Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

ẢNH HƯỞNG của NAPHTHALENEACETIC ACID kết hợp TRÙM và KHÔNG TRÙM bọc NYLON đến sự tạo rễ của CÀNH GIÂM cây HỒNG lộc (syzygium oleinum)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.55 MB, 57 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG

NHÂM TUYẾT SƯƠNG

ẢNH HƯỞNG CỦA NAPHTHALENE ACETIC ACID
KẾT HỢP TRÙM VÀ KHÔNG TRÙM BỌC NYLON
ĐẾN SỰ TẠO RỄ CỦA CÀNH GIÂM CÂY
HỒNG LỘC (Syzygium oleinum)

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: HOA VIÊN & CÂY CẢNH

Cần Thơ, 2012


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: HOA VIÊN & CÂY CẢNH

ẢNH HƯỞNG CỦA NAPHTHALENE ACETIC ACID
KẾT HỢP TRÙM VÀ KHÔNG TRÙM BỌC NYLON
ĐẾN SỰ TẠO RỄ CỦA CÀNH GIÂM CÂY
HỒNG LỘC (Syzygium oleinum)

Cán bộ hướng dẫn:
Ths. Nguyễn Văn Ây

Sinh viên thực hiện:


Nhâm Tuyết Sương
MSSV: 3083751
Lớp: Hoa Viên Cây Cảnh K.34

Cần Thơ, 2012


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG


Luận văn tốt nghiệp Kỹ sư ngành Hoa viên & Cây cảnh với đề tài: “ẢNH HƯỞNG
CỦA NAPHTHALENE ACETIC ACID KẾT HỢP TRÙM VÀ KHÔNG
TRÙM BỌC NYLON ĐẾN SỰ TẠO RỄ CỦA CÀNH GIÂM CÂY HỒNG
LỘC (Syzygium oleinum)”.
Do sinh viên NHÂM TUYẾT SƯƠNG thực hiện, kính trình lên hội đồng chấm
luận văn tốt nghiệp.

Cần Thơ, ngày…..tháng…..năm 2012
Cán bộ hướng dẫn

Ths. Nguyễn Văn Ây

ii


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG



Hội đồng chấm luận văn đã chấp nhận Luận văn tốt nghiệp Kỹ sư ngành Hoa viên
& Cây cảnh với đề tài: “ẢNH HƯỞNG CỦA NAPHTHALENE ACETIC ACID
KẾT HỢP TRÙM VÀ KHÔNG TRÙM BỌC NYLON ĐẾN SỰ TẠO RỄ CỦA
CÀNH GIÂM CÂY HỒNG LỘC (Syzygium oleinum)”, do sinh viên NHÂM
TUYẾT SƯƠNG thực hiện và bảo vệ trước hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp
ngày…..tháng…..năm 2012.

Luận văn được hội đồng đánh giá với mức:…………………………………………
Ý kiến hội đồng: ………………………………………………….............................
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
HỘI ĐỒNG
Thành viên 1

Thành viên 2

Thành viên 3

………………

……………..

………………

Duyệt của khoa Nông Nghiệp & SHƯD

iii



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân và thầy hướng dẫn. Các
số liệu, kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ luận văn nào trước đây.

Tác giả luận văn

Nhâm Tuyết Sương

iv


LỜI CẢM TẠ
Xin chân thành biết ơn!
Thầy Nguyễn Văn Ây đã tận tình hướng dẫn và quan tâm tôi trong suốt quá trình
thực hiện luận văn tốt nghiệp
Thầy Phạm Phước Nhẫn và cô Lê Minh Lý – cố vấn học tập lớp Hoa viên & Cây
cảnh khóa 34 đã tận tình giúp đỡ và chỉ dẫn tôi trong suốt thời gian tôi học tại
trường.
Xin chân thành biết ơn!
Quý thầy cô, anh chị và các bạn đang thực tập tại Bộ môn Sinh lý – Sinh hóa đã
giúp tôi thực hiện luận văn.
Xin chân thành cám ơn bạn Duyên, bạn Tâm, bạn Nga, bạn Toàn… đã tận tình giúp
đỡ.
Nhâm Tuyết Sương

v


TIỂU SỬ CÁ NHÂN

Họ và tên: NHÂM TUYẾT SƯƠNG
Ngày sinh: 28/06/1990
Nơi sinh: Tam Bình - Vĩnh Long
Họ và tên cha: NHÂM VĨNH THẮNG
Nghề nghiệp: Công nhân xây dựng
Họ và tên mẹ: HỒ THỊ HỒNG THÚY
Nghề nghiệp: Nội trợ
Chỗ ở hiện nay: ấp Mỹ An – xã Bình Ninh – huyện Tam Bình – tỉnh Vĩnh Long
Quá trình học tập:
- 1996-2001: Học sinh Trường Tiểu học Thị Trấn B – huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh
Long.
- 2001-2005: Học sinh Trường Trung học cơ sở Thị Trấn Trà Ôn – huyện Trà
Ôn, tỉnh Vĩnh Long.
- 2005-2008: Học sinh Trường Trung học phổ thông Thị Trấn Trà Ôn – huyện
Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long.
- 2008-2012: Sinh viên Ngành Hoa viên & Cây cảnh khóa 34, Khoa Nông
Nghiệp và Sinh học ứng dụng, Trường Đại Học Cần Thơ.

Cần Thơ, ngày…..tháng….. năm 2012
Người khai

Nhâm Tuyết Sương

vi


MỤC LỤC
TRANG CHẤP NHẬN LUẬN VĂN CỦA CÁN BỘ HƯỚNG DẪN ....................ii
TRANG CHẤP NHẬN LUẬN VĂN CỦA HỘI ĐỒNG .......................................iii
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... iv

LỜI CẢM TẠ .......................................................................................................... v
TIỂU SỬ CÁ NHÂN .............................................................................................. vi
MỤC LỤC .............................................................................................................. vii
DANH SÁCH BẢNG .............................................................................................. ix
DANH SÁCH HÌNH ................................................................................................ x
CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................................................ x
TÓM LƯỢC ........................................................................................................... xi
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU.................................................................. 2
1.1 Sơ lược về cây Hồng lộc ........................................................................... 2
1.1.1 Nguồn gốc và phân bố.................................................................. 2
1.1.2 Đặc tính thực vật .......................................................................... 2
1.1.3 Tình hình sản xuất cây Hồng Lộc ................................................. 3
1.2 Nhân giống bằng phương pháp giâm cành ............................................. 2
1.2.1 Cơ sở khoa học của phương pháp giâm cành ................................ 2
1.2.2 Những ưu nhược điểm của phương pháp giâm cành ..................... 5
1.2.3 Kỹ thuật giâm cành ...................................................................... 5
1.2.4 Yêu cầu về điều kiện môi trường cho cành giâm ........................ 12
1.2.5 Các kết quả nghiên cứu có liên quan .......................................... 14
CHƯƠNG 2. PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP .......................................... 16
2.1 Phương tiện và vật liệu thí nghiệm........................................................... 16
2.1.1Vật liệu thí nghiệm...................................................................... 16
2.1.2 Phương tiện thí nghiệm .............................................................. 16
2.1.3 Địa điểm và thời gian tiến hành thí nghiệm ................................ 16
2.1.4 Điều kiện thí nghiệm .................................................................. 18

vii


2.2 Phương pháp thí nghiệm .......................................................................... 18

2.2.1 Ảnh hưởng của nồng độ NAA kết hợp trùm bọc
nylon và không trùm bọc nylon đến sự ra rễ của cành giâm cây
Hồng Lộc............................................................................................ 18
2.2.2 Khảo sát cấu trúc hình thái giải phẫu của cành giâm câyHồng
Lộc trong quá trình hình thành rễ bất định.......................................... 20
2.3 Các chỉ tiêu theo dõi...................................................................... 21
2.4 Xử lý số liệu.................................................................................. 21
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN............................................................................. 22
3.1 Ảnh hưởng của NAA kết hợp trùm bọc nylon và
không trùm bọc nylon đến sự tạo rễ của cành giâm cây Hồng Lộc ................. 22
3.1.1 Số rễ/cành giâm.......................................................................... 22
3.1.2 Chiều dài rễ (cm)........................................................................ 25
3.1.3 Tỷ lệ (%) tạo rễ .......................................................................... 29
3.1.4 Khảo sát cấu trúc hình thái giải phẩu của cành giâm cây
Hồng Lộc trong quá trình hình thành rễ bất định ................................ 31
CHƯƠNG 4 : KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ............................................................. 34
4.1 KẾT LUẬN ............................................................................................ 34
4.2 ĐỀ NGHỊ................................................................................................ 34
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................... 35
PHỤ CHƯƠNG

viii


DANH SÁCH BẢNG
Tựa bảng

Trang

3.1


Ảnh hưởng của NAA kết hợp với trùm và không trùm bọc nylon
lên sự hình thành tỷ lệ % tạo rễ và sống của cành giâm cây Hồng
Lộc theo thời gian

21

3.2

Ảnh hưởng của NAA kết hợp với trùm và không trùm bọc nylon
lên sự hình thành số rễ của cành giâm cây Hồng Lộc theo thời gian
Ảnh hưởng của NAA kết hợp với trùm và không trùm bọc nylon
đến chiều dài rễ của cành giâm cây Hồng Lộc theo thời gian

25

Bảng

3.3

ix

28


DANH SÁCH HÌNH
Hình

Tựa hình


Trang

1.1
2.1
2.2

Cây Hồng Lộc
Cành giâm cây Hồng Lộc dùng làm vật liệu thí nghiệm
Cành giâm cây Hồng Lộc được trùm kín bằng bọc nylon

2
15
16

3.1

Cành giâm Hồng Lộc trong điều kiện trùm bọc nylon ở thời điểm
45 ngày sau khi giâm
Cành giâm Hồng Lộc trong điều kiện trùm bọc nylon ở thời điểm
75 ngày sau khi giâm
Cành giâm Hồng Lộc trong điều kiện trùm kín bọc nylon ở thời
điểm 60 ngày sau khi giâm
Cành giâm Hồng Lộc trong thí nghiệm
Phẫu diện cắt ngang của cành giâm cây Hồng Lộc trước khi giâm

19

3.2
3.3
3.4

3.5
3.6

(dưới kính lúp có độ phóng đại 4,5 lần)
Phẫu diện của cành giâm cây Hồng Lộc vào thời điểm 30 ngày sau
khi giâm cành

x

20
23
27
29
30


CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NAA: naphthalene acetic acid
IBA: indole-3- butyric acid
IAA: indole-3- acetic acid
NSKG: ngày sau khi giâm
ctv: cộng tác viên

xi


NHÂM TUYẾT SƯƠNG. 2012. “Ảnh hưởng của Naphthalene acetic acid kết hợp
trùm và không trùm bọc nylon đến sự tạo rễ của cành giâm cây Hồng Lộc
(Syzygium oleinum)”. Luận văn tốt nghiệp kỹ sư ngành Hoa viên & Cây cảnh,
Khoa Nông Nghiệp và Sinh học ứng dụng, Trường Đại Học Cần Thơ. Cán bộ

hướng dẫn: Ths. Nguyễn Văn Ây

TÓM LƯỢC
Cây Hồng Lộc (Syzygium oleinum) là một trong những loại cây cảnh được nhiều
người ưa chuộng chuộng vì cây có tên gọi đẹp, cành lá sum xuê, xanh tốt quanh
năm và đặc biệt là lá non có màu hồng, đây là đặc điểm nổi bật và thu hút của cây.
Cây được dùng để trang trí sân nhà, tiền sảnh cơ quan, dãy phân cách đường phố
và những vòng xoay giao lộ. Với nhu cầu trồng cây xanh làm đẹp nhà và phố
phường như hiện nay thì những đặc điểm của cây Hồng Lộc rất phù hợp và là lựa
chọn tốt. Vì vậy, đề tài: “Ảnh hưởng của Naphthalene acetic acid kết hợp trùm và
không trùm bọc nyon đến sự tạo rễ của cành giâm cây Hồng Lộc (Syzygium
oleinum)” được thực hiện nhằm tìm ra nồng độ NAA thích hợp, cũng như điều kiện
ẩm độ phù hợp trong việc giâm cành cây Hồng Lộc. Thí nghiệm được thực hiện tại
nhà lưới và phòng thí nghiệm sinh lý thực vật thuộc bộ môn Sinh lý-Sinh hóa, khoa
Nông Nghiệp và Sinh Học Ứng Dụng, trường đại học Cần Thơ từ tháng 01/2012
đến tháng 05/2012. Kết quả thí nghiệm cho thấy: Cành giâm sinh trưởng và phát
triển tốt, có tỷ lệ % tạo rễ cao, số rễ và chiều dài rễ cao ở nghiệm thức có trùm bọc
nylon kết hợp với chất điều hòa sinh trưởng NAA ở nồng độ 2.000 ppm và 3.000
ppm.

xii


MỞ ĐẦU
Hoa và cây cảnh là thú chơi tao nhã, giúp cho người ta quên đi mệt mỏi, căng thẳng
do áp lực của công việc. Đặc biệt, khi kinh tế xã hội ngày càng phát triển và đời
sống con người càng được nâng cao thì nhu cầu về thưởng thức hoa và cây cảnh
cũng ngày càng cao. Nghề trồng, sản xuất và kinh doanh hoa kiểng hiện nay cũng
mang lại thu nhập, lợi nhuận rất cao cho người trồng hoa kiểng.
Cây Hồng Lộc (Syzygium oleinum) là một trong những loại cây cảnh được nhiều

người ưa chuộng vì cây có tên gọi đẹp, cành lá sum xuê, xanh tốt quanh năm và đặc
biệt là lá non có màu hồng, đây là đặc điểm nổi bật và thu hút của cây. Cây được
dùng để trang trí sân nhà, tiền sảnh cơ quan, dãy phân cách đường phố và những
vòng xoay giao lộ. Với nhu cầu trồng cây xanh làm đẹp nhà và phố phường như
hiện nay thì những đặc điểm của cây Hồng Lộc rất phù hợp và là lựa chọn tốt nhất.
Hiện nay việc nhân giống cây Hồng Lộc chủ yếu bằng phương pháp giâm cành. Tại
những nơi trồng và kinh doanh cây Hồng Lộc nhiều nhất là Chợ Lách - Bến Tre và
Sa Đéc - Đồng Tháp, thì phương pháp giâm cành giâm cành tỏ ra hiệu quả hơn
trong việc nhân giống bằng các phương pháp khác như chiết cành hoặc trồng từ hột
do có hệ số nhân giống cao và cây con khỏe mạnh. Tuy nhiên, nồng độ của hợp chất
kích thích tạo rễ và điều kiện tối ưu cho cành giâm vẫn chưa được xác định rõ.
Do vậy, đề tài “Ảnh hưởng của Naphthalene acetic acid kết hợp trùm và không
trùm bọc nyon đến sự tạo rễ của cành giâm cây Hồng Lộc (Syzygium oleinum)”
được thực hiện nhằm tìm ra nồng độ NAA thích hợp, cũng như điều kiện ẩm độ phù
hợp trong việc giâm cành cây Hồng Lộc, từ đó có thể ứng dụng vào trong thực tế
sản xuất nhằm tạo ra nguồn cây con giống đạt chất lượng và số lượng cho thị trường
hiện nay.

1


CHƯƠNG 1. LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1 Sơ lược về cây Hồng Lộc
1.1.1 Nguồn gốc và phân bố
Cây Hồng Lộc có nguồn gốc từ vùng Châu Á nhiệt đới. Từ lâu, cây được tìm thấy ở
vùng núi cao Thái Lan với tên gọi là Kelat hay Jambu, được đem về làm cây cảnh
khá phổ biến ở Thái lan, Singapore. Riêng ở Việt Nam, cây phân bố nhiều ở miền
Nam.
1.1.2 Đặc tính thực vật
Cây Hồng Lộc có tên khoa học là Syzygium campanulatum hay Syzygium oleinum,

một loài trong chi Trâm (Syzygium), thuộc họ Sim (Myrtaceae). Cây mọc khỏe, gốc
thân cong queo, cành nhánh nhiều. Lá mọc đối dạng thuôn, dài hẹp, lúc non màu
hồng mềm mại khá hấp dẫn nổi trên nền lá xanh và thân xám (Hình 1.1). Cụm hoa
hùy nhỏ. Hoa màu trắng. Quả màu đỏ đậm (Trần Hợp, 1998).

Hình 1.1 Cây Hồng Lộc (Syzygium oleinum)
(Nguồn chụp từ Đồng Tháp)

2


1.1.3 Tình hình sử dụng cây Hồng Lộc
Theo Thạch Thảo (2011), người chơi kiểng hay cơ quan có xu hướng chọn cây
Hồng Lộc để trang trí sân nhà, những nơi công cộng, như tiền sảnh cơ quan, những
vòng xoay giao lộ và dãy phân cách đường phố như: đường Nguyễn Văn Cừ - thành
phố Cần Thơ, công trình Kho bạc nhà nước Cần Thơ, cây Hồng Lộc hiện nay cũng
được trồng rất nhiều ở dãy phân cách và vòng xoay trên các ngã đường, thành phố
Bến Tre và các tỉnh, thành phố khác.
Do đặc điểm của cây Hồng Lộc cùng với tên gọi đẹp đã tạo ra một thị trường tiêu
thụ mạnh. Những nơi trồng nhiều nhất là Chợ Lách - Bến Tre và Sa Đéc - Đồng
Tháp.
1.2 Nhân giống vô tính bằng phương pháp giâm cành
1.2.1 Cơ sở khoa học của phương pháp giâm cành
Dựa vào khả năng tái sinh của thực vật và tính độc lập của chúng từ bộ rễ, thân,
cành, lá và ngay cả những tế bào nhỏ bé trong các mô (mô phân sinh) cũng có thể
tái sinh, phân chia tế bào để tạo nên một cơ thể mới hoàn chỉnh. Như vậy, phương
pháp giâm cành là phương pháp nhân giống thực vật bằng cơ quan sinh dưỡng, là sự
nhân dòng thực vật với cành giâm là thân, lá hoặc rễ khi đặt các cơ quan này trong
điều kiện thích hợp thì chúng có khả năng khôi phục những bộ phận còn thiếu để trở
thành một cơ quan hoàn chỉnh. Phương pháp này có ý nghĩa quan trọng nhất trong

sự tái sinh nhiều loại hoa màu như cây cảnh, cây ăn trái, cây lấy hạt và cây rau.
a. Sự thành lập rễ bất định
Khả năng của nhiều loài cây và nhiều phần của cây có khả năng tạo rễ bằng cách
giâm dưới những điều kiện thích hợp là yếu tố quan trọng trong việc nhân giống của
nhiều loài. Thân, rễ hoặc lá có thể dùng làm nguồn cho việc nhân giống khi được
kết hợp với hóa chất thích hợp, tác nhân khoa học và những điều kiện của môi
trường. Một trong những lợi điểm chính của phương pháp nhân giống vô tính này là
cây mới được tạo thành giống như cây cha mẹ.
Theo Nguyễn Du Sanh (1995) và Mai Trần Ngọc Tiếng (1996), rễ bất định là những
rễ xuất phát từ bất cứ nơi nào trên cơ thể thực vật ngoại trừ từ rễ chính, tức là những
rễ không xuất phát từ rễ mầm của hạt.

3


Quá trình hình thành rễ bất định bao gồm hai giai đoạn chính:
- Giai đoạn 1: Cảm ứng và hình thành sơ khởi rễ (mụt rễ). Giai đoạn này rất khó
thấy được bằng mắt thường. Từ dưới đáy cành giâm (chỗ vết thương), trong những
vùng chứa các mô còn sống hoạt động mạnh (như tượng tầng nhu mô libe, nhu mô
gỗ,…), một vài tế bào quay lại chức năng sinh mô, chỉ làm nhiệm vụ sinh sản để tạo
thành một đám tế bào (thường được gọi là mô sẹo). Đám tế bào này tổ chức lại hình
thành sơ khơi rễ.
- Giai đoạn 2: Các sơ khởi rễ bắt đầu phân hóa và tăng trưởng thành rễ con chui ra
khỏi vỏ. Các loài dễ ra rễ thường có đủ hai giai đoạn trên.
Sự thành lập rễ bất định là sự tái phát triển đầu tiên cần thiết, là điều kiện bắt buộc
để thành công trong nhân giống bằng phương pháp giâm cành. Cành là một phần
của thân, trên cành có sẵn chồi, lá, thân, chỉ cần có thêm rễ là thành cây hoàn chỉnh.
Khi cắt cành rời thân thì yêu cầu kỹ thuật chính là làm cho ra rễ. Sự thành lập rễ bất
định xuất hiện trên nhiều loại cây: bắp, dứa hoang,… ở những vị trí khác nhau: cây
đơn tử diệp thường phát triển các rễ phụ, phát triển từ vòng quanh và gốc của đốt

cây. Cây mọc từ thân ngầm, chồi và các bộ phận khác cũng phát sinh rễ bất định. Rễ
bất định có hai dạng là rễ thành lập trước và rễ thành lập do vết thương (Hartmann
và ctv., 1990 trích dẫn bởi Mai Văn Trầm, 2009).
* Rễ thành lập trước
Thường xuất hiện ở các vị trí riêng như đốt hoặc thân. Đầu tiên rễ bắt đầu phát triển
tự nhiên trên thân, chúng gắn chặt vào thân, có thể nhô hoặc không nhô ra trước để
tách ra một mảnh thân. Có thể sống tiềm sinh cho đến khi thân được thành lập từ
cành giâm và dưới điều kiện môi trường thích hợp sẽ phát triển tốt hơn. Mầm rễ bất
định xuất hiện ở một số cây dễ ra cây như liễu, dương, lài… Vị trí đầu tiên của mầm
rễ thành lập trước giống như sự thành lập rễ bất định. Trong vài loại rễ củ và trên
thân cây già của một vài loại táo và cây trồng khác mầm ngủ thành lập trước làm
phồng lên những nốt tròn. Những loài có mầm rễ thành lập trước mọc nhanh chóng
và dễ dàng.
* Rễ tạo bởi vết thương
Chỉ phát triển sau khi cành được giâm. Quá trình của sự kích thích vết thương và rễ
được tái sinh gồm 3 bước:
- Ở vị trí mặt cắt, một số tế bào bên ngoài bị chết, một số tự làm lành vết thương và
bảo vệ mặt cắt khỏi bị xâm nhập của nấm bệnh.

4


- Các tế bào sống phía sau vết cắt này bắt đầu phân chia sau vài ngày và một lớp tế
bào nhu mô được tạo thành một nhu bì vết thương.
- Vài tế bào kế cận vùng tượng tầng và libe bắt đầu phân chia và hình thành rễ bất
định. Quá trình này có thể phân chia thành 4 giai đoạn: (1) làm mất sự chuyên hóa
của các tế bào chuyên hóa, (2) thành lập mầm rễ từ các tế bào gần bó mạch, (3) sự
phát triển liên tục của các mầm rễ để trở thành mầm rễ có tổ chức, và (4) sự xuất
hiện và phát triển của mầm rễ xuyên qua các mô bao quanh ra ngoài.
1.2.2 Những ưu nhược điểm của phương pháp giâm cành

a. Ưu điểm
Các cây nhân ra hoàn toàn giống với cây mẹ có khả năng tồn tại lâu dài một kiểu
gene, không có sự thay đổi về di truyền, giữ được những đặc tính sinh học và đặc
tính kinh tế của giống mong muốn. Các cá thể mới tạo có độ đồng đều với số lượng
lớn mà không phụ thuộc vào mức độ dị hợp của các kiểu gene, nên vườn cây sẽ
đồng đều. Cây giống sau khi trồng sớm ra hoa kết trái, thường thì sớm hơn 2-3 năm
tùy giống, so với cây trồng từ hạt. Tốc độ nhân giống nhanh, tạo cây giống nhanh,
phục vụ cho yêu cầu sản xuất. Cấc đột biến có lợi khó bị mất đi, do nó không trải
qua quá trình phân bào giảm nhiễm (Hoàng Ngọc Thuận, 2000).
b. Nhược điểm
Đối với những giống cây khó ra rễ, sử dụng phương pháp này đòi hỏi phải có những
trang bị cần thiết và kỹ thuật cao để có thể khống chế được điều kiện ngoại cảnh
trong nhà giâm như ẩm độ, ánh sáng, nhiệt độ…
Thông thường than của các cây ở vùng đất ẩm ra rễ tốt hơn; chúng có khả năng
sinh sản vô tính, ngay cả trong điều kiện tự nhiên, đây là điểm đặc trưng. Các cây
hạn sinh, đặc biệt là các cây có cấu tạo dạng chịu hạn (ngoài các cây mọng nước)
rất khó ra rễ.
1.2.3 Kỹ thuật giâm cành
a. Nhà giâm cành
Tùy điều kiện kinh phí mà thiết kế các nhà giâm cành, nhà giâm cành có thể là nhà
kính, nhà lưới hay đơn giản là những thanh sắt hoặc cây tre uốn thành hình vòm
cung được che nắng che mưa một cách cẩn thận. Vườn ươm cần che sáng 50%, độ
cao của giàn che tùy thuộc khả năng giữ ẩm độ trong suốt thời gian giâm. Nếu chủ
động được độ ẩm không khí thì che cao, nếu không chủ động thì có thể che thấp
khoảng 1 m.

5


b.Thành phần đất giâm cành

Theo Nguyễn Bảo Vệ và Lê Thanh Phong (2005), môi trường giâm cành có ảnh
hưởng đến tỷ lệ ra rễ và chất lượng rễ. Môi trường giâm được sử dụng là cát khô,
than bùn, xơ dừa hoặc là nền đất tùy thuộc vào điều kiện giâm cành, thời vị giâm,
chủng loại giống và loại cành giâm khác nhau.
Môi trường giâm có thể gồm một phần đất phù sa hoặc đất cát pha thịt nhẹ phối trộn
tro trấu với mụn xơ dừa. Tùy theo cành giâm mà có thể giâm với môi trường ướt
hay khô. Có thể thiết lập những môi trường sau:
- Môi trường đất: thường được dùng cho giâm cành, giâm rễ. Đất có sa cấu thịt pha
cát thì thích hợp. Có thể dùng 2 phần cát khô trộn với một phần đất, chú ý diệt
tuyến trùng và mầm bệnh. Tuy nhiên, môi trường đất không thích hợp cho loại cành
nhiều nhựa, gỗ mềm.
- Môi trường cát: có thể sử dụng rộng rãi vì dễ làm. Dùng cát xây dựng, sạch không
có chất hữu cơ và đất. Cát thường không giữ ẩm tốt, do đó cần cung cấp nước
thường xuyên. Rễ mọc ra trong môi trường cát thường dài, ít phân nhánh và giòn
hơn.
- Môi trường than bùn: thường được trộn thêm với cát để giâm, gồm 2 phần cát và 1
phần than bùn.
- Môi trường trấu: được sử dụng khá phổ biến hiện nay. Chú ý việc thay trấu thường
xuyên sẽ tránh mầm bệnh lây lan.
c. Chọn cành giâm
Cành giâm phải đạt tỉ lệ sống cao, cây con phát triển khỏe, vì vậy cần chọn cành
giâm tốt, không sâu bệnh, tốt nhất là chọn cành bánh tẻ để giâm. Theo Hansen
(1989) cho rằng vị trí cành được cắt trên cây mẹ có ảnh hưởng rất lớn đến số lượng
rễ hình thành, cành cắt ở giữa vị trí non và già (cành bánh tẻ) rất tốt cho sự tạo rễ
sau khi giâm cành.
Đối với cây hoa kiểng thân thảo nếu chọn cành non mềm và quá ngắn, cành sẽ dễ
chết do mất nước, dễ bị thối trước khi mọc rễ hoặc cây sẽ mọc yếu. Cành già thì
không đủ dinh dưỡng nuôi ngọn trong thời gian cây chưa ra rễ hoặc cây con sinh
trưởng chậm, hoa trái sẽ nhỏ.


6


d. Chọn thời điểm giâm
Nên tiến hành giâm cành vào ngày trời mát, cắt cành giâm vào buổi sáng - lúc cây
có lượng nước cân bằng, nếu cắt nhiều nên tưới nước nhẹ cành giâm được tươi
trước khi xử lý. Dùng kéo hay dao sắc cắt từng cành có độ dài khoảng 10-12 cm,
mang 4-5 lá, nếu cần có thể tỉa bỏ bớt một vài lá giá gần gốc, nhúng thuốc kích
thích ra rễ rồi đem giâm.
e. Hóa chất kích thích ra rễ cành giâm
Những chất kích thích sự ra rễ cành giâm thuộc nhóm auxin.
Một đặc trưng của các auxin là tạo sự phân chia tế bào. Năm 1953, Went và
Thiamann chứng minh rằng auxin (IAA) kích thích sự tạo rễ (Lê Văn Hòa và
Nguyễn Bảo Toàn, 2005). Trong tự nhiên auxin giúp sự vươn dài của thân, lóng,
ngọn và sự ra rễ. Trong giâm cành, auxin được dùng cho sự phân chia tế bào và
phân hóa rễ, ức chế sự thành lập chồi bên.
*Auxin có tác dụng sinh lý đến quá trình sinh trưởng của tế bào, làm cho các bộ
phận của cây to về chiều ngang do giãn theo chiều ngang của tế bào. Ngoài ra,
auxin còn kích thích sự tổng hợp các cấu tử cấu trúc nên thành tế bào như các chất
cellulose, pectin, hemicellulose...
* Auxin kích thích sự hình thành rễ của cây: Sự hình thành rễ phụ của các cành
giâm, cành chiết có thể chia làm ba giai đoạn:
+ Giai đoạn đầu là phản phân hóa tế bào trước tầng phát sinh.
+ Giai đoạn hai là xuất hiện mầm rễ.
+ Giai đoạn ba là mầm rễ sinh trưởng thành rễ phụ chọc thủng vỏ và ra ngoài.
Ðể khởi xướng sự phản phân hóa tế bào mạnh mẽ để hình thành rễ thì cần hàm
lượng auxin khá cao.
* Auxin gây hiện tượng ưu thế ngọn: Hiện tượng ưu thế ngọn là một hiện tượng phổ
biến ở trong cây. Khi chồi ngọn hoặc rễ chính sinh trưởng sẽ ức chế sinh trưởng của
chồi bên và rễ bên. Ðây là một sự ức chế tương quan vì khi loại trừ ưu thế ngọn

bằng cách cắt chồi ngọn và rễ chính thì cành bên và rễ bên được giải phóng khỏi ức
chế và lập tức sinh trưởng.
Theo Nguyễn Minh Chơn (2010), auxin ảnh hưởng lớn trên sự kích thích ra rễ và đã
được thương mại hoá. Các chất tổng hợp như IBA và NAA đã cho hiệu quả kích
thích tạo rễ cao hơn cả IAA. Auxin cũng ức chế tạo rễ với nồng độ cao.
Các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của rễ cần ít auxin hơn và có khi còn gây ức
chế. Theo Bùi Trang Việt (2000) cho rằng auxin ở nồng độ cao kích thích sự tạo sơ

7


khởi rễ (phát thể non của rễ), nhưng cản sự phát triển của các sơ khởi này. Đặc tính
này được sử dụng phổ biến trong giâm cành, đã được chứng minh bao gồm ít nhất 2
giai đoạn: tạo sơ khởi rễ và kéo dài sơ khởi này (Mai Trần Ngọc Tiếng và ctv.,
1980).
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của Spark và Chapman (1970) cho thấy rằng khi
xử lý cành giâm bằng auxin sẽ làm tăng phần trăm cành ra rễ, tạo rễ nhanh, số rễ
tăng và độ đồng đều cao khi các điều kiện nhiệt độ, ẩm độ, ánh sáng và môi trường
thích hợp.
Nguồn auxin này có thể là nội sinh, có thể xử lý ngoại sinh. Vai trò của auxin cho
sự phân hóa rễ thể hiện rất rõ trong nuôi cấy mô và giâm cành. Theo Salehi và
Shosh-Khui (1997) sử dụng kết hợp IAA và NAA trong môi trường nuôi cấy để
cảm ứng ra rễ hoa hồng Rosa hybrida.
Trong kỹ thuật nhân giống vô tính thì việc sử dụng auxin để kích thích sự ra rễ là
cực kỳ quan trọng. Theo Đinh Văn Khiêm và ctv. (2004) trên cây Thu hải đường thì
tỷ lệ ra rễ và số lượng rễ trên mẫu tăng dần theo nồng độ của NAA và IBA khi sử
dụng riêng lẻ.
Trong sự hình thành rễ, đặc biệt là rễ bất định, auxin có tác dụng rất đặc trưng. Theo
Võ Thanh Tân (2004) hiệu quả nổi bật của NAA là tạo rễ bất định cho cành chiết,
cành giâm; trong thí nghiệm giâm cành cỏ Vetiver, nồng độ NAA 1.000 ppm đã cho

kết quả rất cao từ 80-100%. Vì vậy người ta xem auxin như là chất hình thành rễ
(rooting hormone). Auxin tổng hợp như IBA không chỉ kích thích sự ra rễ cành
giâm mà còn tạo ra nhiều rễ (Hartmann và Kester, 1983).
Theo Nguyễn Văn Uyển và ctv. (1984), các chất điều hòa sinh trưởng nhóm auxin
gồm 2,4-D; NAA; IBA sử dụng với nồng độ trong khoảng 0,1-5 mg/l.
Auxin được dùng với hàm lượng thấp thì sẽ gia tăng sự hình thành rễ phụ, ngược lại
nếu dùng ở nồng độ cao thì sẽ ảnh hưởng không tốt đến sự tạo lập rễ nhưng lại kích
thích sự tạo callus (Vũ Văn Trụ, 1999). Theo Bùi Bá Bổng (1995) nồng độ auxin
trong môi trường tạo rễ (NAA hoặc IBA) từ 0,1-1 mg/l.
Theo nhận định của Hudson (1997) cho rằng hai chất điều hòa sinh trưởng thực vật
là IBA và NAA kích thích sự ra rễ ở cành giâm rất tốt trong việc nhân giống vô
tính. Theo Arteca (1996) thì cũng có nhận định giống như trên, là hai chất điều hòa
sinh trưởng thực vật IBA và NAA kích thích ra rễ ở cành giâm cho nhiều loại thực
vật thân gỗ mềm. Một nhận định khác là khi giâm cành các loại cây thân gỗ mềm
bằng IBA ở nồng độ 1.000- 2.000 ppm có kết quả tốt (Bir, 1992).

8


Theo Vũ Văn Trụ và ctv. (2000) để kích thích ra rễ phụ ở cành giâm, cành chiết thì
hóa chất có hiệu quả nhất là IBA và NAA. Theo Đặng Thái Dương (2006) thì xử lý
cành giâm cây Sở với NAA hay IBA ở nồng độ 500 ppm đạt kết quả cao nhất.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của Hartmann và ctv. (1990; trích dẫn bởi Mai Văn
Trầm, 2009) thì khi áp dụng IBA và NAA ngoại sinh có tác dụng kích thích ra rễ tốt
hơn sử dụng IAA. Mặt khác, khi sử dụng IAA còn có một bất lợi là IAA rất mẫn
cảm với ánh sáng vì vậy khi xử lý cành giâm với IAA yêu cầu phải thực hiện trong
tối (Pati và ctv., 2004).
Một trong những ứng dụng chính của auxin là chúng kích thích quá trình tạo rễ. Do
đó nó được áp dụng trong vi nhân giống và tạo rễ của cành giâm và cành chiết.
Ngoài ra, auxin còn nhiều tác dụng khác như: tạo chồi bất định, kích thích phôi sinh

dưỡng, thành lập mô sẹo (callus) và tăng trưởng, ức chế sự phát triển chồi nách
(Nguyễn Bảo Toàn, 2010).
Auxin tổng hợp như NAA có tác dụng sinh lý giống như auxin tự nhiên là IAA,
ngoài ra do ít bị enzyme nội bào phân giải, nên đã được sử dụng rất rộng rãi trong
các ứng dụng nông nghiệp như kích thích cây, cành chiết, cành giâm ra rễ (Nguyễn
Văn Uyển và Nguyễn Tiến Thắng, 1997).
*Sự đáp ứng tạo rễ đối với chất điều hòa sinh trưởng
Theo Nguyễn Bảo Toàn (2010) thực vật có thể được chia làm kiểu liên quan đến
chất điều hòa sinh trưởng ảnh hưởng trên sự tạo rễ cành giâm.
Những thực vật có tất cả các chất nội sinh cơ bản cộng với auxin. Khi cành giâm
được đặt dưới các điều kiện thích hợp sẽ nhanh cho rễ.
Những thực vật có chứa các chất nội sinh nhiều nhưng auxin bị giới hạn. Khi áp
dụng auxin rễ được thành lập nhanh. Những thực vật thiếu chất nội sinh hoặc thiếu
các tế bào mẫn cảm đối với các chất này mặc dù auxin tự nhiên có thể có nhiều hay
không hiện diện. Áp dụng auxin ngoại sinh vẫn không tạo rễ hoặc tạo ít rễ.
1.2.4 Yêu cầu về điều kiện môi trường cho cành giâm
a. Ẩm độ
Cành giâm là một thực thể sống, sau khi cắt rời khỏi cây mẹ, do thiếu hụt nước, mất
nguồn cung cấp dinh dưỡng đột ngột nên bị sốc sinh lý. Vì vậy, việc tưới nước và
giữ ẩm trong giai đoạn đầu là rất cần thiết để hạn chế sự mất nước giúp cành giâm
hồi phục và phát triển nhờ vào dinh dưỡng ở nội tại của chính nó (Võ Đại Thanh
Lâm, 1998).

9


Theo Nguyễn Bảo Toàn (2010), để hạn chế sự mất nước của cành giâm nên sử dụng
hệ thống phun sương hoặc trùm kín cành giâm.
Với điều kiện thoát hơi nước thấp sẽ làm giảm sự mất nước cho cành giâm, tránh sự
thiếu hụt nước trong mô và tế bào của cành giâm duy trì sự thành lập và phát triển

rễ. Cành giâm bị chết trước khi mọc rễ do mất nước là thất bại trong nhân giống
bằng giâm cành. Cành giâm tạo ra lá mới do việc cắt ngọn thì sẽ làm bay hơi và mất
nước nghiêm trọng (Evans và Wildes, 1970; trích dẫn bởi Mai Văn Trầm, 2009).
Trạng thái nước của cành giâm là sự cân bằng giữa sự mất nước và sự hấp thu nước.
Sự hấp thu nước của cành giâm chịu ảnh hưởng của môi trường giâm cành, với môi
trường ẩm ướt thì làm tăng sự hấp thu nước. Tuy nhiên nếu thừa nước sẽ làm giảm
sự thoáng khí của môi trường giâm và gây ra bệnh, ngăn chặn hay làm trì hoãn sự
phát triển của rễ (Bir, 1992).
b. Nhiệt độ
Đối với các loài cây thì nhiệt độ phù hợp cho cành giâm ra rễ vào khoảng 18-25oC.
Nhiệt độ ban ngày 27-29oC và ban đêm ở 15oC là phù hợp cho cành giâm ra rễ. Vì
vây, nhiệt độ cần được duy trì ở mức thích hợp cho sự tái sinh nhu cầu trao đổi chất
của cành giâm. Tránh sự sốc nhiệt của lá (Chí Thiện, 2002; Hiệp hội hoa Đà Lạt,
2007). Theo nhận định của Abd (1989) cho rằng nhiệt độ không khí quá cao sẽ làm
hỏng cành giâm.
Nhiệt độ ở đáy bồn giâm cành cũng có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành
rễ cành giâm. Hồ Minh Bạch (1981) cho rằng việc cung cấp thêm nhiệt độ ở đáy bể
giâm cành sẽ giúp gia tăng sự vận chuyển chất từ lá xuống đáy cành giâm tốt hơn và
làm cho cành giâm ra rễ nhanh hơn. Theo Wells (1995) cho rằng nhiệt độ ở đáy bể
giâm cành được nâng cao hơn bình thường, điều này kích thích sự gia tăng hô hấp;
khi rễ phát triển thì nhiệt độ thích hợp là 22-25oC .
c. Ánh sáng
Cành giâm là loài thân gỗ ra rễ tốt nhất ở bức xạ thấp. Tuy nhiên, ở cành giâm loài
thân thảo ra rễ tốt hơn khi bức xạ ánh sáng tăng tới 116 W/m2. Bức xạ ánh sáng quá
cao làm ảnh hưởng đến sự ra rễ và phát triển của rễ. Vì vậy, ánh sáng rất quan trọng
đối với việc thành lập rễ ở cành giâm. Theo Hartmann và Kester (1968; trích dẫn
bởi Mai Văn Trầm, 2009) nếu cành giâm có lá thì việc tạo rễ nhiều nhất ở nơi có
đầy đủ ánh sáng dù không có xử lý auxin. Do đó, khi cành giâm không có lá hoặc lá
vàng úa sẽ hạn chế số rễ tạo thành dù có xử lý auxin. Theo nghiên cứu của Hossain
và ctv. (2005) phần trăm rễ hình thành và chiều dài rễ của cành giâm cây Bambusa

vulgaris đạt cao nhất ở nghiệm thức có che sáng và xử lý IBA.

10


Nếu duy trì cường độ ánh sáng phù hợp cho quang hợp và tạo tinh bột cho cành
giâm thì khi rễ xuất hiện sẽ không bị sốc về nước. Quá trình ra rễ là quá trình hô
hấp mạnh đòi hỏi nguồn carbohydrate cung cấp từ quang hợp lớn (George, 1993).
Do vậy, tăng cường hàm lượng đường hoặc nguồn ánh sáng thích hợp giúp cây ra rễ
tốt hơn. Cường độ ánh sáng và thời gian chiếu sáng phải đủ để tích lũy carbohydrate
vận chuyển xuống thành rễ. Việc dự trữ chất carbohydrate có sẵn từ trước của cây
cũng rất cần cho việc thành lập rễ (Hartmann và Kester, 1968 trích dẫn bởi Mai Văn
Trầm, 2009).
1.2.5 Các kết quả nghiên cứu có liên quan
a. Các nghiên cứu trong nước
Theo Dương Công Kiên (2007) không phải giống hồng nào cũng có khả năng giâm
thành công. Có giống cắt cành đem giâm dù trong môi trường tốt nhất cũng không
bao giờ ra rễ. Vì vậy, trong giâm cành cần có xử lý các chất điều hòa sinh trưởng
thực vật ngoại sinh dùng để kích thích cành giâm ra rễ như Indole acetic acid (IAA)
và NAA với nồng độ từ 2.000 ppm đến 2.500 ppm, cành hồng sau khi cắt xong
được nhúng nhanh trong 5 giây sau đó cắm vào giá thể.
Bên cạnh đó NAA và IBA thường được sử dụng để tạo rễ (Nguyễn Văn Uyển,
1993). Theo báo Nông nghiệp Việt Nam ra ngày 13-4-2005, muốn kích thích cành
giâm hồng Nhung ra rễ nhanh ta dùng 1 trong 2 loại thuốc điều hòa sinh trưởng là
IAA và NAA nồng độ từ 2.000-2.500 ppm, sau khi cành cắt xong đem nhúng nhanh
vào dung dịch pha sẵn trong khoảng thời gian từ 3-5 giây rồi đem cắm vào giá thể.
Theo Mai Văn Trầm (2009) để giâm cành cây hoa hồng Nhung nên sử dụng giá thể
gồm có 3 tro trấu + 1 trấu mục + 1 mụn dừa và che sáng 75%, kết hợp trùm kín bọc
nylon và cành giâm có xử lý NAA (1000 ppm) hoặc IBA (1.000 ppm) sẽ cho số rễ
và tỉ lệ cành ra rễ sống cao nhất.

b. Các nghiên cứu ngoài nước
Một số nghiên cứu cho thấy khi xử lý IBA ở nồng độ 1.000 ppm trong giâm cành
hoa hồng đã cho số rễ đạt cao nhất trên giống hoa hồng Rosa bourboniana (Adnan
và Atif, 2005). Theo Hussain và Khan (2004) khi xử lý IBA ở nồng độ 1.000 ppm
cành giâm hai giống hoa hồng Rosa bourboniana và Rosa grussanteplitz cũng cho
kết quả tương tự là chiều dài rễ, chồi và số rễ đạt cao nhất. Một nhận định khác
cũng cho thấy chất điều hòa sinh trưởng thực vật IBA và NAA có thể kích thích ra
rễ ở cành giâm các loại hoa dùng để trang trí bao gồm cả hoa hồng (Pandey và
Sinha, 1997).

11


Khi sử dụng kết hợp các loại chất điều hòa sinh trưởng thực vật làm gia tăng hiệu
quả trong việc kích thích ra rễ ở cành giâm. Theo Vijaga và ctv. (1991) cho rằng
NAA là loại auxin được sử dụng kết hợp có hiệu quả nhất so với IAA hoặc IBA. Sự
gia tăng số rễ và chiều dài rễ cành giâm đã được chứng minh qua thí nghiệm của
Bhujbal và Kale (1973), khi thử nghiệm các loại auxin IBA, IAA và kết hợp IAA +
IBA trên cành giâm các giống hoa hồng Rosa multiflora, Rosa bourboniana và
Rosa moschata trước khi trồng ở các nồng độ 500, 1.000 và 1.500 ppm kết quả cho
thấy khi kết hợp IAA + IBA ở nồng độ 1.000 ppm cho số rễ nhiều và dài hơn.
Một kết quả nghiên cứu khác cho thấy khi xử lý IBA 1.500 ppm + NAA 1.500 ppm
trên cành giâm cây Thumbergia grandiflora chiều dài rễ đạt cao nhất (Vinaykumar
và ctv., 2008).
Các kết quả nghiên cứu của Randhawa và Mukhopadhyay (1994); Pandey và Sinha
(1997) cũng cho thấy rằng những chất thường sử dụng trong việc kích thích ra rễ ở
cành giâm là IBA và Seradix. Trong sự hình thành rễ, đặc biệt là rễ bất định, auxin
có tác dụng rất đặc trưng. Vì vậy, người ta xem auxin như là chất hình thành rễ.
Bên cạnh chất điều hòa sinh trưởng thực vật thì nhiệt độ cũng rất quan trọng, ảnh
hưởng đến sự ra rễ của cành giâm hoa hồng. Theo nghiên cứu của Bredmose và ctv.

(2004) đã cho thấy khi ở nhiệt độ 24,6oC và có xử lý IBA với nồng độ từ 10-3 M đến
10-1 M thích hợp cho cành giâm hoa hồng hình thành rễ.
Chiều dài cành giâm cũng ảnh hưởng đến khả năng tạo rễ. Gudin và ctv. (2001)đã
tiến hành giâm cành trên giống hồng Rosa hybrida L.. Kết quả cho thấy chiều dài
cành giâm khoảng 20 cm chứa 3-4 mầm chồi sẽ cho tỷ lệ tạo rễ trên 95% ở nồng độ
IBA cao hơn 500 ppm.
Trong giai đoạn đầu của quá trình giâm cành, lá có vai trò quan trọng. Theo khảo
sát của Costa và ctv. (2001) cho thấy khi loại bỏ lá hoàn toàn hoặc hoàn toàn che
kín lá đã làm hạn chế rất lớn đến sự tạo rễ của cành giâm trên giống hồng Rosa
hybrida Madelon.

12


×