TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
LÊ THỊ BĂNG TUYỀN
ẢNH HƯỞNG CỦA ETHEPHON VÀ KALI ĐẾN SỰ
CHUYỂN MÀU SẮC VỎ TRÁI HẠNH KIỂNG
(Citrus microcarpa (Hassk.) Bunge)
Luận văn tốt nghiệp
Ngành: TRỒNG TRỌT
Cần Thơ, 2010
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
Luận văn tốt nghiệp
Ngành: TRỒNG TRỌT
Tên đề tài:
ẢNH HƯỞNG CỦA ETHEPHON VÀ KALI ĐẾN SỰ
CHUYỂN MÀU SẮC VỎ TRÁI HẠNH KIỂNG
(Citrus microcarpa (Hassk.) Bunge)
Giáo viên hướng dẫn:
TS. Lê Văn Bé
Sinh viên thực hiện:
Lê Thị Băng Tuyền
MSSV: 3060576
Lớp: TRỒNG TRỌT K32
Cần Thơ, 2010
Luận văn tốt nghiệp Kỹ sư ngành Trồng trọt với đề tài:
ẢNH HƯỞNG CỦA ETHEPHON VÀ KALI ĐẾN
SỰ CHUYỂN MÀU SẮC VỎ TRÁI HẠNH
(Cistrus microcarpa (Hassk.) Bunge)
Do sinh viên Lê Thị Băng Tuyền thực hiện
Kính trình lên Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp
Cần Thơ, ngày …. tháng …. năm 2010
Cán bộ hướng dẫn
TS. Lê Văn Bé
ii
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN KHOA HỌC CÂY TRỒNG
Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp đã chấp nhận luận văn tốt nghiệp Kỹ sư
ngành Trồng trọt với đề tài:
ẢNH HƯỞNG CỦA ETHEPHON VÀ KALI ĐẾN
SỰ CHUYỂN MÀU SẮC VỎ TRÁI HẠNH
(Cistrus microcarpa (Hassk.) Bunge)
Do sinh viên Lê Thị Băng Tuyền thực hiện và bảo vệ trước Hội đồng
Ý kiến của Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp .........................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
Luận văn tốt nghiệp được Hội đồng đánh giá ở mức .................................................
Cần Thơ, ngày …. tháng …. năm 2010
Chủ tịch Hội đồng
DUYỆT KHOA
Trưởng Khoa Nông nghiệp & SHƯD
iii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân, các số liệu, kết
quả trình bày trong luận văn này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ công trình luận văn nào trước đây.
Tác giả luận văn
Lê Thị Băng Tuyền
iv
TIỂU SỬ CÁ NHÂN
Họ và tên: Lê Thị Băng Tuyền
Ngày sinh: 25 – 04 – 1987
Nơi sinh: Mang Thít, Vĩnh Long
Họ và tên cha: Lê Văn Mười
Họ và tên mẹ: Nguyễn Ngọc Thêu
Địa chỉ liên lạc: ấp Ngã Ngay, xã Tân Long, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh
Long.
Quá trình học tập:
1993–1998: Trường Tiểu học Tân Long B, xã Tân Long, huyện Mang
Thít, tỉnh Vĩnh Long.
1998–2002: Trường Trung học cơ sở Tân Long Hội, xã Tân Long Hội,
huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long.
2002–2005: Trường Phổ thông Trung học Phạm Hùng, thị trấn Long Hồ,
huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.
2006–2010: Trường Đại học Cần Thơ, ngành Trồng trọt, khóa 32, Khoa
Nông nghiệp và Sinh học Ứng dụng.
Cần Thơ, ngày … tháng … năm 2010
Người khai
Lê Thị Băng Tuyền
v
LỜI CẢM TẠ
Xin kính dâng lên cô, cha mẹ và gia đình tôi!
Xin chân thành biết ơn!
Thầy Lê Văn Bé đã tận tình hướng dẫn và đóng góp những ý kiến quý báu để
tôi hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp này.
Cô Lê Thị Điểu, thầy Bùi Văn Tùng và anh Nguyễn Văn Kha đã chỉ dẫn và
truyền đạt những kinh nghiệm quý báu giúp tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Cô cố vấn học tập Lê Thị Xua, đã quan tâm dìu dắt, động viên và giúp đỡ tôi
trong suốt khóa học.
Quý Thầy, Cô Trường Đại học Cần Thơ, Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng
dụng đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu cho tôi trong suốt khóa học.
Chân thành cảm ơn!
Tập thể lớp Trồng trọt K32 đã tận tình giúp đỡ trong suốt thời gian làm thí
nghiệm và hoàn thành luận văn này.
Thân gửi các bạn lớp Trồng trọt K32 những lời chúc tốt đẹp và thành công
trong tương lai!
LÊ THỊ BĂNG TUYỀN
vi
Lê Thị Băng Tuyền, 2010. Ảnh hưởng của ethephon và kali lên sự chuyển màu vỏ
trái hạnh (Cistrus microcarpa). Luận văn tốt nghiệp Kỹ sư ngành Trồng trọt, Khoa
Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng, Trường Đại học Cần Thơ. Cán bộ hướng dẫn:
Ts. Lê Văn Bé
TÓM LƯỢC
Màu sắc vỏ trái là một chỉ tiêu rất quan trọng trong việc đánh giá giá trị của
cây hạnh làm kiểng. Nhưng trong thực tế hiện nay việc xử lý cho vỏ trái hạnh
chuyển màu ngay vào dịp tết chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của nông dân. Do đó
thực hiện đề tài nghiên cứu “ảnh hưởng của hưởng của ethephon và Kali lên sự
chuyển màu vỏ trái hạnh (Cistrus microcarpa)”. Gồm ba thí nghiệm được bố trí
theo thể thức hoàn toàn ngẫu nhiên ở 3 điều kiện phòng thí nghiệm, ngoài đồng, và
trồng trong chậu, được xử lý khi trái hạnh đạt kích thước tối đa (đã chín sinh lý,
đồng đều về màu sắc).
Thí nghiệm 1 được bố trí theo thể thức hoàn toàn ngẫu nhiên bằng cách
nhúng những trái hạnh với dãy nồng độ của ethephon (0, 50, 100, 150, 200 ppm).
Sau 4 ngày tồn trữ, các nghiệm thức có xử lý ethephon đều có hiệu quả trong việc
cải thiện màu sắc vỏ trái sang màu đỏ vàng (giá trị a) với các thông số trung bình
(dao động từ 1,6–8,9) khác biệt so với đối chứng (-8,14) từ máy đo màu Minolta CR
- 200. Tuy nhiên, 2 nghiệm thức 150 ppm và 200 ppm giảm độ bóng của vỏ trái và
gây rụng cuống với tỷ lệ 100%. Ngược lại, nghiệm thức 50 ppm và 100 ppm thì ảnh
hưởng rất ít đến hình thái bên ngoài của vỏ trái. Trái sau khi được xử lý 4 ngày vẫn
giữ được màu vàng sáng đẹp và tỷ lệ rụng cuống thấp (40%).
Vào 1 tháng sau khi phun, sự chuyển màu của vỏ trái hạnh trồng tại vườn của
nông dân và trong chậu tại khu vực nhà lưới khoa Nông Nghiệp và Sinh Học Ứng
Dụng thể hiện qua máy đo màu Minolta CR–200 của các nghiệm thức ethephon đều
có hiệu quả cao hơn các nghiệm thức của kali và đối chứng. Tại vườn của nông dân,
các nghiệm thức ethephon 75 và 100 ppm có thông số biến đổi màu xanh (giá trị a)
cao nhất trong khoảng 7,12–9,34. Sự biến đổi của các nghiệm thức KNO3 và Khumate (dao động từ -3,71 đến 5,37) chậm hơn so với các nghiệm thức ethephon,
nhưng vẫn khác biệt so với đối chứng (-6,47). Ở điều kiện trồng trong chậu, độ khác
màu (E) của các nghiệm thức ethephon 75 và 100 ppm cao nhất (dao động 64,12
đến 64,14), kế đó là nghiệm thức ethephon 50 ppm và kali tuần tự là 60,16 và 61,75.
Tuy nhiên, ethephon 100 ppm có tỷ lệ rụng lá nhiều (40-50%) và lá bị vàng đã làm
ảnh hưởng đến hình thái cây hạnh làm kiểng và giảm độ cứng của vỏ trái. Trong khi
đó, nghiệm thức ethephon 75 ppm ít bị ảnh hưởng hơn. Sau khi phun 1 tháng, cây
hạnh vẫn giữ được bộ lá xanh tốt, vỏ trái chín vàng tươi và bóng đẹp.
vii
MỤC LỤC
Đề mục
TIỂU SỬ CÁ NHÂN
LỜI CẢM TẠ
TÓM LƯỢC
MỤC LỤC
DANH SÁCH BẢNG
DANH SÁCH HÌNH
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1 LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÀ PHÂN LOẠI CÂY CÓ MÚI
1.2 ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI VÀ TÌNH HÌNH TIÊU THỤ
1.2.1 Đặc điểm hình thái
1.2.2 Tình hình tiêu thụ và giá trị kinh tế
1.3 KỸ THUẬT TRỒNG VÀ XỬ LÝ RA HOA TRÊN CÂY HẠNH KIỂNG
1.3.1 Kỹ thuật trồng
1.3.2 Kỹ thuật xử lý ra hoa
1.4 MỘT SỐ BIẾN ĐỔI SINH HOÁ TRONG QUÁ TRÌNH CHÍN CỦA TRÁI
1.5 CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUÁ TRÌNH CHÍN TRONG QUÁ
TRÌNH BẢO QUẢN
1.5.1 Nhiệt độ
1.5.2 Độ ẩm tương đối của không khí
1.6 ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC PHÂN BÓN ĐẾN SINH TRƯỞNG CỦA CÂY
TRỒNG
1.6.1 Vai trò của nitrogene (N) đối với cây trồng
1.6.2 Kali (K)
1.7 VAI TRÒ CỦA CHẤT ĐIỀU HÒA SINH TRƯỞNG THỰC VÂT
CHƯƠNG 2 PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1 PHƯƠNG TIỆN
2.1.1 Vật liệu
2.1.2 Dụng cụ
2.1.3 Hoá chất
2.2 PHƯƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM
2.2.1 Thí nghiệm 1: Ảnh hưởng của Ethephon lên sự chuyển đổi màu sắc của vỏ
trái hạnh trong phòng thí nghiệm
2.2.2 Thí nghiệm 2: Ảnh hưởng của kali và ethephon đến sự thay đổi của màu
sắc vỏ trái hạnh trồng ngoài đồng
2.2.3 Thí nghiệm 3: Ảnh hưởng của kali và ethephon đến sự thay đổi của màu
sắc vỏ trái hạnh trồng trong chậu
viii
Trang
v
vi
vii
viii
xi
xii
1
2
2
3
3
3
4
4
5
6
8
8
8
9
9
9
10
13
13
13
13
13
14
14
14
15
2.2.4. Ghi nhận tình hình sản xuất hạnh ngoài thực tế
2.3 PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ CÁC CHỈ TIÊU
2.3.1 Sự thay đổi màu sắc vỏ trái
2.3.2 Tỷ lệ % trọng lượng nước
2.3.3 Độ Brix
2.3.4 Độ cứng trái
2.3.5 Tỷ lệ % số trái trên cây rụng
2.4 PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ SỐ LIỆU
Chương 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 THÍ NGHIỆM 1. KHẢO SÁT ẢNH HƯỞNG CỦA ETHEPHON ĐẾN SỰ
CHUYỂN ĐỔI MÀU SẮC CỦA VỎ TRÁI HẠNH TRONG PHÒNG THÍ
NGHIỆM
3.1.1 Ảnh hưởng của ethephon đến sự thay đổi màu sắc của vỏ trái hạnh
3.1.2 Ảnh hưởng của ethephon lên độ cứng của vỏ trái hạnh 4 ngày sau khi xử lý
3.1.3 Ảnh hưởng của ethephon lên tỷ lệ rụng cuống của trái hạnh sau khi xử lý 4
ngày
3.2 THÍ NGHIỆM 2. ẢNH HƯỞNG CỦA KALI VA ETHEPHON ĐẾN SỰ
THAY ĐỔI CỦA MÀU SẮC VỎ TRÁI HẠNH TRỒNG NGOÀI ĐỒNG
3.2.1 Ảnh hưởng của kali và ethephon đến sự thay đổi của màu sắc vỏ trái hạnh
3.2.2 Ảnh hưởng của kali và ethephon đến tỷ lệ phần trăm lá rụng trên cây 1
tháng sau khi phun
3.2.3 Ảnh hưởng của kali và ethephon đến tỷ lệ phần trăm trái rụng trên cây 1
tháng sau khi phun
3.2.4 Ảnh hưởng của ethephon và kali đến độ brix dịch trái và độ cứng vỏ trái, 1
tháng sau khi phun
3.2.5 Ảnh hưởng của ethephon và kali lên tỷ lệ phần trăm trọng lượng nước của
dịch trái
3.3 THÍ NGHIỆM 3. ẢNH HƯỞNG CỦA EHTEPHON VÀ KALI LÊN SỰ
THAY ĐỔI MÀU SẮC VỎ TRÁI HẠNH TRỒNG TRONG CHẬU
3.3.1 Ảnh hưởng của ethephon và kali lên sự biến đổi màu sắc vỏ trái hạnh vào
thời điểm 1 tháng sau khi phun
3.3.2 Ảnh hưởng của kali và ethephon đến tỷ lệ phần trăm lá rụng trên cây 1
tháng sau khi phun
3.3.3 Ảnh hưởng của ethephon và kali ở nồng độ khác nhau lên tỷ lệ phần trăm
trái rụng trên cây 1 tháng sau khi phun
3.3.4 Ảnh hưởng của ethephon và kali lên độ cứng vỏ trái hạnh 1 tháng sau khi
phun
3.3.5 Ảnh hưởng của ethephon và kali lên phần trăm trọng lượng nước của dịch
trái hạnh
3.4 ĐIỀU TRA GHI NHẬN TÌNH HÌNH SẢN XUẤT CỦA NÔNG DÂN
Chương 4 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
ix
16
16
16
16
16
17
17
17
18
18
18
20
21
23
23
25
26
27
28
30
30
32
32
33
34
36
38
4.1 KẾT LUẬN
4.2 ĐỀ NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ CHƯƠNG
38
38
39
x
DANH SÁCH BẢNG
Tên bảng
Ảnh hưởng của ethephon đến các thông số màu sắc của vỏ trái hạnh
sau 4 ngày xử lý
Bảng 3.2 Ảnh hưởng của ethephon lên sự thay đổi độ cứng của vỏ trái hạnh sau
khi xử lý 4 ngày
Bảng 3.3 Ảnh hưởng của ethephon và kali đến sự chuyển màu vỏ trái hạnh, 1
tháng sau xử lý
Bảng 3.4 Ảnh hưởng của ethephon và kali đến tỷ lệ phần trăm số trái rụng trên
cây 1 tháng sau khi phun
Bảng 3.5 Ảnh hưởng của ethephon và kali lên độ brix và độ cứng kgN/cm2 vỏ
trái hạnh vào thời điểm 1 tháng sau khi phun
Bảng 3.6 Ảnh hưởng của ethephon và kali lên tỷ lệ phần trăm trọng lượng nước
của dịch trái vào thời điểm 1 tháng sau khi phun
Bảng 3.7 Ảnh hưởng của ethephon và kali đến sự chuyển màu vỏ trái hạnh, 1
tháng sau xử lý
Bảng 3.8 Ảnh hưởng của ethephon và kali lên tỷ lệ rụng trái trên cây 1 tháng
sau khi phun
Bảng 3.9 Ảnh hưởng của ethephon và kali lên độ cứng vỏ trái hạnh vào thời
điểm 1 tháng sau khi phun
Bảng 3.10 Ảnh hưởng của ethephon và kali lên tỷ lệ phần trăm trọng lượng nước
của dịch trái, 1 tháng sau khi phun
Trang
Bảng 3.1
xi
19
21
23
26
27
28
30
33
34
35
DANH SÁCH HÌNH
Hình 3.1
Hình 3.2
Hình 3.3
Hình 3.4
Hình 3.5
Hình 3.6
Hình 3.7
Tên hình
Trang
Màu sắc vỏ trái hạnh vào thời điểm thu hoạch, trước khi xử lý
ethephon.
18
Ảnh hưởng của ethephon lên sự biến đổi màu sắc của vỏ trái hạnh
sau khi xử lý 4 ngày.
20
Sự thay đổi hình thái bên ngoài của vỏ trái hạnh sau khi xử lý 4
ngày ở các nồng độ ethephon (a) 200 ppm và (b) 150 ppm
21
Ảnh hưởng của ethephon và kali lên sự thay đổi màu sắc vỏ trái 1
tháng sau khi phun
Ảnh hưởng của ethephon 100 ppm đến sự chuyển màu của vỏ trái
hạnh, 1 tháng sau khi xử lý, vỏ trái chuyển màu vàng đồng đều
nhưng lá bị rụng.
Ảnh hưởng của ethephon và kali đến sự thay đổi màu sắc của vỏ trái
hạnh, quan sát vào thời điểm 1 tháng sau khi phun
Ảnh hưởng của ethephon lên tỷ lệ rụng lá trên cây 1 tháng sau khi
phun (a) nồng độ 100 ppm và (b) nồng độ 75 ppm
xii
25
25
31
32
MỞ ĐẦU
Trái cam quýt được sử dụng rộng rãi vì có chứa nhiều dưỡng chất cần thiết
cho cơ thể con người, nhất là vitamin C, vị chua nhẹ và hơi đắng giúp dễ tiêu hóa và
tuần hoàn máu (Nguyễn Bảo Vệ và Lê Thanh Phong 2004). Cây hạnh (tắc, quất, tứ
quí) là một giống trong Họ cam quýt được trồng với diện tích nhỏ nhưng trái của nó
có nhiều công dụng như làm thực phẩm, làm thuốc. Ngoài ra nó còn được sử dụng
như một loại hoa kiểng phục vụ cho việc chưng tết, vì cây cho trái nhiều, trái có vỏ
màu vàng sáng nổi bật trên nền lá xanh, nên được nhiều người ưa chuộng. Vào dịp
tết, mỗi cây hạnh trồng trong chậu cao 1,2 m, mang khoảng 100 trái có giá bán
khoảng 1 triệu đồng. Tuy nhiên, giá trị của chậu hạnh không những phụ thuộc vào
số lượng trái mà còn phụ thuộc nhiều vào màu sắc vỏ trái (màu vàng nhiều hay ít).
Màu sắc và độ tươi sáng của trái là 2 yếu tố chính góp phần nâng cao giá trị của
chậu hạnh. Trái còn xanh hay vàng không đều nhau sẽ làm giá trị thẩm mỹ , kinh tế
của chậu hạnh giảm đi rất nhiều.
Vỏ trái có màu xanh là do sự hiện diện của diệp lục tố, khi trái chín ethylene
sẽ thúc đẩy quá trình chuyển hóa diệp lục tố sang carotenoid, nên vỏ màu xanh sẽ
chuyển sang màu vàng (Sherman, 1985; Ritenour and Brecht, 2003). Nguyễn Văn
Phong (2001) cũng cho rằng ethylene có khả năng làm chuyển màu vỏ trái cam sành
từ xanh sang vàng. Tương tự như vậy, thí nghiệm của Lê Văn Hòa và Nguyễn Quốc
Hội (2006) cho thấy việc phun ethephon 100 ppm 2 tuần trước khi thu hoạch làm vỏ
trái quýt hồng chuyển sang màu vàng tươi khi bảo quản.
Ethrel là tên thương mại có chứa hoạt chất ethephon (2choroethylphosphonic acid) khi hòa tan vào nước nó sẽ phóng thích ra ethylene.
Ethylene là chất khí thúc đẩy quá trình chín của trái. Hóa chất này có tác dụng phân
hủy diệp lục tố thành carotenoid. Nếu nồng độ cao sẽ làm rụng lá, gây trổ hoa trên
cây như cây khóm. Phân KNO3 phun lên cây nồng độ cao sẽ kích thích sự tổng hợp
ethylene nội sinh từ đó dẫn tới trái mau chín.
Hiện nay, việc xử lý cho vỏ trái hạnh vàng sắc bóng đẹp đúng vào dịp tết chủ
yếu dựa vào kinh nghiệm của nông dân. Cho đến nay vẫn chưa có bất kỳ công trình
nào nghiên cứu về điều này, nên đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng của ethephon và kali
đến sự chuyển đổi màu vỏ trái hạnh từ xanh sang vàng” là hết sức cần thiết phục vụ
cho khoa học lẫn thực tiễn sản xuất. Nhằm tìm ra kỹ thuật chuyển đổi màu vỏ trái
hạnh bằng ethephon và KNO3 với nồng độ thích hợp để nâng cao giá trị của các
chậu hạnh kiểng, tăng thu nhập cho người nông dân.
Chương1
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1 LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÀ PHÂN LOẠI CÂY CÓ MÚI
Cây cam quýt ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) chiếm 37.937 ha,
không ngừng gia tăng về diện tích canh tác và sản lượng, do có giá trị dinh dưỡng
cao, đáp ứng với nhu cầu tiêu thụ ngày càng cao của thị trường (Nguyễn Bảo Vệ và
Lê Thanh Phong, 2004).
Angles và Tanaka (1997) (Trích dẫn bởi Phan Thị Bé, 2004) cho rằng trung
tâm phát sinh của cây có múi bao gồm các phần phía Đông Ấn Độ kéo dài sang
miền Nam của Trung Quốc, qua Nhật Bản xuống đến châu Úc.
Theo Nguyễn Bảo Vệ và Lê Thanh Phong (2004) cam quýt thuộc họ
Rutaceae, họ phụ Aurantioideae (có khoảng 250 loài), có hai tộc Citreae và
Clauseneae, tộc Citreae có tộc phụ là Citrineae. Tộc phụ Citrineae có khoảng 13
giống, trong đó có 6 giống quan trọng đó là Citrus, Poncirus, Fortunella,
Eremocitrus, Microcitrus và Clymenia. Đặc điểm chung của 6 giống này là trái có
con tép với cuống thon nhỏ và mọng nước. Theo Jacnick (2005) trong 6 giống đó có
Citrus, Poncirus và Fortunella có giá trị kinh tế cao.
Cam Mật (Citrus sinensis) có nguồn gốc từ Trung Quốc khoảng đầu thế kỷ
XV, trước khi nó được đưa đến châu Âu (Williamson và Jackson, 1993). Nhưng
Jacnick (2005) cho rằng cam Mật và cam Chua (Citrus aurantium) được đưa đến
châu Âu vào thế kỷ XI qua con đường Ả Rập, chanh và bưởi Chùm (Citrus
paradisi) vào thế kỷ XII và chanh lá Cam thì có vào thế kỷ XIII. Theo Viện Tài
Nguyên Di Truyền Thực Vật Quốc Tế (IBPGB, 1986; trích dẫn bởi Phan Thị Bé,
2004) cam Chua có thể khởi thuỷ từ Philippines hoặc vùng Đông Dương, chanh
Giấy (Citrus aurantifolia) hoang dại bắt nguồn từ vùng bắc Ấn Độ và vùng quần
đảo Malaysia. Theo Nguyễn Bảo Vệ và Lê Thanh Phong (2004) quýt được trồng ở
Trung Quốc rất sớm. Cây quýt (Citrus reticulata) đầu tiên được mang đến nước
Anh vào năm 1805 và được trồng phổ biển nơi đây đến vùng Địa Trung Hải. Nhiều
tác giả cho rằng, hầu hết các giống quýt hàng hóa có nguồn gốc từ Trung Quốc,
Nhật Bản hoặc Đông nam Á Châu, riêng quýt Satsuma có nguồn gốc hoàn toàn ở
Nhật Bản.
Có rất nhiều loại quýt, nhưng phổ biến ở ĐBSCL gồm có cam Sành (Citrus
nobilis) là loại quýt King dân miền Nam thường gọi là cam Sành. Quýt Hồng
(Citrus reticulata) là một loài thực vật nhỏ thuộc chi Cam chanh, gần giống quả
cam (Phạm Hoàng Hộ, 1968; trích dẫn bởi Nguyễn Thị Tuyết Mai, 2008).
Riêng cây Hạnh (Quất) thuộc họ cam Rutaceae, có tên khoa học là Citrus
microcarpa (Hassk.) Bunge. Theo tiếng Anh, Pháp những cây này gọi là Kumquat
hay Clementine. Loài này có nguồn gốc từ Châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản,
được gây trồng rộng rãi ở nước ta, từ Bắc vào Nam (chủ yếu ở các tỉnh miền núi
phía Bắc) từ đồng bằng lên vùng đồi núi trung du (Trần Hợp, 2002). Ở ĐBSCL, cây
hạnh được trồng nhiều nhất là ở Cái Mơn, để lấy quả làm nước uống, làm mứt ăn
hoặc làm cây cảnh để trang trí vào những dịp tết. (www. Argiviet.com.vn)
1.2 ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI VÀ TÌNH HÌNH TIÊU THỤ
1.2.1 Đặc điểm hình thái
Cây hạnh (Citrus microcarpa (Hassk.) Bunge là cây nhỏ, cao khoảng 11,5m, thân dẽo màu xanh xám, phân nhiều cành nhánh, lá đơn hình bầu dục, màu
xanh thẩm, cuống lá có cánh rất nhỏ, có đốt ở đầu. Hoa thường đơn độc, nở xòe 5
cánh màu trắng tươi, rất thơm, chùm nhụy rất ngắn (Trần Hợp, 2002). Theo Nguyễn
Bảo Vệ và Lê Thanh Phong (2004) hoa cam quýt thuộc loại hoa đơn hay hoa chùm,
mọc từ nách lá. Hoa có dạng hình thuẩn tròn, đỉnh hơi to hơn phía dưới, đường kính
rộng từ 2,5-4 cm, rất thơm. Đài hoa dai, không rụng, hình chén, có 3-5 lá đài. Hoa
có 4-8 cánh, màu trắng, dính liền vào nhau ở đáy. Bao phấn có 4 ngăn màu vàng,
mọc bằng hay nhô cao hơn đầu nướm nhuỵ. Đầu nướm nhuỵ cái to. Bầu noãn có 815 ngăn dính liền nhau tại một trục ở giữa, mỗi tâm bì có 0-6 tiểu noãn.
Quả mọng, hình cầu hay hơi dẹt, đường kính khoảng 1,5–3,5 cm màu vàng
cam bóng. Bên trong quả có 5–6 múi nhiều nước, hạt màu xanh dẹt. Vỏ trái lúc còn
non màu xanh bóng, khi già chín đổi thành màu vàng cam, rất đẹp. Bên trong ruột
có nhiều múi màu vàng nhạt được bao quanh bởi vách mỏng trong suốt, bên trong là
các sợi đa bào chứa đầy dịch nước (Nguyễn Bảo Vệ và Lê Thanh Phong, 2004).
Trước đây, cây trồng chủ yếu để lấy quả ăn bồi bổ sức khỏe, giúp cho tiêu hóa dễ
dàng. Ngoài ra còn được dùng phổ biến trong cuộc sống như làm siro, làm mứt để
giải khát; hoặc chữa các bệnh về họng, phổi; chữa đau dạ dày, giải độc gan,…
1.2.2 Tình hình tiêu thụ và giá trị kinh tế
Vào dịp tết Nguyên Đán, cây hạnh kiểng được bày bán với nhiều hình dáng
khác nhau tại các chợ hoa như dạng bụi, chậu, hình rồng, hình tháp (cây thông). Tùy
vào hình dáng, số trái và màu sắc trái mà giá bán cũng khác nhau có thể dao động từ
vài trăm đến vài triệu đồng/cây. Thị trường tiêu thụ chủ yếu là thành phố Hồ Chí
Minh với các chậu hạnh có đầy đủ hình dạng và kích cỡ.
Theo nhiều nhà vườn trồng hoa kiểng ở Chợ Lách, năm 2010 hạnh làm kiểng
loại tốt bán tại vườn khoảng 200-300 nghìn đồng/cây; hạnh trồng trong chậu uốn
thành hình cây thông (cao trung bình 2 m) giá bán khoảng 700 nghìn đồng/chậu tại
3
vườn (www.tuoitre.com.vn/TetOnline2009). Theo một số nhà vườn, vào dịp tết hạnh
chậu bình thường bán tại TP. HCM., với giá bán dao động khoảng 500.000–3000.000
đồng/chậu. Đối với những chậu hạnh được tạo dáng hình rồng có giá khoảng 2,4
triệu đồng/cặp, còn tạo hình con trâu thì có giá 3,5 triệu đồng/cặp. Riêng ở chợ hoa
Vĩnh Long (xuân 2010), giá bán các chậu hạnh được tạo hình tháp thấp hơn, dao
động khoảng 700-800 nghìn đồng/chậu (www.khuyennongvn.gov.vn/f-tttr/thitruong-tet-tai-cac-111ia-phuong).
Bên cạnh đó, giá bán chậu hạnh cao hay thấp còn phụ thuộc vào màu sắc trái
trên cây. Những chậu hạnh có nguồn gốc từ các tỉnh miền Tây Nam Bộ có giá bán
trung bình từ 500-900 nghìn đồng/chậu, vì màu sắc trái không đều nhau. Chậu hạnh
có nguồn gốc từ Hà Nội có trái vàng tươi rất đẹp, có giá bán khoảng 2,5 triệu đồng
trở lên (www.monre.gov.vn/monreNet/Default.aspx?tabid=211&ItemID=58591).
1.3 KỸ THUẬT TRỒNG VÀ XỬ LÝ RA HOA TRÊN CÂY HẠNH KIỂNG
1.3.1 Kỹ thuật trồng
* Thời vụ trồng: Trồng hạnh kiểng cũng gần giống như trồng các loại cây
cam quýt khác có thể trồng vào đầu hay cuối mùa mưa. Trồng ở cuối mùa mưa cần
cung cấp đầy đủ nước vào mùa nắng tiếp theo cho cây phát triển tốt (Trần Thượng
Tuấn et al., 1994).
* Đất trồng: Cây cam quýt rất mẫn cảm với điều kiện ngập nước, vì thế đất
trồng tốt nhất là đất thịt pha cát, sét, bảo đảm được độ thông thoáng và độ ẩm.
Riêng ở ĐBSCL, nhà vườn thường chọn vùng đất phù sa cao ven sông lớn, lên líp
kết hợp với đê bao đã tạo được tầng đất canh tác dày trên 1m, thoát nước tốt, pH
5,5–6,5 (Nguyễn Bảo Vệ và Lê Thanh Phong, 2004)
* Trồng và chăm sóc
Theo báo Nông nghiệp Việt Nam ngày 14/04/2004 việc trồng và chăm sóc
hạnh có thể được thực hiện như sau: Trồng hạnh có thể trồng thẳng trực tiếp trên đất
nhưng cũng có thể trồng vào chậu. Thông thường nên để hạnh phát triển khoẻ thì
nên trồng ngoài đất sau đó mới đưa vào chậu. Hạnh cần ánh sáng nhiều, chịu ẩm
ướt nên chọn vị trí trồng cho thích hợp. Nhiệt độ thích hợp từ 20–34oC. Vào mùa
khô cần tưới nước đầy đủ, tránh để đất khô, hạnh sẽ không phát triển và bị vàng lá
rồi rụng dần. Khi trồng nên áp dụng phương pháp nhân giống vô tính chủ yếu là
chiết cành và chỉ nên chiết vào tháng 3-4 hàng năm, những tháng đầu mùa mưa.
Bón phân: Trồng hạnh kiểng chú ý bón phân cho cân đối. Hạnh cần bón lót,
bón thúc cho hợp lý thì mới phát triển tốt và cho hoa trái nhiều.
+ Bón lót: Trung bình một gốc cần 20-25 kg phân chuồng hoai, ráo mục.
4
+ Bón thúc: Dùng phân N-P-K (16-16-8) mỗi gốc trung bình từ 0,3-0,5
kg/năm, chia làm 2 lần bón cách nhau 40 ngày. Khi cây chuẩn bị ra hoa, cần bón
thêm phân KCl (100 g/gốc) để tăng cường đậu trái và trái ít bị rụng. Ngoài ra, để
cây phát triển mạnh, cành lá xanh mướt, cần phun thêm phân bón lá, cứ 15 ngày
phun một lần.
*Phòng trừ sâu bệnh
Cây hạnh dễ bị bệnh trong trường hợp thiếu phân, nước, ánh sáng và pH
không phù hợp. Chú ý nên thường xuyên thăm vườn cây để phát hiện và loại bỏ cây
bị vàng lá, kể cả cây thuộc họ cam quýt khác để tránh lây lan bệnh. Nếu hạnh đã bị
bệnh vàng lá (greening) thì không thể dùng làm kiểng được vì việc xử lý ra hoa trái
khó thực hiện được. Nếu trồng hạnh làm kiểng thì cần phải phun ngừa theo định kỳ
7-15 ngày/lần bằng thuốc trừ bệnh Aliette, Benlate C, Sulfat đồng để ngừa các bệnh
về nấm. Đối với các loại sâu, côn trùng phá hoại bệnh như sâu vẽ bùa hại lá non,
sâu xanh bướm phượng, rầy mềm, rệp sáp, rệp nhảy, rệp vảy ốc, sâu đục thân,… thì
sử dụng các loại thuốc Sevin, Padan, Trebon, Applaud,… để phòng trị. Tuỳ theo
mức độ phá hoại của côn trùng có thể phun thuốc theo định kỳ từ 7-10 ngày/lần
theo liều lượng ghi trên bao bì.
1.3.2 Kỹ thuật xử lý ra hoa
Đặc điểm chung của các loài cam quýt là sự phân hóa mầm hoa được tiến
hành trong giai đoạn khô hạn, sau đó việc cung cấp nước trở lại có tác dụng kích
thích ra hoa đồng loạt. Theo Trần Văn Hâu (2008) cho rằng ở điều kiện ngoài đồng,
sự khô hạn dài hơn 30 ngày kích thích số mầm hoa có ý nghĩa. Mầm hoa chỉ phát
triển khi nhiệt độ ấm lên hoặc ẩm độ đất tăng lên (không còn xiết nước), thường thì
cây sẽ ra hoa sau khi tưới nước khoảng 3–4 tuần.
Theo Nguyễn Bảo Vệ và Lê Thanh Phong (2004), ở ĐBSCL nông dân xiết
nước để kích thích cho cây cam quýt ra hoa sau khi mùa mưa chấm dứt (tháng 12
dương lịch). Tiến hành làm cỏ bờ, rút hết nước mương, ngưng tưới khoảng 1 tháng,
khi cây có triệu trứng héo thì tưới đẫm líp (3 ngày), bón phân, bồi líp sau khoảng 3
ngày nắng (sình khô nứt) thì tưới trở lại bình thường. Hoặc có thể lợi dụng hạn “Bà
Chằng” trong tháng 7–8 dl để xiết nước (khoảng 10–15 ngày), tuy nhiên vụ này
thường không có hiệu quả cao và tính ổn định kém do ảnh hưởng của mưa. Đối với
cây hạnh thì cách xử lý cũng tương tự. Tuy nhiên, trái hạnh ngoài việc sử dụng làm
gia vị thì cây hạnh còn dùng như cây kiểng vào ngày tết. Nên cần chọn thời điểm xử
lý sao cho hạnh ra hoa và có trái chín vàng vào dịp tết để bán được giá cao. Khoảng
tháng 6–7 âm lịch tiến hành chọn những cây có trái phát triển mạnh thì bứng cây
lên, rồi phơi nắng nhẹ khoảng 10 ngày, sau đó tỉa bỏ bớt cành lá cho cây gọn nhẹ rồi
đem trồng lại (ở miền Bắc gọi là đảo quất hay đánh quất). Nếu trồng trong chậu, chỉ
5
cần tỉa bỏ hết những trái có sẵn trên cây và giảm tưới nước tối đa. Đến giữa hoặc
cuối tháng 8 dương lịch, đây là giai đoạn chuẩn bị cho cây ra hoa, kết trái. Trong
giai đoạn này cần cung cấp cho hạnh đầy đủ phân bón, tưới nước cho cây phát triển
tốt. Cây sẽ xanh tốt, cho trái nhiều và trái sẽ chín vàng đúng vào dịp tết
(www.caycanhvietnam.com).
1.4 MỘT SỐ BIẾN ĐỔI SINH HOÁ TRONG QUÁ TRÌNH CHÍN CỦA TRÁI
Khi trái ở giai đoạn đang phát triển thì vỏ trái có màu xanh làm do sự hiện
diện của diệp lục tố (DLT) đính trên bề mặt của phiến thylakoids, là vị trí của các
phản ứng ánh sáng của sự quang hợp. Các sắc tố hiện diện trên màng thylakoids của
thực vật bậc cao chủ yếu gồm có hai loại diệp lục tố là DLTa và DLTb. Cũng có sắc
tố từ màu vàng tới cam của carotenoids. Ngoài ra, trên phiến này còn sự hiện diện
sắc tố violaxanthin (là một xanthophyll) (Lê Văn Hòa và Nguyễn Bảo Toàn, 2004).
Theo Nguyễn Văn Phong (2001) sự thay đổi của các chất màu có thể xảy ra
trong suốt quá trình phát triển, thành thục và chín khi trái còn ở trên cây. Một số
biến đổi tiếp tục hay chỉ bắt đầu ngay sau lúc thu hoạch. Cho dù theo mong muốn
hay ngoài ý muốn, những thay đổi này có thể xuất hiện như sự mất DLT, và sự phát
triển carotenoid (có màu vàng, cam), anthocyanin (màu tím đỏ) và nhiều hợp chất
phenol khác.
Hartmann (1992) cho rằng sự thay đổi màu sắc trong quá trình chín của trái
được biểu hiện qua hiện tượng.
Sự giảm diệp lục tố khi trái chín, do giảm tỷ lệ hàm lượng diệp lục tố a, làm
cho màu xanh trên trái bị biến mất.
Sự tổng hợp các sắc tố mới như carotenoid, lycopene, anthocyanin,…
Sự mất màu xanh là do sự phân hủy cấu trúc diệp lục tố. Sự thay đổi pH của
màng lạp thể, thể hiện qua sự tiết các acid hữu cơ từ không bào vào các hệ thống
oxy hóa và do sự có mặt của enzyme chlorophyllase. Sự sản sinh ethylene trong giai
đoạn trái chín đã gợi sự thành lập enzyme này đồng thời hoạt hóa các gen ảnh
hưởng đến sự thành lập các enzyme hô hấp khác (Nguyễn Thị Tuyết Mai, 2008)
Khi trái chín, carotenoid được tổng hợp từ các phân tử diệp lục tố. Sắc tố
anthocyanin có nhiều trong trái và sắc tố này thể hiện ra ngoài phụ thuộc vào pH
của môi trường. Nếu pH thấp (acid) thì anthocyanin có màu đỏ, môi trường kiềm có
màu xanh và môi trường trung tính thì có màu hơi tím. Khi có muối kim loại trong
môi trường, anthocyanin biến thành màu xanh tím (Trần Minh Tâm, 2000). Khi trái
hô hấp lượng acid giảm vì các acid hữu cơ bị decarboxyl hóa tạo thành CO2 và
nhóm aldehyde. Đồng thời, quá trình tổng hợp đường tăng, vitamin C giảm do các
quá trình khử trong các mô bị phá hủy khi không khí xâm nhập, diệp lục tố giảm và
carotenoid tăng.
6
Ngoài sự biến đổi các chất bên trong, khi trái hô hấp sinh ra
polyphenoloxylase phân giải những hợp chất phenol tạo ra những màu vàng khác
nhau phụ thuộc vào hợp chất phenol (Nguyễn Văn Phong, 2001). Tùy thuộc vào
từng loại trái cây mà khi chín có màu sắc khác nhau, ví dụ màu đỏ cà chua là do sắc
tố lycopene, màu đỏ trái dâu là do sắc tố pelargonidin, màu vàng đu đủ là do
cryptoxanthin, vàng cà rốt là do carotenoid (Bautista, 1987). Đối với cây có múi
những hợp chất phenol bị phân giải sẽ tạo ra màu vàng (carotene) và màu cam
(xanthophyll) (Eilati et al., 1969; Abele, 1973, trích dẫn bởi Nguyễn Văn Phong,
2001).
* Độ mềm
Canxi kết hợp với pectin tạo thành pectatcanxi gắn chặt với nhau trong lớp
chung của vách tế bào, cần thiết cho sự cứng của vách tế bào mô thực vật (Lê Văn
Hòa và Nguyễn Bảo Toàn, 2002). Theo Nguyễn Minh Thủy (2003) khi quả chín
pectatcanxi gắn chặt các tế bào với nhau lập tức bị phân hủy dưới tác dụng của
enzyme pectinase, kết quả là các tế bào rời rạc làm cho quả mềm ra.
Theo Trần Minh Tâm (2000) pectin là carbohydrate cao phân tử, chiếm
khoảng 1–1,5% trong thành phần vỏ trái. Pectin thường tồn tại ở hai dạng: dạng
không hòa tan là protopectin ở vách tế bào và dạng pectin hòa tan ở trong dịch bào.
Trong thời gian trái còn đang phát triển thì protopectin phân tán trong màng tế bào.
Khi trái chín, protopectin giảm do chuyển hóa thành pectin hòa tan bởi tác dụng của
enzyme protopectinase hoặc acid hữu cơ, từ đó làm cho khả năng liên kết giữa mô
yếu đi và kết quả làm vỏ trái mềm ra.
* Hiện tượng rụng cuống trái
Sau khi tách rời khỏi cây mẹ tất cả các dinh dưỡng đều bị cắt đột ngột do đó
trái bị rối loạn các hoạt động sinh lý, sinh hóa và bắt đầu vào quá trình phân giải các
chất dinh dưỡng có trong trái để tiếp tục duy trì hoạt động sống sau thu hoạch. Vì
thế các tế bào bị mất nước ngày càng nhiều do hệ keo bị mất chức năng (Phan Thị
Lệ Thi, 2009).
Trong quá trình tồn trữ, trái cây có múi có hiện tượng rụng cuống. Theo
Biale (1961) (trích dẫn bởi Phan Thị Phương Thảo, 2009) thì sự rụng cuống trái
được cho là sự lão hóa trên trái cam quýt do bị tác động bởi ethylene tạo ra trong
quá trình chín của trái. Hiện tượng rụng cuống trái trong quá trình bảo quản do tác
động ngoại lực hoặc do sự thay đổi điều kiện sinh lý của trái và làm giảm đáng kể
giá trị của trái bán ra thị trường.
7
1.5 CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUÁ TRÌNH CHÍN TRONG QUÁ
TRÌNH BẢO QUẢN
1.5.1 Nhiệt độ
Nhiệt độ là yếu tố môi trường có ảnh hưởng quan trọng nhất đến chất lượng
của trái sau thu hoạch của trái cây. Sự đáp ứng nhiệt độ của nông sản sau thu hoạch
có thể được phân thành 3 nhóm: (a) ảnh hưởng của dãy nhiệt độ trung gian bình
thường; (b) ảnh hưởng của nhiệt độ cao bất lợi; và (c) ảnh hưởng của nhiệt độ thấp
bất lợi. Dấu hiệu thường thấy ở tổn thương nhiệt độ cao là sự mất các sắc tố, mặt
ngoài của mô bị nhũng nước. Trường hợp ảnh hưởng của nhiệt độ thấp bất lợi có
thể phân biệt giữa tổn thương do đông lạnh và tổn thương lạnh. Dấu hiệu tổn
thương lạnh thường thấy là sự biến đổi màu, thối rữa, vết thương lỏm vào và mất
khả năng chín bình thường. Tổn thương do đông lạnh thường thấy khi nhiệt độ dưới
0 0C, các tinh thể nước đá làm tổn thương màng tế bào và làm cho màng tế bào bị hư
(Lê Văn Hòa, 2002).
Mỗi loại sản phẩm đều được bảo quản trong một giới hạn nhiệt độ nhất định,
khi nhiệt độ tăng lên thì cường độ hô hấp tăng, nhưng nếu nhiệt độ tăng hoặc giảm
vượt mức giới hạn thì đôi khi cường độ hô hấp giảm, vì phần lớn các quá trình sinh
lý của sản phẩm xảy ra trong quá trình bảo quản là nhờ tác dụng của các loại
enzyme, và mỗi loại enzyme hoạt động phụ thuộc vào một nhiệt độ nhất định (Trần
Minh Tâm, 2000). Hầu hết enzyme bị suy giảm hoạt tính khi nhiệt độ trên 30 0C và
bị bất hoạt khi nhiệt độ trên 400C (Lê Văn Hòa, 2002). Khi nhiệt độ tăng thì cường
độ hô hấp tăng cao độ, nếu vượt quá ngưỡng tối hảo thì hoạt tính của enzyme giảm
đi hoặc mất hẳn cường độ hô hấp giảm xuống. Với các loại trái không có hô hấp cao
đỉnh (như cam, quýt, nho) khi nhiệt độ càng thấp thì càng giảm tốc độ hư hỏng (Lê
Văn Hòa và Nguyễn Quốc Hội, 2006).
1.5.2 Độ ẩm tương đối của không khí
Độ ẩm tương đối của không khí trong phòng bảo quản có ảnh hưởng rất lớn
đến sự bốc thoát hơi nước của trái cây. Độ ẩm môi trường càng thấp thì cường độ
hô hấp và tốc độ bốc thoát hơi nước càng cao, trái sẽ bị giảm trọng lượng, vỏ trái
khô héo bề mặt ngoài, làm cho hoạt động của tế bào bị rối loạn, làm giảm khả năng
tự đề kháng bệnh lý và từ đó trái sẽ mau hư. Tuy nhiên, khi độ ẩm tồn trữ trái quá
cao sẽ tạo môi trường thuận lợi cho vi sinh vật phát triển tấn công lên trái. Hơn nữa
nước có thể ngưng tụ trên bề mặt dẫn đến việc rối loạn hô hấp. Vì thế, để bảo quản
một loại sản phẩm nào đó ta cần chọn một ẩm độ thích hợp để tránh những ảnh
hưởng xấu đến chất lượng, tức là chọn ẩm độ tối ưu cho loại sản phẩm đó (Hà Văn
Thuyết và Trần Quang Bình, 2002).
8
1.6 ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC PHÂN BÓN ĐẾN SINH TRƯỞNG CỦA CÂY
TRỒNG
1.6.1 Vai trò của nitrogene (N) đối với cây trồng
Trong quá trình phát triển của cây trồng thường đạm được xem là yếu tố
quan trọng nhất trong gia tăng năng suất của cây trồng. Trên hầu hết các loại đất,
bón N giúp gia tăng sự tăng trưởng của cây, đặc biệt là sự phát triển thân lá. Cây
được cung cấp N đầy đủ thì thân, lá và chồi phát triển, bộ rễ phát triển cân đối hơn
cây thiếu N.
Nitrate và ammonium là 2 dạng N được rễ thực vật hấp thu. Hầu hết
ammonium được kết hợp với hợp chất hữu cơ trong rễ, trong khi đó nitrate được
vận chuyễn trong mạch gỗ và có thể được dự trữ trong không bào của rễ, chồi và
các cơ quan dự trữ giúp cho sự cân bằng cation và anion, đồng thời đều hòa áp suất
thẩm thấu cho tế bào (Smirnoff và Stewart, 1985; Martinonia et al.,… 1981). Đạm
dạng nitate dự trữ được sử dụng cho quá trình sinh trưởng (Clement et al., 1979).
1.6.2 Kali (K)
K+ là một cation hóa trị 1, có bán kính ion thủy hóa 0,331 nm và năng lượng
thủy hóa 314 J/mol. Sự hấp thu K của cây có tính chọn lọc cao và đi kèm với hoạt
động biến dưỡng khác. Đặc trưng của K là có tính di động cao ở mọi mức độ, trong
mỗi tế bào, trong mô, cũng như trong sự vận chuyển xa qua mạch gỗ và mạch libe.
K+ có nhiều trong tế bào, vai trò chủ yếu là tạo ra tiềm năng thẩm thấu của tế bào và
mô của cây. Ngoài ra, K còn có chức năng trong việc kéo dài tế bào và sức trương
của tế bào. K+ hoạt động chủ yếu như tác nhân mang điện tích có tính di động cao,
hình thành những phức hệ yếu và sẳn sàng trao đổi (Jones et al., 1979).
Kali giữ vai trò quan trọng trong phản ứng quang hợp. K giúp cho sự di
chuyển các chất quang hợp, điều khiển sự đóng mở khí khẩu, hoạt hóa các enzyme
và nhiều tiến trình khác trong cây.Theo Daryl và Brown (1993) K là thành phần liên
kết độ cứng chắc của cây, kích hoạt hơn 60 enzyme ảnh hưởng đến quá trình trao
đổi chất, kích hoạt quang hợp, giúp cho sự biến dưỡng đường thành tinh bột và
cellulose. Giúp cho sự vận chuyển dinh dưỡng trong cây, tăng hàm lượng protein,
tăng hàm lượng tinh bột và hàm lượng đường trong nông sản. Ngoài ra K là thành
phần giúp cây trồng kháng một số bệnh hại trên cây trồng.
K ảnh hưởng rất lớn đến trạng thái của nguyên sinh chất trong tế bào, làm
tăng độ thủy hóa của keo nguyên sinh và làm tăng hàm lượng nước liên kết trong tế
bào. K tham gia vào quá trình phân chia tế bào và quá trình sinh tổng hợp các chất
hữu cơ. Ảnh hưởng mạnh tới sự trao đổi glucid, giúp cho quá trình hình thành
glucid trong quang hợp cũng như quá trình chuyển hóa glucid trong cây. K rất cần
cho sự tổng hợp protein. Do đó cây được cung cấp đầy đủ K, giúp tăng cường tính
9
chống chịu với điều kiện bên ngoài như khô hạn, giá lạnh, sâu, bệnh (Trịnh Xuân
Vũ et al., 1976).
Mặt khác, K còn giữ vai trò quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng và màu
sắc của trái. Khi cây được cung cấp đủ K sẽ cho trái to, ngọt, đặc biệt vỏ trái có khả
năng chịu đựng tốt trong việc vận chuyển cũng như trong quá trình bảo quản
(Đường Hồng Duật, 2003). Trên cây quýt sự thiếu K thể hiện rất rõ như cây chậm
phát triển, lá nhỏ và bị rụng nhiều; lá cuộn lại và lượng hoa trên cây giảm; trái nhỏ,
vỏ trái mỏng và trơn láng; trái mau chuyển màu, dễ bị nứt nẻ và thường xuất hiện
vết nhăn,… Nếu thiếu K nhẹ thì năng suất không giảm nhiều, nhưng khi lượng hoa
và trái bị rụng nhiều sẽ ảnh hưởng rất lớn đến năng suất của cây. Tuy nhiên, khi
thừa K thì trái sẽ to và không có hương vị nguyên chất, vỏ trái sẽ dày và nhám.
Lượng K cần thiết cung cấp cho cây khoảng 1–2 kg/cây/năm. Ở dạng tưới nhỏ giọt
là 100–350 g/cây NPK (Weir, 2002; trích dẫn bởi Phạm Thị Phương Thảo, 2009).
Một số nghiên cứu gần đây cho thấy việc cung cấp K đầy đủ cho cây đã làm
gia tăng phẩm chất ở một số loại trái cây. Ví dụ như, khi sử dụng phân monopotasium phosphate (0,1%) và zine nitrate (150ml/100l) trên xoài trong giai đoạn ra
hoa sẽ làm tăng chất lượng trái, màu sắc trái đẹp và cải thiện phẩm chất trái sau thu
hoạch (Dosthuyse, 2000; trích dẫn bởi Phạm Thị Phương Thảo, 2009). Tương tự,
Nguyễn Văn Bình (2005) cũng cho thấy ảnh hưởng của K phẩm chất trái dưa lê
thông qua việc gia tăng độ brix của trái so với đối chứng. Khi phun potassium
nitrate và monopotasium phosphate trên lá cam quýt sau khi trái đã hình thành là
tăng kích cỡ trái (Gutierrez, 2002; trích dẫn bởi Phạm Thị Phương Thảo, 2009).
Trên xoài cát Hòa Lộc, khi xử lý K qua lá giai đoạn tiền thu hoạch có hiệu quả gia
tăng phẩm chất trái sau thu hoạch như gia tăng độ cứng, hàm lượng đường tổng số,
hàm lượng tinh bột của trái so với đối chứng (Trần Thị Kim Ba, 1998; Mai Thu
Hương, 2004; Trần Thị Kim Ba, 2007). Phun KNO3 qua lá với liều lượng 2g K/lít
cũng có tác dụng nâng cao độ khác màu thịt trái xoài Châu Nghệ so với đối chứng
(Lê Xuân Biên, 2008). Nghiên cứu của Mai Thu Hương (2004) trên giống xoài Cát
Hòa Lộc khi sử dụng KCl, K2SO4 ở nồng độ 4g K/lít có hiệu quả trong việc gia tăng
độ khác màu của vỏ trái. Qua nghiên cứu của Nguyễn Trịnh Nhất Hằng và Nguyễn
Minh Châu (2001) cho thấy bón phân K ở các dạng khác nhau có tác dụng làm cho
màu sắc trái thanh long sáng đỏ đẹp.
1.7 VAI TRÒ CỦA CHẤT ĐIỀU HÒA SINH TRƯỞNG THỰC VÂT
Ethephon (2-chloroethyl phosphonic acid) còn có tên thương mại là ethrel, là
hợp chất phóng thích khí ethylene sau khi được hấp thu và ảnh hưởng đến quá trình
chín của trái.
Công thức hóa học là: Cl-CH2-CH2-H2PO3
10
Ethephon không liên kết chặt chẽ trong mô cây trồng, nó có thể được loại bỏ
dễ dàng bằng cách rửa với nước. Trong cây ethylene được giải phóng theo sơ đồ
sau:
Cl-CH2-CH2-H2PO3 + OH- → CH2-CH2 + H2PO4 + ClEthephon là chất không màu, không mùi. Nó ổn định ở dạng acid và bị phân
hủy ở pH 3,5. Theo nhận định của tổ chức lương nông thế giới (FAO) thì ethephon
hòa tan dễ trong nước, ít độc với người và gia súc. Thử nghiệm trên chuột cống theo
đường tiêu hóa cho thấy LD50 = 7.000 mg/kg, ethephon không độc hại với ong và ít
độc với cá (www.yduocngaynay.com/8-8TK_BQQuang_Ethephon.htm). Theo Trần
Hạnh Phúc (2000), hợp chất này được ứng dụng hữu hiệu trong lĩnh vực công nghệ
sau thu hoạch giúp trái chuối, xoài, đu đủ và nhóm cam quýt chín nhanh, đồng đều
và màu sắc đẹp. Bên cạnh đó, làm ức chế sự phát triển đọt non, làm bộ lá mau thành
thục, giúp phân hóa mầm hoa, kích thích ra hoa,…
Nguyễn Minh Chơn (2004) cho rằng sự chín của trái là do ethylene điều hòa.
Nó đóng một vai trò thiết yếu trong sự chín khi trái đã già, với nồng độ rất thấp 0,1–
1 µL/L có thể kích thích sự chín của trái bộc lộ một sự tăng tính mãng dục trong hô
hấp. Theo Nguyễn Quang Thạch et al., (2000) cho rằng, ethylene là một hormone
thực vật có chức năng chính là gây lão hóa các bộ phận của cây trồng và thúc đẩy
quá trình chín của trái. Chúng gây hoạt hóa các gen cần thiết cho quá trình tổng hợp
các enzyme mới, xúc tác cho các phản ứng hóa sinh xảy ra trong cây trồng như các
enzyme hô hấp, enzyme xúc tác cho các phản ứng biến đổi diệp lục, acid hữu cơ,…
Theo Nguyễn Bảo Vệ và Lê Thanh Phong (2004) trái cam quýt ở vùng khí
hậu nhiệt đới khi chín vỏ có màu vàng xanh, không đẹp mắt, nên có thể áp dụng
một vài phương pháp xử lý để tạo được màu vàng hoàn toàn ở vỏ trái.
Một số giống táo tây, việc phun ethephon ở nồng độ từ 100–125 ppm vào
thời điểm 5–7 tuần trước thu hoạch sẽ giúp gia tăng màu đỏ của vỏ trái (Miler
Stephens, 1997; trích dẫn bởi Phạm Hoàng Lân và Thái Thị Hòa, 2002). Purandane
và Khedker (1992) báo cáo trên trái cam mật khi xử lý ở nồng độ 200 ppm và bảo
quản trong phòng tối có thể cải thiện được màu sắc, mùi vị, độ cứng của trái. Bên
cạnh đó, Nguyễn Văn Phong (2001) đã áp dụng khí ethylene ở nồng độ 18 ppm,
nhiệt độ (31–340C), ẩm độ (75–81%), thời gian 37 giờ để làm chuyển màu trái cam
sành từ xanh sang vàng. Việc xử lý ethephon ở nồng độ 500 ppm đối với trái đu đủ
và xoài cũng có khả năng cải thiện màu sắc vỏ trái (Bal et al., 1992; Mohamed và
Abu-goukh, 2003; trích dẫn bởi Lê Văn Hòa và Nguyễn Quốc Hội, 2006). Theo
Purandare và Khedkar (1992) cho rằng trái cam Mật khi xử lý ở nồng độ 200 ppm
và bảo quản trong phòng tối có thể cải thiện màu sắc, mùi vị, độ cứng của trái. Việc
11
xử lý ethephon trên chanh ở Florido cũng có hiệu quả làm mất màu xanh vỏ trái lúc
thu hoạch (Sherman, 1985).
Việc xử lý bưởi Năm Roi sau thu hoạch bằng cách ngâm 5 phút trong dung
dịch ethephon 500 ppm và bao gói bằng bao PE. Kết quả là ethephon có tác dụng
cải thiện màu sắc vỏ trái sau 4 ngày xử lý khi tồn trữ ở nhiệt độ và ẩm độ phòng
(27-34oC, 50-60%), và sau 4 tuần tồn trữ ở 10oC và ẩm độ 90-95% mà không làm
ảnh hưởng đến chất lượng cảm quản của trái. Tuy nhiên, với mục đích tồn trữ trong
thời gian dài trên 3 tháng thì việc ứng dụng ethephon tỏ ra không có hiệu quả vì sau
thời gian này trái bưởi Năm Roi vẫn có thể cải thiện màu sắc vỏ trái (Phạm Hoàng
Lân và Thái Thị Hòa, 2002).
Azab và Ismail (1994) cho rằng việc phun ethephon ở nồng độ 0, 120, 240,
480 ppm trên cây cam mật và bưởi vào thời điểm trái còn xanh nhằm làm tăng màu
sắc trái và chất lượng nước. Màu sắc trái đều được cải thiện trên cả hai giống nhưng
cam thì có hiệu quả rõ hơn so với bưởi. Mặt khác, nồng độ 480 ppm đã gây ra sự
rụng lá đáng kể. Theo Phan Thị Xuân Thủy (2008) xử lý ethephon nồng độ 200
ppm lên trái cam Soàn vào thời điểm 1 tuần trước khi thu hoạch có tác dụng biến
đổi màu xanh vỏ trái khi chín mà không ảnh hưởng đến các chỉ tiêu về phẩm chất
trái.
Trên trái quýt Đường, Lý Hoàng Minh và Phan Thị Lệ Thi (2006) cũng xử lý
ethephon ở nồng độ 100 ppm vào thời điểm 1 tuần trước khi thu hoạch. Kết quả là
thu được trái quýt Đường có vỏ trái màu vàng khi chín, ít ảnh hưởng đến các chỉ
tiêu phẩm chất bên trong, và có thể tồn trữ được 5 tuần trong điều kiện phòng thí
nghiệm. Tương tự, Lê Văn Hòa và Nguyễn Quốc Hội (2006) cũng xử lý ethephon ở
nồng độ 100 ppm vào thời điểm 2 tuần trước thu hoạch để làm biến đổi màu xanh
vỏ trái quýt Hồng.
12