Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

ẢNH HƯỞNG của THỨC ăn và TUẦN TUỔI lên KHẢ NĂNG SINH sản của gà tàu VÀNG từ 40 – 49 TUẦN TUỔI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 64 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG

ẢNH HƯỞNG CỦA THỨC ĂN VÀ TUẦN TUỔI LÊN
KHẢ NĂNG SINH SẢN CỦA GÀ TÀU VÀNG TỪ 40 – 49
TUẦN TUỔI

Cần thơ, ngày …tháng…năm 2012

Cần thơ, ngày …tháng…năm 2012

CÁN BỘ HƯỚNG DẪN

DUYỆT BỘ MÔN

TS. ĐỖ VÕ ANH KHOA

Cần thơ, ngày …tháng…năm 2012
DUYỆT CỦA KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG

Trang 1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân tôi. Số liệu và kết quả
thu được trong thí nghiệm chưa từng được ai công bố trong bất cứ bài luận nào
trước đây.

Cần thơ, ngày 18 tháng 12 năm 2012
Sinh viên


VÕ THỊ THU ĐÔNG

Trang 2


LỜI CẢM TẠ
Luận văn tốt nghiệp là cả một quá trình dài học tập và cố gắng của bản thân, bên
cạnh sự nổ lực đó còn có sự ủng hộ, giúp đỡ của rất nhiều người. Trong giây phút
này đây tôi không biết nói gì hơn ngoài những lời biết ơn chân thành đến những
người đã quan tâm, lo lắng và giúp đỡ cho tôi trong suốt thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn:
Cha mẹ tôi người đã nuôi nấng, dạy dỗ và luôn đặt niềm tin hy vọng vào tôi để tôi
có được ngày hôm nay.
Thầy Đỗ Võ Anh Khoa người đã hết lòng chỉ bảo, giúp đỡ và động viên tôi hoàn
thành luận văn tốt nghiệp.
Quý thầy cô bộ môn Chăn nuôi, bộ môn Thú y đã hết lòng truyền đạt những kiến
thức cũng như kinh nghiệm quý báo cho tôi trong suốt những năm tháng qua.
Các chú, bác, anh em công nhân tại trại thực nghiệm đã tạo điều kiện thuận lợi để
tôi hoàn thành thí nghiệm.
Các bạn trong và ngoài lớp đã giúp đỡ chia sẽ và động viên tôi trong suốt thời gian
học tập và thực hiện đề tài.

Trang 3


TÓM LƯỢC
Trong những năm vừa qua, vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long gà Tàu Vàng vẫn
được người dân ưa chuộng Trước sự chấp thuận của Khoa Nông Nghiệp & SHƯD –
Bộ Môn Chăn Nuôi, chúng tôi tiến hành đề tài: “Ảnh hưởng của thức ăn và tuần
tuổi lên khả năng sinh sản của gà Tàu Vàng từ 40 – 49 tuần tuổi” tại Trại Chăn

nuôi Thực Nghiệm Hòa An – Khoa Nông Nghiệp & SHƯD – Trường Đại Học Cần
Thơ với thời gian từ 10/08/2012 – 19/10/2012.
Thí nghiệm được tiến hành theo thể thức hoàn toàn ngẫu nhiên trên 72 gà Tàu Vàng
40 tuần tuổi với 3 nghiệm thức tương ứng với 3 mức độ đạm của 3 loại thức ăn là:
thức ăn GA 18 % CP, NA 17,5 % CP, PA 17 % CP và được lặp lại 4 lần.
Kết quả thí nghiệm như sau:
TLN, TLD theo tuần tuổi đều khác nhau có ý nghĩa thống kê (P<0,05). TLN có tỷ lệ
cao nhất ở tuần 47 là 79,82% và thấp nhất là 45,45% ở tuần 42. TLD có tỷ lệ cao
nhất 57,14% ở tuần 42 và thấp nhất 39,76% ở tuần 45.
TLD, TLN theo các giai đoạn tuần tuổi khác nhau có ý nghĩa thống kê (P<0,05).
TLD đạt giá trị cao nhất là 52,86% ở giai đoạn 42-43 tuần tuổi và thấp nhất là
40,83% ở giai đoạn 48-49 tuần tuổi. TLN đạt giá trị cao nhất là 76,15% ở giai đoạn
48-49 tuần tuổi và thấp nhất là 61,87% giai đoạn 42-43 tuần tuổi.
Thức ăn ảnh hưởng đến tỷ lệ nở giữa các NT với (P<0,05). Tỷ lệ nở cao nhất là NT
sử dụng thức ăn PA đạt 79,53% và thấp nhất là NT sử dụng thức ăn GA là 64,87%.
Tuổi đẻ, thức ăn không tác động lên DK1, CSHD của trứng nhưng tác động lên
DK2. Tương tác giữa tuần tuổi và thức ăn thì không ảnh hưởng đến DK1, DK2,
CSHD của trứng.
Tuổi đẻ có ảnh hưởng đến KL, KL6, KL12, KL18 giữa các NT (P<0,05). Tuần 48
cho khối lượng trứng cao nhất là 58,46g và thấp nhất là vào tuần 40 là 46,14g.
Các NT sử dụng thức ăn GA, NA, PA cho giá trị KL, KL6, KL12, KL18 khác nhau
có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Với thức ăn NA cho giá trị KL, KL6, KL12, KL18
lớn nhất, kế đến là thức ăn GA và thấp nhất là thức ăn PA.
Tương tác giữa tuần tuổi và thức ăn có ảnh hưởng đến KL, KL6, KL12, KL18 giữa
các NT và sự khác nhau giữa các NT này có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Khối lượng
lớn nhất của trứng qua các giai đoạn KL, KL6, KL12, KL18 là tương tác giữa tuần
tuổi 48 và thức ăn GA. Khối lượng nhỏ nhất của trứng qua các giai đoạn KL, KL6,
KL12, KL18 là tương tác giữa tuần tuổi 40 và thức ăn PA.

Trang 4



MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN.................................................................................................. i
CẢM TẠ ....………………………………………………………………………...ii
TÓM LƯỢC ..……………………………………………………………………..iii
MỤC LỤC ….……………………………………………………………………..iv
DANH SÁCH BẢNG ……………………………………………………………vii
DANH SÁCH BIỂU ĐỒ………………………………………………………….viii
DANH SÁCH CHỮ VIẾT TẮT ……………...……………..……..……………...ix
Chương 1: ĐẶT VẤN ĐỀ .......................................................................................1
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN .................................................................................2
2.1. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA GÀ TÀU VÀNG ĐỊA PHƯƠNG.
2
2.2. ĐIỀU KIỆN ĐỂ ẤP TRỨNG. 2
2.3. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHÔI GIA CẦM TRONG KHI ẤP.
3
2.4. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ KHẢ NĂNG SINH SẢN VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH
HƯỞNG 4
2.4.1. Tuổi thành thục về tính ............................................................................................ 4
2.4.2. Khả năng thụ tinh và tỷ lệ ấp nở............................................................................... 5
2.5. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHÔI VÀ
TỶ LỆ ẤP NỞ
6
2.5.1. Ảnh hưởng của việc thu lượm trứng......................................................................... 6
2.5.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ........................................................................................... 6
2.5.3. Ảnh hưởng của ẩm độ............................................................................................ 10
2.5.4. Ảnh hưởng của độ thông thoáng ............................................................................ 13
2.5.5. Ảnh hưởng của việc đảo trứng ............................................................................... 14

2.5.6. Ảnh hưởng của hình dạng trứng và khối lượng trứng ............................................. 14
2.5.7. Ảnh hưởng của thiếu vitamin và khoáng ................................................................ 15
2.5.8. Ảnh hưởng của thời gian bảo quản và phương thức bảo quản................................. 16
2.5.9. Các yếu tố ảnh hưởng khác .................................................................................... 16
2.6. THỨC ĂN VÀ DINH DƯỠNG

17

2.6.1. Vai trò của Protein ................................................................................................. 18
2.6.2. Vai trò của năng lượng........................................................................................... 19
2.6.3. Mối quan hệ giữa năng lượng và protein ................................................................ 20
2.6.4. Thức ăn khoáng ..................................................................................................... 20
2.6.5. Nước uống cho gà.................................................................................................. 23
2.7. CHĂM SÓC VÀ NUÔI DƯỠNG

24

Trang 5


2.7.1. Sự nuôi dưỡng và mối quan hệ của nó với các chức năng sinh sản và chất lượng
trứng ............................................................................................................................... 24
2.7.2. Các biện pháp chăm sóc gà mái đẻ......................................................................... 24
2.8. QUY TRÌNH ẤP ...…………………………………………………………………...26

2.8.1. Quy trình ấp trứng…………………………………………………………...26
2.8.2. Soi trứng sau 6 ngày ấp………………………………………………...……27
2.8.3. Soi trứng sau 11 ngày ấp…………………………………………………….27
2.8.4. Soi trứng sau 19 ngày ấp…………………………………………………….27
2.9 QUY TRÌNH VỆ SINH PHÒNG BỆNH. .................................................................. 28


Chương 3: PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM........................30
3.1. PHƯƠNG TIỆN THÍ NGHIỆM.

30

3.1.1. Địa điểm và thời gian thí nghiệm. .......................................................................... 30
3.1.2. Đối tượng thí nghiệm............................................................................................. 30
3.1.3. Chuồng trại............................................................................................................ 30
3.1.4. Dụng cụ thí nghiệm. .............................................................................................. 30
3.1.5. Thức ăn và nước uống............................................................................................ 30
3.1.6. Thuốc thú y............................................................................................................ 31
3.2. PHƯƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM

31

3.2.1. Bố trí thí nghiệm.................................................................................................... 31
3.2.2. Quy trình chăm sóc nuôi dưỡng. ............................................................................ 32
3.2.3. Các chỉ tiêu theo dõi .............................................................................................. 33
3.2.4. Phương pháp xử lí số liệu ...................................................................................... 33

Chương 4: KẾT QUẢ THẢO LUẬN ....................................................................34
4.1. CÁC CHỈ SỐ ĐO ..................................................................................................... 34
4.1.1. Ảnh hưởng của tuổi đẻ........................................................................................... 34
4.1.2. Ảnh hưởng của thức ăn .......................................................................................... 36
4.1.3. Ảnh hưởng của sự tương tác giữa tuần tuổi và thức ăn

38

4.2. TỶ LỆ ĐẺ ................................................................................................................ 41

4.2.1 Ảnh hưởng của giai đoạn tuần tuổi.......................................................................... 41
4.2.2 Ảnh hưởng của tuổi đẻ............................................................................................ 42
4.3. TỶ LỆ NỞ

42

4.3.1. Ảnh hưởng của tuổi đẻ lên tỷ lệ nở......................................................................... 42
4.3.2. Ảnh hưởng của giai đoạn tuần tuổi lên tỷ lệ nở ...................................................... 44
4.3.3. Ảnh hưởng thức ăn lên tỷ lệ nở .............................................................................. 44
Chương 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ............................................................................ 45
5.1 KẾT LUẬN

45

Trang 6


5.2 ĐỀ NGHỊ

45

TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................46

Trang 7


DANH SÁCH BẢNG
Bảng 2.1: Ảnh hưởng của nhiệt độ đến tỷ lệ ấp nở trứng gà
Bảng 2.2: Kết quả ấp nở theo mức khối lượng khác nhau
Bảng 2.3: Cách bảo quản trứng

Bảng 3.1: Thành phần dưỡng chất của thức ăn GA
Bảng 3.2: Thành phần dưỡng chất của thức ăn NA
Bảng 3.3: Thành phần dưỡng chất của thức ăn PA
Bảng 4.1: Ảnh hưởng của tuần tuổi lên DK1, DK2 và CSHD
Bảng 4.2: Ảnh hưởng của tuổi đẻ lên khối lượng của trứng
Bảng 4.3: Ảnh hưởng thức ăn lên DK1, DK2 và CSHD
Bảng 4.4: Ảnh hưởng của thức ăn lên khối lượng trứng qua các thời kì ấp
Bảng 4.5: Ảnh hưởng của sự tương tác giữa tuần tuổi và thức ăn lên DK1, DK2 và
CSHD
Bảng 4.6: Ảnh hưởng của sự tương tác giữa tuần tuổi và thức ăn lên KL, KL6,
KL12, KL18
Bảng 4.7 Ảnh hưởng của giai đoạn tuần tuổi lên tỷ lệ đẻ
Bảng 4.8: Ảnh hưởng của tuổi đẻ lên tỷ lệ đẻ
Bảng 4.9: Ảnh hưởng của tuổi đẻ lên tỷ lệ nở
Bảng 4.10 Ảnh hưởng của giai đoạn tuàn tuổi lên tỷ lệ nở
Bảng 4.11: Ảnh hưởng của thức ăn lên tỷ lệ nở.

Trang 8


DANH SÁCH HÌNH VÀ BIỂU ĐỒ
Hình 2.1: Gà Tàu Vàng
Biểu đồ 4.1: Ảnh hưởng của thức ăn lên khối lượng trứng qua các thời kì
Biểu đồ 4.2: Ảnh hưởng của tuần tuổi lên tỷ lệ nở

Trang 9


DANH SÁCH CHỮ VIẾT TẮT
CP: Protein thô

NT: Nghiệm thức
TT: Tuần tuổi
TT*TA: Tương tác giữa tuần tuổi và thức ăn
CSHD: Chỉ số hình dáng
KL: Khối lượng trứng
KL6: Khối lượng trứng 6 ngày ấp
KL12: Khối lượng trứng 12 ngày ấp
KL18: Khối lượng trứng 18 ngày ấp
GA: Thức ăn ký hiệu là GA với CP là 18%
NA: Thức ăn ký hiệu là NA với CP là 17,5%
PA: Thức ăn ký hiệu PA với CP là 17%
STKS: Số trứng khảo sát
STN: Số trứng nở
TSGKS: Tổng số gà khảo sát
TSGD: Tổng số gà đẻ

Trang 10


Chương 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
Cùng với sự phát triển về kinh tế, trong những năm vừa qua ngành chăn nuôi nước
ta cũng đang trên đà phát triển mạnh mẽ, trong đó chăn nuôi gia cầm đã đem lại
nhiều sản phẩm như trứng và thịt cho thị trường tiêu dùng. Để phục vụ cho mục
đích của người chăn nuôi, các giống gà cao sản ngoại nhập đã lần lượt được đưa vào
nước ta nói chung cũng như đồng bằng sông Cửu Long nói riêng. Bên cạnh những
giống gà cao sản đó thì các giống gà địa phương vẫn được người dân ưa chuộng.
Một bằng chứng rõ ràng là gà Tàu vàng miền Nam với những ưu điểm vốn có của
nó như chất lượng thịt thơm ngon rất phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng, sản
phẩm có giá cao và ổn định hơn so với gà công nghiệp. Ở đồng bằng sông Cửu
Long hiện nay gà Tàu Vàng vẫn thường phát triển chủ yếu dưới hình thức chăn nuôi

gia đình với quy mô nhỏ, nơi mà tập quán chăn nuôi thả lang truyền thống vẫn được
duy trì thay vì áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong chăn nuôi. Vì thế nên
vấn đề con giống và thức ăn rất ít được người chăn nuôi chú ý. Cho nên đến nay vẫn
chưa có nhiều công trình nghiên cứu, đầu tư về những đặc điểm, các chỉ tiêu kinh tế
kỹ thuật cũng như nhu cầu dinh dưỡng của gà Tàu Vàng địa phương một cách đúng
mực.
Trước thực tế đó, được sự chấp thuận của Bộ môn Chăn Nuôi – Khoa Nông Nghiệp
& SHƯD – Trường Đại học Cần Thơ chúng tôi tiến hành đề tài: “Ảnh hưởng của
thức ăn và tuần tuổi lên khả năng sinh sản của gà Tàu Vàng từ 40 – 49 tuần
tuổi”.

Trang 11


Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA GÀ TÀU VÀNG ĐỊA PHƯƠNG
Gà Tàu Vàng là giống gà địa phương được nuôi rộng rãi ở Nam Bộ. Gà Tàu Vàng
có nhiều sắc lông khác nhau do được lai tạp nhiều, song phổ biến là màu vàng rơm
và vàng sậm, có đốm đen ở cổ, cánh và đuôi, chân vàng, bàn chân có lông, mào đa
số là màu đơn, một số có màu nụ (mào kép). Thịt chắc, ngọt, thơm ngon rất phù hợp
với thị hiếu tiêu thụ của người dân Đồng bằng sông Cửu Long.
Nuôi đến 12 tuần tuổi gà Tàu Vàng có thể cho trọng lượng từ 1,2 – 1,3 kg đối với
con mái và 1,4 – 1,5 kg đối với con trống. Tuổi trưởng thành của chúng là 5,6 – 6
tháng, năng suất trứng là 100 trứng/mái/năm, trứng nặng 45 – 55 g, gà mái ấp và
nuôi con giỏi.

Hình 2.1: Gà Tàu Vàng

2.2. ĐIỀU KIỆN ĐỂ ẤP TRỨNG
Điều kiện ấp trứng tự nhiên phụ thuộc hoàn toàn vào điều kiện môi trường tự nhiên

và sự khéo léo điều khiển chế độ nhiệt trong khi ấp của con gà mái. Tuy nhiên, để
nở được, nhiệt độ của con mẹ cung cấp cho trứng ấp cũng phải đạt yêu cầu cho sự
phát triển sinh lý của phôi, biến động từ 37-390C, đôi khi nhiệt độ này không đảm
bảo được, do nhiệt độ môi trường quá cao hoặc quá thấp. Cho nên tỉ lệ nở phụ thuộc
hoàn toàn vào nhiệt độ, ẩm độ môi trường. Thường tỷ lệ ấp nở rất thấp, chỉ đạt 60 –
70% ở mùa hè hoặc mùa đông. Vì vậy ở các nước có nền chăn nuôi gia cầm công
nghiệp đã chế tạo ra máy ấp để ấp trứng nhân tạo. Điều kiện môi trường trong quá
trình ấp trứng là:
Nhiệt độ: nhiệt độ môi trường để ấp trứng là yếu tố quan trọng nhất, có ý nghĩa
quyết định khả năng nở - phát triển, sức sống của phôi. Nhiệt độ ấp trong máy tối
ưu phụ thuộc vào giai đoạn phát triển phôi, vào loại gia cầm và môi trường trong
phòng ấp. Nhưng bình thường phải đạt khoảng 37,80C (chế độ này do hệ thống báo

Trang 12


tự động, con người ít khi điều chỉnh, trừ nhiệt độ ngoài máy quá nóng hoặc quá lạnh
con người phải xử lý). Đến nay nhiều tác giả nghiên cứu đã đưa vào quy trình ấp
nhiệt độ thích hợp là 37,5- 39 0C.
Độ ẩm: Độ ẩm không khí cần thiết để điều chỉnh sự thải nhiệt của trứng qua thời
gian ấp, nó tạo ra môi trường cân bằng trong quá trình sinh lý, sinh hóa xảy ra của
phôi thai. Nếu độ ẩm không đạt ( cao hoặc thấp hơn tiêu chuẩn) làm trứng tích trữ
hoặc mất nước nhiều, làm cho phôi phát triển yếu, gà nở muộn, gà nhỏ hoặc nặng
bụng. Tỷ lệ nở kém do trứng sát (gà không ra khỏi vỏ) và chết phôi nhiều.
Qua nghiên cứu, các nhà kỷ thuật đã đưa thành quy trình về độ ẩm trong máy ấp là
từ 55- 60% (ngày đầu) đến 70- 75%, còn qua nữa của cuối chu kỳ đặc biệt vào ngày
cuối, ẩm độ phải bảo đảm 70-75%. Trao đổi không khí trong máy ấp. Trứng ấp yêu
cầu không khí như cơ thể gia cầm sống bên ngoài. Vì một máy chứa tới 10.00020.000 trứng, nên lượng không khí luân chuyển trong máy liên tục và lớn. Khi
lượng ôxy trong máy ấp dưới 15% gây chết phôi hàng loạt. Khi lượng CO2 trong
không khí khoảng 1% làm định trệ sự phát triển sinh trưởng của phôi thai cũng như

tăng cao tỷ lệ chết của chúng. Khi thay đổi chế độ không khí trong máy làm phôi
chết nhiều, đặc biệt lúc 4 và 11-12 ngày ấp. Những nghiên cứu của E.Trechiacov
(1979), đã xác định rằng lượng khí CO2 biến động trong khoảng 0,2- 0,4% là bảo
đảm phôi phát triển tốt. Vì vậy hệ thống đảo khí trong máy ấp, cũng như hệ thống
tự động báo nhiệt độ, ẩm độ phải hoạt động tốt là yêu cầu hết sức nghiêm ngặt. Chỉ
sơ suất, để làm tăng nhiệt độ, ẩm độ, ngừng thông khí, trứng sẽ chết phôi hàng loạt.
Thức ăn và không khí cho phôi trong thời gian ấp. Lòng đỏ, lòng trắng, vỏ là những
vật chất được phôi sử dụng cho sự phát triển, sinh trưởng của nó.Trong những ngày
đầu tiên phôi sử dụng protein của lòng đỏ; còn nước và muối – của lòng trắng. Sau
7 ngày ấp phôi sử dụng hầu hết các chất dinh dưởng của lòng đỏ. Số lượng của
lòng trắng bắt đầu giảm, từ ngày thứ 7- 10 số lượng của nó hầu như giữ ở một mức
cố định, còn sau đó lại giảm. Qua ngày thứ 18- 19 lòng trắng hoàn toàn biến mất.
Hydratcacbon có ý nghĩa qua những ngày thứ 5 – thứ 6 khi ấp, khi mà hình thành
các tổ chức và hệ thống của phôi thai. Số lượng đường qua thời kỳ này ở lòng đỏ và
lòng trắng giảm đi. Phôi gia cầm bắt đầu tích lũy glucogen sau 11 ngày ấp; Ngày
thứ 14 bắt đầu giảm nó trong lòng đỏ và lòng trắng. Từ thời gian này phôi đã sử
dụng glucogen lấy từ gan. Phôi sử dụng chất khoáng tích cực nhất là canxi. Sự hấp
thu nó đặc biệt tăng lên từ sau ngày thứ 15, gắn liền với sự tạo xương.
Qua 5-6 ngày khi ấp lượng nước trong trứng mất đi không đáng kể. Từ ngày ấp thứ
7 đến ngày thứ 17 phôi sử dụng nhiều nước từ lòng trắng để xây dựng các tổ chức
cơ thể và trong trao đổi chất. Vào những ngày đầu của chu kỳ ấp, sự hô hấp của bào
thai được thực hiện chủ yếu đối với lượng ôxy dự trữ ở buồng khí của trứng và ôxy
ngoài trứng (gà mổ vỏ, lấy ôxy ngoài trời).

Trang 13


2.3. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHÔI GIA CẦM TRONG KHI ẤP
Dưới tác động của điều kiên ấp, phôi gia cầm sẽ phát triển qua các giai đoạn khác
nhau theo một trình tự nhất định. Hiểu biết về sự phát triển của phôi gia cầm để

chúng ta có thể xác định điều kiên ấp thích hợp và điều chỉnh những sai sót nếu có.
Theo Bùi Đức Lũng và Nguyễn Xuân Sơn (1999), thì quá trình phát triển của phôi
gà như sau:
Ngày đầu: Sáu giờ sau khi ấp phôi gà dài 5mm, hình thành nếp thần kinh trên dây
sóng nguyên thủy. Sau 24 giờ nếp thần kinh tạo thành ống thần kinh (tubeneurale)
và hình thành 5-6 đốt thân.
Ngày thứ 2: Phôi tiếp tục phát triển tạo thành hệ thống mạch máu bên ngoài bào
thai. Bắt đầu xuất mầm tim, mạch máu bao quanh lòng đỏ (noãn hoàng). Chất dinh
dưỡng của noãn hoàng cung cấp cho phôi.
Ngày thứ 3: Bắt đầu hình thành đầu, cổ và ngực của phôi. Nếp đuôi và nếp cánh lớn
lên hợp với nếp thânsau của phôi. Từ đó màmg ối, màng nhung phân chia thành 2
màng túi, 2 màng này dính với nhau. Qua ngày thứ 3 hình thành gan và phổi.
Ngày thứ 4: Phôi có dạng như ở bào thai động vật bậc cao. Độ dài phôi 8mm.
Ngày thứ 5: Phôi phát triển tăng dần đạt chiều dài 12mm. Nhìn bề ngoài, có hình
dáng của loài chim.
Ngày thứ 6: Kích thước của phôi đạt 16mm. Mạch máu phủ nhiều quanh phôi,
trông như màng nhện. Vào ngày này tiến hành kiểm tra sinh vật lần thứ nhất để loại
trứng chết phôi, biểu hiện mạch máu thâm, phôi không giữ ở vị trí cố định khi lắc
nhẹ quả trứng.
Ngày thứ 7: Vòng rốn biểu mô màng ối biến thành da phôi. Trong màng ối hình
thành huyết quản. Thành màng ối xuất hiện cơ trơn để màng có thể co bóp được.
Phôi phát dục trong môi trường nước của màng ối. Nước ối vừa chứa dinh dưỡng,
vừa chứa cả amoniac và axituric của phôi thải ra. Đã hình thành ống ruột và dạ dày.
Chất dinh dưỡng đã qua đó.
Ngày thứ 11: Phôi dài 2,54cm, đã hình thành chân.
Ngày thứ 12: Huyết quản của túi noãn hoàng phát triển mạnh, chuyên vận chuyển
chất dinh dưỡng đến phôi. Thời kỳ này là quá độ của hô hấp túi niệu. Tế bào cơ, gân
phân bố khắp thành niệu nang.
Ngày thứ 13: Trên đầu phôi gà xuất hiện lông tơ, móng chân và mỏ hình thành rõ.
Ngày thứ 14: Phôi lớn chiếm gần hết khoang trứng, đã cử động, lông phủ kính toàn

thân.

Trang 14


Ngày thứ 15 và 16: Kích thước của niệu nang tăng lên tương ứng với kích thước của
phôi. Protein được phôi sử dụng hầu như hoàn toàn. Số lòng đỏ được phôi tiêu thụ
gần hết. Sự hô hấp vẫn nhờ mạch máu.
Ngày thứ 17,18 và 19: Phôi chiếm toàn bộ khối lượng của trứng (trừ buồng khí).
Ngày thứ 20: Mỏ của phôi gà mổ thủng buồng khí. Lúc này gà con lấy ôxy qua
đường hô hấp, phổi và mạch máu. Gà con mổ thủng quả trứng.
Ngày thứ 21: Vào đầu của ngày này gà bắt đầu chui khỏi vỏ. Kết thúc chu kỳ ấp
trứng.
2.4. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ KHẢ NĂNG SINH SẢN VÀ CÁC YẾU TỐ
ẢNH HƯỞNG
2.4.1. Tuổi thành thục về tính
Tuổi thành thục về tính của gia cầm được tính từ khi con vật bắt đầu có phản xạ
sinh dục và có khả năng sinh sản. Tuổi thành thục về tính được xác định qua các
biểu hiện như bộ máy sinh dục đã phát triển tương đối hoàn chỉnh, con cái bắt đầu
có hiện tượng rụng trứng và con đực có hiện tượng sinh tinh. Ở gia cầm, tuổi thành
thục về tính được tính từ khi gia cầm mái đẻ quả trứng đầu tiên đối với từng cá thể
hoặc trên đàn quần thể là lúc tỷ lệ đẻ đạt 5%. Tuy nhiên tính toán tuổi đẻ của gia
cầm dựa trên số liệu của từng cá thể trong đàn là chính xác nhất. Phương pháp
nghiên cứu này phản ánh được độ lớn cũng như mức độ biến dị của tính trạng.
Tuổi thành thục về tính chịu ảnh hướng của giống và môi trường. Các giống gia
cầm khác nhau thì tuổi thành thục về tính cũng khác nhau. Có giống gia cầm thành
thục về tính rất muộn: đến tận 200 ngày hoặc có khi lâu hơn nữa, do vậy chu kỳ đẻ
trứng cũng ngắn hơn.
Trong chăn nuôi người ta rất chú trọng đến chương trình chiếu sáng. Các nhà chăn
nuôi thường áp dụng chương trình chiếu sáng giảm dần trong giai đoạn nuôi hậu bị.

Trước thời gian đẻ vài ngày, người ta thường tăng thời gian chiếu sáng để kích thích
phát dục và sau đó chiếu sáng theo quy trình chăn nuôi gia cầm đẻ để ánh sáng tăng
dần tới 15- 16 giờ chiếu sáng/ngày.
2.4.2. Khả năng thụ tinh và tỷ lệ ấp nở
2.4.2.1 Khả năng thụ tinh
Theo Nguyễn Văn Thiện (1996), sự thụ tinh là một quá trình, trong đó tinh trùng và
trứng hợp nhất lại thành một hợp tử .Cơ chế thụ tinh được thực hiện ngay tại loa
kèn. Tế bào trứng có khả năng thụ tinh 15 đến 20 phút sau khi rụng. Nếu trong thời
gian đó trứng không được gặp tinh trùng thì nó sẽ mất khả năng thụ tinh.
Sự thụ tinh chính là một tính trạng dùng để đánh giá sức sinh sản của đời bố, mẹ.
Tuy nhiên, ở gia cầm nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ nở cao

Trang 15


nhất thường vào những năm đẻ đầu tiên. Tỷ lệ thụ tinh cũng phụ thuộc vào tỷ lệ
trống/ mái.
Tỷ lệ thụ tinh còn phụ thuộc vào yếu tố dinh dưỡng, sức khỏe của đàn giống. Giao
phối cận huyết cũng làm giảm tỷ lệ thụ tinh; mật độ nuôi quá đông cũng có ảnh
hưởng đến hoạt động giao phối của con đực. Đặc biệt phương thức chăn nuôi cũng
có ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ thụ tinh: nuôi chăn thả có tỷ lệ thụ tinh cao. Tỷ lệ
phôi là một tính trạng quyết định số gia cầm giống nở ra trên một gia cầm mái.
2.4.2.2 Tỷ lệ ấp nở
Tỷ lệ ấp nở của gia cầm được xác định bằng tỷ lệ phần trăm số con con nở ra so với
tổng số trứng vào ấp. Tỷ lệ nở cao có ý nghĩa kinh tế lớn. Nếu kết quả ấp nở kém thì
tỷ lệ hao hụt trong giai đoạn nuôi dưỡng sau này cao, chất lượng con giống không
được đảm bảo. Tỷ lệ ấp nở chịu tác động của nhiều yếu tố: di truyền và môi trường.
* Yếu tố di truyền: Theo Wagner (1980), cho biết ảnh hưởng của một số gen gây
chết đến tỷ lệ ấp nở chủ yếu là các gen lặn, ảnh hưởng này càng rõ ràng hơn trong
giao phối cận huyết. Hệ số di truyền về tỷ lệ ấp nở nói chung là thấp đạt từ 0,16 đến

0,2.
* Các yếu tố khác: Phương thức chăn nuôi khác nhau thì tỷ lệ nở cũng khác nhau.
Nhìn chung, gia cầm nuôi trên lồng thường có chất lượng vỏ trứng sạch hơn nuôi
trên nền nên tỷ lệ ấp nở đạt cao hơn. Khối lượng trứng cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ
chết của phôi: trứng quá to hoặc quá nhỏ đều cho tỷ lệ ấp nở thấp. Sự cân đối về tỷ
lệ lòng đỏ, lòng trắng và cấu trúc vỏ có ảnh hưởng tới tỷ lệ ấp nở (Nguyễn Quý
Khiêm, 1999).
2.5. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA
PHÔI VÀ TỶ LỆ ẤP NỞ
2.5.1. Ảnh hưởng của việc thu lượm trứng
Theo Lê Hồng Mận và Hoàng Hoa Cương (1999), thì việc thu lượm trứng có những
lợi ích sau: Trứng ít bị nhiễm khuẩn do thời gian tiếp xúc với tạp chất ngắn. Trong
vòng 2 giờ sau khi ra khỏi cơ thể gà mái, trứng có khả năng ngăn cản sự xâm nhập
của vi khuẩn vào bên trong trứng. Trứng không bị nóng khi gà khác vào đẻ hay nằm
ấp nhất là vào mùa hè.
Theo Bùi Xuân Mến (2007), khi ở nhiệt độ bình thường, thu lượm trứng 3-4 lần
trong ngày là đủ. Tuy nhiên khi nhiệt độ quá nóng hoặc quá lạnh, trứng ấp phải
được thu lượm hàng giờ. Thu lượm trứng thường xuyên làm giảm khả năng và nguy
cơ nhiễm do tiếp xúc với các chất gây hại trong ổ ấp, từ phân và ngăn ngừa quá
trình đông lạnh trong mùa đông và nhiệt độ quá nóng trong mùa hè. Nếu không thu
lượm trứng sau mỗi khi gà vào đẻ, gà sẽ nằm lên trứng. Gặp nhiệt độ của gà chuyển
sang mầm của trứng sẽ tượng hình, Đến khi đẻ xong gà vào ổ, trứng nguội trở lại.
Trang 16


Mầm trứng vừa tượng hình rơi vào hoàn cảnh không phù hợp thì chết hoặc bị yếu
đi. Khi đem ấp trứng không nở, chết phôi ở giai đoạn đầu hoặc nở yếu đi. Việc thu
lượm trứng ảnh hưởng đến tỉ lệ ấp nở, vì vậy thường xuyên thu lượm trứng. Mỗi
ngày thu 5 lần: 8, 10, 12, 14, 17 giở (Lã Thị Thu Minh, 2000).
2.5.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ

Theo Bùi Đức Lũng, Nguyễn Xuân Sơn, 1999, trong các máy ầp lớn, nhiệt độ
thường nằm trong khoảng 37-38 0C. Giai đoạn đầu 6-7 ngày sau khi ấp cần nhiệt độ
khoảng 37,8-380C. Nhiệt độ này làm phôi phát triển nhanh, do làm tăng tiêu hóa
thức ăn trong trứng của phôi, niệu nang khép kín sớm. Nước trong trứng bóc hơi
nhanh, tạo khoảng trống niệu nang để chứa nước nội sinh (nước tạo ra trong quá
trình trao đổi chất). Do đó kích thích phôi tiêu hóa nhiều lòng trắng, lòng đỏ hơn và
thải nhiều nước cặn bả. Vào cuối kì ấp, khoang niệu nang khép kín, màng niệu nang
tiêu đi, lúc này phôi hô hấp bằng phổi.
Bảng 2.1: Ảnh hưởng của nhiệt độ đến tỷ lệ ấp nở trứng gà

Nhiệt độ (oC)
35,6
36,1
36,7
37,2
37,8
38,3
38,9
39,4

Tỷ lệ nở (%)
10
50
70
80
88
85
75
50


Thời gian kéo dài (ngày)
22,5
21,5
21,0
21,0
21,0
19,5
19,5

Nguồn: Petkova (1978)

2.5.2.1 Ảnh hưởng của nhiệt độ ấp quá cao (thừa nhiệt)
Khi nhiệt độ trong máy ấp, máy nở vượt 41 0C sẽ làm cho tất cả phôi chết hành loạt
trong bất cứ lúc nào. Dưới 410C phôi không chết ngay nhưng tùy thuộc vào mức độ
cao nhiều hay ít và tùy giai đoạn phát triển của phôi mà có những biểu hiện khác
nhau về triệu chứng và bệnh tích đặc trưng. Những dấu hiệu chung nhất của phôi ấp
ở nhiệt độ cao gồm có:
- Khi nhiệt độ cao quá giới hạn, trước tiên làm trứng bốc hơi nước quá nhanh. Khi
soi kiểm tra thấy buồng khí lớn nhanh. Hoặc cân trứng thấy khối lượng giảm nhanh
hơn mức bình quân: 1 đến 6 ngày ấp, giảm 0,5-0,6%/ngày.
- Túi niệu phát triển nhanh và sớm khép kín xuống đầu nhọn của trứng. Phôi phát
triển nhanh nhưng dễ chết vì bị dính vào vỏ.

Trang 17


- Quá trình hình thành mạch máu nhanh. Các mạch máu căng to, rõ, và trứng có
màu hồng đậm. Khi phôi chết các mạch máu tan vỡ và đọng lại thành vòng máu to,
đậm nét.
* Nhiệt độ tăng cao vào cuối ngày ấp thứ nhất

Thường gây chết phôi rất sớm. Phôi thành một khối dị dạng, không hình dáng nhất
định (vô định hình). Nếu ta soi kiểm tra qua đèn sẽ thấy chấm đen nhỏ bất động.
Cũng có thể không thấy gì và dễ nhầm với “trứng sáng” không có phôi hoặc phôi
chết trước khi vào máy ấp. Một trường hợp khác, nhiệt độ cao vào cuối ngày ấp thứ
nhất sẽ gây rối loạn sự phát triển hệ thống mạch máu và nang hóa phôi bào, gây
chết nhanh. Quan sát sẽ thấy nhiều trứng bị vòng máu.
* Nhiệt độ cao trong 2 ngày ấp đầu tiên sẽ gây biến dị vùng đầu, như thiếu xương sọ
làm não lồi ra ngoài, mắt nhỏ, có một mắt, mắt lệch vị trí, không có mắt và những
biến dị khác ở vùng mặt. Nếu nhiệt độ tăng không cao lắm, phôi phát triển rất mạnh
và thường gây tình trạng một vài phủ tạng không nằm trong hốc bụng mà nằm bên
ngoài do màng bụng khép lại không kịp.
* Nhiệt độ cao từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 5 thường gây hiện tượng xoang bụng bị
hở, phủ tạng bị lạc vị trí.
* Những trứng sau khi ấp 6-8 ngày bị nhiệt độ cao tác động, nếu chưa chết, ta soi
thấy phôi phát triển không đều: một số thích nghi được thì phát triển được nhanh,
phôi to nằm chìm sâu trên lòng đỏ, khó quan sát. Hệ thống mạch máu phát triển
mạnh, trứng soi có màu hồng đậm. Một số khác bị nhiệt độ cao làm chững lại, phôi
phát triển yếu, nhỏ, nhẹ, nằm gần vỏ nên dễ quan sát. Hệ thống mạch máu kém phát
triển, nên khi soi thấy màu quả trứng nhợt nhạt hơn so với trường hợp trên. Tuy vậy
màng niệu nang vẫn khép kín sớm và trên màng túi niệu vẫn có nhiều mạch máu căng
đầy.
Nhiệt độ tăng cao đột ngột vào giữa thời kỳ ấp không gây dị hình ở phôi nhưng
thành túi ối và túi niệu đôi khi có nhiều bọt trong suốt to bằng hạt đậu đen nhưng
gây tình trạng chết phôi nhiều. Phôi bị tụ huyết, xuất huyết lấm tấm ở da, có khi
thấy ở tim, não. Mạch máu của màng túi niệu chứa đầy máu.
* Vào ngày thứ 19 soi kiểm tra cũng thấy sự phát triển của phôi rất khác nhau. Phần
lớn trứng phát triển nhanh có màu đỏ sậm, thấy cổ phôi nhô lên buồng khí. Một số
trứng ở đầu nhọn đã tối đen, nhưng phần lớn trứng còn lại đầu nhọn vẫn còn sáng,
vì lòng trắng chưa tiêu hết, có màng túi niệu với hệ thống mạch máu bọc ngoài. Có
cả những trứng phôi phát triển chậm và quá chậm.

Gà con mổ vỏ (khảy mỏ) sớm ở ngày ấp thứ 18-19. Vết mổ vỏ nhỏ, mảnh vỏ rơi ra
nhỏ hơn bình thường. Một số trứng có hiện tượng vết mổ vỏ nằm thấp về phía đầu
nhọn (dấu hiệu bay hơi nhanh). Trứng nở sớm hơn bình thường.

Trang 18


* Gà con nở ra nhỏ rất nhanh nhẹn, hiếu động nhưng xơ xác, ngắn và bẩn. Bụng gà
con to do túi lòng đỏ còn lớn. Có nhiều gà con hở rốn, để lại một mẫu nhỏ hoặc một
phần lòng đỏ bên ngoài. Nhiều khi cả túi lòng đỏ còn nằm ngoài xoang bụng.
Vỏ trứng trong trường hợp này rất bẩn. Mặt trong vỏ có màu đỏ hoặc nâu do máu
của túi niệu lúc nở vẫn chưa khô. Phía đầu nhọn của vỏ trứng có thể thấy lòng trắng
đặc do phôi chưa hấp thụ hết. Rốn có vết máu khô thành vảy, máu ở rốn là dấu hiệu
đặc trưng của nhiệt độ cao.
* Mổ khám những trứng không nở thấy hầu như phôi đều chết hết. Nhiều phôi nằm
sai vị trí, nằm quay đầu xuống đầu nhọn và các ngón chân bị cong. Phần lớn các túi
lòng đỏ còn nằm bên ngoài, và nhiều trường hợp có tụ huyết. Nhiều trứng còn nhiều
lòng trắng đọng lại ở đầu nhọn trứng. Phôi chết thấy tình trạng sung huyết toàn thân
và phủ tạng nói chung. Tim nhỏ hơn bình thường, (Võ Bá Thọ, 1996).
2.5.2.2 Ảnh hưởng của nhiệt độ ấp quá thấp (thiếu nhiệt)
Từ 270C phôi đã có thể phát triển. Ở nhiệt độ thấp này đĩa phôi cũng lớn lên nhưng
không hình thành được phôi và hệ thống mạch máu. Do đó sự phát triển của phôi
sớm bị dừng lại. Cho dù điều chỉnh nhiệt độ ấp theo đúng chế độ cũng không còn
khả năng bắt đầu lại. Hậu quả của tình trạng này là hiện tượng đĩa phôi chết trước
khi ấp và trên thực tế xếp vào loại trứng sáng cùng với trứng không phôi.
Các dấu hiệu đặc trưng của phôi trứng ấp bị thiếu nhiệt.
- Sự phát triển của phôi chậm nhất là trong giai đoạn đầu. Kết quả cuối cùng là nở
chậm, có thể kéo dài thêm vài ba ngày. Vì đặc điểm của phôi phát triển chậm có thể
sống khá lâu trong trứng và có đủ sức mổ vỏ chui ra ngoài dù rất chậm.
- Việc hấp thu lòng trắng và lòng đỏ chậm, nhất là trong giai đoạn đầu của quá trình

ấp. Bên cạnh đó các màng cơ quan hình thành muộn và phát triển chậm.
* Thiếu nhiệt trong những ngày ấp đầu tiên làm giảm hẳn sức phát triển của phôi.
Soi trứng sau 6 ngày ấp thấy hệ thống mạch máu kém phát triển, phôi bé, nằm gần
vỏ, yếu, ít động đậy. Phôi thường chết nhiều vào khoảng 4-6 ngày ấp. Trứng chết
phôi cũng có vòng máu nhưng nhỏ và nhạt.
* Tình trạng thiếu nhiệt ngay từ đầu thì lúc 11 ngày ấp, ta thấy màng niệu chưa
khép kín. Quan sát đầu nhọn của trứng còn khoảng trống giữa các mép của túi niệu.
Thường phải đến ngày ấp thứ 12-14 túi niệu mới khép kín.
* Đến ngày ấp 19 ta thấy buồng khí còn nhỏ, cổ phôi chưa nhô lên buồng khí. Đầu
nhọn của trứng còn sáng do lòng trắng và chất lỏng của túi niệu chưa hấp thụ hết,
mạch máu của màng túi niệu còn rõ màu đỏ, tức còn chứa nhiều máu và đang hoạt
động. Những trứng này sẽ nở với tỷ lệ thấp và gà con kém phẩm chất.

Trang 19


Trường hợp thiếu nhiệt ít, đầu nhọn của trứng cũng tối như những trứng phát triển
bình thường nhưng vẫn nở chậm. Gà con nở từ những trứng này có phẩm chất chấp
nhận được. Do phôi phát triển chậm, nở chậm so với bình thường một vài ngày. Có
trường hợp quá trình ấp nở có thể kéo dài đến ngày thứ 23-24.
* Gà con mổ vỏ chậm và không đồng loạt. Vết mổ nằm gần đầu lớn nhưng không
đều nhau. Có tình trạng mổ vỏ ngắt quãng và nghỉ rất lâu. Gà con phá được vỏ
trứng chui ra ngoài rất khó khăn, thường nằm lại rất lâu trong vỏ trứng. Nhiều
trường hợp gà chỉ mổ thủng vỏ một lỗ rồi dừng lại vì không đủ sức để tiếp tục. Nếu
ta hỗ trợ, bóc vỏ trứng ra gây chảy máu, làm gà thêm yếu sức và có thể chết vì mất
máu. Nếu thiếu nhiệt không nhiều, gà con nở ra lông dài, rốn kín, không có vết sẹo,
túi lòng đỏ bé, bụng mềm, nhưng nói chung yếu, gà hay nằm, đứng không vững.
Trường hợp thiếu nhiệt kéo dài, gà con nở ra nặng bụng do túi lòng đỏ lớn và chứa
đầy dịch lòng đỏ loãng. Gà con thường bị tiêu chảy. Quan sát mặt trong vỏ trứng
sau khi nở, ta có thể nhận thấy màu hồng nhạt hoặc vàng do thiếu máu.

* Giải phẩu trứng không nở kể cả những trứng đã có vết mổ vỏ, phôi vẫn còn sống
ta có thể thấy đầu và cổ chúng có vùng sưng mọng do sự cọ sát vào vỏ trứng để cố
chui ra ngoài. Vết sưng này luôn tụ huyết và đôi khi xuất huyết.
Các trứng khác, phôi đã chết nhưng phần lớn đã hoàn chỉnh, túi lòng đỏ đã thu hết
vào xoang bụng, lòng trắng đã hấp thụ hết. Nếu thiếu nhiệt trầm trọng và kéo dài, ta
mới thấy lòng đỏ nằm ngoài xoang bụng một phần hoặc toàn bộ. Trường hợp này
túi lòng đỏ có màu tái xanh, hoặc có màu xanh lá cây.
Phôi chết trong tình trạng thiếu máu, nhợt nhạt. Ruột có thể chứa đầy chất lòng đỏ
loãng màu vàng nhạt và các chất cặn bã (phân non). Đặc biệt ruột già chứa căng đầy
đến mức gồ lên từng cục. Tim thiếu máu, nhão và to hơn bình thường(Võ Bá Thọ,
1996).
2.5.3. Ảnh hưởng của ẩm độ
Theo Bùi Đức Lũng và Nguyễn Xuân Sơn, 1999, có hai ảnh hưởng quan trọng:
Thứ nhất: ảnh hưởng bởi sự bay hơi nước từ trứng. Phần lớn thời gian ấp, độ bay
hơi nước từ trứng phụ thuộc trực tiếp vào ẩm độ tương đối của máy ấp. Nếu độ ẩm
trong máy tăng, thì lượng nước bay hơi từ trứng giảm và ngược lại. Khi bay hơi làm
cho khối lượng trứng giảm.
Trong những ngày đầu ấp trứng, cần làm giảm bay hơi nước trong trứng để các chất
dinh dưỡng của lòng trắng và lòng đỏ dễ hòa tan, cung cấp cho phôi phát triển và
làm giảm tỷ lệ chết phôi. Vì vậy độ ẩm tương đối trong máy phải duy trì ở mức quy
định, để giảm độ bay hơi nước trong trứng.

Trang 20


Giữa quá trình ấp (sau 10 ngày ấp), lượng nước trong trứng bớt dần, cho nên ẩm độ
tương đối trong máy cao hơn, chỉ đủ để bay hơi nước nội sinh (nước tạo trong quá
trình trao đổi chất của phôi).
Vào cuối thời kì ấp (sang máy nở), phôi đã phát triển hoàn toàn thành gà con, trong
máy cần đủ ẩm độ để gà con dễ nở. Cho nên độ ẩm tương đối trong máy cao hơn so

với các giai đoạn ấp khác, mục đích làm giảm độ bay hơi nước trong trứng. Độ ẩm
trong máy ở giai đoạn gà con chuẩn bị nở phải đảm bảo 86-95,50F hay 75-80%. Nếu
cao hơn mức ban đầu gà nở chậm, lông ướt.
Thứ hai: điều chỉnh sự tỏa nhiệt của trứng phụ thuộc vào từng giai đoạn ấp. Trong
nửa đầu của chu kỳ ấp nhiệt độ của trứng chỉ bằng hoặc thấp hơn nhiệt độ của
không khí trong máy ấp, vì trứng mới vào chỉ thu nhiệt. Lúc này trứng bị mất nhiệt
do sự bay hơi nước (nước bay hơi làm thu nhiệt của trứng). Vì vậy ẩm độ cao trong
những ngày đầu sẽ làm giảm bay hơi nước, góp phần giữ nhiệt, đồng thời làm nước
trong trứng bốc hơi từ từ.
Vào nửa sau của chu kỳ ấp trứng, do quá trình trao đổi chất của phôi tăng, trứng sản
sinh nhiều nhiệt. Một phần nhiệt này dùng vào làm bay hơi nước. Nhiệt độ của
trứng, nhất là những ngày cuối của chu kỳ ấp cao hơn so với nhiệt độ không khí
trong máy ấp. Vì vậy trong những ngày cuối cùng này (ở máy nở) phải tăng độ ẩm
trong máy để hút bớt nhiệt độ của trứng, làm hạ nhiệt độ trong trứng và trong máy
ấp.
Khi ẩm độ trong máy vượt quá yêu cầu (quá 80%) gà nở bị yếu, ít hoạt động, lông
gà bị dính bết ở rốn và hậu môn, màu lông vàng đậm, mỏ và chân nhợt nhạt, gà con
bị bụng to và nặng. Sau này nuôi gà chậm lớn, tỷ lệ chết cao.
2.5.3.1 Ảnh hưởng của ẩm độ quá cao (thừa ẩm)
Trước tiên, nếu trứng bẩn, ẩm độ ấp cao sẽ là môi trường thuận lợi cho vi khuẩn,
nấm mốc phát triển và xâm nhập vào trứng gây thối trứng.
- Trong 5-6 ngày đầu tiên, ẩm độ trong máy cao chưa gây ảnh hưởng rõ rệt đến sự
phát triển của phôi. Sau 6 ngày ấp ẩm độ cao sẽ làm chậm sự phát triển của phôi,
biểu hiện rõ qua túi niệu chậm khép kín, buồng khí nhỏ, trứng giảm khối lượng
chậm, ít, phôi nhỏ yếu.
- Soi trứng trước khi nở (19 ngày) ta thấy phôi phát triển chậm nhiều, phôi nhỏ,
buồng khí nhỏ. Trứng còn nhiều lòng trắng chưa hấp thu hết nên đầu nhọn của
trứng và vùng giáp với buồng khí còn sáng. Có thể nhìn thấy rõ các mạch máu của
túi niệu đang còn đang hoạt động.
- Trường hợp ẩm độ quá cao và kéo dài, gà sẽ nở rất chậm, một vài ngày so với bình

thường, quá trình nở kéo dài.

Trang 21


Màng vỏ trứng (vỏ mềm) quanh lỗ mổ vỏ sẫm màu lại rất nhanh và chuyển thành
màu nâu. Ngay khi gà vừa mổ thủng vỏ trứng, dịch lỏng màu nâu của túi niệu chảy
tràn ra ngoài lem luốc quả trứng. Dịch lỏng này quánh lại và khô rất nhanh, có thể
bịt kín lỗ mổ vỏ làm phôi chết ngạt. Dịch túi niệu cũng làm dính đầu, mỏ, mũi, dán
chặt cánh gà con vào vỏ trứng, gà không còn cử động được và nằm im chờ chết.
Do phôi phát triển chậm, đến lúc nở màng túi niệu vẫn chưa khô. Nếu tách vỏ trứng
cho gà ra ngoài làm đứt các mạch máu gây tình trạng chảy máu ở rốn, gà không
chết cũng thành gà loại II.
Nói chung gà con nở ra yếu ớt, có nhiều gà loại II. Lông gà bị dính hết ở vùng rốn
và hậu môn. Màu lông, da chân, mỏ nhợt nhạt. Bụng to, mềm do túi lòng đỏ trong
bụng còn rất lớn và chứa đầy dung dịch lòng đỏ loãng.
- Ẩm độ cao vào nửa sau thời kỳ ấp còn tai hại hơn nhiều, nhất là trứng của gà cha
mẹ ăn khẩu phần thiếu vitamin B. Trong trường hợp này, ngoài dịch lỏng của túi
niệu còn có thêm dịch lỏng của túi ối và lòng trắng chưa hấp thụ hết càng làm gia
tăng thêm tình trạng mô tả trên đây. Ngay khi gà mổ thủng vỏ trứng, tại chỗ thủng
tràn ra dịch có bọt và khô rất nhanh. Dịch lỏng này chính là nước ối lẫn lòng trắng.
Do rất dính và khô nhanh nên dịch lỏng này không những bịt kín lỗ thủng ở vỏ mà
còn làm tắc mũi, mỏ gà, gây chết vì ngạt thở. Những gà thoát ra khỏi vỏ cũng bị
dính bết vào lông và khi khô đi tạo thành lớp vỏ cứng. Nói chung gà con thường bị
chết sau đó.
Vỏ trứng rất bẩn do các chất dính nói trên và máu.
Giải phẩu trứng không nở, thấy trong trứng có nhiều dịch của túi niệu, dịch túi ối có
bọt và dính. Thường gặp lòng trắng tiêu hết, có trường hợp lúc phôi còn sống cử
động hỗn loạn làm rách túi lòng đỏ, ta thấy phôi chết chìm trong dịch đầy lòng đỏ.
Phôi của phôi chết thường xung huyết, xẹp, không có không khí (Võ Bá Thọ, 1996).

2.5.3.2 Ảnh hưởng của ẩm độ thấp (thiếu ẩm)
Ẩm độ thấp trong những ngày ấp đầu tiên làm trứng bốc hơi nhanh, mất nhiều nước,
gây tỷ lệ chết phôi cao. Hiện tượng này được nhận biết qua kết quả cân trứng giảm
khối lượng nhiều và quan sát thấy buồng khí quá lớn.
Ẩm độ thấp làm cho màng túi niệu phát triển nhanh và khép kín so với bình thường.
Soi đầu nhọn của trứng ta dễ dàng quan sát hiện tượng này.
Đến ngày ấp thứ 19, khi chuyển trứng sang máy mở ta nhận thấy hậu quả của phôi
nhanh qua hiện tượng gà mổ vỏ (khảy mỏ) sớm và nở sớm.
Dấu hiệu đặc trưng của ẩm độ thấp là màng vỏ trứng (vỏ lụa nằm dưới lớp vỏ cứng)
khô và rất dai. Khi gà mổ vỏ, ta thấy mảnh vỏ rơi ra nhưng màng vỏ không bị
rách,… Nhiều trứng có vết mổ đã hết vòng nhưng gà con không đủ sức làm rách

Trang 22


màng để chui ra ngoài. Tình trạng mô tả trên là do trứng còn rất ít dịch lỏng của túi
ối, túi niệu. Khi gà mổ vỏ, các dịch này khô đi rất nhanh, càng gây khó khăn cho
quá trình xoay mình để mổ vỏ. Quá trình nở rất chậm. Nhiều trứng rất khô, gà bị sát
dính vào vỏ, không cử động được và chết trong trứng khi đã mổ dở dang. Ta gọi
hiện tượng này là bị sát. Ta có thể giúp tách vỏ để gà thoát ra ngoài.
Gà con nở ra trong trường hợp ẩm độ thấp, bao giờ cũng nhỏ, nhanh nhẹn, lông tốt.
Ở các giống gà lông trắng sẽ có màu hơi vàng, thậm chí hơi nâu nhạt (ta gọi lông bị
xém).
Đôi khi gà nở quá sớm, trong lúc màng túi niệu còn hoạt động, các mạch máu vẫn
còn nhiều máu, ta có thể thấy hiện tượng quanh mỏ gà dính máu.
Giải phẩu trứng không nở do thiếu ẩm, phôi chết có những dấu hiệu tương tự như
trong trường hợp thừa nhiệt nhưng ở mức độ nhẹ hơn và không rõ ràng (Võ Bá Thọ,
1996).
2.5.4. Ảnh hưởng của độ thông thoáng
* Khái niệm: độ thông thoáng là tốc độ hút không khí sạch ở ngoài vào và tốc độ

đẩy không khí bẩn (chứa nhiều CO2, H2S,…), khí nóng trong máy ra ngoài. Đảm
bảo thông thoáng khí là đảm bảo cung cấp lượng oxi cần thiết cho phôi hô hấp và
phát triển, đồng thời phải loại khí độc CO2 (cacbonic) ra ngoài, đảm bảo lượng CO2
không quá 0,2% trong máy.
Nếu nồng độ khí CO2 vượt cao, nồng độ khí O2 giảm có thể làm cho phôi chết hàng
loạt.
Theo Võ Bá Thọ (1999), yêu cầu thông thoáng đối với kỹ thuật ấp bằng máy hiện
đại bao gồm hai nội dung: thay đổi không khí và tốc độ gió.
- Thay đổi không khí: phôi bắt đầu hô hấp ngay sau khi được tăng nhiệt. Trong quá
trình ấp nguồn oxy và cơ chế hô hấp của phôi thay đổi vài lần, khi mới vào phôi hô
hấp bằng oxy tạo ra ở lòng đỏ nhờ tác dụng của các loại men. Oxy đi vào tế bào
phôi bằng hiện tượng khuếch tán. Sang đến ngày ấp thứ hai, nguồn oxy nói trên
không đủ để thỏa mãn nhu cầu của phôi. Vào thời điểm này, hệ thống mạch máu ở
lòng đỏ được hình thành để nhận oxy từ những vùng bề mặt khác của lòng đỏ mang
theo mạch máu về cho phôi sử dụng. Mạng mạch máu của lòng đỏ tiếp tục phát
triển và tiếp xúc được với màng trong của vỏ trứng ngay dưới buồng khí và nhận
oxy từ buồng khí. Từ lúc này trở đi phôi dùng oxy lấy từ buồng khí.
Tới ngày ấp thứ năm, màng túi niệu và hệ thống mạch máu của nó phát triển tới
buồng khí và vỏ trứng, sau đó nhanh chóng phát triển và bao bọc toàn bộ mặt trong
trứng. Từ ngày ấp thứ sáu, oxy trong không khí của buồng máy là nguồn cung cấp
chủ yếu cho phôi, được vận chuyển qua hệ thống mạch máu của màng túi niệu.

Trang 23


Trước khi chuẩn bị nở, cơ chế hô hấp của phôi lại thay đổi một lần nữa. Màng túi
niệu khô đi nhanh chóng và hệ thống mạch máu của nó cũng cắt rời hệ thống tuần
hoàn của phôi. Phôi chuyển sang cơ chế hô hấp bằng phổi của mình và tiếp nhận
oxy không khí từ buồng khí ở đầu lớn vỏ trứng. Phôi nằm đúng vị trí sẽ hô hấp
thuận lợi. Sau cùng khi mổ thủng vỏ trứng phôi thở trực tiếp không khí trong buồng

máy.
Dấu hiệu phôi chết ngạt thường thấy ở phôi của trứng ấp sau 9-12 ngày, tuy nhiên
có thể do kết hợp một số nguyên nhân khác như: trứng bẩn lấp hết lỗ thông khí trên
mặt vỏ trứng.
- Tốc độ gió: để bảo đảm không khí luôn được thay đổi, nhằm đạt được yêu cầu
không khí trong buồng máy có nồng độ oxy không dưới 21%, khí cacbonic không
quá 0,2%, các máy hiện đại thường dùng hệ thống quạt hút, quạt đẩy có tốc độ cao
hoạt động liên tục.
Trong máy ấp, tốc độ gió còn quan trọng hơn trong việc bảo đảm nhiệt độ và ẩm độ
không khí trong buồng máy luôn được phân bố điều khắp. Điều này quyết định cho
phôi trứng phát triển tốt, nở đồng loạt và cho chất lượng tốt như nhau.
2.5.5. Ảnh hưởng của việc đảo trứng
Xếp trứng: Trứng xếp vào khay ấp ở ngày đầu phải để đầu to (chứa buồng khí) lên
trên, đầu nhọn xuống dưới, nếu xếp ngược lại thì tuy phôi phát triển bình thường
nhưng vào ngày cuối chu kì ấp đầu phôi gà ở phía đầu nhọn (đầu trứng không có
buồng khí) sẽ không có không khí thở và sẽ bị chết ngạt. Có thể đặt trứng nghiêng
450 để không ảnh hưởng đến sự ấp nở. Nếu bảo đảm đầu to lên trên thì khi sang
máy nở trứng không phải xếp như trên mà đặt trứng nằm ngang, vì lúc này đầu gà
con đã ngóc lên buồng khí, mặt khác cũng để trứng nở dễ dàng.
Trứng khi còn trong máy ấp phải được đảo nghiêng 2 chiều (trái, phải) theo chu kỳ
1-2 giờ/lần. Trong những ngày ấp đầu tiên, nếu không đảo trứng, phôi sẽ bị lòng đỏ
ép vào vỏ, sự phát triển bị ngừng lại và phôi bị chết. Khi soi trứng sẽ thấy một vết
đen dính vào vỏ.
2.5.6. Ảnh hưởng của hình dạng trứng và khối lượng trứng
Hình dạng của trứng là một đặc tính có liên quan đến tỉ lệ ấp nở. Để đánh giá hình
dạng quả trứng ta căn cứ vào các chỉ tiêu sau:
- Quả trứng cân đối phải có hình dạng chuẩn một đầu to hơn đầu kia. Theo Lã Thi
Thu Minh (2000), thì quả trứng cân đối có chỉ số hình dáng được tính theo công
thức:
Đường kính ngắn

CSHD = ---------------------------- x 100
Đường kính dài

Trang 24


Chỉ số hình dáng thích hợp nằm trong khoảng 71- 75.
Kết quả ấp nở sẽ cao đối với những trứng có chỉ số hình dáng bình thường, cân đối,
và ngược lại sẽ cho tỉ lệ nở thấp. Bên cạnh đó trọng lượng trứng cũng là một đặc
tính có liên quan đến tỷ lệ nở. Trọng lượng trứng thay đổi theo tuổi, cá thể, giống.
Đối với gà Tàu Vàng có trọng lượng trứng bình quân từ 45- 55 gam.
Theo Bùi Đức Lũng và Nguyễn Thị San (1993), khối lượng của trứng ảnh hưởng rõ
rệt đến tỷ lệ ấp nở và tỷ lệ gà con loại I. Trứng nở cao và tỷ lệ gà con loại I cao nhất
ở khoảng khối lượng trứng từ 53-65g, được trình bày qua bảng 2.2.

Bảng 2.2: Kết quả ấp nở theo mức khối lượng khác nhau

Khoãng khối
Lượng trứng (g)
44-48
49-52
53-56
57-60
61-64
65-70

Tỷ lệ ấp nở (%)
63,0
74,0
81,0

86,1
86,5
76,7

Tỷ lệ gà
loại 1 (%)
61,0
73,0
80,7
85,1
85,7
74,7

Khối lượng gà con 1
ngày tuổi (g)
30,2
34,1
36,4
39
40,9
44,9

Nguồn: Bùi Đức Lũng và Nguyễn Thị San (1993)

2.5.7. Ảnh hưởng của thiếu vitamin và khoáng
Sự thiếu một số vitamin và khoáng trong trứng có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển
phôi trong quá trình ấp nở cũng như chất lượng của gà con.
- Thiếu vitamin B1 (Thiamin): đặc trưng khi trong trứng thiếu vitamin B1 là gà con
nở có hiện tượng viêm đa thần kinh (Polineurist). Gà đi ngật ngưỡng, loạng choạng,
một số con có thể bị liệt, bị Atexia. Cần tăng B1 trong thức ăn.

- Thiếu vitamin B2 (Riboflavine): khi thiếu vitamin B2 làm cho phôi chậm phát
triển, phôi chết nhiều vào giữa và cuối thời kỳ ấp. Từ 9-14 ngày sau khi ấp nở
những phôi chết thường thấy hiện tượng chân ngắn, ngón cong, mỏ trên ngắn. Cần
bổ sung vitamin B2 vào thức ăn cho gà đẻ.
- Thiếu vitamin H (Biotin): khi thiếu vitamin H trong thức ăn của gà đẻ, tỷ lệ chết
phôi tăng. Những phôi chết thấy biến dạng - đầu to, mỏ dưới ngắn, mỏ trên quặp
xuống, các xương đùi, bàn chân ngắn lại. Gà con ngửa đầu ra sau lưng và quay tròn
đến khi chết, gà bị bệnh thần kinh.

Trang 25


×