Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

HIỆU QUẢ của các mức độ đạm THÔ BẰNG bổ SUNG BÁNH đa DƯỠNG CHẤT lên tỷ lệ TIÊU hóa, các THÔNG số dạ cỏ và TĂNG TRỌNG của bò LAI SIND

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 34 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG

NGUYỄN QUỐC ĐOÀN

HIỆU QUẢ CỦA CÁC MỨC ĐỘ ĐẠM THÔ BẰNG
BỔ SUNG BÁNH ĐA DƯỠNG CHẤT LÊN TỶ LỆ
TIÊU HÓA, CÁC THÔNG SỐ DẠ CỎ VÀ
TĂNG TRỌNG CỦA BÒ LAI SIND

Luận văn tốt nghiệp
Ngành: CHĂN NUÔI - THÚ Y

Cần Thơ, 2010


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG

Luận văn tốt nghiệp
Ngành: CHĂN NUÔI - THÚ Y

Tên đề tài:

HIỆU QUẢ CỦA CÁC MỨC ĐỘ ĐẠM THÔ BẰNG
BỔ SUNG BÁNH ĐA DƯỠNG CHẤT LÊN TỶ LỆ
TIÊU HÓA, CÁC THÔNG SỐ DẠ CỎ VÀ
TĂNG TRỌNG CỦA BÒ LAI SIND

Giáo viên hướng dẫn:


Sinh viên thực hiện:

PGS.TS.Nguyễn Văn Thu

Nguyễn Quốc Đoàn
MSSV: 3060586
Lớp: Chăn Nuôi – Thú Y

Cần Thơ, 2010


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN CHĂN NUÔI

HIỆU QUẢ CỦA CÁC MỨC ĐỘ ĐẠM THÔ BẰNG
BỔ SUNG BÁNH ĐA DƯỠNG CHẤT LÊN TỶ LỆ
TIÊU HÓA, CÁC THÔNG SỐ DẠ CỎ VÀ
TĂNG TRỌNG CỦA BÒ LAI SIND

Cần Thơ, ngày…tháng…năm 2010
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN

Cần Thơ, ngày…tháng…năm 2010
DUYỆT BỘ MÔN

Nguyễn Văn Thu
Cần Thơ, ngày……...tháng……..năm 2010
DUYỆT KHOA NÔNG NGHIỆP



Chương 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
Nước ta là một nước nông nghiệp, trong đó chăn nuôi đại gia súc luôn là bộ phận
gắn kết quan trọng. Trước đây việc chăn nuôi trâu bò chủ yếu là nuôi tận dụng để lấy
phân, sức kéo, đến khi già yếu thì bán làm thịt. Việc phát triển chăn nuôi bò thịt
chậm tiến chủ yếu là do trình độ kỹ thuật của nông dân còn kém, công tác giống ít
được chú ý, phần lớn là nuôi quảng canh, thiếu đồng cỏ chuyên dùng nên bò rất nhỏ
con, sức cày kéo kém, năng suất và chất lượng thịt cũng kém.
Hàng năm ở Đồng Bằng Sông Cửu Long có một lượng rất lớn rơm lúa được tạo ra
và cỏ tự nhiên ở khu vực này là khá phong phú. Đó có thể được xem là một điều
kiện thuận lợi để nuôi bò bởi vì rơm và cỏ có thể được sử dụng làm khẩu phần cơ sở
để nuôi bò. Tuy nhiên nếu chỉ cho bò ăn rơm và cỏ thì chưa đảm bảo đầy đủ nhu cầu
dinh dưỡng, đặc biệt là nhu cầu về đạm. Chính vì vậy một vấn đề được đặt ra là làm
thế nào để sử dụng hiệu quả nguồn rơm, cỏ này để nuôi bò cùng với việc tìm ra các
loại thức ăn bổ sung đạm hiệu quả. Kết quả nghiên cứu của Thu, N. V. and Udén, P.,
2000 và Nguyen Van Thu (2001) cho thấy việc bổ sung nguồn đạm từ bánh đa
dưỡng chất vào khẩu phần cơ bản là rơm lúa và thân cây bắp sau thu hoạch đã làm
tăng năng suất dạ cỏ, tỷ lệ tiêu hoá cũng như năng suất sản xuất của gia súc.
Chính vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu:“Hiệu quả của các mức độ đạm
thô bằng bổ sung bánh đa dưỡng chất lên tỉ lệ tiêu hóa, các thông số dạ cỏ và tăng
trọng của bò Lai Sind”.
Mục tiêu đề tài:
Xác định ảnh hưởng của các mức độ đạm thô từ khẩu phần có bổ sung bánh đa
dưỡng chất lên tỷ lệ tiêu hoá các dưỡng chất, các thông số dạ cỏ, nitơ tích luỹ và
tăng trọng của bò Lai Sind. Trên cơ sở đó lựa chọn và khuyến cáo khẩu phần tối ưu
cho nuôi bò Lai Sind giai đoạn tăng trưởng.

1



Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA BÒ LAI SIND
Bò là loài động vật nhai lại, theo phân loại động vật thì bò thuộc loại động vật có vú
(Manmnila), bộ guốc chẵn (Actiodactyla).
Bò Lai Sind là lai giữa bò đực giống RedSindhi và bò cái Vàng Việt Nam. Lúc
trưởng thành bò đực cao 1,3m, nặng 320 – 440 kg/con; con cái 1,1m, nặng
275kg/con. Bò Lai Sind có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt, thích nghi với
điều kiện và tập quán chăn nuôi ở Việt Nam.
2.2. ĐẶC ĐIỂM SINH LÝ TIÊU HÓA CỦA GIA SÚC NHAI LẠI
2.2.1. Bộ máy tiêu hoá của gia súc nhai lại
Miệng và răng động vật nhai lại rất thích hợp cho việc lấy và nghiền thức ăn, các
tuyến nước bọt rất phát triển ở miệng và tiết ra một lượng rất lớn nước bọt giúp cho
quá trình nhai lại và nhào trộn thức ăn được dễ dàng. Nước bọt được tiết khi ăn,
nhai lại và cả ngoài thời gian nhai lại.
Dạ cỏ chiếm khoảng 80% toàn bộ dung tích dạ dày, sự tiêu hóa ở dạ cỏ có ý nghĩa
rất lớn. theo ghi nhận có 50 - 65% vật chất khô tiêu hóa của khẩu phần đã được tiêu
hóa ở dạ cỏ, 30 - 50% cellulose và hemicellulose đã được tiêu hóa tại đây nhờ lên
men của hệ vi sinh vật trong dạ cỏ mà không có sự tham gia của men celluloza và
hemicelluloza tiết ra từ gia súc, đây là điểm nổi bật của gia súc đa vị so với gia súc
độc vị (McDonal et al.,1995).
Sau dạ cỏ là dạ tổ ong, được nối với dạ cỏ bằng một miệng lớn và sự di chuyển thức
ăn giữa hai dạ này khá dễ dàng.
Kế dạ tổ ong là dạ lá sách có hình cầu phủ nhu mô ngắn sắp xếp sao cho chất tiêu hóa
chuyển giữa các khe tới dạ múi khế, hầu hết nước và các chất điện giải được hấp thu
ở dạ lá sách. Giữa dạ tổ ong và dạ lá sách có một miệng như một cái "van" để giữ
thức ăn lại trong dạ cỏ cho tới khi đường kính của thức ăn giảm xuống còn 1- 2mm.
Dạ múi khế hay còn gọi là dạ dày thực, nằm phía sau dạ lá sách, ở đây phần còn lại
của thức ăn mà vi sinh vật dạ cỏ chưa lên men nhưng có khả năng tiêu hóa sẽ được
tiêu hóa bằng Enzym.
Tá tràng, kết tràng và ruột non có chức năng tương tự như ở động vật dạ dày đơn.

Ruột già là phần cuối cùng, ruột thừa có một túi mù nằm phía trước mặt lưng
(Preston & Leng., 1991).
2.2.2. Sự nhai lại

2


Thức ăn được nuốt xuống dạ cỏ và lên men ở đó. Phần thức ăn chưa được nhai kỹ
nằm trong dạ cỏ và dạ tổ ong sẽ được ợ lên và nhai lại ở trong xoang miệng. Thức
ăn được nhai kỹ và thấm nước bọt lại được nuốt trở lại dạ cỏ.
Sự nhai lại diễn ra 5 - 6 lần trong ngày, mỗi lần kéo dài khoảng 50 phút. Thời gian nhai
lại phụ thuộc vào bản chất vật lý của thức ăn, trạng thái sinh lý của con vật, cơ cấu
khẩu phần. Thức ăn thô trong khẩu phần càng ít thì sự nhai lại càng ngắn. Cường độ
nhai lại mạnh nhất vào buổi sáng, buổi chiều (Nguyễn Xuân Trạch, 2003).
2.2.3. Môi trường dạ cỏ
Theo Preston và Leng (1991), môi trường dạ cỏ phụ thuộc vào:
 Loại và khối lượng thức ăn ăn vào
 Sự nhào trộn theo chu kỳ thông qua sự co bóp của dạ cỏ
 Sự tiết nước bọt và nhai lại
 Sự hấp thu các dưỡng chất từ dạ cỏ
 Sự chuyển dịch các chất xuống bộ máy tiêu hoá
2.2.4. Hệ sinh thái vi sinh vật dạ cỏ
Hệ vi sinh vật dạ cỏ rất phức tạp và phụ thuộc nhiều vào khẩu phần. Hệ vi sinh vật
dạ cỏ gồm có 3 nhóm chính: vi khuẩn, nguyên sinh động vật và nấm.
Vi khuẩn (Bacteria)
Vi khuẩn chiếm số lượng lớn nhất trong vi sinh vật dạ cỏ, với hơn 60 loài, thường
có khoảng 109 - 1010 tế bào/g chất chứa dạ cỏ. Trong dạ cỏ vi khuẩn ở dưới dạng tự
do chiếm khoảng 30%, còn lại 70% bám vào các mẫu thức ăn, trú ngụ ở các nếp gấp
biểu mô và bám vào nguyên sinh động vật.
Vi khuẩn ở dưới dạng tự do trong dịch dạ cỏ phụ thuộc vào các chất hòa tan, đồng

thời cũng có một số lượng vi khuẩn di chuyển từ mẫu thức ăn này sang mẫu thức ăn
khác. Thức ăn liên tục chuyển khỏi dạ cỏ cho nên phần lớn vi khuẩn bám vào thức
ăn sẽ bị tiêu hóa. Vì vậy số lượng vi khuẩn ở dạng tự do trong dịch dạ cỏ rất quan
trọng để xác định tốc độ công phá và lên men thức ăn.
Vi khuẩn phân giải xơ
Chiếm một tỷ lệ nhỏ (<10%) trong tổng số các loại vi khuẩn. Tại dạ cỏ, vi khuẩn
phân giải xơ tiết ra men để tiêu hóa chất xơ, đây là loại vi khuẩn quan trọng nhất
trong dạ cỏ, chúng phân giải được cellulose, hemicellulose và pectin, điều đó rất có
ý nghĩa đối với sự lên men xơ ở loài nhai lại.
Vi khuẩn phân giải carbohydrat không phải xơ (NFC)

3


Số lượng của chúng tăng lên khi cho gia súc ăn những khẩu phần giàu carbohydrat
dễ lên men (tinh bột, đường, glucose, lactose, galactose,…) như các loại thức ăn
hạt, củ, cỏ xanh tươi, thức ăn rỉ mật…
Vi khuẩn lên men lactic
Có tác dụng lên men đường, chúng phát triển nhanh khi dạ cỏ có chứa ít
streptococus, vi khuẩn lactic chiếm ưu thế khi khẩu phần ăn giàu cỏ khô hoặc thức
ăn tinh.
Vi khuẩn phân giải protein
Trong số những loài vi khuẩn phân giải protein và sinh amoniac thì Peptostreptococus
và Clostridium spp có khả năng lớn nhất. Sự phân giải protein và acid amin để sản sinh
ra amoniac trong dạ cỏ có ý nghĩa quan trọng đặc biệt cả về phương diện tiết kiệm nitơ
cũng như nguy cơ dư thừa amoniac. Amoniac cần cho các loài vi khuẩn dạ cỏ để tổng
hợp nên sinh khối protein của bản thân chúng (Nguyễn Xuân Trạch, 2004).
Nguyên sinh động vật (Protozoa)
Protozoa có số lượng ít hơn vi khuẩn nhưng to hơn vi khuẩn nên khối lượng tương
đương sinh khối vi khuẩn, trong 1ml dịch dạ cỏ chứa 105 - 106 protozoa, tùy loại thức

ăn mà có sự thay đổi số lượng Protozoa. Khi khẩu phần có nhiều tinh bột, đường thì số
lượng protozoa tăng lên. Protozoa được chia thành 2 nhóm chính là Entodineomorphs
và Holotrich; nhóm Entodineomorphs phát triển mạnh khi gia súc ăn khẩu phần có
nhiều xơ cùng với tinh bột; nhưng nhóm Holotrich phát triển mạnh khi khẩu phần có
nhiều xơ nhưng được bổ sung bằng rỉ mật hoặc cỏ non. Protozoa tiêu hoá tinh bột,
đường là chính nhưng một vài loài có khả năng phân giải cellulose.
Protozoa phân hủy tinh bột và đường rồi dự trữ chúng trong cơ thể dưới dạng poly dextrin, do đó protozoa có khả năng đệm cho pH của dạ cỏ. Nhiều nghiên cứu cho thấy
protozoa không thể xây dựng protein bản thân từ các amid được. Khi mật độ protozoa
trong dạ cỏ cao thì một số lượng lớn vi khuẩn bị protozoa thực bào. Mỗi protozoa có
thể thực bào 600 - 700 vi khuẩn trong một giờ ở mật độ vi khuẩn 109/ml dạ cỏ. Do có
hiện tượng này mà protozoa đã làm giảm hiệu quả sử dụng protein nói chung.
Nấm (Fungi)
Nấm là sinh vật đầu tiên xâm nhập và tiêu hoá thành phần cấu trúc thực vật bắt đầu từ
bên trong, làm giảm độ bền chặt của cấu trúc này và làm tăng sự phá vỡ các mảnh
trong quá trình nhai lại. Sự phá vỡ này tạo điều kiện cho vi khuẩn và men của chúng
bám vào cấu trúc tế bào và tiếp tục quá trình phân giải cellulose. Tất cả các loại nấm
hiện diện trong dạ cỏ có thể lập ra thành 5 loài gồm: Neocallimastix, Piromyces,
Caecomyces, Ocpinomyces và Anaercomyces (Nguyễn Xuân Trạch, 2004).

4


Tác động tương hỗ của hệ vi sinh vật dạ cỏ
Vi sinh vật dạ cỏ, cả ở thức ăn và ở biểu mô dạ cỏ, kết hợp với nhau trong quá trình
tiêu hóa thức ăn, loài này phát triển trên sản phẩm của loài kia.
Trong điều kiện bình thường giữa vi khuẩn và protozoa cũng có sự cộng sinh có lợi,
đặc biệt là trong tiêu hoá xơ. Tiêu hoá xơ mạnh nhất khi có mặt cả vi khuẩn và
protozoa. Protozoa nuốt và tích trữ tinh bột, hạn chế tốc độ sinh axít lactic, hạn chế
giảm pH đột ngột, nên có lợi cho vi khuẩn phân giải xơ.
Tuy nhiên giữa các nhóm vi khuẩn khác nhau cũng có sự cạnh tranh điều kiện sinh

tồn của nhau. Khi gia súc ăn khẩu phần giàu tinh bột nhưng nghèo protein thì số
lượng vi khuẩn phân giải cellulose sẽ giảm và do đó tỷ lệ tiêu hoá xơ thấp. Mặt
khác, protozoa ăn và tiêu hoá vi khuẩn, do đó làm giảm tốc độ và hiệu quả chuyển
hoá protein trong dạ cỏ. Loại bỏ protozoa sẽ làm tăng số lượng vi khuẩn trong dạ
cỏ. Thí nghiệm trên cừu cho thấy tỷ lệ tiêu hoá vật chất khô tăng 18% khi không có
protozoa trong dạ cỏ (Preston & Leng., 1987).
2.3. SỰ TIÊU HÓA THỨC ĂN CỦA GIA SÚC NHAI LẠI
2.3.1. Tiêu hoá chất xơ
Cellulose và hemicellulose là thành phần chính của tế bào thực vật, chúng liên kết với
lignin tạo thành polyme bền vững về lý học và hoá học. Một đơn vị cellulose gồm hai
phân tử glucose, cellulose nguyên chất là một chuỗi các cenlobiose lặp đi lặp lại bởi
các liên kết  - 1,4. Như vậy cellulose nguyên chất gồm các đường đơn glucose.
Ngược lại hemicellulose cũng là một polyme nhưng ngoài đường glucose chúng còn
chứa đường D - galactose, D - mantose, D - xilose và L - anabiose. Khi lignin liên
kết với cellulose, hemicellulose hay protein trong thành phần tế bào sẽ làm cho
thành phần tế bào trở nên bền vững và rất khó tiêu hoá. Do đó những thức ăn giàu
lignin như rơm rạ, cỏ khô thường có tỷ lệ tiêu hoá thấp.
Trong dạ cỏ vi khuẩn phân giải chất xơ tiết ra enzym và cắt cellulose thành các
cellulose (có hai glucose), sau đó cellulose tiếp tục bị phân huỷ thành glucose và lên
men thành các axít béo bay hơi, CO2, CH4 và ATP.
2.3.2. Tiêu hoá tinh bột và đường
Tinh bột và đường được vi khuẩn và protozoa tiêu thụ rất nhanh. Protozoa đồng hoá
tinh bột biến thành poly - dextin dự trữ trong cơ thể của chúng. Khi protozoa bị
chuyển xuống dạ múi khế và ruột non poly - dextin được tiêu hoá dễ dàng bởi men
tiêu hoá của vật chủ. Ngược lại vi khuẩn phân huỷ tinh bột và đường thành các
đường đơn sau đó lên men tiếp tục thành các axít béo bay hơi, CO2, CH4 và ATP.
ATP là nguồn cung cấp năng lượng chính cho tế bào vi sinh vật. Những nghiên cứu

5



gần đây cho thấy không phải tất cả tinh bột đều bị tiêu hoá ở dạ cỏ mà một phần
được chuyển xuống phần dưới của dạ dày bốn túi, những thức ăn không bị lên men
ở dạ cỏ gọi là “thức ăn thoát tiêu”. Tinh bột, đường “thoát tiêu” khỏi dạ cỏ sẽ tiêu
hoá ở dạ múi khế.
2.3.3. Tiêu hoá protein
Protein được phân giải thành peptid và axít amin bởi men protease và men
peptidase của vi khuẩn. Phần lớn các axít amin tiếp tục bị vi khuẩn lên men để biến
thành NH3 và các axít béo bay hơi. Sau đó vi sinh vật dạ cỏ tổng hợp protein và axít
amin cho cơ thể chúng từ NH3. Sự tiêu hoá protein ở dạ cỏ đã tạo ra một lượng lớn
NH3 cho môi trường lên men của vi sinh vật.
Ngoài ra, các hợp chất phi protein trong thức ăn như các axít amin, amid,
nitrat,...cũng cung cấp một nguồn đáng kể NH3. Hàm lượng NH3 trong dạ cỏ rất
quan trọng, chúng quyết định đến quá trình lên men phân huỷ xơ và các hợp chất
carbonhydrate khác. Một phần protein và axít amin tuy hoà tan trong dạ cỏ nhưng
không bị phân huỷ ở dạ cỏ mà được đi xuống dạ múi khế và ruột non. Phần protein
này được gọi là “protein thoát tiêu” (by-pass protein).
Theo Bùi Đức Lũng (1995), đưa ra sơ đồ sau cho thấy khả năng tiêu hoá đạm phi
protein của gia súc nhai lại. Nhiều tài liệu đã xác định gia súc nhai lại có thể sử
dụng 25 - 35% nitơ trong khẩu phần từ nguồn đạm phi protein mà gia súc vẫn phát
triển tốt. Hiện nay trong nhóm đạm phi protein thì urê được sử dụng phổ biến nhất
cho gia súc nhai lại.
1000g PROTEIN THÔ CỦA KHẨU PHẦN
Pro thật 850g

Hợp chất phi Pro 150g
Tiêu hoá dạ cỏ
thành NH3: 510g

150g 120g 510g

80g

Urê trong máu

700g được VSV
dạ cỏ tiêu thụ
Pro. của
VSV 560g

340g Pro hoà tan
thoát qua
dạ cỏ

Trao đổi Pro

Urine nước tiểu
Phi pro.
VSV 140g

Pro: protein; VSV: vi sinh vật

450g Pro của VSV
được tiêu hoá

Loại ra phân

40g

110g
750g Pro

trao đổi

6

300g Pro khẩu phần
được tiêu hoá


Sơ đồ 1: Lượng “Protein trao đổi” được hình thành từ protein của khẩu phần
Bùi Đức Lũng et al., 1995

2.3.4. Tiêu hoá chất béo
Lipid của thực vật rất dễ bị thuỷ phân trong môi trường dạ cỏ bởi enzym lipase của
vi khuẩn tạo thành axít béo và tiếp tục lên men tạo thành các axít béo bay hơi. Phần
lớn axít béo cao phân tử là các axít béo không no và dễ tách ra như: axít oleic, axít
linoleic,... Chúng được hấp thu trong dạ cỏ và được vi sinh vật hydro hoá, khi đó
một lượng lớn axít béo sẽ bị biến đổi thành axít bão hoà (chủ yếu là axít stearic và
axít palmitic) chỉ được hấp thu ở ruột non.
2.4. SỰ HẤP THU CÁC DƯỠNG CHẤT Ở GIA SÚC NHAI LẠI
2.4.1. Hấp thu các axít béo bay hơi (VFAs:Volatile fatty acids)
Các axít béo bay hơi chủ yếu là axít acetic, axít propionic, axít butyric và một lượng
nhỏ các axít khác (izobutyric, valeric, izovaleric). Các axít này được hấp thu qua
vách dạ cỏ vào máu và là nguồn năng lượng chính cho vật chủ. Chúng cung cấp
khoảng 70 - 80% tổng số năng lượng được gia súc hấp thu. Tỷ lệ giữa các axít béo
bay hơi phụ thuộc vào bản chất của các loại glucid có trong khẩu phần.
pH của dịch dạ cỏ có ảnh hưởng lớn tới sự hấp thu các axít béo bay hơi, các nhà
khoa học đã chứng minh rằng ở pH = 6,4 trong dạ cỏ có cả anion của axít béo và cả
axít béo tự do. Khi pH cao hơn từ 7 - 7,5 tốc độ hấp thu các axít béo giảm rõ rệt,
điều đó phụ thuộc vào nồng độ ion H+, có lẽ liên quan với số lượng tương đối của
axít béo ở dạng không phân li. Các tác giả nhận thấy rằng ngay đến tận 24 - 48 giờ

sau khi ăn hàm lượng axít béo bay hơi trong máu tĩnh mạch cửa vẫn còn cao hơn
trong máu động mạch.
2.4.2. Hấp thu NH3
NH3 được giải phóng từ nguồn nitơ protein và phi protein bởi vi sinh vật dạ cỏ sẽ
được hấp thu một phần ngay ở dạ dày trước. Tốc độ hấp thu NH3 phụ thuộc vào chỉ
số pH. Ở môi trường kiềm sự hấp thu nhanh hơn môi trường axít. Nếu dư thừa
amoniac sẽ được hấp thu vào máu để đưa đến gan. Ở gan, NH3 sẽ được tổng hợp
thành urê, lượng urê này một phần nhỏ sẽ được bài tiết qua nước tiểu, một phần lớn
đi vào tuyến nước bọt và được nuốt xuống dạ cỏ trở thành nguồn cung cấp nitơ cho
vi sinh vật.
2.4.3. Sự hấp thu urê
Urê của khẩu phần theo nước bọt vào dạ cỏ cũng như urê được chuyển từ máu qua
vách dạ cỏ bị phân giải nhanh chóng bởi urease của vi khuẩn thành amoniac và khí
carbonic, nên nồng độ của urê trong dạ cỏ giảm rõ rệt. Trong điều kiện nuôi dưỡng

7


bình thường, dạ cỏ không thấy có urê hoặc chỉ có một lượng ít, nhưng khi cho ăn urê
thì ở 20 - 48 phút đầu trong dạ cỏ có nhiều urê chưa phân giải, sau đó urê giảm dần và
sau 75 - 80 phút thường chỉ còn thấy dấu vết hoặc một lượng không quá vài mg/100ml.
2.4.4. Hấp thu glucose
Lên men thức ăn trong dạ cỏ là lên men các đường hoà tan, tinh bột trong khẩu phần
nhưng lượng glucose hấp thu được chỉ bằng một phần nhỏ so với lượng glucose
trong thức ăn. Phần lớn tinh bột có khả năng đề kháng với sự lên men của dạ cỏ và
phần còn lại sẽ được chuyển xuống tiêu hoá ở phần dưới bộ máy tiêu hoá và được
hấp thu tại đó (Waldo., 1973).
2.4.5. Hấp thu các ion và các vitamin
Tính ổn định tương đối của các thành phần ion trong dạ cỏ được duy trì nhờ sự hấp
thu nhanh của các ion vô cơ từ máu vào dạ cỏ khi áp suất thẩm thấu của dịch dạ cỏ

vượt khỏi một mức độ ổn định, còn nếu áp suất thẩm thấu lại thấp hơn mức này thì
một quá trình ngược lại xảy ra.
Sự hấp thu các vitamin nhóm B ở dạ cỏ, các nhà khoa học cho rằng, trong điều kiện
nuôi dưỡng bình thường không có sự hấp thu vitamin nhóm B vì vitamin trong dạ cỏ là
một trong những thành phần của cơ thể vi sinh vật và nó không ở trạng thái tự do.
2.4.6. Hấp thu và chuyển ngược axít amin từ máu vào dạ cỏ
Đa số các nhà nghiên cứu đều đi đến kết luận: axít amin có thể hấp thu từ xoang dạ
cỏ vào máu và sự hấp thu này là một trong những con đường xâm nhập nitơ vào cơ
thể từ ống tiêu hoá, trước khi lượng axít amin trong máu tĩnh mạch dạ cỏ có ít hơn
so với máu động mạch, như vậy sự hấp thu các axít amin phụ thuộc vào nồng độ
của chúng trong dạ cỏ.
2.5. NHU CẦU DINH DƯỠNG CỦA GIA SÚC NHAI LẠI
Nhu cầu dinh dưỡng của gia súc là nền tảng đảm bảo cho quá trình sinh trưởng,
phát triển và hoạt động của con vật, đồng thời tạo ra năng suất thịt, sữa cho con
người. Cho nên cần cung cấp đầy đủ và hợp lý nhu cầu dinh dưỡng cho gia súc để
thu lại hiệu quả kinh tế cao thông qua việc cân đối các nhu cầu: vật chất khô,
protein, nước và các dưỡng chất khác.
2.5.1. Nhu cầu vật chất khô
Khối lượng vật chất khô ăn vào là lượng thức ăn mà gia súc ăn trong kiều kiện tự
do. Tuỳ theo tình trạng sinh lý và sức khoẻ mà lượng ăn vào có khác nhau. Ngoài ra
các yếu tố về môi trường như nhiệt độ, loại thức ăn, cách thức cho ăn, sự phối hợp
khẩu phần, phẩm chất thức ăn cũng ảnh hưởng lớn đến lượng vật chất khô ăn vào.
2.5.2. Nhu cầu protein

8


Nhu cầu protein của gia súc nhiệt đới có vai trò lớn hơn gia súc ôn đới vì gia súc
nhiệt đới thường được nuôi dưỡng bằng khẩu phần nhiều xơ.
2.5.3. Nhu cầu nước

Cơ thể động vật chứa 65% nước. Nước trong cơ thể vật non thường cao hơn vật già,
nước trong cơ thể con vật gầy ít hơn vật béo vì trong mô mỡ chứa ít nước.
Nhu cầu nước của con vật phụ thuộc vào lượng thức ăn ăn vào, hàm lượng nước
trong thức ăn, nhiệt độ môi trường và các sản phẩm tạo ra.
2.6. SƠ LƯỢC VỀ TỶ LỆ TIÊU HÓA TRÊN GIA SÚC NHAI LẠI
2.6.1. Hệ số tiêu hoá biểu kiến
Hệ số tiêu hoá hay còn gọi là tỷ lệ tiêu hoá. Khi gia súc ăn một lượng thức ăn vào cơ
thể phần lớn các chất có thể sử dụng được hấp thu để đồng hoá. Phần còn lại không
được tiêu hoá và hấp thu thải ra dưới dạng phân. Hệ số tiêu hoá là phần trăm phần
dinh dưỡng được tiêu hoá hấp thu trong tổng số thức ăn được cơ thể tiêu thụ. Trong
thực tế việc tính tỷ lệ tiêu hoá thật rất khó khăn, do đó người ta chỉ sử dụng hệ số tiêu
hoá tương đối hay tỷ lệ tiêu hóa biểu kiến (Nguyễn Nhựt Xuân Dung, 1999).
2.6.2. Hệ số tiêu hoá thật
Các chất hữu cơ trong phân không chỉ là phần không tiêu hoá hấp thu trong thức ăn
mà còn bao gồm các chất do sản phẩm của quá trình trao đổi chất sinh ra thải theo
phân. Một phần các chất dinh dưỡng được hấp thu nhưng không được sử dụng cho
quá trình chuyển hoá trong cơ thể gia súc mà được bài thải ra theo nhiều đường. Do
đó tỷ lệ tiêu hoá biểu kiến phải được hiệu chỉnh lại, gọi là hệ số tiêu hoá thật
(Nguyễn Nhựt Xuân Dung, 1999).
2.7. ĐÁNH GIÁ TỶ LỆ TIÊU HÓA BẰNG PHƯƠNG PHÁP IN VIVO
Khả năng sử dụng xơ thực vật của gia súc dựa trên cấu trúc của đường tiêu hoá và
vi sinh vật cộng sinh trong dạ cỏ, nhưng cũng cần phải dựa trên cấu tạo của răng,
miệng, tuyến nước bọt và kích thước của gia súc. Hoạt động phân huỷ xơ có tương
quan rất chặt chẽ với trọng lượng cơ thể, thời gian giữ lại thức ăn trong đường tiêu
hoá có tương quan chặt với trọng lượng cơ thể. Udén & Van Soest (1984), Van
Soest et al. (1987), cũng chỉ ra tỷ lệ tiêu hoá của xơ rất liên quan với thời gian giữ
lại thức ăn trong đường tiêu hoá. Phương pháp in vivo đánh giá rất xác thực hiệu
quả sử dụng thức ăn của gia súc, thức ăn được ăn vào giữ lại trong đường tiêu hoá
phân huỷ, phần còn lại thải theo phân.
Phương pháp này chưa nêu được các chất dinh dưỡng sau khi vào cơ thể sẽ đi đâu và sử

dụng vào mục đích gì, nhưng nó cũng đã nêu được mối quan hệ giữa thức ăn và con vật,
nghĩa là thức ăn sau khi vào cơ thể con vật được tiêu hóa nhiều hay ít sẽ là cơ sở để so

9


sánh các loại thức ăn với nhau. Việc xác định tỷ lệ tiêu hoá theo phương pháp này đòi hỏi
phải thu nhặt phân hằng ngày, xác định lượng thức ăn tiêu thụ hằng ngày cùng lượng
phân thải ra, phân tích thành phần thức ăn tiêu thụ và phân thải ra sẽ xác định được tỷ lệ
tiêu hoá. Phương pháp này cho mức tỷ lệ tiêu hoá biểu kiến chính xác, dễ dàng thực hiện
trong điều kiện kỹ thuật phòng thí nghiệm chưa thật đầy đủ và áp dụng rộng rãi.
2.8. THỨC ĂN TRONG THÍ NGHIỆM
2.8.1. Cỏ tự nhiên (Natural grass)
Cỏ tự nhiên là nguồn thức ăn tươi không tốn tiền và được tận dụng làm nguồn thức
ăn cho gia súc nhai lại đem lại lợi nhuận cho người chăn nuôi. Hàm lượng dưỡng
chất của co thấp đặc biệt là vật chất khô và đạm thô khoảng 16,6% và 8,75% (Phan
Huy Cường, 2008).
2.8.2. Rơm ( Rice straw)
Rơm là nguồn thức ăn thô khô từ phụ phẩm nông nghiệp, rơm có giá trị dinh dưỡng
thấp chủ yếu là xơ, tỷ lệ tiêu hoá thấp và bò không ăn được nhiều. Tuy nhiên rơm là
nguồn thức ăn rẻ tiền và nông dân có tập quán sử dụng từ lâu đời (Leng et al,.
1987), cho rằng tác dụng bổ sung urê vào khẩu phần chỉ có rơm, cỏ đã góp phần
điều chỉnh sự thiếu hụt nitơ dễ tiêu (NH3) trong dạ cỏ, do đó làm tăng tỷ lệ tiêu hoá,
tăng lượng rơm cỏ tiêu thụ, tăng lượng protein vi sinh vật,…nhờ vậy làm cân bằng
các axít amin tốt hơn.
Bảng 1. Thành phần hóa học của rơm

Rơm

DM


OM

CP

NDF

Ash

18,2

9,62

89,9

71,7

10,1

Nguồn: Thái Trường Quang (2008)

2.8.3. Bánh đa dưỡng chất (Multinutrient cake)
Bánh đa dưỡng chất là dạng thức ăn đa dinh dưỡng cung cấp protein, năng lượng,
khoáng và vitamin giúp tăng cường hoạt động của vi sinh vật dạ cỏ, dẫn đến tăng
năng suất sản xuất của gia súc.
Bánh đa dưỡng chất được bổ sung vào khẩu phần của gia súc từ trước năm 1980. R.
Sansoucy, G. Aarts and R.A. Leng (1986) kết luận rằng khi bổ sung bánh đa dưỡng
chất cho gia súc nhai lại vào khẩu phần cơ bản là rơm đã cải thiện khả năng ăn tiêu
thụ rơm lên 25-30%, Axit béo bay hơi dạ cỏ tăng từ 63 lên 84mM/L. Tăng trưởng
của bò Jersey được cải thiện đáng kể khi khẩu phần được bổ sung bánh đa dưỡng

chất từ 220g/ngày lên 700g/ngày (George Kunju, 1986). Nghiên cứu của Nolan and
Leng (1991) cho thấy việc bổ sung bánh đa dưỡng chất vào khẩu phần của dê sữa đã

10


làm tăng trọng lượng sơ sinh của dê con lên 15%. Ở Bangladesh, Saadullah (1991)
kết luận rằng bổ sung bánh đa dưỡng chất vào khẩu phần cơ bản là rơm đã làm tăng
lượng thức ăn, năng suất sữa, thời gian cho sữa và tăng trọng của bò sữa.
Bảng 2. Thành phần hóa học của bánh đa dưỡng chất

BĐDC

DM

OM

CP

NDF

Ash

78,7

84,3

32,3

16,2


15,7

Nguồn: Tạ Ngọc Thiệu (2009)

Ở Việt Nam, nghiên cứu của Thu (1993) kết luận rằng hiệu suất cày kéo của trâu nuôi
ở Đồng Bằng Sông Cửu Long nuôi bằng khẩu phần cơ bản là rơm cỏ được tăng lên
đáng kể, từ 20-40% khi khẩu phần được bổ sung bánh đa dưỡng chất, đồng thời hạn
chế được sự giảm tăng trọng của gia súc vào mùa khô khi mà nguồn thức ăn trở nên
khan hiếm.

11


Chương 3: PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN THÍ NGHIỆM
Địa điểm: Thí nghiệm được thực hiện tại Trại nghiên cứu và Thực nghiệm nông
nghiệp và Phòng thí nghiệm Bộ môn Chăn nuôi, Khoa Nông nghiệp và Sinh học
ứng dụng, Trường Đại học Cần Thơ.
Thời gian: Từ ngày 01/2010 đến ngày 04/2010.
3.2. VẬT LIỆU THÍ NGHIỆM
3.2.1. Đối tượng thí nghiệm
Thí nghiệm được tiến hành trên 4 bò đực Lai Sind, có trọng lượng đầu thí nghiệm
trung bình 213±23kg ( X ± SD). Trước khi thí nghiệm bò được tiêm ngừa ký sinh
trùng bằng Bivermectin 0,25%.
3.2.2. Chuồng trại
Trại thí nghiệm được lợp bằng tole, xung quanh có lười rào tránh mưa tạt gió lùa.
Bò được nuôi trên chuồng sàn, với bốn ngăn chuồng, mỗi ngăn nhốt một con. Dưới
sàn có máng hứng nước tiểu cho mỗi con.
3.2.3. Dụng cụ thí nghiệm

Dụng cụ thí nghiệm bao gồm:
Dụng cụ lấy dịch dạ cỏ.
Cân đại gia súc, cân đồng hồ (2kg, 20kg), cân điện tử.
Xô đựng phân, xô đựng nước tiểu, xô đựng nước uống.
Bọc hứng nước tiểu, liềm cắt cỏ.
Các dụng cụ và hoá chất phân tích mẫu thức ăn, phân, nước tiểu thuộc phòng thí
nghiệm Bộ môn Chăn nuôi, Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng, Trường Đại
Học Cần Thơ.

12


3.3. PHƯƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM
3.3.1. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí theo kiểu hình vuông Latin (4x4) với 4 giai đoạn, 4 nghiệm
thức và 4 gia súc (bò được Lai Sind). Năm nghiệm thức gồm: CP140, CP170,
CP200, CP230 lần lượt là các mứ độ 140, 170, 200, 230gCP/100kg thể trọng.
Sơ đồ 2: Sơ đồ bố trí thí nghiệm

Giai đoạn


I

II

III

IV


I

CP140

CP230

CP170

CP200

II

CP170

CP200

CP230

CP140

III

CP200

CP170

CP140

CP230


IV

CP230

CP140

CP200

CP170

Hình 1. Bố trí thí nghiệm mỗi con bò vào từng ô chuồng

13


Các nghiệm thức thí nghiệm bao gồm (%DM):
NT1 CP140: 140gCP/100kg thể trọng
NT2 CP170: 170gCP/100kg thể trọng
NT3 CP200: 200gCP/100kg thể trọng
NT4 CP230: 230gCP/100kg thể trọng
Cỏ được cho ăn ở mức 1 kgDM/100kg thể trọng.
Rơm được cho bò ăn tự do.
Bánh đa dưỡng chất được bổ sung vào khẩu phần để đảm bảo khẩu phần ở các mức
độ 140, 170, 200 và 230gCP/100kg thể trọng.

Hình 2. Cho bò ăn bánh da dưỡng chất

14



3.3.2. Phương pháp tiến hành
Mỗi giai đoạn thí nghiệm gồm 12 ngày với 7 ngày thích nghi và 5 ngày lấy mẫu.
Thức ăn được cho ăn 2 lần trong ngày (sáng 7h và chiều 2h), mỗi lần cho ăn một nửa
lượng ăn/ngày/con. Trong đó cho ăn bánh đa dưỡng chất trước, tiếp theo là cho ăn cỏ,
sau cùng là cho ăn bánh đa dưỡng chất. Cỏ được cắt ngắn khoảng 7-10cm cho ăn một
nửa lượng cỏ trong khẩu phần/ngày/con, rơm để nguyên cho ăn tự do và được cho ăn
sau cùng của mỗi buổi ăn. Cho bò uống nước ngày 2 lần (trưa 11h30 và tối 18h30).
3.3.3. Chuẩn bị thức ăn trong thí nghiệm
Cỏ tự nhiên được cắt trong khuôn viên trường và được cắt nhỏ thành từng đoạn
khoảng 7-10 cm cho bò ăn. Cỏ được cắt và cho ăn hằng ngày.
Rơm mua ở Bình Minh – Vĩnh Long mang về phơi khô và dự trữ ở trong trại.
Bánh đa dưỡng chất mua về cho ăn và được bảo quản trong điều kiện thoáng mát.
3.3.4. Các chỉ tiêu theo dõi và thu thập số liệu
Thành phần hóa học của các loại thức ăn dùng trong thí nghiệm: Vật chất khô
(DM), vật chất hữu cơ (OM), protein thô (CP) và khoáng (Ash) được xác định theo
AOAC (1990). Xơ trung tính (NDF) được xác định theo Van Soest et al (1991).
Sự tiêu thụ các dưỡng chất thức ăn như: DM, OM, CP, NDF và ME. Mức tiêu thụ các
dưỡng chất thức ăn được xác định bằng cách cân lượng thức ăn trước khi cho ăn và cân
phần thức ăn còn dư vào sáng ngày hôm sau. Các mẫu thức ăn cho ăn, thức ăn dư được
thu lấy 5 ngày liên tục trong giai đoạn lấy mẫu ở mỗi giai đoạn thí nghiệm. Mẫu thức
ăn xanh được cắt ngắn sấy ở 550C trong 48 giờ rồi nghiền mịn để phân tích thành phần
dưỡng chất. Mức tiêu thụ các dưỡng chất thức ăn được tính theo công thức.
Lượng dưỡng chất tiêu thụ = lượng dưỡng chất thức ăn trước khi cho ăn – lượng
dưỡng chất thức ăn còn thừa.
Lượng thức ăn ăn vào và thức ăn thừa, nước uống, nước tiểu và phân thải được ghi
nhận mỗi ngày của giai đoạn lấy mẫu.
Tính tỷ lệ tiêu hoá thức ăn bằng cách thu thập toàn bộ lượng phân thải ra trong 24
giờ và thu liên tục trong 5 ngày, được mô tả bởi Mc.Donald et al (2002). Phương
pháp lấy mẫu, xử lý mẫu và phân tích mẫu phân là tương tự như mẫu thức ăn.
Tỉ lệ tiêu hoá dưỡng chất = [(Lượng dưỡng chất tiêu thụ - Lượng dưỡng chất bài

thải theo phân)/ Lượng dưỡng chất tiêu thụ] x 100.
Tính Nitơ tích lũy bằng cách thu toàn bộ phân và nước tiểu trong 24 giờ, lấy mẫu
liên tục trong 5 ngày. Nước tiểu được bảo quản với H2SO4 10% (Pathoummalangsy

15


and Preston, 2008) và đem phân tích ngay trong ngày. Phân được sấy khô ở 550C
rồi nghiền mịn đem đi phân tích nitơ.
Nitơtích luỹ = Nitơtiêu thụ – (Nitơphân + Nitơnước tiểu)
Nồng độ N-NH3 và Axit béo bay hơi của dịch dạ cỏ được xác định: Lấy dịch dạ cỏ
bằng ống thông thực quản, sau đó cho vào túi nylon cột chặt rồi đem phân tích Axit
béo bay hơi (Barnet and Reid, 1957) và N-NH3 (phương pháp Kjeldahl). Lấy dịch
dạ cỏ ở 2 thời điểm 0giờ và 3giờ của từng con trong mỗi giai đoạn. Lấy 0giờ trước
khi ăn và thời điểm 3giờ sau khi ăn.
Khả năng tăng trọng theo từng giai đoạn: Sử dụng cân đại gia súc, cân 2 ngày liên
tiếp vào cuối mỗi giai đoạn. Cân vào sáng sớm trước khi cho ăn.

Hình 3. Cân bò cuối mỗi giai đoạn

16


Năng lượng trao đổi (ME) của khẩu phần được tính theo Bruinenberg (2002).
Nếu DOM/DCP < 7, thì ME (KJ/kgDM) = 14,2 x DOM + 5,9 x DCP
Nếu DOM/DCP >= 7, thì ME (KJ/kgDM) = 15,1 x DOM
Trong đó

DOM chất hữu cơ tiêu hóa được (g/kgDM).
DCP protein thô tiêu hóa được (g/kgDM).


3.4. PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ SỐ LIỆU
Số liệu được xử lý sơ bộ bằng phần mềm Microsoft Excel và bằng mô hình tuyến
tính tổng quát (General Linear Model) của chương trình Minitab 14 (2003). Để xác
định mức độ khác biệt ý nghĩa của các nghiệm thức và so sánh giữa hai nghiệm thức
dựa vào phương pháp Tukey của chương trình Minitab 14 (2003).

17


Chương 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. Thành phần hóa học của thức ăn dùng trong thí nghiệm
Thành phần hóa học của thức ăn trong thí nghiệm được trình bày qua bảng sau
Bảng 3. Thành phần hóa học của thức ăn trong thí nghiệm (%DM)

Thức ăn

DM

OM

CP

NDF

ADF

Hem

Ash


Cỏ tự nhiên

21,2

86,8

10,9

69,0

38,0

31,0

5,10

Rơm

82,0

85,8

4,47

70,7

39,4

31,3


3,94

Bánh đa dưỡng chất

76,1

86,7

33,0

18,3

11,6

6,71

7,97

DM: vật chất khô, OM: vật chất hữu cơ, CP: đạm thô, NDF: xơ trung tính, ADF: xơ Acid, Hem:
Hemicellulose, Ash: khoáng tổng số.

Qua bảng 3 ta thấy vật chất khô và đạm thô của cỏ tự nhiên trong thí nghiệm là
21,2% và 10,9%, phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Thị Đan Thanh (2007) là
19,4% và 9,2%. NDF cỏ trong thí nghiệm là 69,0%, phù hợp với kết quả đề tài
nghiên cứu của Lâm Phước Thành (2007) (69,0%) và Nguyễn Thị Đan Thanh
(2007) (67,2%).
Vật chất khô của rơm trong thí nghiệm là 82,0%, tương đương với nghiên cứu của
Nguyễn Thị Đan Thanh (2007) là 81,9%. Hàm lượng protein thô của rơm là 4,47%,
phù hợp với nghiên cứu của Phan Văn Hừng (2006) là 4,47%. Hàm lượng xơ trung

tính của rơm trong thí nghiệm là 70,7%, phù hợp với nghiên cứu của Thái Trường
Quang (2008) là 72,2%.
Bánh đa dưỡng chất có vật chất khô là 76,1%, tương đương với kết quả nghiên cứu
của Tạ Ngọc Thiệu (2009) là 78,7% và Huỳnh Văn Thuấn (2009) là 77,0%. Đạm
thô của bánh đa dưỡng chất khá cao 33,0%, hơi cao hơn nghiên cứu của Võ Duy
Thanh (2008) 31,1%. Bánh đa dưỡng chất có hàm lượng CP cao do đó việc sử dụng
bánh đa dưỡng chất để bổ sung đạm trong khẩu phần là cần thiết.

18


4.2. Lượng thức ăn, dưỡng chất tiêu thụ của bò trong thí nghiệm
Lượng thức ăn, dưỡng chất tiêu thụ của bò được trong thí nghiệm trình bày qua
bảng 4
Bảng 4. Lượng thức ăn và dưỡng chất ăn vào của bò ở các nghiệm thức bổ sung bánh đa
dưỡng chất (BĐDC)

Chỉ tiêu

Nghiệm thức

P

±SE

CP140

CP170

CP200


CP230

Cỏ ăn vào, kgDM

2,12

2,13

2,12

2,12

0,884 0,02

Rơm ăn vào, kgDM

2,30

2,30

2,30

2,26

0,119 0,02

0,210a

0,408b


0,598c

0,001 0,02

BĐDC ăn vào, kgDM DM, kg/ngày

4,42a

4,63b

4,82c

4,96d

0,001 0,02

OM, kg/ngày

3,80a

3,98b

4,14c

4,26d

0,001 0,22

NDF, kg/ngày


3,08a

3,12b

3,15b

3,14b

0,006 0,01

ADF, kg/ngày

1,69

1,70

1,71

1,73

0,262 0,02

CP, kg/ngày

0,333a

0,403b

0,466c


0,526d

0,001 0,01

gCP/100kg thể trọng

146a

176b

204c

232d

0,001 0,41

%CP/DM

7,50a

8,70b

9,70c

10,6d

0,001 0,02

ME* (MJ/ngày)


35,0

36,9

39,0

41,0

0,092 1,99

Nước uống, kg/ngày

10,6

10,7

11,0

11,0

0,487 0,32

Các giá trị mang các chữ a, b, c, d ở cùng hàng thì khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức độ (P<0,05)
BĐDC: bánh đa dưỡng chất, ME: năng lượng trao đổi, * Bruinenberg, 2002.
CP140, CP170, CP200 và CP230 lần lượt là các mức độ 140, 170, 200 và 230gCP/100kg thể trọng bò.

Số liệu được trình bày qua bảng 4 cho thấy lượng vật chất khô ăn vào giữa các khẩu
phần khác biệt rất có ý nghĩa thống kê (p<0,05), vật chất khô ăn vào tăng dần từ
khẩu phần CP140 là 4,42kg/con/ngày đến CP230 là 4,96kg/con/ngày, kết quả này

cao hơn nghiên cứu của Thái Trường Quang (2008) từ 3,63-3,83kg/con/ngày.
Mối quan hệ giữa lượng vật chất khô ăn vào của bò thí nghiệm với mức độ protein
thô trong khẩu phần được trình bày qua biểu đồ 1.

19


Vật chất khô tiêu thụ của bò/thể trọng, %

5.10

y = 0.006x + 3.51
R² = 0.994

5.00

P=0,001; SD=0,021

4.90
4.80
4.70
4.60
4.50
4.40
4.30
140

170

200


230

Hàm lượng gCP/100kg thể trọng
Biểu đồ 1. Mối quan hệ giữa lượng vật chất khô ăn vào với mức độ protein thô trong khẩu
phần

Qua biểu đồ 1 cho thấy lượng vật chất khô ăn vào của bò ở các nghiệm thức tăng tuyến
tính với hàm lượng protein thô trong khẩu phần được thể hiện qua phương trình tuyến
tính y=0,006x + 3,51, với hệ số tương quan rất cao (R2 = 0,994: P =0,001 ; SD=0,021).
Vật chất hữu cơ tiêu thụ giữa các nghiệm thức khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05), OM cũng có xu hướng tăng dần, thấp nhất là nghiệm thức CP140 (3,80
kg/con/ngày) và cao nhất ở nghiệm thức CP230 (4,26kg/con/ngày).
Xơ trung tính (NDF) ăn vào của khẩu phần có xu hướng giảm ở nghiệm thức
CP230, cao nhất ở nghiệm thức CP200 là 3,15kg/con/ngày và thấp nhất ở nghiệm
thức CP140 là 3,08kg/con/ngày (P<0,05). Kết quả này thấp hơn nghiên cứu của
Lâm Phước Thành (2007) là 3,24 - 3,62 kg/con/ngày, tuy nhiên kết quả của chúng
tôi phù hợp với nghiên cứu của Trần Hiếu Thuận (2008) là 2,95 - 3,25 kg/con/ngày.
Lượng đạm thô tiêu thụ khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức
(p<0,05), thấp nhất ở nghiệm thức CP140 là 0,333kg/con/ngày và cao nhất ở
nghiệm thức CP230 là 0,526kg/con/ngày, kết quả nghiên cứu cao hơn so với kết
quả của Nguyễn Thị Đan Thanh (2007) từ 200 - 325gCP/con/ngày.
Tỷ lệ %CP/DM tăng dần khi tăng mức độ gCP/100kg thể trọng (P<0,05) và dao động
trong khoảng 7,50-10,6%. Kết quả này thấp hơn nghiên cứu trên bò Lai Sind của
Pham Ho Hai and T R Preston (2009) từ 10,1-10,9%CP/DM và nghiên cứu trên bò
đực lai sind của Nguyễn Văn Hiệp (2008) có mức độ %CP/DM từ 8,76-12,2%.

20



Năng lượng trao đổi khác biệt không ý nghĩa thống kê (p>0,05), tuy nhiên có xu
hướng tăng dần từ nghiệm thức CP140 (35,0MJ/con/ngày) đến nghiệm thức CP230
(41,0MJ/ngày). Kết quả này tương đương với nghiên cứu của Võ Duy Thanh (2008)
từ 35,6 – 36,5MJ/con/ngày.
Nhìn chung các chỉ tiêu ăn vào như DM, OM, NDF, CP và ME đều tăng từ mức độ
140 đến 230gCP/100kg thể trọng. Do khẩu phần được cung cấp bánh đa dưỡng chất
nên tăng cường hoạt động của vi sinh vật dạ cỏ đã cải thiện đáng kể lượng thức ăn
và dưỡng chất tiêu thụ của bò.
4.3. Nồng độ NH3, ABBH và pH dịch dạ cỏ ở 2 thời điểm 0giờ và 3giờ của bò ở
các nghiệm thức trong thí nghiệm
Các chỉ tiêu NH3, ABBH và pH dịch dạ cỏ của bò thí nghiệm được trình bày qua bảng 5
Bảng 5: Nồng độ NH3, ABBH và pH dịch dạ ở 2 thời điểm 0giờ và 3giờ của bò ở các nghiệm
thức trong thí nghiệm

Nghiệm thức
Chỉ tiêu

P

±SE

CP140

CP170

CP200

CP230

0 giờ


7,00

7,88

8,75

8,40

0,126

0,64

3 giờ

9,98

10,8

12,2

13,6

0,079

1,18

0 giờ

74,8


79,4

80,1

80,9

0,781

6,41

3 giờ

87,2

88,9

91,8

94,8

0,509

5,09

0 giờ

7,22

7,28


7,20

7,30

0,625

0,08

3 giờ

7,12

7,01

7,17

6,95

0,057

0,07

N-NH3, mg/100ml

ABBH, µM/ml

pH

ABBH: axit béo bay, NH3: Amoniac,ể trọng bò thí nghiệm. CP140, CP170, CP200, CP230: lần lượt là các

mức độ 140, 170,200 và 230gCP/100kg thể trọng bò.

Qua bảng 5 cho thấy NH3 tại thời điểm 0 giờ khác biệt không có ý nghĩa thống kê
giữa các nghiệm thức (p>0,05), dao động từ 7,00-8,40mg/100ml. Kết quả này phù
hợp với nghiên cứu của Nguyễn Thị Đan Thanh (2007) từ 7,20-8,40mg/100ml.

21


Nồng độ NH3 dịch dạ cỏ ở thời điểm 3 giờ khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa
các nghiệm thức (p>0,05), tuy nhiên xu hướng tăng dần từ nghiệm thức CP140 (9,98
mg/100ml) đến nghiệm thức CP230 (13,6 mg/100ml). Kết quả này phù hợp với kết
quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Liêm (2007) (10,9-13,8 mg/100ml). Theo Nguyễn
Văn Thu (2003) thì hàm lượng NH3 cao trong dạ cỏ như là một yếu tố được mong đợi
để cho vi sinh vật dạ cỏ sinh trưởng và tổng hợp protein cao, tiêu hóa thức ăn và cung
cấp protein giá trị cho vật chủ bởi vì NH3 là nguồn nitrogen chính cho vi sinh vật dạ
cỏ sử dụng để tổng hợp acid amin cho bản thân chúng.
Nồng độ Axit béo bay hơi (ABBH) dịch dạ cỏ ở thời điểm 0 giờ và 3 giờ khác biệt
không có ý nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức (p>0,05). Ở thời điểm 3giờ,
ABBH dịch dạ cỏ cao nhất ở nghiệm thức CP230 (94,8 µmol/ml) và thấp nhất ở
nghiệm thức CP140 (87,2 µmol/ml). Kết quả này thấp hơn nghiên cứu của Nguyễn
Văn Thu (2001) với rơm bổ sung urê (113,5µM/ml).
Hiệu quả hàm lượng gCP/100kg thể trọng lên nồng độ Axit béo bay hơi dịch dạ cỏ
(µM/ml) tại thời điểm 3 giờ sau khi cho ăn được thể hiện rõ qua biểu đồ 2.

P=0,009; SD=0,561

Biểu đồ 2. Mối quan hệ giữa hàm lượng gCP/100kg thể trọng và nồng độ Axit béo bay hơi
dịch dạ cỏ (µM/ml) tại thời điểm 3 giờ


Biểu đồ 2 cho thấy hàm lượng Axit béo bay hơi sản sinh trong dạ cỏ bò thí
nghiệm có mối quan hệ tuyến tính với mức độ protein thô của khẩu phần được
thể hiện qua phương trình y = 0,089x + 73,7 với hệ số tương quan rất cao
(R2=0,981; P=0,009; SD=0,561).
Chỉ tiêu pH dịch dạ cỏ ở hai thời điểm 0 giờ và 3 giờ của bò thí nghiệm không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức.

22


×