.1.1
Thời gian và địa điểm
15
2.1.2
Vật liêu thí nghiệm
15
Phương pháp
16
2.2.1
Bố trí thí nghiệm
16
2.2.2
Kỹ thuật chăm sóc vườn nhãn
17
2.3
Các chỉ tiêu theo dõi
18
2.4
Xử lý thống kê
18
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
19
3.1
Thí nghiệm bón phân NPK cho nhãn
19
3.2
Đường kính trái
19
3.3
Thành phần năng suất
20
3.3.1
Trọng lượng trái
20
3.3.2
Số trái trên chùm
21
3.3.3
Trọng lượng chùm trái
22
3.3.4
Năng suất trên cây
23
3.4
Phẩm chất trái
24
3.4.1
Dày thịt trái
24
3.4.2
Trọng lượng thịt trái và tỷ lệ trọng lượng thịt trái
25
3.4.3
Trọng lượng vỏ, hột và tỷ lệ trọng lượng vỏ, hột
26
vii
3.5
3.4.4
Độ Brix thịt trái
27
3.4.5
Màu sắc vỏ trái
28
Hiệu quả kinh tế
CHƯƠNG 4
29
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
32
4.1
Kết luận
32
4.2
Đề nghị
32
TÀI LIỆU THAM KHẢO
33
PHỤ CHƯƠNG
viii
DANH SÁCH BẢNG
Bảng
Tên bảng
Trang
1.1
Công thức phân NPK ở mỗi lần bón cho nhãn ở Thái Lan (Onprasert et al.,2002)
10
1.2
Công thức phân NPK ở mỗi lần bón cho nhãn ở Trung Quốc (Choo, 2000)
10
1.3
Bón phân cho nhãn ở Florida, Hoa Kỳ (Diczbalis, 2002)
11
1.4
Liều lượng phân NPK ở 4 lần bón cho nhãn Tiêu Da Bò tại Long Định, Châu
12
Thành, Tiền Giang (Trần Minh Trí et al., 2001)
1.5
Liều lượng phân NPK và phân hữu cơ Ba Lá Xanh bón cho nhãn Tiêu Da Bò tại
13
Mỹ Phong, thành phố Mỹ Tho, Tiền Giang (Bùi Thị Mỹ Hồng và Trần Minh Trí,
2003)
1.6
Liều lượng phân NPK ở 4 lần bón cho nhãn Long tại Cồn Sơn, quận Bình Thủy,
13
thành phố Cần Thơ và tại Đồng Phú, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long (Đỗ Thị
Thanh Ren et al., 1998)
1.7
Lượng phân bón cho nhãn Xuồng Cơm Vàng thời kỳ kiến thiết cơ bản (Trung
14
Tâm Khuyến Nông tỉnh Đồng Tháp, 1999)
2.1
Liều lượng phân NPK (kg/cây) thực hiện trên nhãn Edor tại huyện Châu Thành,
17
tỉnh Đồng Tháp
3.1
Đường kính (mm) trái của nhãn Edor qua các tuần sau khi đậu trái ở những liều
19
lượng NPK khác nhau tại huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp
3.2
Trọng lượng thịt trái và tỷ lệ trọng lượng thịt trái của nhãn Edor ở những liều
26
lượng NPK khác nhau tại huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp
3.3
Trọng lượng vỏ, hột và tỷ lệ trọng lượng vỏ, hột của nhãn Edor ở những liều
27
lượng NPK khác nhau tại huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp
3.4
Độ khác màu sắc vỏ trái và chỉ số màu sắc vỏ trái nhãn Edor ở những liều lượng
NPK khác nhau tại huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp
ix
29
DANH SÁCH HÌNH
Hình
Tên hình
Trang
2.1
Bản đồ vị trí thí nghiệm tại huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp
15
2.2
Cây nhãn Edor làm thí nghiệm
16
3.1
Trọng lượng trái nhãn Edor được bón ở những liều lượng NPK
20
khác nhau tại huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp
3.2
Số trái trên chùm của nhãn Edor được bón ở những liều lượng NPK
22
khác nhau tại huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp
3.3
Trọng lượng chùm trái của nhãn Edor được bón ở những liều lượng
23
NPK khác nhau tại huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp
3.4
Năng suất nhãn Edor được bón ở những liều lượng NPK khác nhau
24
tại huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp
3.5
Dày thịt trái của nhãn Edor được bón ở những liều lượng NPK khác
25
nhau tại huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp
3.6
Độ Brix thịt trái của nhãn Edor được bón ở những liều lượng NPK
khác nhau tại huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp
x
28
LÊ TRUNG THÀNH, 2010. “Ảnh hưởng của liều lượng phân NPK đến năng
suất và phẩm chất của nhãn Edor tại Châu Thành - Đồng Tháp”. Luận văn tốt
nghiệp Kỹ sư Trồng trọt, khoa Nông Nghiệp và Sinh học Ứng Dụng, Trường Đại
học Cần Thơ. Hướng dẫn đề tài: PGS. TS. Nguyễn Bảo Vệ.
TÓM LƯỢC
Đề tài “Ảnh hưởng của liều lượng phân NPK đến năng suất và phẩm chất của nhãn
Edor tại Châu Thành – Đồng Tháp” được thực hiện từ tháng 2 năm 2010 đến tháng
9 năm 2010 nhằm mục tiêu: Tìm ra liều lượng phân NPK bón cho nhãn Edor trong
thời kỳ ra hoa và đậu trái. Thí nghiệm được bố trí theo thể thức khối hoàn toàn ngẫu
nhiên với năm lần lặp lại. Có 5 nghiệm thức là 5 liều lượng phân gồm một đối
chứng NPK1 (bón theo cách của nông dân), và 4 nghiệm thức còn lại là 4 liều lượng
phân NPK2, NPK3, NPK4 và NPK5.
Kết quả thí nghiệm liều lượng phân NPK bón cho nhãn làm tăng năng suất và tăng
phẩm chất trái cao nhất khi: Bón 9 kg/cây cho Nhãn Edor: ở thời điểm lần 1 khi
phát hoa dài 5 cm bón 1,5 kg NPK 15-15-15, lần 2 khi vừa đậu trái bón 2 kg NPK
15-15-15, lần 3 hai tuần sau khi đậu trái bón 2,5 kg NPK 14-14-21, lần 4 khi hột có
màu đen bón 3 kg NPK 14-14-21.
Từ Khóa: Nhãn Edor, phân NPK, UREA, DAP, KCl.
xi
MỞ ĐẦU
Nhãn (Euphoria longan Lamk) là cây nhiệt đới hiện diện khá lâu ở vùng Đồng
bằng sông Cửu Long và được xếp vào loại cây ăn trái đặc sản của cả nước. Ngoài ra
nhãn cũng thích nghi rộng trên nhiều vùng sinh thái ở cả ba miền nước ta, từ vùng
đất giồng, đất nhiễm mặn đến đất phù sa bồi. Thêm vào đó, cơ cấu giống nhãn cũng
rất phong phú và đa dạng. Diện tích trồng nhãn ngày càng được mở rộng ở hầu hết
các tỉnh. Cây nhãn chiếm một vị trí quan trọng trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng,
cho hiệu quả kinh tế cao. Vì vậy, việc cung cấp phân bón cho nhãn hiện nay mang ý
nghĩa rất quan trọng và trở thành vấn đề cấp bách trong sản xuất.
Riêng năm 2008, diện tích nhãn của huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp là
2.646 ha, nhãn được trồng ở tất cả các xã trong huyện, tuy nhiên nhiều nhất là ở các
xã An Nhơn (1.051 ha), Tân Nhuận Đông (610 ha), Phú Hựu (374 ha), An Khánh
(361 ha) (Phòng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn huyện Châu Thành, tỉnh
Đồng Tháp 2008).
Hiện nay nhãn Edor là một trong những giống nhãn có chất lượng ngon nhất
đang được trồng ở huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp nhưng lượng phân NPK
người dân sử dụng thì chỉ bón theo kinh nghiệm và thói quen canh tác của mình chứ
chưa có thử nghiệm nào. Có những vườn bón lượng phân khá cao, nhưng cũng có
những vườn bón rất ít. Đa số người dân trồng nhãn chỉ chú trọng nhiều đến phân
đạm, chưa quan tâm đến các loại phân khác, liều lượng cũng thấp nên đã ảnh hưởng
đến năng suất và chất lượng của trái.
Khó khăn trong quy trình canh tác nhãn hiện nay của huyện Châu Thành, tỉnh
Đồng Tháp là cung cấp dinh dưỡng cho nhãn như thế nào để có năng suất cao, hạn
chế trái nhỏ và phẩm chất kém. Chính vì vậy mà đề tài “Ảnh hưởng của liều lượng
phân NPK đến năng suất và phẩm chất của nhãn Edor tại Châu Thành - Đồng
Tháp” được thực hiện nhằm mục tiêu tìm ra liều lượng phân NPK bón cho nhãn
Edor trong thời kỳ ra hoa và đậu trái.
1
CHƯƠNG 1: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1 Nguồn gốc và sự phân bố cây nhãn
1.1.1 Nguồn gốc
Cây nhãn là cây Á nhiệt đới và nhiệt đới, cùng họ với cây vải và chôm chôm,
thuộc họ Sapindaceae (bồ hòn), giống Euphoria, có tên khoa học là Dimocarpus
longan Lour hay Euphoria longana Lamk. Giống Euphoria có khoảng 7 loài nhưng
chỉ có Euphoria longana là được trồng rộng rãi (Menzel et al., 1990).
Có nhiều tài liệu nghiên cứu cho rằng cây nhãn có nguồn gốc từ Trung Quốc,
vì người ta nhận thấy rằng cây nhãn được trồng nhiều ở vùng núi Quảng Đông,
Quảng Tây từ rất lâu đời với diện tích rất lớn. Ý kiến khác được đưa ra bởi
Chandler (1958) thì cây nhãn là cây bản xứ của vùng đất thấp Ấn Độ, Miến Điện và
Trung Quốc, dần dần được trồng rộng rãi ở nhiều nước như Thái Lan, Đài Loan,
Hồng Kông, Việt Nam, Lào và cả vùng Florida của Hoa Kỳ.
1.1.2 Sự phân bố
Cây nhãn được trồng từ rất lâu đời, phân bố rộng rãi ở nhiều nước nhưng đa số
đều được trồng rãi rác, không đáng kể, chỉ có ở Trung Quốc, Thái Lan và Việt Nam
là nhãn được trồng qui mô đáng kể (Vũ Công Hậu, 1999). Còn các nước ở châu
Mỹ, châu Phi, châu Đại Dương và một số nước nhiệt đới khác thì cây nhãn mới
được du nhập vào nên trồng với diện tích còn rất hạn chế (Trần Thế Tục, 1998). Ở
Thái Lan, nhãn được trồng chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc như Lamphun, Chiang Mai
và Chiang Rai (Noppakoonwong, 1996).
Ở Việt Nam, cây nhãn lâu đời nhất được tìm thấy ở tỉnh Hưng Yên trồng cách
đây hơn 300 năm (Vũ Công Hậu, 1999). Diện tích nhãn của nước ta khoảng 35-40
nghìn ha, chưa có số liệu thống kê đầy đủ. Miền Bắc tập trung chủ yếu ở các tỉnh
ven sông Hồng, sông Lô, sông Mã, miền Nam thì các tỉnh ven sông Tiền, sông Hậu.
Trong những năm gần đây, do nhu cầu tiêu thụ nhãn mạnh cả trong nước và xuất
khẩu, diện tích nhãn miền Nam tăng mạnh ở các tỉnh Đồng Tháp, Sóc Trăng, Vĩnh
Long, Tiền Giang. Đây là cây ăn trái có triển vọng phát triển mạnh ở Đồng bằng
sông Cửu Long.
1.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất và phẩm chất nhãn
Cây nhãn là loại cây có nguồn gốc Á nhiệt đới, ra hoa trên chồi tận cùng do đó
điều kiện thời tiết và môi trường bên ngoài có tác động rất lớn đến sự ra hoa và đậu
trái, quyết định sự ra hoa theo mùa và ảnh hưởng rất lớn đến năng suất trái.
2
1.2.1 Đất đai và gió
Theo Nguyễn Danh Vàn (2008) để thu được năng suất cao, phẩm chất tốt, tuổi
thọ cây kéo dài thì nên chọn những chân đất tơi xốp, nhiều mùn, đất phù sa, luôn có
độ ẩm cho cây, pH khoảng 5-6,5. Đất trồng nhãn phải lên liếp cao, xung quanh có
bờ bao để có thể bơm nước ra khỏi vườn khi cần thiết. Nếu bị ngập úng kéo dài, cây
nhãn có thể bị chết, nhất là một số giống nhãn cải tiến gần đây thường cho năng
suất cao, phẩm chất ngon như nhãn Xuồng Cơm Vàng.
Gió tây thường gây nóng, khô làm nướm nhụy mất nước ảnh hưởng đến quá
trình thụ phấn, thụ tinh và làm rụng trái. Bão cũng làm gãy cành, rụng trái làm giảm
năng suất cây (Trần Thế Tục, 2000).
1.2.2 Nhiệt độ
Theo Trần Văn Hâu (2005) nhiệt độ thấp ảnh hưởng trực tiếp hay cảm ứng lên
sự ra hoa khó phân biệt được, cây đa niên đòi hỏi nhiệt độ lạnh là bắt buộc trong khi
cây hàng niên đòi hỏi không bắt buộc. Điều kiện nhiệt độ thấp làm giảm sự sinh
trưởng của cây, mất sự hô hấp, thúc đẩy sự phân giải tinh bột và các chất dự trữ
khác có thể cải thiện trực tiếp sự đồng hóa cung cấp cho đỉnh chồi và thúc đẩy quá
trình theo hướng sinh sản.
Cây nhãn là cây ra hoa không liên tục hay ra hoa cách năm (Menzel et al.,
1989) và cây nhãn ra hoa là sự nhạy cảm với điều kiện môi trường
(Subhadrabandhu và Yapwattanaphun, 2001). Nhãn là cây trồng Á nhiệt đới, phát
triển rất tốt trong điều kiện nhiệt đới có lượng mưa nhiều, tuy nhiên sự ra hoa đòi
hỏi phải có một mùa Đông ngắn với nhiệt độ từ 15-22oC trong 8-10 tuần để kích
thích sự ra hoa (Menzel và Simpson, 1992) và theo sau là điều kiện nhiệt độ cao
trong mùa xuân cho hoa phát triển. Nếu nhiệt độ thấp kéo dài, mầm hoa hình thành
nhưng không phát triển được. Do đó, phát hoa nhãn chỉ phát triển vào mùa Xuân
khi thời tiết bắt đầu ấm trở lại. Wong và Ketsa (1991), mô tả cây nhãn yêu cầu nổi
bật là sự thay đổi theo mùa để thỏa mãn sự ra hoa, với một mùa Đông ngắn nhưng
nhiệt độ trung bình 15-22 oC để kích thích ra hoa. Menzel et al. (1989) cho rằng, cây
nhãn có mùa vụ sinh trưởng tốt nhất nằm trong khu vực có mùa Đông ngắn, không
có tuyết rơi và mùa Hè nóng ẩm kéo dài. Yaacob và Subhadrabandhu (1995) báo
cáo rằng những yếu tố môi trường rất quan trọng đến sự ra hoa và đậu trái nhãn.
Mùa lạnh kéo dài giúp cho sự ra hoa và đậu trái trong khi thời tiết khô nóng làm cho
đậu trái ít và trái bị rụng.
Cây nhãn là loài có khả năng chịu nóng và chịu rét khá. Theo Trần Thế Tục et
al. (1998) nhiệt độ bình quân hằng năm 21-270C là thích hợp cho cây sinh trưởng
và phát triển. Trong thời kỳ hoa nở, nhãn yêu cầu nhiệt độ khoảng 25-300C. Nếu cứ
để tự nhiên (không áp dụng các biện pháp xử lý để cho nhãn ra hoa trái vụ như xiết
3
nước, phun, bón hóa chất…) thì nhiệt độ thấp khoảng 8-14 0C sẽ thuận lợi cho sự
phân hóa mầm hoa của cây.
Trong thời gian nhãn đang ra nụ hoa mà gặp nhiệt độ cao, lá ở chùm hoa phát
triển sẽ ảnh hưởng đến nụ hoa và hoa, dễ làm cho nhãn mất mùa trái. Ngược lại,
nếu gặp nhiệt độ thấp việc thụ phấn, thụ tinh của hoa sẽ gặp trở ngại dẫn đến năng
suất thấp (Nguyễn Danh Vàn, 2008).
1.2.3 Ánh sáng
Ánh sáng cũng góp phần quan trọng trong sinh trưởng phát triển của cây nhãn,
cường độ ánh sáng cũng liên quan đến sự thay đổi nhiệt độ. Cây nhãn cần nhiều ánh
sáng và sự thông thoáng, trong quá trình sinh trưởng và phát triển nhãn cần nhiều
ánh sáng trực xạ hơn tán xạ. Ánh sáng còn giúp đậu trái, vỏ bóng và trái có vị ngon,
ngọt (Bùi Thị Mỹ Hồng, 2002). Theo Vũ Công Hậu (2000) cây nhãn không chịu
được ở những nơi quá khô, ánh nắng gay gắt cũng như những nơi thường xuyên rét
đậm. Ở miền Nam cây nhãn chịu ánh nắng rất tốt, nhãn cần đầy đủ ánh sáng, chỉ có
những cành nhận đầy đủ ánh sáng mới cho trái tốt.
1.2.4 Nước
Theo Vũ Công Hậu (2000) và Bùi Thị Mỹ Hồng (2002) cho rằng cây nhãn
thích ẩm, chịu hạn tốt nhưng không chịu úng, rất dễ nhạy cảm với việc ngập nước
kéo dài. Nếu đất không có độ ẩm tự nhiên quanh năm phải tạo điều kiện để cây
nhãn không bị hạn, đặc biệt khi cây ra hoa kết quả hoặc giai đoạn sinh trưởng mạnh.
Tùy theo thời kỳ phát dục của cây nhãn mà yêu cầu về độ ẩm đất cũng khác
nhau. Trước khi ra hoa và để khuyến khích sự hình thành hoa yêu cầu độ ẩm
thường thấp. Một số cây như nhãn, vải, chôm chôm, xoài nếu vào thời điểm 1-2
tháng trước khi ra hoa mà gặp mưa thì không ra hoa mà ra đọt lá, do đó không được
tưới nước vào lúc này. Nhiều tác giả cho rằng việc tưới nước nên hạn chế hoặc
không tưới hoàn toàn trong thời kỳ nghỉ dẫn đến sự ra hoa. Việc giảm ẩm độ đất
này có thể làm chậm phát triển đọt sinh dưỡng không mong muốn nhưng tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phân hóa mầm hoa, do đó nếu trong giai đoạn này ẩm độ đất
cao làm cho sự ra hoa thất bại. Khô hạn hay ngập úng cũng là yếu tố quan trọng ảnh
hưởng lên sự ra hoa nhãn, ẩm độ đất cao cây nhãn sẽ sản xuất ra bông lá và mang ít
trái (Ussahatanont, 1996), tuy nhiên vai trò của sự thiếu nước lên năng suất cần
được đánh giá. Trong giai đoạn nhãn đang ra hoa, nếu mưa nhiều làm cho hoa bị
rụng và đậu trái ít (Menzel et al., 1990).
Mặc dù là cây trồng cạn, nhưng trong quá trình sinh trưởng và phát triển cây
nhãn rất cần nước, nhất là vào những giai đoạn cây ra cành, lá. Đặc biệt, các giai
4
đoạn cây ra hoa, kết trái tương đối kéo dài nên cần chú ý đảm bảo độ ẩm của đất
luôn luôn đầy đủ (Nguyễn Danh Vàn, 2008).
Theo Bùi Thị Mỹ Hồng (2005) lượng mưa thích hợp cho cây nhãn vào khoảng
1.300-1.600 mm/năm và phân bố đều trong năm. Ở các tỉnh phía Nam vào các
tháng mùa khô rất cần phải tưới nước bổ sung cho nhãn. Ở các tỉnh phía Bắc mùa
khô vẫn có mưa phùn, độ ẩm không khí cao, có thể không cần tưới nước bổ sung,
nhưng nếu gặp giai đoạn ra hoa kết trái (tháng 2, 3) và giai đoạn phát triển trái sau
đó cây cần nhiều nước, nếu không có mưa hoặc lượng mưa phùn không đảm bảo
nhu cầu thì phải tưới nước bổ sung cho cây.
Mối liên hệ giữa ẩm độ đất, hoạt động sinh trưởng chồi và thời tiết rất rõ rệt,
với việc nhấn mạnh tầm quan trọng của việc điều khiển ra đọt ngay sau khi thu
hoạch và giảm ẩm độ đất trước khi ra hoa để cây nhãn ra hoa đồng loạt. Theo Vũ
Công Hậu (2000) ở Việt Nam như Hưng Yên, Tiền Giang nhãn được trồng trên đất
phù sa, tầng canh tác dày, tuy có cát nhưng thành phần li mông phong phú, có nhiều
chất dinh dưỡng, độ ẩm đất được bảo đảm quanh năm. Giống nhãn giồng Vĩnh
Châu, Vũng Tàu nổi tiếng do được trồng trên đất cát giồng, đã thoát nước lại luôn
đủ ẩm.
1.2.5 Dinh dưỡng khoáng
Cây nhãn ra hoa trên chồi tận cùng, cho nên sự tạo chồi mới có ý nghĩa quyết
định đến sự ra hoa. Đọt mập, đủ độ dài thường dễ ra hoa hơn đọt ốm yếu hoặc bị
sâu bệnh tấn công. Do đó, vấn đề bón phân cân đối đạm, lân và kali cho cây ra đọt
tốt sau khi thu hoạch là một trong các biện pháp kỹ thuật quan trọng quyết định đến
quá trình ra hoa của cây.
Theo Vũ Công Hậu (2000) ngoài phân bón vào gốc trước khi trồng, giống như
nhiều loại cây ăn quả khác thì cây nhãn cũng cần một lượng phân bón rất lớn để đáp
ứng 3-5 đợt ra đọt và một lần ra hoa nuôi trái. Nguyên tắc bón phân là cây nhỏ bón
ít, cây lớn bón nhiều, cây có sản lượng trái càng cao thì bón càng nhiều.
Cây nhãn nói riêng và tất cả các loại cây trồng nói chung, muốn phát triển tốt,
tăng trưởng nhanh, để chóng ra hoa, đậu trái và cho phẩm chất tốt, năng suất cao,
đều cần phải được cung cấp thêm các chất dinh dưỡng như: N, P, K… Với liều
lượng và thành phần khác nhau tùy thuộc vào loại đất, loại cây, tuổi và từng giai
đoạn sinh trưởng của cây.
5
1.3 Dưỡng chất đạm, lân, kali cho nhãn
Dưỡng chất đạm, lân, kali còn được xác định là các nhân tố chính ảnh hưởng
đến sự ra hoa, đậu trái nhãn bên cạnh các tác nhân quan trọng là mùa vụ, nhiệt độ
và lượng mưa (Chen et al., 1985). Nếu thiếu dinh dưỡng, đặc biệt là đạm và kali
trong giai đoạn sinh sản có thể dẫn đến sự rụng trái non, kích thước trái nhỏ hoặc
trái có tỷ lệ cơm thấp, nhất là kali, vì kali là chất của chất lượng (Nguyễn Bảo Vệ,
1999). Tuy nhiên nếu bón phân đạm quá nhiều cây ra nhiều đọt non, đọt non quá
mập thì cây thường cho bông mang nhiều lá hoặc không ra bông mà chỉ ra nhiều
chồi lá (Varapitirangsee et al., 1994).
Theo Nguyễn Bảo Vệ (2004) bón lân cho cây nhãn có tác dụng giúp tán lá
phát triển tốt, quang hợp mạnh, cải thiện màu sắc lá và tăng số lượng cành mang
trái. Đặc biệt, bón lân đủ lượng, cân đối với đạm và kali trong giai đoạn sinh sản
giúp tăng tỷ lệ đậu trái, nâng cao năng suất và cải thiện phẩm chất trái.
Theo Lê Văn Hòa (1999) qua kết quả nghiên cứu phân bón cho nhãn ở Trung
Quốc thì để tạo được 1 tấn nhãn tươi, cây nhãn lấy đi từ đất một lượng dưỡng chất
là: 4,01-4,80 kg N, 1,46-1,58 kg P2O5 và 7,54-8,96 kg K2O. Nếu tính ra thì tỷ lệ
N:P:K bị lấy đi là 3:1:5. Điều này cho thấy rõ ràng cây nhãn đã tiêu thụ nhiều đạm
và nhất là kali trong quá trình ra hoa, tạo trái.
Nghiên cứu ở Thái Lan về vấn đề này đã được báo cáo rằng lượng dưỡng chất
do 1 tấn nhãn lấy đi từ đất là: 4,99 kg N, 2,30 kg P2O5 và 5,30 kg K2O
(Noppakoonwong, 1996). Tương đương với tỷ lệ N:P:K bị lấy đi là 2:1:2. Kết quả
này một lần nữa chứng minh vai trò quan trọng của đạm và kali trong quá trình tạo
trái của nhãn. Nghiên cứu của Wanichanukul (1990) cho biết rằng việc phun
KH2PO4 làm tăng năng suất nhãn và vải vì hai loại cây này đòi hỏi kali rất cao
trong thời kỳ sinh sản (Supakamnerd et al., 1988).
Qua các kết quả nghiên cứu ở Trung Quốc và Thái Lan, nếu tính bình quân
năng suất nhãn là 10 tấn/ha thì lượng dinh dưỡng cần bón để bù lại cho đất là 40-50
kg N, 15-20 kg P2O5 và 50-90 kg K2O (tương đương tỷ lệ 2,6:1,0:4,0). Điều này
cho thấy tầm quan trọng hàng đầu của dưỡng chất đạm và nhất là kali trong việc
tăng năng suất và phẩm chất trái nhãn.
1.3.1 Vai trò của đạm
Đạm đóng vai trò rất quan trọng trong cây, nó hiện diện trong hầu hết các
thành phần cấu tạo của cây. Đạm có trong thành phần của diệp lục tố, không có
đạm sẽ không có diệp lục tố và quá trình quang hợp sẽ không xảy ra. Đạm có mặt
trong thành phần của protein, các loại men sinh trưởng,… Thiếu đạm cây mọc cằn
cõi, không hình thành được protit và diệp lục tố làm cho lá có màu xanh nhạt,
6
chóng vàng. Cây không đủ đạm thường ra hoa sớm nhưng hoa thưa, ít trái và kém
phẩm chất. Cây thiếu đạm trong thời gian đầu thì sau đó bón thúc đạm có thể vươn
lên được nhưng phần lớn là không lợi sức và có ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng
suất. Trái lại, bón thừa đạm thì phần cây trên mặt đất phát triển um tùm, nhưng bộ
rễ lại phát triển yếu, mất cân đối. Đối với cây ngũ cốc, bón nhiều đạm thì cây ra lá
nhiều, thời gian sinh trưởng kéo dài, trổ chậm và chín muộn (Lê Văn Căn, 1978).
1.3.2 Vai trò của lân
Lân là nguyên tố rất cần thiết của vật chất sống. Taiz và Zeiger (2000) cho
rằng, lân có vai trò rất quan trọng do tham gia vào các thành phần sản phẩm trung
gian của quá trình quang hợp và hô hấp, tham gia vào cấu trúc màng phospholipid
của màng tế bào, là thành phần của các nucleotides được sử dụng trong quá trình
trao đổi năng lượng. Lân kích thích sự tổng hợp acid nhân, thành lập ATP,
nucleotides, nucleic acids và phospholipids… Chức năng chính của lân là dự trữ
năng lượng và vận chuyển vật chất qua màng tế bào. Lân đặc biệt quan trọng đối
với thời kỳ đầu của giai đoạn sinh trưởng, do rất di động trong cây trồng nên lân
kích thích chồi và rễ phát triển, gây trổ hoa sớm, và chín sớm trên cây trồng đối với
những vùng lạnh (Dobermann, 2002). Theo Yogaratnam et al. (1981) chất hóa học
có chứa lân được cây hấp thụ qua lá dễ dàng nhất là H3PO4. Wanichanukul (1990)
cho biết rằng việc phun KH2PO4 làm tăng tỷ lệ ra hoa, đồng thời làm tăng năng suất
trái vải. Ngoài ra, KH2PO4 (nồng độ 1%) còn có tác dụng kích thích tính kháng bệnh
phấn trắng trên ớt do Leveillula taurica (Reuveni et al., 1998). Cam Valencia khi
được cung cấp KH2PO4 trước thu hoạch đã làm tăng số lượng trái lên 24 – 29%,
tăng kích cỡ của trái và tổng chất rắn hòa tan cũng cao hơn so với đối chứng
(Boman, 2001).
1.3.3 Vai trò của kali
Khác với đạm và lân, kali không nằm trong bất cứ thành phần hữu cơ nào
trong cây mà thường tồn tại dưới dạng ion trong dịch bào hoặc tạo phức không ổn
định với hệ keo trong tế bào chất (Nguyễn Bảo Vệ và Nguyễn Huy Tài, 2004). Kali
có vai trò quan trọng trong việc hoạt hóa enzyme, tổng hợp protein, hoạt động của
khí khổng, các quá trình liên quan đến sức trương, vận chuyển sản phẩm chuyển
hóa… Kali là thành phần liên kết quan trọng xác định độ cứng chắc của vách tế bào,
làm tăng hàm lượng đường trong trái sau khi thu hoạch, kích thước hơn 60 enzyme
ảnh hưởng đến sự trao đổi chất, kích hoạt quang hợp, giúp cho sự biến dưỡng của
cây và thúc đẩy quá trình lignin hóa làm cho cây trở nên vững chắc hơn (Dary và
Brown, 1993; Nguyễn Bảo Vệ và Nguyễn Huy Tài, 2004).
Các nghiên cứu ở Đại học Florida cho thấy, khi cung cấp phân NPK cho cây
qua lá ở giai đoạn trước và sau khi trổ hoa sẽ làm tăng năng suất và chất lượng trái
7
sau thu hoạch (Albrigo và Syversten, 2001). Kali không chỉ kích hoạt enzyme khử
nitrate mà còn cần thiết cho sự tổng hợp của enzyme này, do vậy khi bón đủ kali sẽ
giảm thiểu được tác hại của việc bón quá nhiều đạm (Nguyễn Bảo Vệ và Nguyễn
Huy Tài, 2004).
Kali đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành chức năng của protein,
chất béo, carbohydrate, diệp lục tố, duy trì sự cân bằng giữa nước và muối khoáng
trong tế bào cây. Khi thiếu kali, trái sẽ nhỏ, vỏ mỏng và ngược lại khi dư kali, trái
to, vỏ dày và thô. Kali rất cần thiết cho phẩm chất trái, cây đủ kali sẽ cho trái to,
ngọt, đặc biệt là vỏ trái có khả năng chịu đựng tốt trong việc vận chuyển cũng như
trong bảo quản (Đường Hồng Dật, 2003). Sự thiếu hụt kali rất dễ thấy trên quýt với
biểu hiện như: cây chậm phát triển, lá nhỏ và lá bị rụng nhiều, lá cuộn lại và lượng
hoa giảm, trái bị nhỏ, da rất mỏng và trơn láng, trái mau chuyển màu, dễ bị nứt nẻ
và thường xuất hiện những vết nhăn. Tuy nhiên, khi thừa kali thì trái sẽ to, chua và
không có hương vị nguyên chất, vỏ trái sẽ dày, nhám. Lượng kali cần thiết cung cấp
cho cây khoảng 1-2 kg/cây/năm ở dạng chảy nhỏ giọt hoặc cung cấp dạng NPK với
liều lượng khoảng 100-350 g/cây (Ronald Weir, 2002). Không sử dụng nhiều kali
khi đất có độ mặn vì kali có khả năng bị giữ lại trong đất, lượng phân kali phù hợp
sẽ làm tăng kích cỡ và tăng lượng acid của trái (Calvert và Smith, 1972; Boman,
1997).
Khi sử dụng phân monopotassium phosphate (nồng độ 1%) và zinc nitrate
(nồng độ 150 ml/100 lít) trên xoài trong giai đoạn ra hoa sẽ làm tăng chất lượng trái,
màu sắc trái đẹp và cải thiện phẩm chất trái sau thu hoạch (Oosthuyse, 2000).
Nguyễn Văn Bình (2005) cho thấy ảnh hưởng của kali lên phẩm chất dưa lê thông
qua việc gia tăng độ Brix của trái so với đối chứng. Khi phun potassium nitrate và
monopotassium phosphate trên lá của cam quýt sau khi trái đã hình thành làm tăng
kích cỡ của trái (Gutiérrez, 2002). Trên trái vải, Văn Cương (2006) nhận thấy sử
dụng phân KH2PO4 ở nồng độ 0,2% kết hợp với một số dưỡng chất khác có tác
dụng chống rụng trái và làm cho trái lớn.
Nhiều nghiên cứu cũng cho thấy việc cung cấp kali cho cây đã làm gia tăng
phẩm chất dưa lê, dưa hấu và xoài sau thu hoạch (Võ Thị Bích Thủy, 2005; Trần
Thị Kim Ba, 2007). Đối với mía thì kali có vai trò quan trọng trong việc làm gia
tăng trữ đường và độ ngọt (Lâm Quang Thảo, 2003). Trên xoài cát Hòa Lộc, khi xử
lý qua lá tiền thu hoạch có hiệu quả trong việc gia tăng phẩm chất trái sau thu hoạch
như gia tăng độ cứng trái, hàm lượng đường tổng số, hàm lượng tinh bột của trái so
với đối chứng (Trần Thị Kim Ba, 1998; Trần Thị Kim Ba et al., 2005). Xử lý kali
đã làm cho xoài Châu Nghệ gia tăng hàm lượng vitamin C trong thịt trái khoảng
28% so với đối chứng (Lê Xuân Biên, 2007), trái Muskmelon được cải thiện chất
lượng, đồng thời gia tăng hàm lượng ascorbic acid và beta-carotene (Lester et al.,
2005).
8
1.4 Đặc điểm của nhãn Edor
Nhãn Edor là giống nhãn Thái Lan được các trung tâm giống nhập về và bán
cho người trồng nhãn, sau đó các chủ vườn nhãn Edor ở đây muốn nhân giống
trồng nhằm phát triển diện tích nhãn Edor nhưng việc nhân giống này phải đảm bảo
được những đặc tính tốt của cây mẹ nên các chủ vườn chọn phương pháp nhân
giống bằng cách chiết cành.
Khác với nhãn Long, nhãn Edor huyện Châu Thành ra hoa 1 vụ trong năm.
Thời điểm ra hoa của nhãn Edor này thường vào tháng 11-12 và thu hoạch vào
tháng 7-8. Lá kép có 5-7 lá chét, phiến lá thon nhỏ hơn nhãn Long, bề mặt láng màu
xanh sậm. Góc cành so với thân chính là một góc nghiêng khoảng 46-850. Phát hoa
dài số trái trên chùm cao, trọng lượng trái nhỏ khi chín vỏ trái có màu vàng da bò
nên người dân địa phương còn gọi là nhãn da bò Vĩnh Châu. Độ Brix thấp (20%),
cơm dai, giòn tỷ lệ ăn được chiếm 60%, lượng nước trong trái thấp, hột trung bình,
với các đặc điểm nông học này thì nhãn rất được ưa chuộng trong việc sấy khô xuất
khẩu. Biện pháp sấy khô nhãn đã đem lại hiệu quả cao trong việc tồn trữ và bảo
quản nhãn trong thời gian dài (Dương Minh et al., 2001).
1.5 Bón phân cho nhãn trong nước và thế giới
1.5.1 Bón phân cho nhãn trên thế giới
Ở Thái Lan, nhãn được trồng nhiều ở miền Bắc, phần lớn trên vùng đất thấp
trồng lúa trước đó. Nông dân có tập quán chỉ bón phân NPK cho nhãn. Tại đây,
Onprasert et al. (2002) khuyến cáo nên bón phân hữu cơ cho nhãn lúc mới đặt cây
con. Lúc cây còn tơ, bón NPK (15-6,5-12,5) với liều lượng 100-500 g/cây/năm tùy
theo tuổi cây. Khi cây trưởng thành, liều lượng bón phân cho nhãn tùy thuộc vào
tuổi cây, sức sinh trưởng, năng suất và độ màu mỡ của đất. Thông thường bón làm 5
lần, mỗi lần từ 1-2 kg NPK theo công thức trong Bảng 1.1. Bổ sung phân hữu cơ
hoai mục khi vừa nhú phát hoa. Cách bón phân trên cho thấy thời điểm và tỷ lệ
N:P:K bón cho nhãn lúc mang trái tùy thuộc vào giai đoạn phát triển của trái, giai
đoạn đầu bón nhiều đạm hơn và kali tăng dần vào giai đoạn sau.
9
Bảng 1.1 Công thức phân NPK ở mỗi lần bón cho nhãn ở Thái Lan (Onprasert et
al.,2002)
Lần bón
Thời điểm
Công thức phân NPK
Ghi chú
1
Ngay sau khi thu hoạch trái
17,5-5,7-10,8
Nhiều N
2
Trước khi ra hoa
10-10,5-20
Nhiều K
3
Lúc đậu trái
25-3-5.8
Nhiều N
4
Lúc trái bằng hạt đậu
15,5-6,8-12,8
Nhiều N
5
Một tháng trước thu hoạch
17,5-7,4-18
Nhiều K
Ở Trung Quốc, nhãn là một cây ăn trái Á nhiệt đới quan trọng ở miền Nam.
Theo Liu and Ma (2000) nhãn cho trái cần được bón 5-6 lần trong năm. Phân NPK
bón theo tỷ lệ 1:0,5:1 hoặc 1:1:4 được báo cáo là làm tăng năng suất rất có ý nghĩa.
Ở tỉnh Fujian, cây nhãn 30-50 năm tuổi được bón 440 kg N, 145 kg P và 306 kg
K/ha/năm, nhưng lượng dưỡng chất này chủ yếu bằng chất hữu cơ (Wong, 2000).
Theo Choo (2000) trong thời kỳ cây tơ nhãn cần được bón phân chuồng 10
kg/cây, bón 3-4 lần/năm, kết hợp với phân hóa học NPK (15-15-15). Cây cho trái
được bón như trong Bảng 1.2. Phân được bón theo hình chiếu của tán trong những
rãnh nhỏ 20-30 cm, lấp đất và tưới nước sau khi bón.
Bảng 1.2 Công thức phân NPK ở mỗi lần bón cho nhãn ở Trung Quốc (Choo,
2000)
Lần bón
Thời điểm
Công thức phân
NPK
Liều lượng
(kg/cây)
1
Hai tuần sau khi thu hoạch trái
20-10-10
1
2
Phát hoa dài 5 cm
15-15-15
1
3
Lúc 2 tuần sau khi đậu trái
15-15-15
1
4
Hạt trong trái có màu
14-14-21
2-3
Ở Florida, Diczbalis (2002) khuyến cáo bón phân NPK (6-6-6) cho cây nhãn
năm đầu tiên là 113 g/cây/lần có kết hợp với phân vi lượng, cứ mỗi 4-6 tuần bón
một lần. Đạm bón cho cây phải có từ 20-30% có nguồn gốc từ phân chuồng. Tăng
dần lượng phân lên 226 g, 452 g, 687 g,… theo tuổi cây. Duy trì bón từ 4-6 lần/năm
10
cho đến khi cây được 3 năm tuổi. Hỗn hợp phân bón lá (Mn, Zn, B, và Mo) kết hợp
với Mg được phun từ 4-6 lần từ trước khi đậu trái đến thu hoạch. Đối với cây
trưởng thành (trên 4 năm tuổi) bón từ 0,687 kg đến 2,26 kg/cây và bón 2-3 lần/năm
theo khuyến cáo ở Bảng 1.3. Phân được bón trước hoặc lúc trổ hoa và thời điểm
trước hoặc lúc thu hoạch theo tỉ lệ 6-6-6 và 8-3-9 (Crane et al., 2000).
Bảng 1.3 Bón phân cho nhãn ở Florida, Hoa Kỳ (Diczbalis, 2002)
1/
2/
Tuổi cây
(năm)
Phân NPK
(lần/năm)
Lượng NPK mỗi
lần bón (kg/cây)1/
Tổng lượng NPK cả
năm (kg/cây)
Phân bón lá
(lần/năm)2/
1
4-6
0,113-0,226
0,687-1,356
6
2
4-6
0,226-0,452
1,356-2,712
6
3
4-6
0,452-0,687
2,712-4,068
6
4
2-3
0,687-1,130
4,068-4,520
6
5
2-3
1,130-1,582
4,520-6,328
4-6
6
2-3
1,582-1,808
6,328-7,232
4-6
7
2-3
1,808-2,034
7,232-8,136
4-6
8
2-3
2,034-2,260
8,136-9,040
4-6
phân N, P2O5, K2O theo tỉ lệ 6-6-6 và 8-3-9
Phân bón lá (Mg, Mn, Zn, B, và Mo)
Như vậy, những nghiên cứu về việc cung cấp dinh dưỡng cho nhãn trên thế
giới đã tập trung vào việc xác định tỷ lệ N:P:K, liều lượng và thời điểm bón phân
kết hợp phun qua lá để bổ sung các chất dinh dưỡng vi lượng và cải thiện đất trồng
nhãn bằng cách bón phân hữu cơ.
Ở Úc, người ta bón phân cho nhãn trưởng thành chia làm 4 lần/năm, lần 1 vào
2 tuần sau khi thu hoạch vụ trước, lần 2 vào trước giai đoạn ra hoa, lần 3 khoảng 1
tháng trước khi đậu trái và lần cuối vào lúc 1 tháng sau khi đậu trái. Với cây nhãn 5
năm tuổi bón với liều lượng 625 g N, 150 g P và 800 g K và sau đó mỗi năm gia
tăng lượng phân từ 20-30%.
1.5.2 Các nghiên cứu trong nước
Đến nay, ở nước ta chưa có chương trình nghiên cứu dinh dưỡng cho nhãn
với qui mô lớn và sâu. Tuy nhiên, cũng có những thí nghiệm riêng lẻ, những kinh
nghiệm được đúc kết trong quá trình sản xuất, và những khuyến cáo của các ngành
chức năng để đưa ra cách bón phân hợp lý cho nhãn.
11
Theo Trần Thế Tục (2001) nông dân trồng nhãn chỉ chú trọng nhiều đến phân
đạm, chưa quan tâm đến các loại phân khác, liều lượng cũng thấp nên đã ảnh
hưởng đến năng suất và chất lượng của trái. Để tạo ra 1 tấn trái, nhãn đã lấy đi của
đất 4,0-4,8 kg N, 1,45-1,60 kg P2O5 và 7,5-9,0 kg K2O. Chính vì vậy mà lượng
phân bón cho vườn nhãn cao sản phải là 2,7 kg urê (1.242 g N), 3,5 kg super lân
(700 g P2O5) và 3 kg KCl (1800 g K2O)/cây/năm và chia làm 5 lần bón: sau khi thu
hoạch, lúc cây phân hoá mầm hoa, sau khi trổ, thúc trái, lúc trái phát triển nhanh.
Trong 5 lần bón phân này thì lần bón lúc phân hóa mầm hoa và lần bón sau thu
hoạch quan trọng nhất.
Theo thí nghiệm của Trần Minh Trí et al. (2001) bón phân cho nhãn Tiêu Da
Bò 4 năm tuổi với liều lượng 350 g N, 180 g P2O5, 270 g K2O, và 10 kg phân
heo/cây/năm và bón 4 lần theo liều lượng như trong Bảng 1.4 đã làm tăng năng
suất và độ Brix thịt trái, màu sắc vỏ trái cũng sáng đẹp hơn so với không bón thêm
phân hữu cơ.
Bảng 1.4 Liều lượng phân NPK ở 4 lần bón cho nhãn Tiêu Da Bò tại Long Định,
Châu Thành, Tiền Giang (Trần Minh Trí et al., 2001)
Lần bón
Thời điểm
Thứ 1
Sau khi thu hoạch trái
Thứ 2
Trước khi ra hoa
Thứ 3
Đường kính trái 0,5 mm
Thứ 4
Trước thu hoạch 1 tháng
N (g)
P2O5 (g)
K2O (g)
233,5
120
67,5
60
67,5
116,5
67,5
67,5
Thay vì bón phân heo, Bùi Thị Mỹ Hồng và Trần Minh Trí (2003) đã thí
nghiệm bón phân hữu cơ vi sinh ngoài thị trường. Kết quả cho thấy bón 400 g N,
200 g P2O5, 400 g K2O, và 5 kg phân hữu cơ Ba Lá Xanh (có 25% than
bùn)/cây/năm (Bảng 1.5) cho nhãn 4 năm tuổi trồng ở xã Mỹ Phong, thành phố Mỹ
Tho, Tiền Giang cũng cho năng suất và phẩm chất trái cao hơn so với không bón
hữu cơ. Qua 2 thí nghiệm trên cho thấy muốn tăng năng suất và phẩm chất của
nhãn phải bón thêm phân hữu cơ.
12